Tải bản đầy đủ (.pdf) (267 trang)

Luận án tiến sĩ Công tác tư tưởng: Giáo dục chuẩn mực đạo đức kinh doanh cho nông dân thành phố Hà Nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.39 MB, 267 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Là một công cụ điều chỉnh hành vi con người trên cơ sở tự nguyện, tự giác,
với nguyên tắc ưu tiên lợi ích xã hội, đạo đức xuất hiện, tồn tại trong tất cả các lĩnh vực
hoạt động của con người, trong đó có lĩnh vực sản xuất kinh doanh (SXKD).
Ở Việt Nam, đạo đức kinh doanh (ĐĐKD) được hình thành từ rất sớm, dẫu
rằng ngành nghề kinh doanh trong xã hội Việt Nam thời xưa chưa được coi trọng.
Có thể nhận thấy điều đó qua các câu châm ngôn, như làm ăn phải có chữ tín, một
lần bất tín, vạn lần bất tin, trung thực... như là các quy tắc đạo đức mà mỗi người
kinh doanh cần phải tuân thủ. Tuy nhiên, trong một xã hội chưa phát triển và ngành
nghề kinh doanh chưa được coi trọng, đề cao thì vấn đề ĐĐKD chưa được các tầng
lớp/ giai tầng chú ý.
Ngày nay, với sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa (XHCN), ở Việt Nam vấn đề ĐĐKD đã được chú trọng nghiên cứu
ngày càng nhiều hơn. Bởi điều đó không chỉ giúp các nhà kinh doanh tăng lợi
nhuận, mà còn giúp Việt Nam giải quyết được một số vấn đề, như ô nhiễm môi
trường, phát triển con người, chất lượng cuộc sống,v.v.... Việt Nam mới chập
chững bước vào kinh tế thị trường và vẫn còn chưa dứt bỏ hoàn toàn tàn dư của
thời kinh tế tập trung, bao cấp, đặc biệt là cơ chế xin - cho, quan hệ thân quen
vẫn tiếp tục gây nhức nhối trong một số lĩnh vực. Điều đáng lo ngại nhất khi
Việt Nam bước vào nền kinh tế này nằm ở những lỗ hổng lớn là pháp luật, đạo
đức và văn hoá kinh doanh. Bên cạnh đó, việc kết hợp giữa lợi ích trước mắt và
lợi ích lâu dài cũng có không ít vấn đề cần được tính toán cẩn thận. Mọi nền
kinh tế chuyển đổi đều chứa đựng trong bản thân nó rất nhiều cơ hội cho sự
phát triển của từng người cũng như của cả đất nước nhờ việc tạo ra các động
lực. Song cũng chính trong nền kinh tế đó lại chứa đựng đầy rẫy những hiểm
họa và cạm bẫy do đạo đức suy thoái, do lợi ích trước mắt, lợi ích cá nhân, lợi
ích nhóm được đặt lên hàng đầu trong điều kiện pháp luật chưa thật định hình
và chưa đủ mạnh.




2

1.2. Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, kinh tế thị trường đang ngày càng phát
triển mạnh mẽ đem lại những cơ hội to lớn, song cũng đặt ra không ít những khó
khăn, thách thức cho mỗi quốc gia. Phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất
là mục tiêu quan trọng của tất cả các nước. Quy luật khắc nghiệt của kinh tế thị
trường được ví như cái mặt sàng mà qua sự sàng lọc của nó những ai không thích
ứng sẽ bị đào thải. Thực tế qua 30 năm đổi mới, kinh tế - xã hội nước ta đã có
những bước chuyển dịch to lớn, đạt được thành tựu trên nhiều mặt. Tuy nhiên, bên
cạnh mặt tích cực, kinh tế thị trường cũng có những mặt tác động tiêu cực, đặc
biệt là sự xuống cấp về đạo đức, lối sống của một bộ phận dân cư. Nổi bật trong
lĩnh vực kinh tế là tình trạng vi phạm ĐĐKD. Lối sống thực dụng, cá nhân ích kỷ
đã làm cho tình trạng tham nhũng, buôn lậu, lừa đảo… trong SXKD ngày càng có
đà sinh sôi, nảy nở. Không ít những người kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận, vụ
lợi cá nhân đã sản xuất hàng hóa trái phép, thải chất độc ra môi trường, buôn lậu,
trốn thuế, buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng, đe dọa sức khỏe, tính mạng
người tiêu dùng. Điều đó đặt ra những vấn đề quan trọng trong việc giáo dục
ĐĐKD và giáo dục chuẩn mực đạo đức kinh doanh (CMĐĐKD) XHCN cho
những người tham gia vào quá trình sản xuất ở Việt Nam hiện nay.
1.3. Giai cấp nông dân (ND) Việt Nam có vị trí, vai trò, có bề dầy truyền thống,
có đóng góp xứng đáng trong lịch sử dựng nước, giữ nước, trong đấu tranh cách mạng
giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, cũng như trong công cuộc đổi mới, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khoá X) về "Nông nghiệp, nông dân, nông thôn" khẳng định:
“Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), xây dựng và bảo vệ tổ quốc, là lực lượng quan trọng
để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ gìn ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc
phòng, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái của đất

nước…” [16; tr156]. Nghị quyết cũng đã đặt ra nhiệm vụ: “Chăm lo xây dựng giai cấp
nông dân Việt Nam, củng cố liên minh công nhân – nông dân - trí thức trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [16; tr178].


3

Hà Nội là trung tâm chính trị - văn hóa - xã hội của cả nước, là thành phố
hướng tới công nghiệp hiện đại. Trong giai đoạn hội nhập hiện nay cùng với giai
cấp công nhân và trí thức, ND thành phố Hà Nội đã và đang là lực lượng xã hội
quan trọng góp phần phát huy vị thế của thủ đô trên nhiều mặt, đặc biệt trong đó có
lĩnh vực phát triển kinh tế. Họ cũng đã nhận thức được vai trò của mình trong công
cuộc xây dựng CNXH hiện nay và không ngừng tham gia vào quá trình SXKD, đẩy
mạnh quá trình tái cơ cấu ngành gắn với xây dựng nông thôn mới, làm thay đổi bộ
mặt nông thôn trên địa bàn thành phố.
Tuy nhiên, hoạt động SXKD của người ND Hà Nội còn nhiều bất cập. Nhìn
chung ND thu nhập còn thấp, mức sống chưa cao; sản xuất nông nghiệp còn manh
mún, sản xuất nhỏ vẫn là chủ yếu; môi trường nông thôn ngày càng bị ô nhiễm; tư
duy kinh tế gắn sản xuất với thị trường của người dân còn sơ khai, chưa được hình
thành rõ nét; động cơ sản xuất còn chạy theo lợi nhuận trước mắt, ít quan tâm đến
thương hiệu hàng hoá nông sản thông qua sự đảm bảo về xuất xứ, vệ sinh an toàn
thực phẩm, ổn định chất lượng và số lượng, chủng loại… Điều này đang tạo nên
những lo lắng của người dân trong thời gian gần đây, đặc biệt là nỗi bất an trước tình
hình chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm. Người dân hoài nghi và không còn đủ
niềm tin với cái gọi là “thực phẩm sạch”, bởi nếu “bỏ phiếu” cho rau thì không ít loài
rau đã nhiễm chì và “ngậm” hóa chất trầm trọng; “bỏ phiếu” cho quả thì khá nhiều
loại quả đã “ngấm” hóa chất bảo quản độc hại để tươi ngon lạ lùng hàng tháng trời;
“bỏ phiếu” cho thịt, cá thì dư lượng hóa chất gây ung thư vượt ngưỡng…. Trong môi
trường thiếu an toàn đó, đã đến lúc phải gióng lên hồi chuông cấp thiết về ĐĐKD.
Do đó để nâng cao đạo đức trong kinh doanh cho người ND, giúp họ hình thành

những chuẩn mực cơ bản của ĐĐKD thì việc giáo dục CMĐĐKD cho ND là một vấn
đề quan trọng. Đó là một cơ sở quan trọng để xây dựng nền ĐĐKD XHCN ở nước ta
giai đoạn hiện nay.
Từ những lý do trên tác giả lựa chọn vấn đề “Giáo dục chuẩn mực đạo đức
kinh doanh cho nông dân thành phố Hà Nội hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ
chuyên ngành công tác tư tưởng.


4

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Mục đích của luận án là làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của giáo dục
CMĐĐKD cho ND Việt Nam, từ đó đề xuất quan điểm, giải pháp cơ bản nhằm tăng
cường giáo dục CMĐĐKD cho ND Hà Nội hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
- Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án.
- Nghiên cứu, làm rõ cơ sở lý luận của việc giáo dục CMĐĐKD cho ND thành
phố Hà Nội .
- Phân tích, đánh giá thực trạng và những vấn đề đặt ra trong giáo dục CMĐĐKD
cho ND ở thành phố Hà nội hiện nay, thông qua việc khảo sát các hộ ND và hợp tác xã
ngoại thành Hà Nội.
- Qua việc phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra, luận án đề xuất và luận
giải cơ sở khoa học của những quan điểm, giải pháp nhằm tăng cường giáo dục
CMĐĐKD cho ND ở Hà Nội hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Giáo dục CMĐĐKD cho ND ở thành phố Hà Nội hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Thực trạng giáo dục CMĐĐKD cho ND được nghiên cứu từ năm 2008- là

năm hợp nhất tỉnh Hà Tây và TP Hà Nội. Những quan điểm, giải pháp được đề xuất
có ý nghĩa đến năm 2025.
- Địa bàn khảo sát: Luận án chọn 6 huyện, trong đó 3 huyện thuộc địa bàn Hà
Nội cũ, 3 huyện thuộc địa bàn tỉnh Hà Tây cũ, đặc trưng cho vùng nông thôn ngoại
thành Hà Nội, gồm: Đông Anh, Thanh Trì, Sóc Sơn, Phú Xuyên, Quốc Oai, Ba Vì.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp luận nghiên cứu đề tài
5.1. Cơ sở lý luận: Dựa trên cơ sở những nguyên lý lý luận chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về đạo đức và giáo dục đạo đức
trong SXKD; về vị trí, vai trò của giai cấp ND trong công cuộc xây dựng CNXH.


5

5.2. Cơ sở thực tiễn: Tình hình đạo đức nói chung, ĐĐKD của ND và thực
trạng giáo dục CMĐĐKD cho ND TP Hà Nội hiện nay.
5.3. Phương pháp nghiên cứu:
Luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học, trong đó
tập trung vào một số phương pháp cơ bản sau đây:
- Trên cơ sở khoa học của phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
Đây là phương pháp cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin. Phương pháp này đòi
hỏi: khi xem xét các hiện tượng và quá trình giáo dục phải đặt trong mối liên hệ tác
động qua lại lẫn nhau, thường xuyên vận động, phát triển không ngừng, chứ không
phải là bất biến. Quá trình phát triển là quá trình tích lũy những biến đổi về lượng
dẫn đến những biến đổi về chất. Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử trong nghiên cứu giáo dục CMĐĐKD cho ND thành phố Hà Nội để xem
xét quá trình giáo dục gắn với những điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể, cũng
như đặc điểm riêng của người ND.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp
Với phương pháp này, tác giả luận án đi từ cái chung, đó là khái niệm, phạm
trù cũng như những vấn đề lý luận cơ bản, cần thiết về giáo dục CMĐĐKD, để từ

đó đi đến cái chi tiết của vấn đề mà luận án nghiên cứu- đó là giáo dục CMĐĐKD
cho ND thành phố Hà Nội. Sau đó, tác giả lại đi từ cái riêng, cái cụ thể- đó là giáo
dục CMĐĐKD cho ND ở một số huyện ngoại thành Hà Nội để khái quát thành
những nội dung, phương thức giáo dục CMĐĐKD cho ND thành phố Hà Nội và ở
các địa phương khác có đặc điểm tương đồng về kinh tế - xã hội. Trên cơ sở đó, liên
kết từng mặt nghiên cứu đã được phân tích tạo ra hệ thống lý thuyết mới về
CMĐĐKD và giáo dục CMĐĐKD cho ND.
- Phương pháp trừu tượng hóa khoa học
Luận án sử dụng phương pháp này để tạm thời gạt bỏ khỏi đối tượng nghiên cứu
những biểu hiện ngẫu nhiên, cá biệt để đi sâu luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn
đề cơ bản thuộc đối tượng nghiên cứu. Cụ thể là luận án tập trung nghiên cứu vấn đề
giáo dục CMĐĐKD cho ND nói chung ở thành phố Hà Nội, mà không đi vào nghiên
cứu từng người ND cụ thể hoặc từng thành phần trong cơ cấu giai cấp ND ở Hà Nội.


6

- Phương pháp nguyên tắc kết hợp giữa lý luận và thực tiễn trong nghiên cứu
Đây là phương pháp được sử dụng phổ biến trong nghiên cứu khoa học nói
chung. Luận án sử dụng phương pháp này để nghiên cứu quan điểm, tư tưởng của
các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin có liên quan; cập nhật quan điểm,
đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN; những trào lưu và xu hướng phát triển của thời đại,
cũng như hệ thống tri thức của nhân loại về kinh tế và giáo dục chính trị - tư tưởng
trong thời kỳ toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Mặt khác, đây là đề tài mang ý
nghĩa lý luận và thực tiễn cho nên luận án đặc biệt quan tâm đến vấn đề tổng kết
thực tiễn về giáo dục CMĐĐKD cho ND TP Hà Nội, thông qua khảo sát thực tiễn,
thu thập số liệu, điều tra xã hội học các đối tượng cần khảo sát.
- Phương pháp điều tra xã hội học
Thông qua việc thiết kế và thực hiện các bảng hỏi, quan sát, phỏng vấn sâu,

thảo luận nhóm và lấy ý kiến chuyên gia, phương pháp này đã thu được phản hồi từ
phía người ND, cán bộ quản lý các cấp ở địa phương và chuyên gia. Đây là cơ sở để
tác giả thuyết minh các luận cứ đã được trình bày trong luận án. Cụ thể là tác giả đã
tiến hành chọn mẫu gồm 199 phiếu điều tra bằng bảng hỏi đối với ND ở các huyện:
Đông Anh, Thanh Trì, Phú Xuyên, Quốc Oai, Ba Vì, Sóc Sơn; 100 phiếu để điều tra
cán bộ quản lý cấp xã, huyện của các địa phương nêu trên, cán bộ tuyên giáo, cán
bộ Hội ND, cán bộ ngành nông nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội. Việc chọn
mẫu và sử dụng phương pháp điều tra xã hội học đảm bảo yêu cầu khách quan, diện
rộng để thu được kết quả chính xác và sát thực với thực trạng giáo dục CMĐĐKD
cho ND ở các địa phương nêu trên và trên địa bàn TP Hà Nội nói chung.
Ngoài ra, luận án còn sử dụng các phương pháp logic, so sánh, thống kê số
liệu, phân tích tài liệu trong nghiên cứu đề tài.
6. Đóng góp mới và ý nghĩa của luận án
Luận án là công trình nghiên cứu đầu tiên về vấn đề giáo dục CMĐĐKD
XHCN cho ND. Những vấn đề lý luận về ĐĐKD, CMĐĐKD, các yếu tố cấu thành
và sự cần thiết của giáo dục CMĐĐKD cho ND được luận bàn một cách tường


7

minh và được phân tích thấu đáo. Đặc biệt luận án đã nhìn nhận, tiếp cận ĐĐKD
như là yếu tố nội sinh của sự phát triển kinh tế; là điều kiện để nền kinh tế thị
trường nước ta phát triển theo đúng định hướng XHCN và là một nội dung của quá
trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Bằng những nghiên cứu
thực tiễn, luận án đã phân tích thành tựu và hạn chế của giáo dục CMĐĐKD cho
ND TP Hà Nội trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
và hội nhập, qua đó phát hiện và khái quát, phân tích các mâu thuẫn của quá trình
giáo dục CMĐĐKD cho ND; phân tích những luận cứ khoa học của các quan điểm,
giải pháp tăng cường giáo dục CMĐĐKD cho ND Hà Nội hiện nay.
Với những kết quả nghiên cứu, luận án góp phần giúp các cơ quan, tổ chức

chính quyền, các cấp ủy Đảng của TP Hà Nội quan tâm, chăm lo hơn nữa tới công tác
giáo dục CMĐĐKD cho ND. Thông qua một số giải pháp được đề xuất luận án góp
phần định hướng những giá trị, chuẩn mực đạo đức trong SXKD đối với ND Hà Nội
nói riêng và ND Việt Nam nói chung. Luận án còn có thể làm tài liệu nghiên cứu
giảng dạy đạo đức học, đạo đức kinh doanh, khoa học công tác tư tưởng…
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, tổng quan tình hình nghiên cứu, kết luận, phụ lục, danh
mục tài liệu tham khảo luận án gồm 3 chương, 8 tiết.


8

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Những nghiên cứu về đạo đức kinh doanh và giáo dục đạo đức
kinh doanh
1.1. Về đạo đức kinh doanh
ĐĐKD không phải là một vấn đề mới xuất hiện trong thế giới đương
đại, mà những tư tưởng của nó đã có từ rất lâu trong lịch sử phát triển của xã
hội loài người. Khi lực lượng sản xuất chưa phát triển, phân công lao động
còn ở dạng sơ khai, trao đổi sản phẩm mới chỉ là bột phát do nhu cầu sinh tồn
của các thành viên trong thị tộc, bộ lạc và nguyên tắc cùng làm cùng hưởng
vẫn được con người thực hiện một cách tự nhiên thì ĐĐKD chưa xuất hiện.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn tới phân công lao động đã tạo
ra bốn nghề trong xã hội gồm: chăn nuôi, trồng trọt, thủ công, buôn bán. Sản
phẩm trở thành tất yếu, sản phẩm do lao động làm ra trở thành hàng hóa, trao
đổi sản phẩm là một tất yếu khách quan, lúc đó khái niệm kinh doanh xuất
hiện và phạm trù ĐĐKD cũng ra đời. Đây cũng là thời kỳ mới của nhân loại,
có mâu thuẫn đối kháng giai cấp, có bộ máy nhà nước, con người không sống
“ngây thơ thuần phác” , quan hệ giữa con người với con người tất yếu dẫn tới

yêu cầu đạo đức: không được trộm cắp, phải sòng phẳng trong giao thiệp, phải
có chữ tín, biết tôn trọng các cam kết, thỏa thuận…
Như vậy, ĐĐKD không phải xuất phát từ sự “tiên nghiệm” , hay “chân lý tuyệt
đối” vĩnh cửu. ĐĐKD ra đời cùng hoạt động kinh doanh, phát triển theo từng hình thái
kinh tế - xã hội, thay đổi theo từng vùng dân cư, lãnh thổ, nhất là theo đặc điểm phương
Tây và phương Đông.
Với tư cách là ngành khoa học, ĐĐKD mới chỉ xuất hiện từ nửa đầu
những năm 70 của thế kỷ trước. Người đầu tiên đưa ra khái niệm này là nhà
nghiên cứu ĐĐKD nổi tiếng Norman Bowie. Ông định “ngày sinh” của ngành
ĐĐKD học vào tháng 11 năm 1974, qua hội nghị đầu tiên về chủ đề ĐĐKD
được tổ chức ở trường Đại học Kansas- Mỹ. Kết quả đạt được là một tuyển tập
luận đề đầu tiên đã được dùng trong những khóa học mới về ngành này liên tục
được mở ra. Năm 1979, ba tuyển tập trong ngành đã xuất hiện: Lý thuyết Đạo đức


9

và Kinh doanh của Tom Beauchamp và Norman Bowie, Các Vấn đề Đạo đức trong
Kinh doanh: Qua Lăng kính Triết học của Thomas Donaldson và Patricia Werhane,
và Các Vấn đề Đạo đức trong Doanh nghiệp của Vincent Barry. Năm 1982, những
quyển sách đầu tiên trong ngành học này được giới thiệu, đó là Đạo đức Kinh
doanh của Richard De George và Đạo đức Kinh doanh: Khái niệm và Các Trường
hợp Khảo sát của Manuel G. Velasquez.
Cho đến nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về ĐĐKD, trong đó
bao hàm các quan niệm về ĐĐKD khác nhau. Phillip V. Lewis, Đại học
Abilene Christian, Hoa Kỳ đã tiến hành nghiên cứu và thu thập 185 định nghĩa được
tìm thấy trong các sách giáo khoa và các bài nghiên cứu từ năm 1961 đến 1981. Qua
các công trình đó có thể hiểu ĐĐKD là gì, được định nghĩa ra sao. Sau khi tìm ra
những điểm chung của các khái niệm trên, tác giả tổng hợp lại và đưa ra khái niệm
về ĐĐKD như sau:

“Đạo đức kinh doanh là tất cả những quy tắc, tiêu chuẩn, chuẩn mực đạo đức
hoặc luật lệ để cung cấp chỉ dẫn về những hành vi ứng xử chuẩn mực và sự trung
thực (của một tổ chức) trong những trường hợp nhất định” [77; tr54]. Vấn đề
ĐĐKD đã được quan tâm nghiên cứu một cách bài bản từ những năm 1970 ở các
nước Tây Âu và Mỹ. Những năm 1980, ở Mỹ, môn học ĐĐKD đã được đưa vào
giảng dạy ở nhiều trường đại học. Từ đầu thế kỷ XXI cho đến nay, những vấn đề
đạo đức trong kinh doanh được nghiên cứu ngày càng nhiều ở các góc độ khác nhau
để giải quyết những vấn đề thiết thực trong thực tiễn của các doanh nghiệp và xã
hội. Đa số các sách viết về ĐĐKD là công trình nghiên cứu của các giáo sư từ các
trường đại học của Mỹ. Ví dụ cuốn “Business Ethics, Ethical Decision Making and
Case” của ba tác giả O.C. Ferrell, John Fraedrich, Linda Ferrell, do Houghton
Miflin Company xuất bản năm 2002 có thể coi là một cuốn giáo trình khá hấp dẫn
về ĐĐKD. Cuốn sách chia làm 2 phần: phần 1 gồm 10 chương lý giải vấn đề ra
quyết định đạo đức trong kinh doanh, trong đó, các tác giả đề cập đến các vấn đề
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, vấn đề văn hóa doanh nghiệp với các quyết
định đạo đức, vấn đề ĐĐKD trong nền kinh tế toàn cầu…Trong phần 2 của cuốn
sách, các tác giả đi vào phân tích 15 tình huống cụ thể của ĐĐKD giúp cho người
đọc hiểu về ĐĐKD một cách bài bản và thực tế.


10

Một đặc điểm khá phổ biến của các cuốn sách nghiên cứu về ĐĐKD của các
tác giả nước ngoài đó là luôn gắn vấn đề lý luận ĐĐKD với những tình huống (case)
kinh doanh cụ thể. Ví dụ: Cuốn “Ethics and Conduct of Business” của tác giả John R.
Boatright ở đại học Loyola, Chicago, được xuất bản bởi Prentice Hall, năm 2000; Cuốn
“Business Ethics- Australian Problem and cases” do Oxford University Press ấn hành
năm 1998; Cuốn “Ethical Issues in Business- A Philosophical Approach” của ba giáo
sư đại học Mỹ: Thomas Donaldson, Patricia H. Werhane và Margaret Cording, do
Prentice Hall xuất bản lần thứ 7, năm 2002. Đây là cuốn sách tập hợp một số bài viết lý

giải nhiều vấn đề liên quan đến ĐĐKD như vấn đề trung thực trong kinh doanh; vấn
đề sở hữu, lợi nhuận và sự công bằng; vấn đề doanh nghiệp, con người và đạo đức….
Các nhà nghiên cứu như Ferrels và John Fraedrich lại chú ý đến phương
diện điều chỉnh hành vi ĐĐKD đối với hành vi của chủ thế kinh doanh. Các ông
cho rằng: “Đạo đức kinh doanh bao gồm những nguyên tắc cơ bản và tiêu chuẩn
điều chỉnh hành vi trong thế giới kinh doanh. Tuy nhiên, việc đánh giá một hành vi
cụ thể là đúng hay sai, phù hợp với đạo đức hay không sẽ được quyết định bởi nhà
đầu tư, nhân viên, khách hàng, các nhóm có quyền lợi liên quan, hệ thống pháp lý
cũng như cộng đồng”. [42; tr108]
Laura P.Hartman và Joe Desjardins trong cuốn “Business ethics” lại trình
bày rất cụ thể tầm quan trọng của đạo đức trong môi trường kinh doanh. Đồng thời
các ông cũng đã phân biệt giữa đạo đức cá nhân với đạo đức xã hội; giữa trách
nhiệm xã hội và trách nhiệm đạo đức; những điểm khác biệt giữa các quy chuẩn và
các giá trị đạo đức với các quy chuẩn và giá trị kinh doanh khác...
Công trình “Taking sides: Clashing views on controversial issues in
business ethics and society” của tác giả L.H.Newton, M.M. Ford lại nghiên cứu về
mối quan hệ giữa giới chủ và lao động làm thuê; sự dao động của sản xuất do thị
trường và người tiêu dùng. Hai lĩnh vực các ông đề cập tới trong xây dựng ĐĐKD
là tài chính và ngân hàng, qua đó khái quát những quan điểm về ĐĐKD ở một số
ngành và khu vực.
Bàn về vai trò của ĐĐKD, tác giả R. Edward Freeman trong cuốn “Business
ethics: The State of the art” đã khẳng định ĐĐKD được xem là một ngành, một vấn
đề được giảng dạy trong trường kinh doanh. Ông đã nghiên cứu ĐĐKD với vấn đề


11

quản lí kinh doanh, kinh doanh toàn cầu (đa quốc gia, đa văn hoá), đời sống tinh thần
của người hoạt động trong ngành kinh doanh. Những nghiên cứu của tác giả đã nhấn
mạnh rõ vai trò cũng như tầm quan trọng của ĐĐKD trong nền kinh tế.

Đối với Việt Nam, từ khi chuyển sang cơ chế thị trường, vấn đề ĐĐKD
được quan tâm chú ý nhiều hơn. Từ đó tới nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu
về ĐĐKD được thực hiện, một số giáo trình ĐĐKD được xuất bản và đưa vào
giảng dạy ở một số trường kinh tế. Những công trình này đã đề cập và giải quyết
nhiều khía cạnh của ĐĐKD.
Như trình bày ở trên, ĐĐKD với tính chất là môn khoa học đang còn mới
mẻ đối với loài người. Điều này lại càng đúng với Việt Nam. Vì vậy, khi bàn về
khái niệm ĐĐKD, những phẩm chất, chuẩn mực của nó hoặc sự cần thiết của
ĐĐKD trong điều kiện kinh tế thị trường…các nhà nghiên cứu ở nước ta đưa ra khá
nhiều quan điểm khác nhau.
PGS,TS Nguyễn Mạnh Quân đã định nghĩa trong giáo trình “Đạo đức kinh
doanh và văn hóa công ty”: “Đạo đức kinh doanh gồm những nguyên tắc và chuẩn
mực có tác dụng hướng dẫn hành vi trong mối quan hệ kinh doanh; chúng được
những người hữu quan (như người đầu tư, khách hàng, người quản lý, người lao
động, đại diện cơ quan pháp lý, cộng đồng dân cư, đối tác, đối thủ…) sử dụng để
phán xét một hành động cụ thể là đúng hay sai, hợp đạo đức hay phi đạo đức”. [57;
tr18]. Như vậy, ở định nghĩa này, ĐĐKD được hiểu: là những quy tắc, nguyên tắc
hoặc các chuẩn mực được đưa ra nhằm ngăn chặn các hành vi sai nguyên tắc đạo
đức trong quá trình kinh doanh. Ngoài việc làm rõ các khái niệm về ĐĐKD, tác giả
còn giới thiệu cách tiếp cận với quá trình ra quyết định về hành vi đạo đức và các
công cụ phân tích hành vi ĐĐKD. Mục đích là nhằm cung cấp phương pháp và
công cụ phân tích hành vi đạo đức trong kinh doanh.
Trong hội thảo “Đạo đức trong kinh doanh” do Viện Kinh tế đối ngoại- Bộ
Thương mại (nay là Bộ Công thương) phối hợp với The ST James Ethies CentreAustralia tổ chức năm 1995, phần nhiều các bài tham luận đều bàn về sự tác động
của kinh tế thị trường tới đạo đức và vai trò của đạo đức trong kinh doanh hay sự
cần thiết của việc kinh doanh có đạo đức. Tham luận “Một số ý kiến về giáo dục
trong kinh doanh tại Việt Nam”, PGS,TS, Tô Xuân Dân, giảng viên Đại học Kinh tế


12


quốc dân Hà Nội khẳng định: “Đạo đức kinh doanh hiểu một cách đơn giản, là
những quy tắc đạo đức được vận dụng trong quá trình hoạt động kinh doanh, là
những chuẩn mực chi phối hành vi của các doanh nghiệp, là những giá trị mà người
kinh doanh thừa nhận và noi theo” [40; tr28] và “Mục đích của nhà kinh doanh
nhằm đem lại hạnh phúc cho con người, không phải chỉ cho từng cá nhân mà cho cả
xã hội. Mà hạnh phúc ở đây chính là bao gồm những giá trị đạo đức, những giá trị
văn hóa của xã hội được thừa nhận và được tôn trọng” [40; tr29].
Bàn về triết lý kinh doanh, tiêu biểu là cuốn “Triết lý kinh doanh và quản lý
doanh nghiệp” của GS,TS. Nguyễn Thị Doan và TS. Đỗ Minh Cương, Nxb Chính
trị quốc gia, năm 1999. Trong cuốn sách này, các tác giả đã tập trung phân tích và
nhấn mạnh vai trò không thể thiếu của triết lý kinh doanh trong hoạt động của các
doanh nghiệp. Theo các tác giả, dựa trên những triết lý kinh doanh cụ thể, các chủ
thể kinh doanh sẽ lựa chọn những cách thức kinh doanh phù hợp. Triết lý kinh
doanh không tách rời ĐĐKD mà trái lại nó bao hàm, gắn bó chặt chẽ với ĐĐKD.
Vì thế, kinh doanh có đạo đức như là một bí quyết để nhà kinh doanh có thể tồn tại
và doanh nghiệp của họ phát triển một cách bền vững.
Nhiều tác giả đề cập tới ĐĐKD qua phương diện văn hóa kinh doanh. Có thể
kể tới cuốn “Văn hóa kinh doanh và triết lý kinh doanh” của TS. Đỗ Minh Cương
do Nxb Chính trị quốc gia ấn hành năm 2001; “Tinh thần doanh nghiệp- giá trị định
hướng của văn hóa kinh doanh Việt Nam”, tác giả Trần Quốc Dân, Nxb Chính trị
quốc gia, năm 2003; Luận án tiến sỹ kinh tế (năm 2004) “Vai trò của văn hóa kinh
doanh quốc tế và vấn đề được xây dựng văn hóa kinh doanh ở Việt Nam” của
Nguyễn Hoàng Ánh; “Văn hóa kinh doanh trong các doanh nghiệp ở Hà Nội” - đề
tài nghiên cứu khoa học - Bộ Giáo dục và Đào tạo, năm 2004, do PGS,TS. Dương
Thị Liễu làm chủ biên…Những công trình này cho thấy, ĐĐKD là một trong những
yếu tố cấu thành của văn hóa kinh doanh. Các tác giả đã góp phần làm rõ những
kiến thức chung về ĐĐKD, mối quan hệ của ĐĐKD với kinh tế thị trường; vai trò
của ĐĐKD trong sự phát triển của hoạt động kinh doanh và sự phát triển xã hội.
Qua việc phân tích, các tác giả đã góp phần làm rõ từng bước những vấn đề lý luận

về văn hóa kinh doanh.


13

Giáo trình “Đạo đức kinh doanh và văn hóa doanh nghiệp” của GS,TS. Bùi
Xuân Phong, Nxb Văn hóa thông tin, năm 2009, lại đưa ra định nghĩa: “Đạo đức kinh
doanh là một tập hợp các nguyên tắc,chuẩn mực có tác dụng điều chỉnh, đánh giá,
hướng dẫn và kiểm soát hành vi của các chủ thể kinh doanh. Đạo đức kinh doanh chính
là đạo đức được vận dụng vào trong các hoạt động kinh doanh” [55; tr40]
Trong giáo trình “Văn hóa kinh doanh” của tác giả Dương Thị Liễu (chủ
biên), Nxb Đại học Kinh tế quốc dân, năm 2009, khái niệm ĐĐKD được định nghĩa
: “…là một tập hợp các nguyên tắc, chuẩn mực có tác dụng điều chỉnh, đánh giá,
hướng dẫn và kiểm soát hành vi của các chủ thể kinh doanh” [47; tr25]
Tháng 12 năm 2012, Viện Triết học, Viện KHXH Việt Nam (nay là Viện Hàn
lâm KHXH Việt Nam) phối hợp với Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Trung Quốc
đã tổ chức hội thảo “Đạo đức trong kinh doanh” có sự tham gia của các nhà nghiên
cứu đầu ngành của Trung Quốc và Việt Nam. Trong hội thảo, nhiều bài tham luận bàn
về sự tác động của kinh tế thị trường tới đạo đức, vai trò của đạo đức trong kinh doanh
và sự cần thiết của việc kinh doanh có đạo đức, đồng thời chỉ rõ thực trạng ĐĐKD ở
Việt Nam và Trung Quốc, qua đó đưa ra những giải pháp mang tính trao đổi kinh
nghiệm giữa hai nước. Với tham luận “Bàn về mối quan hệ giữa luân lý đạo đức với
kinh tế thị trường”, GS,TS Cam Thiệu Bình- Phòng nghiên cứu Luân lý học, Viện Triết
học, Viện Khoa học xã hội Trung Quốc nhấn mạnh đến trách nhiệm, nghĩa vụ của
doanh nghiệp: “Nghĩa vụ đạo đức của mỗi một chủ thể kinh tế chính là ở chỗ tích cực
tham gia vào việc cải cách các quy tắc và chế độ kinh tế. Trong hoạt động kinh tế, đạo
đức không nên là tiêu chuẩn dùng để phê phán hành vi của cá nhân, mà cần phải được
xem là yếu tố quan trọng có tác dụng ràng buộc tất cả các thành phần tham gia vào thị
trường.” [42; tr15]
Tham luận “Đạo đức kinh doanh ở Việt Nam: Một số vấn đề lý luận và thực

tiễn”, PGS,TS Nguyễn Hữu Đễ- Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam
quan niệm rằng: “Nói tới đạo đức kinh doanh là nói về mối quan hệ giữa doanh
nghiệp với cộng đồng xã hội…Đạo đức kinh doanh giữ vai trò điều chỉnh hành vi
kinh doanh của doanh nghiệp như là phương thức bổ sung cho việc thực thi luật
pháp cho doanh nghiệp khi hoạt động kinh doanh”.[42; tr56]


14

Trong tham luận : “Đạo đức kinh doanh: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
của Việt Nam”, PGS,TS Phạm Văn Đức- Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt
Nam quan niệm: “đạo đức kinh doanh có nội hàm là những quy định, quy tắc và các
tiêu chuẩn chỉ đạo hành vi của chủ thể trong hoạt động kinh doanh. Đạo đức kinh
doanh không chỉ bao gồm việc tuân thủ luật pháp, mà cao hơn nữa còn là việc thực
hiện trách nhiệm mang tính đạo đức của doanh nghiệp, là việc bảo vệ quyền lợi cho
những người có liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp và quyền lợi của cộng
đồng”.[42; tr67]
Thực tế chỉ ra rằng, nhận thức về ĐĐKD ở Việt Nam hiện nay chưa có sự
thống nhất và đầy đủ. Chính điều đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc
vi phạm CMĐĐKD ở những mức độ khác nhau trong thực tiễn SXKD. Và theo ông
có ba nguyên nhân chính dẫn đến sự yếu kém trong ĐĐKD và trách nhiệm của
doanh nghiệp, đó là nguyên nhân về nhận thức, nguyên nhân kinh tế và nguyên
nhân pháp lý.
Hiện nay, bằng công cụ tìm kiếm trên mạng internet, có thể dễ dàng tìm đọc
các tài liệu đề cập đến ĐĐKD với nhiều ý kiến, quan niệm khác nhau. Có ý kiến cho
rằng, ĐĐKD bao gồm những quy định và các tiêu chuẩn chỉ đạo hành vi trong thế
giới kinh doanh. (xem:www.kynangquanly.com.vn) hoặc “Đạo đức kinh doanh là
hành vi đầu tư vào tương lai. Khi doanh nghiệp tạo tiếng tốt sẽ lôi kéo khách hàng.
Và đạo đức xây dựng trên cơ sở khơi dậy nét đẹp tiềm ẩn trong mỗi con người luôn
được thị trường ủng hộ”. (xem: Website: www.vnbrand.net). Stoner và các đồng tác

giả (1995) lại đưa ra định nghĩa: “Đạo đức kinh doanh là quan tâm tới kết quả ảnh
hưởng mà mỗi quyết định điều hành - quản trị tác động lên người khác, cả bên trong
và bên ngoài doanh nghiệp. Đó cũng là việc xem xét quyền và nghĩa vụ của mỗi cá
nhân, các nguyên tắc nhân văn cần tuân thủ trong quá trình ra quyết định và bản chất
các mối quan hệ giữa con người với con người”. Còn mạng kinh doanh trực tuyến
bnet.com thì định nghĩa: “Đạo đức kinh doanh là hệ thống các nguyên tắc luân lý
được áp dụng trong thế giới thương mại, chỉ dẫn các hành vi được chấp nhận trong cả
chiến lược và vận hành hàng ngày của tổ chức. Phương thức hoạt động có đạo đức
ngày càng trở nên cần thiết trong tìm kiếm thành công và xây dựng hình ảnh tích cực
của doanh nghiệp”. (xem:Website:www.vietfin.net/business).


15

Những công trình kể trên, với cách tiếp cận và giải quyết những khía cạnh
khác nhau của ĐĐKD, nhưng tất cả đều đi đến khẳng định tính tất yếu của sự tồn tại
ĐĐKD ở nước ta hiện nay trên cơ sở làm rõ vai trò của nó đối với hoạt động SXKD
và đối với sự phát triển kinh tế đất nước.
Rõ ràng, những nghiên cứu về mặt lý luận ĐĐKD là một vấn đề cấp thiết,
cần tiếp tục được bổ sung và hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
1.2. Về giáo dục đạo đức kinh doanh
Những nghiên cứu về ĐĐKD và tư tưởng về giáo dục ĐĐKD đã xuất hiện từ
rất lâu trong lịch sử phát triển của xã hội loài người cả ở phương Đông lẫn phương
Tây. Tuy nhiên, nó chỉ bắt đầu được nghiên cứu nghiêm túc và trở thành một môn
khoa học kể từ nửa sau thế kỷ XX ở các nước công nghiệp phát triển phương Tây.
Đối với Việt Nam, vấn đề ĐĐKD và giáo dục ĐĐKD chỉ thực sự được quan
tâm chú ý khi chúng ta tiến hành cải cách kinh tế, thực hiện kinh tế thị trường định
hướng XHCN từ năm 1986. Phải thấy rằng, kinh tế thị trường, nơi quan hệ kinh tế
luôn hướng tới mục tiêu lợi nhuận, vì thế dễ làm biến đổi quan hệ người với ngườimối quan hệ vốn dĩ rất được nâng niu, trân trọng. Nhiều người kinh doanh, với sức
hút của đồng tiền đã không giữ được mình, đánh rơi chữ “tín”, “phụ bạc” người tiêu

dùng- người mà lẽ ra phải rất được tôn trọng vì họ chính là “ân nhân”- bằng mọi thủ
đoạn lừa lọc; đối với Nhà nước, họ tìm cách lẩn tránh nghĩa vụ; đối với cộng đồng, họ
luôn xem nhẹ trách nhiệm xã hội…
Để góp phần ngăn chặn những tiêu cực đó, đã có nhiều công trình nghiên cứu
đề cập tới khía cạnh giáo dục ĐĐKD trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay.
Trong những công trình đó, định nghĩa kinh doanh được đưa ra nghiêm túc; những
CMĐĐKD được đề xuất; những nội dung giáo dục được bắt đầu đề cập; những giải
pháp cấp bách được kiến nghị…Đặc biệt, những công trình đó đều nhấn mạnh sự cần
thiết phải giáo dục ĐĐKD cho mọi chủ thể kinh tế khi tham gia thị trường.
Công trình “Phát huy những nhân tố truyền thống của dân tộc trong kinh doanh
dịch vụ ở nước ta hiện nay”, Nguyễn Thị Xuân Thảo, Nguyễn Văn Tuyền, Nxb Chính
trị quốc gia, năm 1999. Công trình nghiên cứu những giá trị và vai trò của nhân tố
truyền thống dân tộc trong kinh doanh dịch vụ; qua đó đặt ra yêu cầu các chủ thể kinh
doanh phải được giáo dục để nâng cao hiểu biết về bản sắc văn hóa, truyền thống của
dân tộc; ý thức được trách nhiệm và nghĩa vụ của mình trong hoạt động SXKD.


16

Tác giả Nguyễn Thị Lan lại xem xét vấn đề dưới góc độ “Nhìn nhận của
người dân về đạo đức kinh doanh của các chủ doanh nghiệp tư nhân”, Tạp chí Tâm
lý học, số 5 (2006). Tác giả đã xây dựng thang đo giá trị của người dân Hà Nội về
ĐĐKD của các chủ doanh nghiệp tư nhân trong giai đoạn phát triển kinh tế thị
trường ở nước ta hiện nay. Theo tác giả, các chủ doanh nghiệp tư nhân, tuy có nhiều
đóng góp trong giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, nhưng không vì thế
mà người dân xóa nhòa, san bằng tất cả cái tốt và cái xấu trong hoạt động kinh
doanh của các chủ doanh nghiệp tư nhân. Trái lại, càng kỳ vọng bao nhiêu ở sự
đóng góp của các chủ thể doanh nghiệp tư nhân đối với cộng đồng, với xã hội người
dân càng có xu hướng nhìn nhận khắt khe hơn, yêu cầu cao hơn đối với họ. Vì vậy,
việc tìm kiếm những giải pháp giáo dục và xây dựng chế tài nhằm nâng cao ĐĐKD

trong giai đoạn hiện nay cần phải chú ý đến điều này.
Giáo trình “Đạo đức và giáo dục đạo đức”, Hà Nhật Thăng (chủ biên), Đại học
Sư phạm Hà Nội, năm 2007. Tác giả nghiên cứu bản chất và chuẩn mực đạo đức xã
hội; nghiên cứu những nội dung giáo dục đạo đức ở một số đối tượng cụ thể. Tác giả
đặc biệt nhấn mạnh tới đội ngũ các nhà doanh nghiệp và xem công tác giáo dục ĐĐKD
là việc làm cấp bách, đặc biệt trong tiến trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế.
Những công trình trên đều nhấn mạnh sự cần thiết phải giáo dục ĐĐKD.
Nhưng do những mục đích cụ thể và trong những khuôn khổ cụ thể, các công trình
nghiên cứu được tiến hành thời gian qua thực sự chưa bao quát hết được những nội
dung, những vấn đề ĐĐKD, đặc biệt là giáo dục ĐĐKD ở nước ta.
2. Những nghiên cứu về chuẩn mực đạo đức kinh doanh và giáo dục
chuẩn mực đạo đức kinh doanh
2.1. Về chuẩn mực đạo đức kinh doanh
Ở Việt Nam, thời gian qua, có tương đối nhiều công trình nghiên cứu sự biến
đổi của thang giá trị đạo đức trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định
hướng XHCN theo những cách tiếp cận khác nhau. Nhìn ở góc độ đạo đức nói
chung, các công trình này đề cập tới nhiều vấn đề, như sự tác động của nền kinh tế
thị trường với đạo đức, mối quan hệ giữa đạo đức với kinh tế trong điều kiện kinh tế
thị trường, vấn đề xây dựng đạo đức mới trong nền kinh tế thị trường…Tuy nhiên,
ĐĐKD theo quan niệm phổ biến hiện nay là đạo đức nói chung được vận dụng vào


17

quá trình SXKD, bởi vậy những vấn đề vừa nêu dưới đây cũng là vấn đề gắn liền
hoặc ít nhiều liên quan tới ĐĐKD.
Trong các công trình đó, các tác giả thực sự lo lắng cho sự “xuống cấp” của
đạo đức trong nền kinh tế thị trường. Có thể thấy điều này qua các bài: “Cơ chế thị
trường và những điều cần báo động”, Tạp chí Cộng sản số 10-1990 của tác giả Vũ
Hiền; “Đôi điều suy nghĩ về giá trị và sự biến đổi của các giá trị khi nước ta chuyển

sang nền kinh tế thị trường”, Tạp chí Triết học số 1- 1995 của tác giả Nguyễn Trọng
Chuẩn; “Một số chuẩn mực giá trị ưu trội khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị
trường”, Tạp chí Triết học số 1- 1995 của tác giả Nguyễn Văn Huyên; “Bàn về sự
định hướng giá trị khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường”. Tạp chí Triết
học số 1-1995 của Lê Đức Phúc…Ở những bài viết này, các tác giả đã chỉ ra sự
biến động phức tạp trong đời sống xã hội Việt Nam khi bước vào nền kinh tế thị
trường. Cụ thể là: các giá trị truyền thống đang có biến đổi đa dạng, những giá trị
mới xuất hiện và càng có ảnh hưởng rõ rệt trong đời sống xã hội cùng với những
phản giá trị đang có chiều hướng gia tăng; những suy nghĩ về các chuẩn mực, các
giá trị và cả “những điều cần báo động” đang đặt ra, đòi hỏi phải có sự nhìn nhận
thấu đáo, sự đánh giá nghiêm túc…
Trong cuốn: “Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị
trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay” do tác
giả Nguyễn Chí Mỳ (chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 1999, lại bàn
về vấn đề đạo đức mới trong cơ chế thị trường; sự biến đổi của thang giá trị đạo đức
trong cơ chế đó; xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Từ đó, tập thể tác giả đề ra các phương hướng và giải
pháp hình thành thang giá trị đạo đức mới.
GS,TS Nguyễn Trọng Chuẩn với bài viết “Kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta hiện nay và những biến động trong lĩnh vực đạo đức”, đăng trên
Tạp chí Triết học số 9- 2001, cho rằng, tất cả những biến động trong lĩnh vực đạo
đức ở các mức độ khác nhau đều liên quan tới sự biến động trong nền kinh tế - xã
hội thời kỳ chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,


18

công bằng, văn minh. Những biến động đó tuy là khó tránh khỏi nhưng sẽ hạn chế
được những mặt tiêu cực của nó nếu Đảng và Nhà nước kịp thời có những biện

pháp thích hợp.
Một số công trình nghiên cứu như: “Quán triệt mối quan hệ giữa kinh tế và
đạo đức trong việc định hướng giá trị đạo đức hiện nay” của GS,TS. Nguyễn Ngọc
Long, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lý luận, số 2- 1995; “Mối quan hệ giữa lợi ích
cá nhân và đạo đức xã hội trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay” của
PGS,TS. Phạm Văn Đức, đăng trên Tạp chí Triết học, số 1- 2002, “Vấn đề xây dựng
đạo đức trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường” của TS, Đỗ Lan Hiền, đăng
trên Tạp chí Triết học, số 4- 2002;…Với các góc độ nhìn nhận khác nhau, các công
trình trên đã góp phần quan trọng luận giải mối quan hệ và những tác động qua lại
giữa đạo đức và kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Theo đó, nền kinh
tế thị trường được coi là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến những biến
đổi quan trọng về mặt đạo đức. Ngược lại, đạo đức cũng thể hiện sự tác động to lớn
của nó đối với quá trình phát triển xã hội, trong đó có đời sống kinh tế.
Công trình “Những vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước
ta hiện nay” của tập thể tác giả do Nguyễn Trọng Chuẩn và Nguyễn Văn Phúc
(đồng chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, năm 2003, đã phân tích những biến động
trong lĩnh vực đạo đức do sự tác động (cả tích cực lẫn tiêu cực) của nền kinh tế thị
trường. Công trình cũng đã lý giải vai trò của đạo đức với tư cách là động lực tinh
thần của sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời đề xuất và phân tích những giải
pháp nhằm xây dựng đạo đức vừa như là mục tiêu, vừa như là động lực của sự phát
triển kinh tế- xã hội trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường ở nước ta.
Công trình nghiên cứu “Văn hóa đạo đức ở nước ta hiện nay- vấn đề và giải
pháp” của hai tác giả Lê Quý Đức và Hoàng Chí Bảo do Nxb Văn hóa- Thông tin
và Viện Văn hóa ấn hành năm 2007, lại đề cập tới nhiều vấn đề về văn hóa đạo đức
như là những vấn đề thời sự cần được xem xét giải quyết một cách khoa học nhằm
xây dựng một môi trường xã hội thực sự văn minh đóng vai trò cơ sở cho nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN. Về đạo đức, công trình này đưa ra những vấn đề
chung, phân tích một cách toàn diện và sâu sắc những tác động của nền kinh tế thị
trường, từ đó chỉ rõ nguyên nhân của những tiêu cực thể hiện sự “trượt dốc” trong
lĩnh vực đạo đức. Biểu hiện của sự “trượt dốc” của đạo đức trong kinh doanh là



19

những vụ việc các doanh nghiệp vi phạm về pháp luật, như làm hàng giả, hàng kém
chất lượng, trốn thuế, buôn lậu, lừa dối khách hàng, lừa dối người lao động, xả thải
độc hại không xử lý ra môi trường…Đây cũng chính là thực trạng văn hóa đạo đức
ở nước ta hiện nay.
Trong các công trình trên, những biến động về giá trị và chuẩn mực đạo đức
được khảo sát trong quan hệ với kinh tế thị trường. Theo đó, những giá trị, những
chuẩn mực đạo đức truyền thống như: chủ nghĩa yêu nước, tính cộng đồng, đức tính
trung thực, cần cù, tiết kiệm…đã và đang có sự đổi mới, mở rộng nội dung để đáp
ứng yêu cầu của kinh tế thị trường. Một số giá trị và chuẩn mực mới xuất hiện và
phát huy tác dụng; có thể kể đến như: tính thực tế, tính hiệu quả trong lao động,
khát vọng làm giàu, tinh thần cạnh tranh,…Đồng thời, chủ nghĩa cá nhân, lối sống
chạy theo đồng tiền, sự sính ngoại và xem thường các giá trị truyền thống,…đang
có xu hướng “trỗi dậy”. Những biến động đó cho thấy tính hai mặt trong tác động
của kinh tế thị trường. Vì thế, trong công tác giáo dục đạo đức hiện nay, cùng với
việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, việc giải quyết một cách biện chứng mối
quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, giữa dân tộc và quốc tế, giữa xây và chống là
rất quan trọng.
Đề cập sâu sắc tới những tiêu chuẩn của đạo đức trong kinh doanh phải nhắc
tới một số những công trình tiêu biểu sau:
Cuốn sách “What’ s ethical in business” của tác giả Verne E.Henderson, Nxb
Văn hóa, năm 1996. Bằng những dẫn chứng cụ thể và đầy sức thuyết phục tác giả đã
phân tích và chỉ ra những công cụ hữu hiệu và dễ sử dụng để đề ra một quyết định có
giá trị về mặt đạo đức trong bối cảnh kinh doanh ngày nay, đó là 4 khía cạnh: mục
tiêu, biện pháp, động cơ và hậu quả. Đặc biệt tác giả nhấn mạnh tới việc xây dựng
một bầu không khí đạo đức hoặc một tác phong lao động, giống như một loại thuốc
ngừa bệnh, có thể thỏa mãn mọi nhóm đối tượng quan tâm và giữ cho hoạt động kinh

doanh lành mạnh.
Cuốn sách “Strategy : Winning in the marketplace : core concepts, analytical
tools, cases”của tác giả Arthur A. Thompson, John E. Gamble, Nxb. Boston,
McGraw - Hill, 2006 đã nghiên cứu và làm sáng tỏ sự khác biệt giữa ĐĐKD và
trách nhiệm xã hội. Đặc biệt, các ông nhấn mạnh tới yếu tố cạnh tranh lành mạnh


20

như là một tiêu chuẩn của ĐĐKD. Qua đó, tác giả đã luận bàn tới những phương
thức cạnh tranh góp phần giúp doanh nghiệp phát triển bền vững và khẳng định chỗ
đứng của mình trong hoạt động SXKD.
Ngoài việc đưa ra định nghĩa ĐĐKD, nhiều giáo trình còn đề xuất những nội
dung nhằm xây dựng và hoàn thiện các CMĐĐKD. Giáo trình “Môi trường kinh
doanh và đạo đức kinh doanh” do GS,TS. Ngô Đình Giao (chủ biên), Nxb Giáo dục,
năm 1997, ngoài việc khẳng định: “…chữ tín là chuẩn mực cao nhất của đạo đức kinh
doanh, mọi nhà kinh doanh Việt Nam và nước ngoài tại Việt Nam phải xây dựng chữ
tín đối với khách hàng trong nước và ngoài nước” [23; tr29]; các tác giả còn cho rằng,
ở Việt Nam với nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN thì tiêu chuẩn cơ bản
nhất về ĐĐKD là ĐĐKD XHCN, xây dựng ĐĐKD XHCN; từ đó các tác giả yêu
cầu: “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là đạo đức kinh doanh của người Việt
Nam”.[23; tr29]. Giáo trình “Đạo đức kinh doanh và văn hóa doanh nghiệp” của tác
giả Phạm Quốc Toản, Nxb Lao động- xã hội, năm 2007, lại đặt yêu cầu chuẩn mực
trong kinh tế xã hội và đức tính cá nhân. Có bốn chuẩn mực trong kinh tế xã hội: chủ
nghĩa tập thể; lao động tự giác, sáng tạo; lòng yêu nước kết hợp với tinh thần quốc tế;
chủ nghĩa nhân đạo. Bốn đức tính cá nhân: Tính trung thực; Tính nguyên tắc; Tính
khiêm tốn; Lòng dũng cảm. Giáo trình “Văn hóa kinh doanh” của tác giả Dương Thị
Liễu, Nxb Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội, năm 2011, các nguyên tắc CMĐĐKD
được nêu ra là: tính trung thực; tôn trọng con người; gắn lợi ích của doanh nghiệp với
lợi ích của khách hàng và xã hội; coi trọng hiệu quả gắn với tinh thần trách nhiệm xã

hội; bí mật và trung thành với các trách nhiệm đặc biệt.
Tại Hội thảo “Đạo đức trong kinh doanh”, tháng 12 năm 2012, do Viện Triết
học Việt Nam và Viện Triết học Trung Quốc phối hợp tổ chức, GS,TS, Nguyễn
Trọng Chuẩn với tham luận “Lợi ích và đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở
Việt Nam hiện nay”, đã phân tích và cảnh báo một cách nghiêm túc về thực trạng kinh
doanh thời gian qua. Tác giả nhận định, một số người chỉ vì lợi ích trước mắt, lợi ích
cá nhân, lợi ích nhóm tạo thành các đường dây móc ngoặc chằng chịt với nhau đang
tác động rất tiêu cực đến sự phát triển, nhất là phát triển bền vững của đất nước; môi
trường tự nhiên bị tàn phá hết sức nặng nề; một số cá nhân, một số nhóm lợi ích giàu
lên nhanh chóng một cách bất minh, phi pháp và vô đạo đức. Tác giả cho rằng: “Sự
giàu có đó của họ được đánh đổi bằng sự thiệt thòi, sự mất nguồn sống và cả kế sinh


21

nhai của không ít nông dân bị mất ruộng đất; bằng việc ép buộc người dân phải di dời
khỏi quê cha đất tổ đi nơi khác (nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số và vùng sâu
vùng xa) để cho các công ty, tập đoàn công nghiệp xây dựng thủy điện, xây dựng nhà
máy, trồng cây công nghiệp,v.v. mà người dân không được bồi thường tương xứng
như luật pháp đã quy định và như người dân đáng được hưởng, trong khi môi trường
tự nhiên bị phá hoại hết sức nghiêm trọng” [42; tr89]. Trong tham luận “Đạo đức
kinh doanh: Một số vân đề lý luận và thực tiễn của Việt Nam”, PGS,TS. Phạm Văn
Đức khẳng định: “…vấn đề nổi cộm nhất của đạo đức kinh doanh trong xã hội Việt
Nam là vấn đề thiếu chữ tín”.[42; tr114]. Tác giả khẳng định rằng, chữ tín là tiêu
chuẩn hàng đầu trong đánh giá ĐĐKD của một doanh nghiệp. Còn tham luận “Một
số ý kiến về đạo đức kinh doanh” của GS. Phạm Xuân Nam, Phó Giám đốc Trung
tâm KHXH và NV Quốc gia (nay là Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam), lại chỉ ra tiêu
chuẩn hàng đầu về đạo đức của nhà doanh nghiệp là tính trung thực, theo tác giả:
“triết lý kinh doanh của những người có lý tưởng, có đạo đức đều mang nội dung
nhân bản sâu sắc, vì nó dựa trên một quan niệm đúng đắn về hạnh phúc cá nhân

không thể tách rời mà gắn bó mật thiết với hạnh phúc của cộng đồng. Phải chăng đó
là sự kết tinh những giá trị đạo đức trong kinh doanh’’[42; tr98]. Đây là những quan
điểm rất có giá trị, góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về ĐĐKD.
Cũng trong kỷ yếu hội thảo, khi bàn về tiêu chuẩn của ĐĐKD, TS. Nguyễn
Tài Đông trong tham luận “Vấn đề chữ tín trong đạo đức kinh doanh ở Việt Nam
hiện nay”, cho rằng: “Trong các nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức kinh doanh
như tính trung thực, tính sáng tạo, sự tôn trọng con người,…thì tính trung thực hay
“chữ tín” đóng một vai trò hết sức quan trọng”.[42; 102]. Theo tác giả, chữ tín của
doanh nghiệp thể hiện dưới bốn góc độ khác nhau. Một là, tạo được niềm tin đối
với Chính phủ, tức là tuân thủ các chính sách, pháp quy và tiêu chuẩn có liên quan
của Nhà nước; hai là, tạo được niềm tin với khách hàng, cung cấp sản phẩm và
dịch vụ chất lượng cao; ba là, tạo được niềm tin với xã hội, trên cơ sở pháp luật,
đưa ra một cách trung thực những thông tin chính xác, quan tâm đến các việc công
ích cũng như sự nghiệp chung của xã hội; bốn là, tạo được niềm tin đối với người
lao động, bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của mọi thành viên trong doanh nghiệp.
Còn tham luận: “Đạo đức và lợi nhuận trong kinh doanh” của PGS,TS. Nguyễn


22

Văn Phúc lại khẳng định: “Uy tín đạo đức của doanh nghiệp được nâng lên và trở
thành một lợi thế thật sự trong cạnh tranh, cụ thể là trong việc gọi vốn đầu tư,
chuyển giao công nghệ, mở rộng thị phần” [42; tr293].
Hiện nay, trên thế giới có rất nhiều văn bản quốc tế có ảnh hưởng và điều tiết
các bộ quy tắc về đạo đức, như Tuyên bố của Hội nghị thượng đỉnh Copenhagen
năm 1995 về khuyến khích các nhu cầu xã hội và quyền cơ bản, Tuyên bố về nguyên
tắc và quyền cơ bản của Tổ chức lao động thế giới ngày 17 tháng 6 năm 1998. Theo
thống kế, ở Mỹ, từ 80-93% các tổ hợp lớn có một bộ quy tắc về đạo đức, ở Nhật
Bản là khoảng 70%, còn ở châu Âu là khoảng 50% các hãng lớn có một hiến
chương về đạo đức.

Như vậy, các tác giả khi luận bàn tới ĐĐKD đều nhấn mạnh tới các yếu tố
mang tính chuẩn mực để góp phần điều chỉnh hành vi của các doanh nghiệp, các
chủ kinh doanh trong hoạt động sản xuất kinh tế. Những chuẩn mực được xem là
thước đo để đánh giá ĐĐKD được các nhà khoa học đề cập sâu sắc nhất đó là tuân
thủ pháp luật, giữ chữ tín, cạnh tranh lành mạnh và thực hiện trách nhiệm xã hội.
Ngoài ra, với đặc thù SXKD ở Việt Nam, các nhà khoa học trong nước còn nhấn
mạnh thêm các yếu tố về bản sắc văn hóa và những giá trị kinh doanh truyền thống
làm chuẩn mực cho ĐĐKD .
2.2. Về giáo dục chuẩn mực đạo đức kinh doanh
Tiếp cận dưới góc độ khoa học chuyên ngành, giáo trình Nguyên lý công tác tư
tưởng, do PGS,TS. Lương Khắc Hiếu (chủ biên) đã nghiên cứu những nội dung giáo
dục kinh tế, trong đó nhấn mạnh tới nội dung giáo dục các CMĐĐKD, coi đó là cơ sở
hình thành văn hóa kinh tế của người lao động. Theo tác giả những nội dung giáo dục
CMĐĐKD bao gồm: kinh doanh đúng pháp luật, tôn trọng người tiêu dùng trong
SXKD; thực hiện cạnh tranh lành mạnh; giữ đúng chữ tín; biết tìm kiếm lợi nhuận trên
cơ sở quan tâm đến lợi ích cộng đồng; lên án những hành vi tiêu cực trong SXKD…
Tham luận “Đạo đức kinh doanh ở Việt Nam: Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn”, sau khi làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn, PGS,TS. Nguyễn Hữu Đễ
cho rằng, đối với Việt Nam hiện nay “Để thực hiện đạo đức kinh doanh ở Việt Nam
hiện nay thì việc xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và các văn bản dưới
luật rõ ràng là cần thiết nhưng chưa đủ, mà phải đưa ra được những quy tắc, những


23

chuẩn mực đạo đức kinh doanh đủ sức để hướng dẫn những hành vi kinh doanh của
các doanh nghiệp. Việc giáo dục phải làm thế nào để các doanh nghiệp tự ý thức
được rằng, thực hiện đạo đức kinh doanh chính là đầu tư cho tương lai và cho sự
phát triển bền vững của doanh nghiệp ” [42; tr95].
PGS,TS. Phạm Văn Đức với tham luận “Đạo đức kinh doanh: Một số vấn đề

lý luận và thực tiễn của Việt Nam”, đã chỉ ra ba nguyên nhân chính dẫn đến sự yếu
kém trong ĐĐKD và trách nhiệm của doanh nghiệp, đó là nguyên nhân nhận thức,
nguyên nhân kinh tế và nguyên nhân pháp lý. Do đó, để nâng cao ĐĐKD, cần bám
sát những nguyên nhân nói trên để đề ra những giải pháp phù hợp. Cụ thể là:
Thứ nhất, cần xây dựng một hành lang pháp lý bắt buộc các doanh nghiệp
phải thực thi ĐĐKD một cách đầy đủ và nghiêm túc.
Thứ hai, cần tuyên truyền, giáo dục cho tất cả các doanh nghiệp, trước hết là
các chủ doanh nghiệp về ĐĐKD.
Thứ ba, cần xây dựng các quy tắc đạo đức dưới dạng các quy tắc ứng xử hay
hiệp ước toàn cầu mà các tổ chức quốc tế đã làm.
Từ những luận chứng rõ ràng, tác giả kết luận: “…việc hoàn thiện hành lang
pháp lý, việc tuyên truyền, giáo dục và xây dựng các quy tắc ứng xử về ĐĐKD là
những giải pháp quan trọng, cần thiết để từng bước xây dựng ĐĐKD ở Việt Nam
hiện nay” [42; tr116].
Trong bài viết “Suy nghĩ về vấn đề giáo dục đạo đức kinh doanh” đăng trên
website tạp chí Tuyên giáo, ngày 2/1/2010 của PGS,TS Cao Duy Hạ, tác giả cho rằng:
“Sự phát triển ngày càng mạnh của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có nhiều
thành phần kinh tế tham gia đã đưa đến một thực tế khách quan là ngày càng có nhiều
nhà doanh nghiệp đầu tư kinh doanh trên các lĩnh vực của nền kinh tế. Song không
phải tất cả các nhà doanh nghiệp đó đã có đạo đức kinh doanh lành mạnh- “Đạo đức
kinh doanh xã hội chủ nghĩa”. Vì vậy vấn đề giáo dục CMĐĐKD cho các nhà doanh
nghiệp là việc làm không thể thiếu thuộc chức năng quản lý kinh tế của nhà nước”.
Cũng bàn về giáo dục CMĐĐKD, tác giả Nguyễn Thị Linh Huyền trong bài
viết: “Giáo dục đạo đức kinh doanh- một nhân tố quan trọng trong dạy học môn
giáo dục công dân ở các trường trung học phổ thông ” đăng trên website Khoa Lý
luận chính trị ngày 18/2/2016 đã nhấn mạnh: “…Ở Việt Nam, việc giáo dục, thực


24


hiện CMĐĐKD hoàn toàn phù hợp với mục tiêu phát triển bền vững và cần thiết
phải bắt đầu từ giáo dục học sinh ở bậc trung học phổ thông- chủ nhân tương lai của
đất nước”.
Rõ ràng vấn đề giáo dục CMĐĐKD đang được nhiều học giả quan tâm
nghiên cứu, đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và
hội nhập.
3. Những nghiên cứu về nông dân, nông dân Hà Nội và giáo dục chuẩn
mực đạo đức kinh doanh cho nông dân Hà Nội
Thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, bằng tinh thần lao
động cần cù, sáng tạo, giai cấp ND cùng nhân dân cả nước tạo nên những thành tựu
to lớn trên mặt trận SXKD nông nghiệp, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát
triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân. Tuy nhiên, thực trạng sản xuất
của ND hiện nay đa số vẫn là những hộ sản xuất quy mô nhỏ, đời sống vật chất, tinh
thần của ND tuy có bước cải thiện nhưng nhìn chung còn nhiều khó khăn. Những khó
khăn đó phần nào tác động đến hoạt động SXKD của người ND, trong đó có vấn đề
ĐĐKD. Để góp phần nâng cao ĐĐKD cho người ND, vai trò của công tác giáo dục
là rất quan trọng, do vậy có không ít những nghiên cứu đề cập tới công tác này dưới
nhiều góc độ và cách tiếp cận khác nhau.
Mặc dù chưa có công trình nào trực tiếp bàn về giáo dục CMĐĐKD cho ND,
nhưng trong một số nghiên cứu các tác giả cũng đã ít nhiều đề cập tới vai trò của
giáo dục trong hoạt động SXKD, đặc biệt đối với ND.
Trong cuốn “Nông dân và Hội Nông dân Việt Nam trên đường hội nhập kinh
tế quốc tế” của Vũ Ngọc Kỳ, ngoài việc luận bàn về những định hướng, nội dung và
những nguyên tắc của hội nhập kinh tế quốc tế với nền kinh tế nói chung và nông
thôn Việt Nam nói riêng, tác giả còn nhấn mạnh tới yêu cầu cần giáo dục người ND
những chuẩn mực đạo đức trong SXKD để có thể đứng vững trong điều kiện hội
nhập. Cụ thể, tác giả cho rằng chuẩn mực quan trọng nhất cần được giáo dục là chữ
tín và cạnh tranh lành mạnh. Tác giả nhấn mạnh: “Uy tín đại diện cho sức mạnh
cạnh tranh, hầu như không thể bắt chước, rất dễ đánh mất và rất khó khăn khi gây
dựng lại. Điều này đặc biệt quan trọng, nhất là với người nông dân trong giai đoạn

đầu hội nhập kinh tế quốc tế”.


25

Cũng đề cập tới nội dung giáo dục ĐĐKD, tác giả Nguyễn Danh Sơn (chủ
biên) trong cuốn “Nông nghiệp, nông thôn, nông dân Việt Nam trong quá trình phát
triển đất nước theo hướng hiện đại” đã đặt ra vấn đề về giữ gìn bản sắc văn hóa
trong hoạt động sản xuất nông nghiệp của người ND. Qua đó tác giả cũng nhấn
mạnh tới tầm quan trọng của công tác giáo dục, đề cao trách nhiệm của Hội ND
trong vai trò là chủ thể trực tiếp nhất đối với người ND.
Hội thảo “Nông dân Việt Nam trong quá trình hội nhập” do Viện Chính sách
và Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn tổ chức vào ngày 18/12/2007,
nhằm mục tiêu lấy ý kiến của các nhà hoạch định chính sách, quản lý vĩ mô, các nhà
khoa học về vấn đề “tam nông”, phục vụ cho việc xây dựng đề án liên quan đến vấn
đề nông nghiệp, ND và nông thôn. Các chuyên gia đã chỉ ra những vấn đề xã hội
bức xúc, nan giải trong những năm vừa qua: Đó là khoảng cách giàu –nghèo và bất
bình đẳng xã hội, tình trạng thiếu việc làm, di dân tự phát; xung đột xã hội gia tăng;
dân trí thấp; dịch vụ y tế- chăm sóc sức khỏe yếu kém; đời sống văn hóa có nhiều
biểu hiện tiêu cực, xuống cấp; năng lực quản lý xã hội, kết cấu hạ tầng thấp kém;
môi trường bị ô nhiễm và suy thoái ở mức báo động. Những vấn đề bức xúc đó
đang trở thành rào cản trong hoạt động SXKD của người ND. Đồng thời cũng đặt ra
những vấn đề khó khăn trong công tác giáo dục CMĐĐKD cho người ND. Do đó,
hội thảo cũng đề ra những biện pháp khắc phục để ND có điều kiện phát triển trong
nền kinh tế hội nhập, mở cửa.
Nghiên cứu đề xuất giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc, nhất là tình trạng
xuống cấp về mặt đạo đức do nguyên nhân từ lao động, việc làm, Tiến sỹ Trần Minh
Ngọc, Viện Kinh tế Việt Nam chủ trì thực hiện đề tài cấp Bộ (2009) “Việc làm của
nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa vùng đồng bằng sông Hồng
đến năm 2020”. Đề tài đã được in thành cuốn: Việc làm của ND trong quá trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2020, do Nxb Chính
trị Quốc gia phát hành năm 2010. Ngoài việc đi sâu phân tích một số vấn đề lý luận
và các nhân tố ảnh hưởng đến việc làm của ND vùng đồng bằng sông Hồng, tác giả
còn đề cập tới tình trạng vi phạm và xuống cấp về mặt đạo đức như là một hệ quả của
thực trạng thiếu việc làm. Từ đó, tác giả nhấn mạnh với vai trò của giáo dục chuẩn
mực đạo đức cho người ND trong quá trình CNH, HĐH. Coi đó là một giải pháp góp
phần xây dựng giai cấp ND Việt Nam vững mạnh toàn diện.


×