Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Thảo luận Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam Phát huy nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.88 KB, 35 trang )

Lời mở đầu
Việt Nam đang bước vào thời kỳ phát triển mới, đẩy mạnh công cuộc đổi
mới, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tăng cường hội nhập kinh tế
quốc tế, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh.
Để tăng trưởng kinh tế cần 5 yếu tố chủ yếu là: vốn; khoa học và công nghệ;
cơ cấu kinh tế; con người; thể chế chính trị và quản lý nhà nước. Trong đó, con
người là yếu tố quyết định. Những năm qua, kinh tế - xã hội Việt Nam ngày càng
phát triển, năng suất lao động ngày càng cao, đã tạo điều kiện cải thiện đáng kể đời
sống nhân dân, giúp cho việc chăm sóc con người ngày một tốt hơn. Đảng và Nhà
nước ta đã tạo những điều kiện thuận lợi cho mọi người dân tham gia đóng góp ý
kiến trong quá trình xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
cũng như kế hoạch phát triển kinh tế của từng địa phương, từng cơ sở sản xuất kinh
doanh.
Với nhận thức như vậy, Đảng coi chăm lo hạnh phúc cho con người là mục
tiêu phấn đấu cao nhất của Đảng, của chế độ xã hội nước ta. Nâng cao dân trí, bồi
dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là yếu tố quyết định
thắng lợi của công cuộc đổi mới và thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Để đạt được mục tiêu nói trên, Đảng ta đã đào tạo và
phát triển nhanh nguồn nhân lực là yếu tố quyết định, trong đó, đào tạo và phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao là khâu đột phá của chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội.
Nhận thức được quan điểm của Đảng, nhóm 1 đã thực hiện đề tài thảo luận
về: “Phát huy nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.”


CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN: TỔNG QUAN VỀ SỰ NGHIỆP CÔNG
NGHIỆP, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC
1. Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tính tất yếu khách quan của


công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam.
1.1. Khái niệm công nghiệp hoá, hiện đại hoá:
- Theo nghĩa chung, khái quát nhất, công nghiệp hoá là quá trình biến một
nước có nền kinh tế lạc hậu thành một nước có nền kinh tế công nghiệp phát triển.
- Kế thừa có chọn lọc và phát triển những tri thức của văn minh nhân loại về
công nghiệp hoá vào điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta hiện nay, Đảng ta nêu ra
quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa như sau: “Công nghiệp hóa, hiện đại
hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh,
dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang
sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện, phương pháp
tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công
nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.”
Quan niệm trên cho thấy, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta
hiện nay phải kết hợp chặt chẽ hai nội dung công nghiệp hoá và hiện đại hoá trong
quá trình phát triển.
1.2. Tính tất yếu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá:
Hiện nay nước ta đang trong quá trình chuyển từ một nền kinh tế lạc hậu
mang tính tự nhiên sang một nền kinh tế thị trường, có nghĩa là chúng ta đang trong


quá trình thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ sang
một nền kinh tế sản xuất lớn ngày càng hiện đại.
Hơn nữa, trong điều kiện kinh tế thế giới đang chuyển từ văn minh công
nghiệp sang hậu công nghiệp, nhiều nước châu Á đã chọn con đường công nghiệp
hóa để nhanh chóng đuổi kịp và hòa nhập vào nền văn minh hiện đại nên công
nghiệp hóa chính là chìa khóa của sự phát triển đặc biệt gắn với sự tăng trưởng, nó
tạo ra một nền kinh tế hiện đại với những ưu thế nổi bật : nâng cao năng suất, cơ
cấu kinh tế đa dạng, công ăn việc làm phong phú hơn nhiều so với một nền kinh tế
chưa công nghiệp hóa. Do vậy, ở các nước đang phát triển nói chung và nước ta nói
riêng, công nghiệp hóa là điều cấp bách sống còn. Tuy nhiên, thực hiện công

nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa về cơ sở vật chất, kĩ thuật
Nhận thức điều này, Đảng ta đã ra chủ trương về công nghiệp hóa gắn với
hiện đại hóa qua từng giai đoạn cụ thể của đất nước.
2. Khái niệm nguồn nhân lực
- Nguồn nhân lực: đây là nguồn lực của mỗi con người, gồm có thể lực và trí
lực. Thể lực phụ thuộc vào tình trạng sức khoẻ của con người, mức sống, thu nhập,
chế độ ăn uống, chế độ làm việc, nghỉ ngơi v.v.. Trí lực là nguồn tiềm tàng to lớn
của con người, đó là tài năng, năng khiếu cũng như quan điểm, lòng tin, nhân cách
v.v..
3. Quan điểm và chủ trương phát huy nguồn nhân lực của Đảng trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
3.1 Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới( 1960 - 1986)
3.1.1. Chủ trương của Đảng về công nghiệp hóa
- Đường lối công nghiệp hóa đất nước đã được hình thành từ Đại hội III
(tháng 9-1960) của Đảng. Quá trình công nghiệp hóa của nước ta diễn ra trong bối


cảnh tình hình trong nước và quốc tế luôn diễn biến phức tạp và không thuận chiều.
Trước thời kỳ đổi mới, nước ta có khoảng 25 năm tiến hành công nghiệp hóa theo
hai giai đoạn: từ 1960 đến 1975 công nghiệp hóa ở miền Bắc và từ 1975 đến 1985
công nghiệp hóa trên phạm vi cả nước, hai giai đoạn này có mục tiêu, phương
hướng rõ rệt.
Về thực chất, đây là sự lựa chọn mô hình chiến lược công nghiệp hóa thay
thế nhập khẩu mà nhiều nước, cả nước xã hội chủ nghĩa và nước tư bản chủ nghĩa
đã và đang thực hiện lúc đó. Chiến lược này được duy trì trong suốt 15 năm ở miền
Bắc (1960 – 1975) và 10 năm tiếp theo trên phạm vi cả nước ( 1976 – 1986).
Tuy nhiên, do trên thực tế chúng ta chưa có đủ điều kiện để thực hiện nên kết
quả là thời kỳ 1976 – 1980 nền kinh tế lâm vào khủng hoảng, suy thoái, cơ cấu
kinh tế mất cân đối nghiêm trọng.
Đại hội lần thứ V của Đảng (3-1982) đã xác định phải lấy nông nghiệp làm

mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng; việc xây
dựng và phát triển công nghiệp nặng trong giai đoạn này cần làm có mức độ, vừa
sức, nhằm phục vụ thiết thực, có hiệu quả cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
Sự điều chỉnh không dứt khoát đó đã khiến cho nền kinh tế Việt Nam không
tiến xa được bao nhiêu, trái lại còn gặp nhiều khó khăn và khuyết điểm mới, tình
hình kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân sau 5 năm không những không ổn định
được mà còn lâm vào khủng hoảng trầm trọng.
3.2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời kỳ đổi mới
3.2.1. Quá trình đổi mới tư duy về công nghiệp hóa
a. Đại hội VI của Đảng phê phán sai lầm trong nhận thức và chủ trương công
nghiệp hóa thời kỳ 1960-1986.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986) với tinh thần
“nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” đã nghiêm khắc chỉ


ra những sai lầm trong nhận thức và chủ trương công nghiệp hóa thời kỳ 19601985, mà trực tiếp là mười năm từ 1975 đến 1985. Chúng ta đã phạm sai lầm trong
việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, cải tạo xã
hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế. Trong việc bố trí cơ cấu kinh tế, đầu tư nhiều
nhưng hiệu quả thấp. Không thực hiện nghiêm chỉnh nghị quyết của Đại hội lần thứ
V như: Nông nghiệp vẫn chưa thật sự coi là mặt trận hàng đầu, công nghiệp nặng
không phục vụ kịp thời nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
b. Quá trình đổi mới tư duy về công nghiệp hóa từ Đại hội VI (tháng 12-1986) đến
Đại hội XI (tháng 1- 2011)
Từ việc chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm, Đại hội VI đã cụ thể hóa nội
dung chính của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên là
thực hiện cho bằng được 3 chương trình lương thực, thực phẩm; hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá
độ,chính sách công nghiệp hóa của Đại hội VI đã:
- Đưa ra một thứ tự ưu tiên mới: nông nghiệp – công nghiệp hàng tiêu dùng,
hàng xuất khẩu – công nghiệp nặng.

+ Mục tiêu “ ưu tiên phát triển công nghiêp nặng” đã chuyển sang “lấy
nông nghiệp và công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu làm trọng tâm”.
+ Phát huy nguồn lực của nhiều thành phần kinh tế.
Tiếp theo, Đại hội VII (năm 1991) Đảng ta tiếp tục có những nhận thức mới,
ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn về công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa những
bước phát triển cao hơn, có chất lượng hơn, đi vào thực chất hơn so với nhiều năm
trước.
Đại hội Đảng VIII (năm 1996) đã điều chỉnh chính sách công nghiệp hóa
theo hướng lấy nông nghiệp làm khâu đột phá, coi nông nghiệp kết hợp với công
nghiệp chế biến là mặt trận hàng đầu. Đặt ra nội dung cụ thể của công nghiệp hóa,


hiện đại hóa trong những năm trước mắt (1996-2000) là “đặc biệt coi trọng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn…”.
Đại hội IX (năm 2001) và Đại hội X (năm 2006), Đảng ta tiếp tục bổ sung và
nhấn mạnh một số điểm mới trong tư duy về công nghiệp hóa
3.2.2. Mục tiêu, quan điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
a. Mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Mục tiêu lâu dài của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là cải biến nước ta thành
một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý,
quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng – an ninh vững chắc, dân giàu
nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ,văn minh.
b. Quan điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa
- Một là, công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.
- Hai là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Ba là, lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững.

- Bốn là, coi phát triển khoa học và công nghệ là nền tảng, là động lực công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Năm là, phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi
với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa
dạng sinh học.
3.2.3. Nội dung và định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức


a. Nội dung
Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Chúng ta cần tranh thủ các cơ hội thuận lợi do
bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với
phát triển kinh tế tri thức. Phải coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền
kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
Nội dung cơ bản của quá trình này là:
- Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa
nhiều vào tri thức, kết hợp sử dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với
tri thức mới nhất của nhân loại.
- Coi trọng cả số lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế trong mỗi bước
phát triển của đất nước, ở từng vùng, từng địa phương, từng dự án kinh tế xã hội.
- Xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lý theo ngành, lĩnh vực và lãnh
thổ.
- Giảm chi phí trung gian, nâng cao năng suất lao động của tất cả các ngành
lĩnh vực, nhất là các ngành, lĩnh vực có sức cạnh tranh cao.
b. Định hướng phát triển các ngành và lĩnh vực kinh tế trong quá trình đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
- Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn
giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân.
+ Về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp.

Vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân là một vấn đề lớn của quá trình
công nghiệp hóa đối với tất cả các nước tiến hành công nghiệp hóa trên thế giới,
bởi vì công nghiệp hóa là quá trình thu hẹp khu vực nông nghiệp, nông thôn và gia
tăng khu vực công nghiệp, xây dựng dịch vụ và đô thị. Vì vậy, quan tâm đến nông


nghiệp, nông dân và nông thôn là một vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu của quá
trình công nghiệp hóa:
Chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo
ra giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; đẩy
nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất, nâng cao năng
suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa, phù hợp đặc điểm từng
vùng, từng địa phương.
Tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và
dịch vụ, giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp.
+ Về quy hoạch phát triển nông thôn:
Khẩn trương xây dựng các quy hoạch phát triển nông thôn, thực hiện chương
trình xây dựng nông thôn mới. Xây dựng các làng, xã, ấp, bản có cuộc sống no đủ,
văn minh, môi trường lành mạnh.
Hình thành các khu dân cư đô thị với kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội đồng bộ
như thủy lợi, giao thông, điện nước, cụm công nghiệp, trường học, trạm y tế, bưu
điện, chợ…
Phát huy dân chủ ở nông thôn đi đôi với xây dựng nếp sống văn hóa, nâng
cao trình độ dân trí, bài trừ các tệ nạn xã hội, hủ tục, mê tín dị đoan, bảo đảm an
ninh, trật tự an toàn xã hội.
+ Về giải quyết lao động, việc làm ở nông thôn:
Chú trọng dạy nghề, giải quyết việc làm cho nông dân, trước hết ở các vùng
sử dụng đất nông nghiệp để xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ, giao thông,
các khu đô thị mới. Chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng giảm
nhanh tỷ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động làm công nghiệp

và dịch vụ. Tạo điều kiện để lao động nông thôn có việc làm trong và ngoài khu
vực nông thôn, kể cả lao động nước ngoài.


Đầu tư mạnh hơn cho các chương trình xóa đói giảm nghèo, nhất là ở các
vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bằng dân tộc thiểu số.
Mục tiêu đề ra là phấn đấu đến năm 2010 giảm tỷ lệ lao động nông, lâm, ngư
nghiệp xuống dưới 50% tổng số lao động xã hội và nâng cao tỷ lệ thời gian sử dụng
lao động ở nông thôn lên khoảng 85%.
- Hai là, phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.
Tính quy luật của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là tỷ trọng của nông nghiệp
giảm còn công nghiệp, dịch vụ thì tăng lên. Vì vậy, nước ta chủ trương phát triển
nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.
- Ba là, phát triển kinh tế vùng.
Để phát triển mạnh mẽ kinh tế vùng trong những năm tới cần phải:
+ Có cơ chế, chính sách phù hợp để các vùng trong cả nước cùng phát triển
nhanh hơn trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý của
mỗi vùng và liên vùng, đồng thời tạo ra sự liên kết giữa các vùng nhằm đem lại
hiệu quả cao, khắc phục tình trạng chia cắt, khép kín theo địa giới hành chính.
+ Xây dựng ba vùng kinh tế trọng điểm ở miền Bắc, miền Trung, miền Nam
thành những trung tâm công nghiệp lớn có công nghệ cao để các vùng này đóng
góp ngày càng lớn cho sự phát triển chung của cả nước.
- Bốn là, phát triển kinh tế biển.
Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển toàn diện, có trọng
tâm, trọng điểm. Sớm đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về kinh tế biển trong
khu vực, gắn với bảo đảm quốc phòng – an ninh và hợp tác quốc tế.
- Năm là, dịch chuyển cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ.
Để chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu công nghệ trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức cần phải:



+ Phát triển nguồn nhân lực, đảm bảo đến năm 2010 có nguồn nhân lực với
cơ cấu đồng bộ và chất lượng cao, tỷ lệ lao động trong khu vực nông nghiệp còn
dưới 50% lực lượng lao động xã hội.
+ Phát triển khoa học và công nghệ phù hợp với xu thế phát triển nhảy vọt
của cách mạng khoa học và công nghệ.
+ Kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động khoa học và công nghệ với giáo dục và
đào tạo để thực sự phát huy vai trò quốc sách hàng đầu, tạo động lực đẩy nhanh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức. Thực hiện chính sách
trọng dụng nhân tài, các nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư, kỹ sư trưởng,
kỹ thuật viên lành nghề và công nhân kỹ thuật có tay nghề cao.
+ Đổi mới cơ bản cơ chế quản lý khoa học và công nghệ đặc biệt là cơ chế
tài chính phù hợp với đặc thù sáng tạo và khả năng rủi ro của hoạt động khoa học
và công nghệ.
- Sáu là, bảo vệ, sử dụng, hiệu quả tài nguyên quốc gia, cải thiện môi trường
tự nhiên.
+ Xuất phát từ yêu cầu phát triển bền vững của đất nước trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, vấn đề bảo vệ, sử dụng
tài nguyên và cải thiện môi trường tự nhiên được xác định.
+ Từng bước hiện đại hóa công tác nghiên cứu, dự báo khí tượng – thủy văn,
chủ động phòng chống thiên tai, tìm kiếm, cứu nạn.
+ Xử lý tốt mối quan hệ giữa tăng dân số, phát triển kinh tế và đô thị hóa với
bảo vệ môi trường, bảo đảm phát triển bền vững.
+ Mở rộng hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường và quản lý tài nguyên thiên
nhiên, chú trọng lĩnh vực quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên nước.
3.2.4. Kết quả, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân


a. Kết quả thực hiện đường lối và ý nghĩa
Sau hơn 20 năm đổi mới, đất nước ta đã thu được những thành tựu to lớn,

trong đó có những thành tựu nổi bật của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Một là, cơ sở vật chất - kỹ thuật của đất nước được tăng cường đáng kể, khả
năng độc lập tự chủ của nền kinh tế được nâng cao. Từ một nền kinh tế chủ yếu là
nông nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất yếu kém đi lên, đến nay cả nước đã có hơn 100
khu công nghiệp, khu chế xuất tập trung, nhiều khu hoạt động có hiệu quả, tỉ lệ
ngành công nghiệp chế tác, cơ khí chế tạo và nội địa hóa sản phẩm ngày càng tăng.
Công nghiệp nông thôn và miền núi có bước tăng trưởng cao hơn tốc độ trung bình
của cả nước. Nhiều công trình quan trọng thuộc kết cấu hạ tầng được xây dựng, sân
bay, cảng biển, đường bộ, cầu, nhà máy điện, bưu chính - viễn thông…. theo hướng
hiện đại.
Hai là, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đã đạt được những kết quả quan trọng: tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng, tỷ
trọng nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm (giai đoạn 2001-2005, tỷ trọng công
nghiệp và xây dựng tăng từ 36,7% năm 2000 lên 41% năm 2005; còn tỷ trọng của
nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 24,5% năm 2000 xuống 20,9% năm 2005).
Cơ cấu lao động đã có sự chuyển đổi tích cực gắn liền với quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế. Từ năm 2000 - 2005, tỷ trọng lao động trong công nghiệp và
xây dựng tăng từ 12,1% lên 17,9%; dịch vụ tăng từ 19,7% lên 25,3%, nông lâm
nghiệp và thủy sản giảm từ 68,2% xuống còn 56,8%; lao động qua đào tạo tăng từ
20% lên 25%.
Ba là, những thành tựu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã góp phần quan
trọng đưa nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, bình quân từ năm 2000 đến
nay đạt trên 7,5%/năm. Điều đó đã góp phần quan trọng vào công tác xóa đói giảm
nghèo. Thu nhập đầu người bình quân hàng năm tăng lên đáng kể. Năm 2005, đạt
640 USD/người, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân tiếp tục được cải thiện.


b. Hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, công nghiệp hóa, hiện đại hóa
thời gian qua ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế, nổi bật là:

- Tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn thấp so với khả năng và thấp hơn nhiều
nước trong khu vực thời kỳ đầu công nghiệp hóa. Tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo
chiều rộng, vào các ngành công nghệ thấp, tiêu hao vật chất cao, sử dụng nhiều tài
nguyên, vốn và lao động. Năng suất lao động còn thấp so với nhiều nước trong khu
vực.
- Nguồn lực của đất nước chưa được sử dụng có hiệu quả cao, tài nguyên, đất
đai và các nguồn vốn của Nhà nước còn bị lãng phí, thất thoát nghiêm trọng. Nhiều
nguồn lực trong dân chưa được phát huy.
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm. Trong công nghiệp các sản phẩm có
hàm lượng tri thức cao còn ít. Trong nông nghiệp sản xuất chưa gắn kết chặt chẽ
với thị trường. Nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn còn
thiếu cụ thể. Chất lượng nguồn nhân lực của đất nước còn thấp. Tỷ trọng lao động
qua đào tạo còn thấp, lao động thiếu việc làm và không việc làm còn nhiều.
Các vùng kinh tế trọng điểm chưa phát huy được thế mạnh để đi nhanh vào
cơ cấu kinh tế hiện đại. Kinh tế vùng chưa có sự liên kết chặt chẽ, hiệu quả thấp và
chưa được quan tâm đúng mức.
Cơ cấu thành phần kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, chưa
tạo được đầy đủ môi trường hợp tác, cạnh tranh bình đẳng và khả năng phát triển
của các thành phần kinh tế.
Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý. Công tác quy hoạch chất lượng thấp, quản lý
kém, chưa phù hợp với cơ chế thị trường.


Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Nhìn chung,
mặc dù đã cố gắng đầu tư, nhưng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội vẫn còn lạc hậu,
thiếu đồng bộ chưa đáp ứng được yêu cầu, làm hạn chế sự phát triển kinh tế xã hội
Những hạn chế trên do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là nguyên nhân
chủ quan như:
- Nhiều chính sách và giải pháp chưa đủ mạnh để huy động và sử dụng được
tốt nhất các nguồn lực, cả nội lực và ngoại lực vào công cuộc phát triển kinh tế - xã

hội.
- Cải cách hành chính còn chậm và kém hiệu quả, công tác tổ chức, cán bộ
chậm đổi mới, chưa đáp ứng được yêu cầu.
- Chỉ đạo và tổ chức thực hiện yếu kém.


CHƯƠNG II: PHÁT HUY NGUỒN NHÂN LỰC TRONG SỰ NGHIỆP
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC

1.Tầm quan trọng của nguồn lực con người trong giai đoạn phát triển của
nước ta hiện nay.
Nguồn nhân lực là nguồn lực con người và là một trong những nguồn lực
quan trọng nhất cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Vai trò đó bắt nguồn từ vai trò
của yếu tố con người.
Bất cứ một sự phát triển nào cũng đều phải có một nguồn lực thúc đẩy. Phát
triển kinh tế-xã hội được dựa trên nhiều nguồn lực: nhân lực, vật lực, tài lực.., song
chỉ có nguồn lực con người mới tạo ra động lực cho sự phát triển, những nguồn lực
khác muốn phát huy được tác dụng chỉ có thể thông qua nguồn lực con người.
Ngay cả trong điều kiện đạt được tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại như hiện nay
thì cũng không thể tách rời nguồn lực con người. Bởi lẽ chính con người tạo ra
những máy móc thiết bị hiện đại đó. Điều đó thể hiện mức độ hiểu biết và chế ngự
thiên nhiên của con người. Ngay cả đối với máy móc thiết bị hiện đại, nếu thiếu sự
điều khiển, kiểm tra của của con người thì chúng chỉ là những vật vô tri vô giác.
Chỉ có tác động của con người mới phát động chúng và đưa chúng vào hoạt động.
Vì vậy, nếu xem xét nguồn lực là tổng thể những năng lực của con người
được huy động vào quá trình sản xuất, thì năng lực đó là nội lực của con người.
Trong phạm vi xã hội, đó là một trong những nguồn nội lực quan trọng cho sự phát
triển. Đặc biệt, đối với nước ta có nền kinh tế đang phát triển, dân số đông, nguồn
nhân lực dồi dào đã trở thành một nguồn nội lực quan trọng nhất, nếu biết khai thác
nó sẽ tạo nên một nguồn động lực to lớn cho sự phát triển.



Trong giai đoạn phát triển của nước ta hiện này, việc đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa là bước đi tất yếu trong đó phát huy nguồn lực con người là yếu
tố cơ bản cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Công nghiệp hóa, hiện đại
hóa không chỉ xuất phát từ yếu tố con người mà còn do con người tạo nên và chỉ
khi nào có nguồn nhân lực thì mới có thể thực hiện thành công, bởi như phân tích ở
trên, con người là chủ thể của mọi hoạt động sản xuất vật chất hiện đại, trang bị kỹ
thuật và công nghệp tiên tiến chỉ cho ngành kinh tế quốc dân chỉ có thể thực hiện
được trên cơ sở đội ngũ người lao động, các cán bộ đầu ngành, chính sách phát
triển của Đảng và Nhà nước.
Vai trò và tầm quan trọng của nguồn lực con người đối với phát triển và tăng
trưởng ngày càng được khẳng định, trong tất cả các quốc gia trên thế giới, đặc biệt
là Việt Nam. Ở nước ta, nguồn nhân lực còn được nhấn mạnh là yếu tố nội lực quan
trọng nhất để xây dựng đất nước. Tuy nhiên, sức mạnh của nguồn lực này lại bị chi
phối bởi rất nhiều yếu tố khác nhau nhưng yếu tố quan trọng nhất trong nguồn lực
con người không phải là số lượng, mà là chất lượng nguồn lực con người. Đây mới
chính là yếu tố quyết định đối với sự phát triển kinh tế – xã hội, cũng như đối với
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta hiện nay. Nói đến chất lượng
của nguồn lực con người là nói đến hàm lượng trí tuệ ở trong đó, nói tới người lao
động có trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp, được đào tạo, bồi
dưỡng và phát huy bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa học,
công nghệ hiện đại. Sở dĩ người ta nói đến tính vô tận, tính không bị cạn kiệt, tính
khai thác không bao giờ hết của nguồn lực con người chính là nói tới yếu tố trí tuệ.
Trí tuệ của con người ngày càng phát triển và có tác động mạnh mẽ nhất đối với sự
tiến bộ và phát triển xã hội. Nhà tương lai học người Mỹ – Alvin Toffler khẳng định
rằng “ mọi nguồn lực tự nhiên đều có thể bị khai thác cạn kiệt, chỉ có trí tuệ con
người là không bao giờ cạn kiệt”.



Mối quan hệ giữa nguồn lao động với phát triển kinh tế thì nguồn lao động
luôn luôn đóng vai trò quyết định đối với mọi hoạt động kinh tế trong các nguồn
lực để phát triển kinh tế. Theo nhà kinh tế người Anh, William Petty cho rằng “lao
động là cha, đất đai là mẹ của mọi của cải vật chất”. C.Mác cho rằng “con người
là yếu tố số một của lực lượng sản xuất”. Trong lịch sử Việt Nam, Thân Nhân
Trung đã đề ra quan điểm “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. Nhà tương lai học
người Mỹ – Avill Toffer nhấn mạnh vai trò của lao động tri thức, theo ông ta “Tiền
bạc tiêu mãi cũng hết, quyền lực rồi sẽ mất. Chỉ có trí tuệ của con người thì khi sử
dụng không những không mất đi mà còn lớn lên”.
Từ đó, có thể rút ra vai trò của nguồn lực con người đối với sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta hiện nay:
-Thứ nhất, nguồn lực con người có chất lượng cao là nguồn lực chính quyết
định quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn lực con người là
nhân tố quyết định việc khai thác, sử dụng, bảo vệ và tái tạo các nguồn lực khác.
Giữa nguồn lực con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ
thuật, khoa học công nghệ… có mối quan hệ nhân quả với nhau, nhưng trong đó
nguồn nhân lực được xem là năng lực nội sinh chi phối quá trình phát triển kinh tế
– xã hội của mỗi quốc gia. So với các nguồn lực khác, nguồn nhân lực với yếu tố
hàng đầu là trí tuệ, chất xám có ưu thế nổi bật ở chỗ nó không bị cạn kiệt nếu biết
bồi dưỡng, khai thác và sử dụng hợp lý, còn các nguồn lực khác dù nhiều đến đâu
cũng chỉ là yếu tố có hạn và chỉ phát huy được tác dụng khi kết hợp với nguồn nhân
lực một cách có hiệu quả. Vì vậy, con người với tư cách là nguồn nhân lực, là chủ
thể sáng tạo, là yếu tố bản thân của quá trình sản xuất, là trung tâm của nội lực, là
nguồn lực chính quyết định quá trình phát triển kinh tế – xã hội.
- Thứ hai, nguồn lực con người có chất lượng cao là một trong những yếu tố
quyết định sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.


- Thứ ba, nguồn lực con người chất lượng cao là điều kiện để rút ngắn
khoảng cách tụt hậu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy nhanh sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm đảm bảo phát triển bền vững.
- Thứ tư, nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện hội nhập kinh tế quốc
tế.
2. Thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam
2.1Thực trạng chung:
- Theo kết quả điều tra dân số đến tháng 02/2014, Việt Nam có quy mô dân
số trên 90 triệu người, đứng thứ 13 thế giới, thứ 7 châu Á và thứ 3 trong khu vực
Đông Nam Á. Dân số phân bố không đều và có sự khác biệt lớn theo vùng. Dân cư
Việt Nam phần đông vẫn còn là cư dân nông thôn (khoảng 68 % - năm 2013). Trình
độ học vấn của dân cư ở mức khá; tuổi thọ trung bình tăng khá nhanh (năm 2013
đạt 73,1 tuổi).
- Năng suất lao động có xu hướng ngày càng tăng: Theo cách tính năng suất
lao động đo bằng tổng sản phẩm trong nước (GDP) theo giá hiện hành chia cho
tổng số người làm việc bình quân trong 01 năm, năng suất lao động năm 2005 là
21,4 triệu đồng/người, năm 2010 là 44,0 triệu đồng/người, năm 2012 là 63,1 triệu
đồng/người, sơ bộ năm 2013 là 68,7 triệu đồng/người.
- Nguồn nhân lực Việt Nam được cấu thành chủ yếu là nông dân, công nhân,
trí thức, doanh nhân, dịch vụ và nhân lực của các ngành, nghề. Trong đó: Nguồn
nhân lực nông dân có gần 63 triệu người, chiếm hơn 70% dân số; nguồn nhân lực
công nhân là 9,5 triệu người (gần 10% dân số); nguồn nhân lực trí thức, tốt nghiệp
từ đại học, cao đẳng trở lên là hơn 2,5 triệu người, chiếm khoảng 2,15% dân số;
nguồn nhân lực từ các doanh nghiệp khoảng 2 triệu người, trong đó, khối doanh
nghiệp trung ương gần 1 triệu người…


- Về đào tạo, số lượng nhân lực được tuyển để đào tạo ở các cấp tăng
nhanh.Theo số liệu thống kê sơ bộ năm 2013, số sinh viên đại học và cao đẳng là
2.058.922 người, số tốt nghiệp là 405.900 người; số học sinh các trường trung cấp
chuyên nghiệp là 421.705 người. Tuy nhiên, chất lượng đào tạo, cơ cấu theo ngành
nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo vùng, miền, địa phương,… chưa đồng nhất, chưa

thực sự phù hợp với nhu cầu sử dụng của xã hội, gây lãng phí nguồn lực của Nhà
nước và xã hội.
Theo báo cáo của Chính phủ tại Kỳ họp thứ 8 của Quốc hội khoá XIII, nền
kinh tế đã tạo ra trong năm 2013 khoảng 1,58-1,6 triệu việc làm mới; tỷ lệ thất
nghiệp là 2,18% (trong đó thành thị là 3,59%, nông thôn là 1,54%), tỷ lệ thiếu việc
làm là 2,75% (trong đó thành thị là 1,48%, nông thôn là 3,31%).
- Về lực lượng lao động, nước ta hiện nay khoảng 52.207.000 người; hàng
năm trung bình có khoảng 1,5-1,6 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động. Thể lực
và tầm vóc của nguồn nhân lực đã được cải thiện và từng bước được nâng cao.
- Về trình độ chuyên môn kỹ thuật, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo trong toàn
bộ lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 17,9%, trong đó ở thành thị là 33,7%,
gấp 3 lần tỷ lệ này ở khu vực nông thôn là 11,2%, phân theo giới tính tỷ lệ này là
20,3% đối với nam và 15,4% đối với nữ; tỷ lệ nhân lực được đào tạo trình độ cao
(từ đại học trở lên) trong tổng số lao động qua đào tạo ngày càng tăng (năm 2010 là
5,7%, năm 2012 là 6,4%, sơ bộ năm 2013 là 6,9% ).
Đội ngũ nhân lực với trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp khá đã
được thu hút và phát huy hiệu quả lao động cao ở một số ngành, lĩnh vực như bưu
chính viễn thông, công nghệ thông tin, sản xuất ô tô, xe máy, đóng tàu, công nghiệp
năng lượng, y tế, giáo dục,… và xuất khẩu lao động. Đội ngũ doanh nhân Việt
Nam ngày càng tăng về số lượng và cải thiện về kiến thức, kỹ năng kinh doanh,
từng bước tiếp cận trình độ quốc tế.
a. Những thành tựu đạt được


- Về cơ cấu bậc đào tạo, năm 2015, số nhân lực qua đào tạo ở bậc sơ cấp
nghề khoảng 18 triệu người, chiếm khoảng 59% tổng số nhân lực đã qua đào tạo
của nền kinh tế; bậc trung cấp khoảng 7 triệu người (khoảng 23%); bậc cao đẳng
gần 2 triệu người (khoảng 6%); bậc đại học khoảng 3,3 triệu người (khoảng 11%);
bậc trên đại học khoảng 200 nghìn người (khoảng 0,7%).
- Nhân lực chủ thể cũng đã được định hình: Cán bộ lãnh đạo là những người

đứng đầu cấp trưởng và phó của các cơ quan trung ương: Đảng, Quốc hội, Chính
phủ, các tổ chức chính trị - xã hội cấp trung ương; cơ quan đảng, hội đồng nhân
dân, ủy ban nhân dân, các sở, ban, ngành và tương đương; đoàn thể và các tổ chức
chính trị - xã hội cấp tỉnh, thành phố, trực thuộc trung ương.
Năm 2015, tổng số cán bộ lãnh đạo của cả nước có khoảng 200 nghìn người,
trong đó, số người có trình độ cử nhân đến thạc sĩ, tiến sĩ là hơn 120 nghìn người.
Tổng số lãnh đạo các cấp cần bồi dưỡng từ năm 2011 đến năm 2015 là khoảng 20
nghìn người.
Đội ngũ công chức, viên chức của cả nước đến năm 2015 có khoảng 5,3 triệu
người; trong đó, số công chức, viên chức có trình độ cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ
khoảng 2,8 triệu người, chiếm khoảng 52% trong tổng số đội ngũ công chức, viên
chức của cả nước. Tỷ lệ công chức, viên chức cần bồi dưỡng, nâng cao chuyên
môn, nghiệp vụ từ năm 2011 đến năm 2015 khoảng 20%.
- Đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ đến năm 2015 tăng lên khoảng 103
nghìn người, trong đó, số người có trình độ trên đại học khoảng 28 nghìn người.
- Về đội ngũ giáo viên, giảng viên trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng và đại
học đến năm 2015, số giáo viên, giảng viên bậc trung cấp chuyên nghiệp có khoảng
38 nghìn người, trong đó, có khoảng 30% có trình độ thạc sĩ trở lên; số giáo viên,
giảng viên bậc cao đẳng khoảng 33,5 nghìn người, trong đó khoảng 6% tổng số
giáo viên, giảng viên có trình độ tiến sĩ; số giáo viên, giảng viên bậc đại học
khoảng 62,1 nghìn người, trong đó, số người có trình độ tiến sĩ khoảng 23%.


- Về đội ngũ giáo viên, giảng viên dạy nghề đến năm 2015, số giáo viên,
giảng viên dạy nghề các bậc khoảng 51 nghìn người, trong đó, giáo viên, giảng
viên cao đẳng nghề khoảng 13 nghìn người; giáo viên, giảng viên trung cấp nghề
khoảng 24 nghìn người; giáo viên, giảng viên sơ cấp nghề khoảng 14 nghìn người.
- Về đội ngũ cán bộ y tế đến năm 2015, tổng số cán bộ y tế có khoảng 385
nghìn người, trong đó, số bác sĩ khoảng từ 74 - 75 nghìn người (đạt 41 cán bộ y
tế/10 nghìn dân, trong đó, đạt khoảng 8 bác sĩ/10 nghìn dân).

- Đội ngũ cán bộ văn hóa, thể thao đến năm 2015 có khoảng 88 nghìn người.
trong đó, lĩnh vực văn hóa năm 2015 khoảng 57 nghìn người; lĩnh vực thể thao năm
2015 khoảng 22 nghìn người.
- Về đội ngũ doanh nhân đến năm 2015, cả nước có khoảng từ 1,5 đến 2 triệu
người. Tỷ lệ doanh nhân có trình độ cử nhân, kỹ sư, thạc sĩ, tiến sĩ chiếm khoảng
78% tổng số đội ngũ doanh nhân.
- Nhân lực để phát triển của các ngành kinh tế biển; nhân lực của các lực
lượng vũ trang; nhân lực các vùng kinh tế - xã hội (vùng trung du và miền núi phía
bắc, vùng đồng bằng sông Hồng, vùng bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung,
vùng Tây Nguyên, vùng đông Nam Bộ, vùng đồng bằng sông Cửu Long) đều đã
được quy hoạch tổng thể.
- Về mạng lưới trường cao đẳng nghề, trường trung cấp nghề, trung tâm dạy
nghề (gọi chung là cơ sở dạy nghề): Đến năm 2015 có 190 trường cao đẳng nghề,
trong đó, có 60 trường ngoài công lập; 300 trường trung cấp nghề, trong đó, có 100
trường ngoài công lập; 920 trung tâm dạy nghề, trong đó có 320 trung tâm ngoài
công lập.
Nhìn chung, với đường lối chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước thì đã
tận dụng được tối đa hóa nguồn nhân lực, nhìn vào thực tế phát triển nguồn nhân


lực một cách đúng đắn để từ đó thu được những thành tựu, xuất hiện những mặt
tích cực trong nguồn nhân lực ở Việt Nam.
b. Những điểm còn hạn chế
- Chất lượng đào tạo, cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo
vùng, miền, địa phương của nguồn nhân lực chưa thực sự phù hợp với nhu cầu sử
dụng của xã hội, gây lãng phí nguồn lực của Nhà nước và xã hội.
Theo số liệu thống kê năm 2010, trong số 20,1 triệu lao động đã qua đào tạo
trên tổng số 48,8 triệu lao động đang làm việc, thì chỉ có 8,4 triệu người có bằng
cấp, chứng chỉ do các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước. Số người từ 15 tuổi trở
lên được đào tạo nghề và chuyên môn kỹ thuật rất thấp, chiếm khoảng 40%.

- Cơ cấu đào tạo hiện còn bất hợp lý được thể hiện qua các tỷ lệ: Đại học và
trên Đại học là 1, trung họcchuyên nghiệp là 1,3 và công nhân kỹ thuật là 0,92;
trong khi trên thế giới, tỷ lệ này là 1-4-10.
- Đội ngũ nhân lực chất lượng cao, công nhân lành nghề vẫn còn rất thiếu so
với nhu cầu xã hội để phát triển các ngành kinh tế chủ lực của Việt Nam, nhất là để
tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu cũng như nâng cấp vị thế của Việt Nam trong
chuỗi giá trị đó.
Hiện nay ở Việt Nam đang hình thành 2 loại hình nhân lực: nhân lực phổ
thông và nhân lực chất lượng cao.
Nhân lực phổ thông hiện tại vẫn chiếm số đông, trong khi đó, tỷ lệ nhân lực
chất lượng cao lại chiếm tỷ lệ rất thấp. Cái thiếu của Việt Nam hiện nay không phải
là nhân lực phổ thông, mà là nhân lực chất lượng cao.
Số lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật, thậm chí nhóm có trình độ
chuyên môn cao có khuynh hướng hiểu biết lý thuyết khá, nhưng lại kém về năng
lực thực hành và khả năng thích nghi trong môi trường cạnh tranh công nghiệp; vẫn
cần có thời gian bổ sung hoặc đào tạo bồi dưỡng để sử dụng hiệu quả.


Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam đang rất thiếu lao
động có trình độ tay nghề, công nhân kỹ thuật bậc cao và chất lượng nguồn nhân
lực ViệtNam cũng thấp hơn so với nhiều nước khác. Nếu lấy thang điểm là 10 thì
chất lượng nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm (xếp thứ 11/12 nước Châu Á
tham gia xếp hạng của WB - 2010) trong khi Hàn Quốc là 6,91; Ấn Độ là 5,76;
Malaysia là 5,59; Thái Lan là 4,94...
- Khả năng làm việc theo nhóm, tính chuyên nghiệp, năng lực sử dụng ngoại
ngữ là công cụ giao tiếp và làm việc của nguồn nhân lực còn rất hạn chế. Trong
môi trường làm việc có yếu tố nước ngoài, ngoại ngữ, hiểu biết văn hoá thế giới
luôn là điểm yếu của lao động Việt Nam.
- Cơ cấu phân bổ lao động theo ngành nghề cũng mất cân đối. Các ngành kỹ
thuật - công nghệ, nông - lâm -ngư nghiệp ít và chiếm tỉ trọng thấp, trong khi đó

các ngành xã hội luật, kinh tế, ngoại ngữ... lại quá cao. Nhiều ngành nghề, lĩnh vực
có tình trạng vừa thừa vừa thiếu nhân lực. Những lĩnh vực hiện đang thiếu lao động
như: Kinh doanh tài chính, ngân hàng, kiểm toán, công nghệ thông tin, điện tử, viễn
thông, cơ khí chế tạo...
- Tinh thần trách nhiệm làm việc, đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công dân, ý
thức văn hoá công nghiệp, kỷ luật lao động của một bộ phận đáng kể người lao
động chưa cao.
Năng suất lao động còn thấp so với nhiều nước trong khu vực và thế giới.
Mặt khác, đáng lo ngại là năng suất lao động của Việt Nam có xu hướng tăng chậm
hơn so với các nước đang phát triển trong khu vực như Trung Quốc, Ấn Độ, In-đônê-xia.
Nhìn chung, nhân lực là nhân tố quyết định nhất đối với sự phát triển của
mỗi quốc gia. Trình độ phát triển của nguồn nhân lực là một thước đo chủ yếu sự
phát triển của các quốc gia. Vì vậy, các quốc gia trên thế giới đều rất coi trọng phát
triển nguồn nhân lực. Trong thế kỷ XX, đã có những quốc gia nghèo tài nguyên


thiên nhiên, nhưng do phát huy tốt nguồn nhân lực nên đã đạt được thành tựu phát
triển kinh tế - xã hội, hoàn thành công nghiệp hoá và hiện đại hoá chỉ trong vài ba
thập kỷ.
Ở nước ta, Đảng và Nhà nước luôn khẳng định quan điểm coi con người là
trung tâm của sự phát triển, của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hiện nay,
trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá và hội nhập quốc tế, phát triển nhân lực
được coi là một trong ba khâu đột phá của chiến lược chuyển đổi mô hình phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước; đồng thời, phát triển nhân lực trở thành nền tảng
phát triển bền vững và tăng lợi thế cạnh tranh quốc gia.
Việc phát triển nhân lực, một mặt, cần phải có tầm nhìn chiến lược phát triển
tổng thể và dài hạn, nhưng đồng thời, trong mỗi thời kỳ nhất định, cần xây dựng
những định hướng cụ thể, để từ đó đánh giá thời cơ, thách thức, những khó khăn,
hạn chế và nguyên nhân… để đề ra mục tiêu và giải pháp phát triển thích hợp cho
giai đoạn đó phù hợp với bối cảnh kinh tế-xã hội trong nước và quốc tế.

(*) Số liệu sử dụng trong bài từ Niên giám thống kê năm 2013 của Tổng cục
Thống kê
3. Nguyên nhân cơ bản dẫn đến chất lượng nguồn nhân lực nước ta còn yếu
kém
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới thực trạng yếu kém của con người Việt Nam
hiện nay, cả chủ quan lần khách quan nhưng tổng thể có một số nguyên nhân chủ
yếu sau:
- Thể lực, sức vóc của con người Việt Nam còn kém, chưa đáp ứng được
cường độ công việc cao. Theo Bộ Lao động, Thương binh và xã hội, thể lực người
lao động nước ta hiện nay còn yếu. So với thế giới tầm vóc và thể lực của người
Việt Nam thuộc loại trung bình thấp, tỷ lệ thấp còi cao hơn nhiều nước trong khu


vực. Chiều cao của thanh niên 15 tuổi thấp hơn so với chuẩn quốc tế 8,34cm đối
với nam; 9,13cm đối với nữ; thấp hơn thanh niên Nhật Bản 8cm đối với nam, 4cm
đối với nữ, thấp hơn thanh niên các nước trong khu vực là Thái Lan, Singapore từ
2-6 cm. Việc này ảnh hưởng đến việc sử dụng, vận hành máy móc, hiện đại, hạn
chế năng suất lao động, bắt buộc người lao động phải gắng sức nhiều và làm tăng
nguy cơ mất an toàn lao động. Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam đạt 73 tuổi
năm 2008 nhưng tuổi trung bình khỏe chỉ đạt bình quân trên 60 tuổi (trung bình
một con người Việt Nam có khoảng 12 năm ốm đau, bệnh tật).
Theo đánh giá của các nhà sử dụng lao động nước ngoài, lao động Việt Nam
làm việc khéo léo, chăm chỉ nhưng không đáp ứng được yêu cầu công việc với
cường độ lao động cao, sức dẻo dai cũng hạn chế. Đồng thời việc chứng nhận sức
khỏe của người lao động không chính xác, có tới 15% sức khỏe yếu và khoảng 5%
phải chú ý về sức khỏe như nhẹ cân, áp huyết cao.
- Bên cạnh nguyên nhân về thể lực, trình độ chuyên môn kỹ thuật của con
người Việt Nam hiện nay còn thấp, tỷ lệ lực lượng lao động qua đào tạo từ sơ cấp
nghề trở lên mới đạt ở mức 26%, trong đó số công nhân có trình độ chuyên môn kỹ
thuật từ cao đẳng trở lên chỉ chiếm 6,74%. Nhiều tỉnh, thành phố lớn như Hà Nội

mới đạt tỷ lệ công nhân qua đào tạo trên 45% (trong đó qua đào tạo nghề chỉ 23%);
công nhân trong khu công nghiệp – khu chế xuất ở TP Hồ Chí Minh có trình độ từ
trung học nghề đến đại học chiếm chưa tới 30% …
- Một nguyên nhân khác nữa là cơ cấu đào tạo không phù hợp. Theo kết quả
tổng điều tra cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp năm 2007 cho thấy, số lao động
làm việc trong các cơ sở tăng cả về quy mô và trình độ chuyên môn kỹ thuật,
nhưng chủ yếu tăng số lao động có trình độ đại học (người lao động có trình độ đại
học chiếm tỷ trọng 11,7% và tăng 82,6%). Trong khi đó lao động được đào tạo
nghề dài hạn lại giảm 15,7%. Điều này cho thấy đào tạo nghiêng theo “hàn lâm”,


thiên về lý thuyết, sách vở mà thiếu đi kỹ năng thực tế đang gây ra nguy cơ thiếu
hụt lực lượng lao động có tay nghề, kỹ năng thực hành sản xuất.
- Chế độ đào tạo nguồn nhân lực chưa thoả đáng giữa thành phố, nông thôn
và miền núi. Hiện nay tỷ lệ mù chữ cao nhất là Tây Bắc 24,2%, thấp nhất là đồng
bằng Sông Hồng 1,3%. Đào tạo trình độ chuyên môn kỹ thuật cho thanh niên nông
thôn và thành thị có khoảng cách khá xa. Lao động qua đào tạo mất cân đối giữa
nông thôn và thành thị, giữa các vùng miền, địa phương.
- Chưa có chiến lược đào tạo, kế hoạch đào tạo dài hạn cũng như quy định,
quy chế đào tạo rõ ràng, chủ yếu mang tính ngắn hạn, dựa trên chủ trương của cấp
trên.
- Nhu cầu đào tạo là rất lớn nhưng khả năng đào tạo các cơ sở đào tạo lại
chưa đáp ứng được đặc biệt là cơ cấu ngành đào tạo trên đại học; nội dung chương
trình đào tạo còn chưa đổi mới; quá trình kiểm kiểm tra, đánh giá, hiệu quả của quá
trình đào tạo còn thấp; nhìn chung là chất lượng đào tạo còn nhiều bất cập với thực
tiễn, chưa đáp ứng nhu cầu của thực tiễn.
- Tỷ lệ lao động có trình độ học vấn và trình độ chuyên môn kỹ thuật có tăng
nhưng còn rất chậm. Tỷ lệ lao động qua đào tạo còn ít, công tác giáo dục đào tạo
không theo kịp với yêu cầu của công cuộc đổi mới nói chung và nhịp độ kinh tế nói
riêng.

- Chất lượng đào tạo còn hạn chế chưa đáp ứng được nhu cầu nhân lực. Tình
trạng thừa thầy thiếu thợ đang là vấn đề lớn.
- Nguồn đầu tư cho giáo dục đào tạo còn hạn chế chưa đủ để đảm bảo các
điều kiện, bảo đảm chất lượng cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, nâng cao trình
độ giáo viên.


×