Tải bản đầy đủ (.pdf) (171 trang)

Mâu thuẫn xã hội trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng hiện nay (Luận án tiến sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.56 MB, 171 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------------------

TRẦN ĐÌNH BÍCH

MÂU THUẪN XÃ HỘI
TRONG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
Ở CÁC TỈNH ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Hà Nội, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------------------

TRẦN ĐÌNH BÍCH

MÂU THUẪN XÃ HỘI
TRONG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
Ở CÁC TỈNH ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY

Chuyên ngành : CNDVBC VÀ CNDVLS
Mã số

: 62.22.03.02



LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. NGUYỄN HỮU KHIỂN

Hà Nội, năm 2018


i

LỜI CAM ĐOAN

Tác giả xin cam đoan đề tài luận án: “Mâu thuẫn xã hội trong
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở các tỉnh đồng bằng sông
Hồng hiện nay” là công trình nghiên cứu độc lập của tác giả.
Kết quả nghiên cứu của Luận án chưa được công bố ở bất kỳ ấn
phẩm hay công trình nghiên cứu nào, các số liệu trong luận án có nguồn
gốc rõ ràng.
Tôi xin cam đoan những vấn đề nêu trên là đúng sự thực, nếu sai
tác giả xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Tác giả Luận án

Trần Đình Bích


ii

LỜI CẢM ƠN

Luận án được hoàn thành với sự nỗ lực học hỏi nghiêm túc của tôi tại

Học viện Khoa học xã hội thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Trong
quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận án, tôi đã nhận được sự giúp đỡ quý
báu của các cơ quan, các cấp lãnh đạo và các cá nhân. Tôi xin được bày tỏ lòng
biết ơn tới tất cả các tập thể và cá nhân đã tạo điều kiện, giúp đỡ tôi trong suốt
quá trình nghiên cứu và hoàn thành Luận án.
Trước tiên, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến GS.TS. Nguyễn
Hữu Khiển, nhà khoa học đã luôn nhiệt tình, ân cần hướng dẫn cho tôi ngay từ
bước đầu cụ thể hóa hướng nghiên cứu đến nhận xét góp ý trong nghiên cứu và
hoàn thành luận án.
Tôi xin gửi lời cảm ơn trân trọng tới Học viện Khoa học xã hội, đã luôn
tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu tại Học viện
thông qua những khóa học và trao đổi về phương pháp nghiên cứu, các buổi hội
thảo khoa học, những buổi chia sẻ kinh nghiệm nghiên cứu và những dịp sinh
hoạt khoa học có liên quan khác.
Tôi xin dành lời cảm ơn chân thành tới lãnh đạo Trường Đại học Kinh
doanh & Công nghệ Hà Nội, Khoa Triết học & KHXH và bạn bè, đồng nghiệp
đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và
hoàn thành Luận án.
Tôi cũng khắc ghi tình cảm và sự biết ơn sâu sắc tới gia đình thân yêu đã
luôn là nguồn động viên lớn lao để tôi có thể tập trung nghiên cứu và quyết tâm
hoàn thành luận án một cách tốt nhất.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng không thể tránh khỏi những hạn chế
và thiếu sót nhất định khi thực hiện Luận án. Rất mong nhận được sự đóng góp ý
kiến của các nhà khoa học, quý Thầy, Cô giáo và bạn đọc.
Một lần nữa, tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 10 tháng 10 năm 2017
Tác giả luận án

Trần Đình Bích



iii

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ......................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. ii
MỤC LỤC ...................................................................................................................iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT........................................................................ vi
DANH MỤC BẢNG BIỂU ....................................................................................... vii
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ......................................... 6
1.1. Tổng quan những công trình nghiên cứu về mâu thuẫn xã hội, xung đột
xã hội ......................................................................................................................... 6
1.2. Tổng quan nghiên cứu về thực trạng và những gợi ý giải pháp giải quyết
mâu thuẫn xã hội trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở Việt Nam
hiện nay ................................................................................................................... 13
1.3. Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án ................ 25
Kết luận chương 1 ..................................................................................................... 28
Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MÂU THUẪN XÃ HỘI VÀ
MÂU THUẪN XÃ HỘI TRONG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG
NGHIỆP ..................................................................................................................... 29
2.1. Mâu thuẫn xã hội – khái niệm, đặc điểm và vấn đề phương pháp luận về
nhận thức và giải quyết ......................................................................................... 29
2.1.1. Khái niệm mâu thuẫn ................................................................................. 29
2.1.2. Khái niệm mâu thuẫn xã hội và những đặc điểm cơ bản........................... 36
2.1.3. Phương pháp luận về nhận thức và giải quyết mâu thuẫn ......................... 44
2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở Việt Nam – khái niệm, nội
dung và các mâu thuẫn nảy sinh .......................................................................... 52
2.2.1. Nội dung của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ............................. 52
2.2.2. Khái niệm và nội dung mâu thuẫn xã hội trong CDCCKT nông nghiệp .. 58

2.2.3. Sự cần thiết của việc giải quyết mâu thuẫn xã hội trong chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay .................................................... 65
Kết luận chương 2 ..................................................................................................... 67


iv

Chương 3: MÂU THUẪN XÃ HỘI NẢY SINH TRONG QUÁ TRÌNH
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP Ở CÁC TỈNH ĐỒNG
BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY: THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN ....... 69
3.1. Thực trạng của mâu thuẫn xã hội nảy sinh trong chuyển cơ cấu kinh tế
nông nghiệp ở vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay .......................................... 69
3.1.1. Mâu thuẫn giữa chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp với nhu
cầu ổn định và nâng cao đời sống người nông dân ............................................. 70
3.1.2. Mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển kinh tế nông nghiệp với sự hạn chế
của các nguồn lực (vốn, đất đai, lao động, khoa học- kỹ thuật) .......................... 77
3.1.3. Mâu thuẫn giữa quá trình CDCCKT nông nghiệp theo hướng CNH,
HĐH với vấn đề bảo đảm an toàn xã hội và phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống .................................................................................................................... 86
3.1.4. Mâu thuẫn giữa quá trình CDCCKT nông nghiệp, nông thôn với sự bất
cập của các cấp chính quyền trong triển khai thực hiện ...................................... 99
3.1.5. Mâu thuẫn giữa quá trình CNH, ĐTH với phát triển KT-XH nông
nghiệp, nông thôn .............................................................................................. 104
3.2. Nguyên nhân của mâu thuẫn xã hội nảy sinh trong chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp ở đồng bằng sông Hồng .................................................... 111
3.2.1. Nguyên nhân do quá trình CDCCKT nông nghiệp còn thiếu bền vững . 111
3.2.2. Nguyên nhân do sự bất cập của một số chính sách trong phát triển nông
nghiệp, nông thôn .............................................................................................. 113
3.2.3. Nguyên nhân do yếu kém trong quản lý và điều hành của các cấp chính
quyền .................................................................................................................. 114

3.2.4. Nguyên nhân do tác động tiêu cực từ việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp cho phát triển CNH, ĐTH và tác động của mặt trái kinh tế thị trường117
Kết luận chương 3 ................................................................................................... 121
Chương 4: NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ GIẢI QUYẾT MÂU THUẪN
XÃ HỘI TRONG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP Ở
CÁC TỈNH ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY ....................................... 122


v

4.1. Một số nguyên tắc thống nhất thực hiện để giải quyết mâu thuẫn xã hội
trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở các tỉnh đồng bằng sông
Hồng ...................................................................................................................... 122
4.2. Đề xuất các nhóm giải pháp giải quyết mâu thuẫn xã hội trong chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng đến năm
2030 ....................................................................................................................... 127
4.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách cho phát triển nông nghiệp,
nông thôn ........................................................................................................... 127
4.2.2. Phải triển khai thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
theo hướng bền vững ở vùng đồng bằng sông Hồng ......................................... 133
4.2.3. Khắc phục những tác động tiêu cực trong chuyển đổi mục đích sử dụng
đất nông nghiệp sang phát triển công nghiệp hóa, đô thị hóa ở vùng ĐBSH.... 139
4.2.4. Đổi mới công tác lãnh đạo và tổ chức quản lý của hệ thống chính trị
trong phát triển kinh tế - xã hội ở vùng đồng bằng sông Hồng ......................... 144
Kết luận chương 4 ................................................................................................... 149
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 150
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ ............................................. 153
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 154



vi

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

Nội dung chữ viết tắt

CHH

Công nghiệp hóa

CDCCKT

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế

ĐTH

Đô thị hóa

ĐBSH

Đồng bằng sông Hồng

HTKT-XH

Hình thái kinh tế - xã hội

HĐH


Hiện đại hóa

HĐND

Hội đồng nhân dân

KT-XH

Kinh tế - xã hội

KH-CN

Khoa học - công nghệ

LLSX

Lực lượng sản xuất

MTXH

Mâu thuẫn xã hội

MTTQ

Mặt trận tổ quốc

PTSX

Phương thức sản xuất


QHSX

Quan hệ sản xuất

UBND

Ủy ban nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


vii

DANH MỤC BẢNG BIỂU
Danh mục bảng
Bảng 3.1. Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế ................................................................... 69
Bảng 3.2. Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm của lực lượng lao động vùng ĐBSH .... 89
Bảng 3.3. Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm ở nông thôn vùng ĐBSH...................... 89
Danh mục biểu
Biểu đồ 3.1. Cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp vùng ĐBSH giai đoạn 2000-2014 .. 71
Biểu đồ 3.2. Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế vùng ĐBSH .................................... 80


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau 30 năm tiến hành đổi mới trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa và

xã hội, nước ta đã có quá trình phát triển cao hơn về chất lượng, đạt được nhiều
thành tựu to lớn và toàn diện ở hầu hết các lĩnh vực của đời sống nhân dân. Từ năm
2010, nước ta đã bước ra khỏi nhóm các nước nghèo trên thế giới, gia nhập nhóm
các nước phát triển trung bình, đời sống các tầng lớp người dân được cải thiện rõ
rệt, thu nhập bình quân không ngừng tăng lên; các thành tựu về khoa học, kỹ thuật
ngày càng nhiều hơn và đáp ứng phần nào nhu cầu của sản xuất trong nước, góp
phần phục vụ các mục tiêu KT-XH quốc gia.
Bên cạnh những thành tựu to lớn về KT-XH, trong xã hội cũng đã nảy sinh
nhiều mâu thuẫn mới. Trong các tầng lớp nhân dân xuất hiện những lợi ích khác
nhau, thậm chí đối lập nhau ở mức độ nhất định. Khoảng cách thu nhập giữa các bộ
phận nhân dân đang không ngừng gia tăng, đặc biệt là đời sống nhân dân ở khu vực
sản xuất nông nghiệp, nông thôn còn gặp nhiều khó khăn, không ổn định, bấp bênh.
Những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế, của quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và đô thị hóa (CNH, HĐH và ĐTH) đang ảnh hưởng mạnh mẽ làm thay đổi
căn bản cấu trúc xã hội khu vực nông nghiệp, nông thôn ở nước ta.
Trong so sánh với các vùng kinh tế khác, mâu thuẫn xã hội (MTXH) trong khu
vực nông nghiệp, nông thôn thuộc các tỉnh đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) có tính
điển hình cao, nó phản ánh được những đặc trưng nổi bật nhất của các MTXH ở nông
thôn Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, MTXH ở khu vực ĐBSH có
liên quan trực tiếp và có quan hệ nhân quả không chỉ với quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế (CDCCKT) nông nghiệp, vì vậy, việc xem xét MTXH ở khu vực này
không hề đơn giản. Những MTXH cơ bản trong quá trình CDCCKT nông nghiệp,
nông thôn hiện nay được biết đến như: mâu thuẫn giữa biến đổi của LLSX với
QHSX; mâu thuẫn giữa sở hữu tư liệu sản xuất nông nghiệp với yêu cầu phát triển
KT-XH nông nghiệp, nông thôn; mâu thuẫn giữa sự thay đổi của cơ sở hạ tầng kinh
tế nông nghiệp với sự bất cập trong điều hành của các cấp chính quyền; mâu thuẫn
giữa CDCCKT nông nghiệp với vấn đề bảo đảm an toàn xã hội và phát huy các giá trị


2


văn hóa truyền thống; mâu thuẫn giữa xu hướng CNH, ĐTH với phát triển kinh tế
nông nghiệp…Biểu hiện tiêu cực của những mâu thuẫn này là: khoảng cách giàu
nghèo ngày càng rộng, các tệ nạn xã hội gia tăng, sự xuống cấp về đạo đức của một
bộ phận xã hội... Vùng ĐBSH đang trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh,
các khu công nghiệp, đô thị xuất hiện ngày càng nhiều và đi kèm với đó là một loạt
các vấn đề xã hội nảy sinh như: thất nghiệp, thiếu việc làm, đói nghèo, ô nhiễm môi
trường, xung đột lợi ích dẫn đến xuất hiện tình trạng bất mãn của một bộ phận dân
cư, tình trạng khiếu kiện đông người, kéo dài, vượt cấp xuất hiện ngày càng nhiều,
một bộ phận nhân dân chống đối với chính quyền sở tại, tệ nạn xã hội gia tăng...nhiều
vấn đề xã hội đã trở nên gay gắt đẩy lên thành những MTXH phức tạp và khó giải
quyết, đang có nguy cơ bùng phát những bất ổn trong đảm bảo an ninh trật tự an toàn
xã hội và kìm hãm sự phát triển KT-XH của khu vực nông nghiệp, nông thôn vùng
ĐBSH. Tuy nhiên, việc giải quyết những MTXH nảy sinh trong quá trình trên là vấn
đề không đơn giản.
Ổn định là điều kiện của sự phát triển và ngược lại, phát triển là điều kiện cho
sự ổn định bền vững. Để ổn định và phát triển cần phải có sự đồng thuận trong đời
sống xã hội; phải giải quyết những MTXH phù hợp với yêu cầu của quy luật khách
quan; đảm bảo đầy đủ bản chất nhân văn và tiến bộ của một nền chính trị trọng
pháp, trọng dân; và phải được thực hiện bằng hệ thống các giải pháp khoa học, gải
quyết từ gốc của vấn đề làm nảy sinh mâu thuẫn.
Việc đi sâu nghiên cứu vấn đề MTXH trong CDCCKT nông nghiệp ở Việt
Nam nói chung và ở ĐBSH nói riêng dưới góc độ triết học mang tính cấp thiết
nhằm góp phần thực hiện tốt chủ trương của Đảng và Nhà nước trong việc tạo tiền
đề chính trị, xã hội bền vững cho hội nhập và phát triển. Kết quả nghiên cứu đó sẽ
góp phần giải quyết có hiệu quả những vấn đề xã hội bức xúc nảy sinh từ quá trình
CDCCKT nông nghiệp thực hiện CNH, HĐH; góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế gắn với tiến bộ, công bằng xã hội, phát triển bền vững và giữ vững sự ổn định
chính trị, trật tự an toàn xã hội khu vực nông nghiệp, nông thôn. Với ý nghĩa đó, tác
giả lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Mâu thuẫn xã hội trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế

nông nghiệp ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng hiện nay” làm luận án tiến sĩ (chuyên
ngành triết học Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử).


3

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu:
Làm rõ MTXH nảy sinh trong quá trình CDCCKT nông nghiệp và chỉ ra xu
hướng biến đổi tất yếu của MTXH trong CDCCKT kinh tế nông nghiệp ở vùng
ĐBSH, từ đó đưa ra nguyên tắc và giải pháp giải quyết những vấn đề MTXH bức
xúc nảy sinh từ quá trình CDCCKT nông nghiệp để tạo điều kiện thúc đẩy sự phát
triển của khu vực kinh tế nông nghiệp nói riêng và phát triển KT-XH vùng ĐBSH
nói chung.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Một là, tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận án.
Hai là, làm rõ một số vấn đề lý luận về MTXH trong CDCCKT nông nghiệp.
Ba là, phân tích thực trạng MTXH nảy sinh trong CDCCKT nông nghiệp ở
vùng ĐBSH từ năm 2000 đến nay.
Bốn là, đề xuất những nguyên tắc và giải pháp giải quyết những vấn đề MTXH
bức xúc nảy sinh từ quá trình CDCCKT nông nghiệp ở vùng ĐBSH hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận án nghiên cứu các MTXH có tính điển hình nảy
sinh trong CDCCKT nông nghiệp ở các tỉnh ĐBSH hiện nay.
Giới hạn phạm vi nghiên cứu: Luận án chủ yếu tập trung phân tích các
MTXH điển hình biểu hiện qua các quan hệ giữa chủ thể sản xuất nông nghiệp với
chính quyền địa phương, doanh nghiệp; các bức xúc xã hội nảy sinh từ quá trình
CDCCKT nông nghiệp ở các tỉnh ĐBSH từ năm 2000 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận là Chủ nghĩa duy vật biện chứng về MTXH và quan điểm của

Đảng Cộng sản Việt Nam về đường lối phát triển thực hiện mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; chủ
trương lớn của Đảng và Nhà nước Việt Nam về phát triển nông nghiệp, nông thôn
và nông dân.
Phương pháp nghiên cứu là các nguyên tắc, quan điểm của Chủ nghĩa duy vật
biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử và cách tiếp cận hệ thống - cấu trúc kết
hợp với phương pháp so sánh - loại hình; Trong đó, đặc biệt nhấn mạnh là cùng với
cách tiếp cận toàn diện, hệ thống, thực tiễn và phát triển, luận án còn sử dụng


4

phương phương pháp lịch sử cụ thể và phương pháp phân tích - tổng hợp như là một
trong những phương pháp nghiên cứu chính để thực hiện đề tài.
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
Thứ nhất, bổ sung thêm một số ý kiến ở góc độ lý luận về MTXH trong
CDCCKT nông nghiệp. Chỉ ra tính tất yếu khách quan của MTXH giữa các chủ thể
xã hội trong quá trình CDCCKT nông nghiệp.
Thứ hai, chỉ ra thực trạng và nguyên nhân của MTXH nảy sinh trong quá trình
CDCCKT nông nghiệp ở vùng ĐBSH giai đoạn 2000 – 2015.
Thứ ba, đề xuất những nguyên tắc và giải pháp giải quyết những vấn đề
MTXH bức xúc nảy sinh từ quá trình CDCCKT nông nghiệp ở vùng ĐBSH hiện
nay, góp phần thúc đẩy sự phát triển của khu vực kinh tế nông nghiệp, nông thôn
nói riêng và phát triển KT-XH vùng ĐBSH nói chung.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
Về lý luận: Góp phần hệ thống, luận giải và làm rõ cơ sở lý thuyết về MTXH
trong CDCCKT nông nghiệp và nhận diện MTXH trong CDCCKT nông nghiệp;
Khái quát hóa những yếu tố tác động làm nảy sinh MTXH trong CDCCKT nông
nghiệp ở vùng ĐBSH; Chỉ ra những nguyên nhân và tác động của nó vào quá trình

CDCCKT nông nghiệp làm nảy sinh các MTXH ở vùng ĐBSH; xác lập những
nguyên tắc và biện pháp giải quyết những vấn đề MTXH bức xúc nảy sinh từ quá
trình CDCCKT nông nghiệp ở vùng ĐBSH.
Về thực tiễn: Khái quát quá trình CDCCKT nông nghiệp ở vùng ĐBSH; Đánh
giá thực trạng những vấn đề nảy sinh MTXH gây bức xúc làm kìm hãm sự triển
nông nghiệp của vùng ĐBSH giai đoạn 2000-2015; xem xét hiệu quả giải quyết
MTXH chỉ ra nguyên nhân và tác động của nó vào quá trình CDCCKT nông nghiệp
làm nảy sinh các MTXH ở vùng ĐBSH; đề xuất những nguyên tắc và giải pháp giải
quyết MTXH bức xúc nảy sinh từ quá trình CDCCKT nông nghiệp ở vùng ĐBSH
hiện nay, góp phần giải quyết vấn đề bức thiết mà thực tiễn đặt ra trong chuyển dịch
kinh tế nông nghiệp nói riêng và phát triển KT-XH vùng ĐBSH nói chung. Qua đó,
Luận án góp phần vào giải quyết có hiệu quả những vấn đề xã hội nảy sinh từ quá
trình CDCCKT nông nghiệp thực hiện CNH, HĐH; góp phần thúc đẩy tăng trưởng


5

kinh tế gắn với tiến bộ, công bằng xã hội, phát triển bền vững và giữ vững sự ổn
định chính trị, trật tự an toàn xã hội khu vực nông nghiệp, nông thôn.
Ở mức độ nhất định, kết quả nghiên cứu của luận án có thể dùng làm căn cứ
cho việc hoạch định chính sách cho phát triển nông nghiệp; làm tài liệu tham khảo,
nghiên cứu và giảng dạy những nội dung có liên quan.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận án
gồm 4 chương, 9 tiết.


6

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
MTXH là một hiện tượng xã hội khách quan, tồn tại cùng với lịch sử hình
thành xã hội loài người từ trước đến nay. Đây là lĩnh vực phức tạp cả về mặt lý luận
lẫn thực tiễn, thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu khoa học qua nhiều thời kỳ.
Trong quá trình vận động, phát triển KT-XH, nảy sinh nhiều mối quan hệ xã
hội đa dạng, phức tạp với nhiều hình thức và đi liền với nó là mức độ MTXH khác
nhau như các mối quan hệ giữa những chủ thể sản xuất kinh tế với nhau, với chính
quyền địa phương, với doanh nghiệp… Các mối quan hệ này vừa là yếu tố của sự
phát triển, đồng thời cũng tạo ra những vấn đề mâu thuẫn và những bức xúc xã hội
nảy sinh cần phải được quan tâm giải quyết. Trong thực tế nhiều nơi, vấn đề giải
quyết các MTXH diễn ra không mang lại hiệu quả tích cực như chủ thể mong muốn
vì: (i) việc giải quyết MTXH không xuất phát từ cơ sở nghiên cứu khoa học đúng
đắn, dẫn đến giải quyết tùy tiện gây nên tác dụng yếu, thậm chí phản tác dụng; (ii)
việc giải quyết mâu thuẫn có tính chất né tránh, đối phó với hoàn cảnh càng khiến
cho MTXH tích tụ, bùng phát thành những xung đột gay gắt, tạo nên điểm nóng về
an ninh chính trị - xã hội, gây nên hậu quả nghiêm trọng. Những hạn chế trên làm
bộc lộ điểm yếu chung là chưa nhận thức được tính tất yếu của sự vận động phát
triển của MTXH, chưa tích cực chủ động giải quyết chúng.
Để hiểu được bản chất và xu hướng biến đổi của các MTXH, đồng thời có
những tác động tích cực nhằm hạn chế những xung đột xã hội, tạo điều kiện thúc
đẩy các động lực cho phát triển KT-XH thì việc nghiên cứu về MTXH đã trở thành
đối tượng nghiên cứu của nhiều tác giả qua nhiều thời kỳ, tiêu biểu cho nhóm
nghiên cứu này là các tác giả với những công trình tiêu biểu sau:
1.1. Tổng quan những công trình nghiên cứu về mâu thuẫn xã hội, xung đột xã
hội
Vấn đề MTXH đã được đặt ra từ rất sớm. Có những tác giả giai đoạn trước
Mác bàn đến một số khía cạnh nhất định của MTXH như Nicolo Machiavelli (nhà
triết học Ý, 1469-1527), Thomas Hobbs (nhà triết học Anh, 1588-1679), Charles
Darwin (nhà sinh học Anh, 1809-1882)... Tuy nhiên, phải cho đến khi các nhà sáng
lập chủ nghĩa Mác xuất hiện thì vấn đề MTXH mới thực sự được đặt ra một cách cơ

bản và rõ ràng. C.Mác trong các trước tác của mình đã phân tích MTXH của xã hội


7

tư bản chủ nghĩa; đã chỉ ra cuộc đấu tranh giữa các giai cấp khác nhau, đối lập nhau
về lợi ích dẫn đến tất yếu cách mạng xã hội trong sự vận động, biến đổi xã hội từ
HTKT-XH này sang HTKT-XH khác. Ph.Ăng-ghen cho rằng: “Mâu thuẫn giữa sản
xuất xã hội và sự chiếm hữu tư bản chủ nghĩa biểu hiện ra thành sự đối kháng giữa
giai cấp vô sản và giai cấp tư sản” [3, tr.377]. V.I.Lê-nin cũng khẳng định: “tính
chất biện chứng của sự phát triển xã hội, diễn ra trong mâu thuẫn và thông qua các
mâu thuẫn” [61, tr.77-78].
Mao Trạch Đông trong tác phẩm Bàn về mâu thuẫn, có nói về tính phổ biến
của mâu thuẫn: “Vấn đề tính phổ biến hoặc tính tuyệt đối của mâu thuẫn có ý nghĩa
về hai mặt: một là mâu thuẫn tồn tại trong quá trình phát triển của tất cả mọi sự vật;
hai là, trong quá trình phát triển của mỗi sự vật, đều có sự vận động của mâu thuẫn
từ đầu đến cuối” [15, tr.11].
Từ những năm 50 của thế kỷ XX, ở phương Tây đã có nhiều tác giả với những
tác phẩm nổi tiếng viết về MTXH như Kenneth Boulding (Mỹ), Lewis Coser (Mỹ),
Georg Simmel (Đức), Ralf Gustav Dahrendrof (Đức)...
Lewis Coser (Mỹ)[66] trong tác phẩm Các chức năng của xung đột xã hội, đã
tập trung phân tích về nguồn gốc, nguyên nhân phát sinh xung đột xã hội từ tâm
trạng căng thẳng giữa các cá nhân và các nhóm xã hội khác nhau. Để đưa ra lý
thuyết về xung đột xã hội, Lewis Coser phân tích mâu thuẫn trong các quy trình
tương tác cá nhân với cá nhân, nhóm với nhóm và mô tả mâu thuẫn là một hình
thức xã hội hoá. Theo ông, không một cá nhân hay nhóm nào có thể hoàn toàn thỏa
mãn các nhu cầu, vì vậy cả xung đột và hợp tác đều phục vụ chức năng thỏa mãn
nhu cầu xã hội. Xung đột xã hội là sự đấu tranh vì những nhu cầu và giá trị, những
nỗ lực đạt được một sự thừa nhận về vị trí xã hội, quyền lực hoặc nguồn lợi. Trong
cuộc đấu tranh đó, người ta cố trung lập hóa, gây thiệt hại hoặc tiêu diệt đối thủ của

mình. Cũng theo ông, xung đột xã hội chính là sự căng thẳng giữa cái đang có và
cái cần phải có, tương ứng với sự cảm nhận của những nhóm và cá nhân nhất định.
Georg Simmel (Đức) [31] trong tác phẩm Philosophie der Geldes (Triết học
về Tiền bạc), cho rằng, về nguyên tắc, xung đột xã hội là vấn đề hiển nhiên, tồn tại
khách quan trong bất cứ một cơ cấu xã hội bất kỳ nào. Xung đột chính là những quan
hệ, hành vi biểu hiện các mâu thuẫn xã hội, thông qua xung đột để giải quyết các mâu
thuẫn khác nhau trong cơ cấu xã hội. Theo ông, nhờ xung đột xã hội diễn ra mà quá


8

trình tương tác giữa các bên đạt được thống nhất thông qua sự biến đổi hoặc phá hủy
một trong các bên xung đột.
Ralf Gustav Dahrendrof (Đức năm 1988)[102] trong tác phẩm Cuộc xung đột
xã hội hiện đại, đã phân tích tính công nhiên của tồn tại những xung đột xã hội và sự
cần thiết phải quản lý, giải tỏa xung đột. Ông thừa nhận xung đột xã hội tồn tại khách
quan, nhấn mạnh vai trò của xung đột dưới mọi cấp độ, nhất là xung đột giữa các cá
nhân, các nhóm xã hội, các giai cấp; cho rằng xung đột xã hội có chức năng tăng
cường tính thích ứng của tổ chức xã hội, bảo đảm tính liên tục của của xã hội; thừa
nhận vai trò lịch sử của mâu thuẫn; đời sống xã hội dựa trên cơ sở các quyền lợi, do
đó thường nảy sinh sự mâu thuẫn, đối lập vì lợi ích, từ đó dẫn tới xung đột giữa các
nhóm. Mâu thuẫn và xung đột xã hội cũng làm cho các hệ thống xã hội bị phân hóa
và hướng tới sự thay đổi. Theo Dahrendorf, chính cơ cấu của xã hội tạo ra các xung
đột xã hội, rằng nguồn gốc của xung đột chính là sự phân phối không đồng đều quyền
lực và uy tín, nghĩa là cội nguồn của xung đột nằm trong mối quan hệ giữa những vai
trò mà một xã hội cụ thể nào đó chấp nhận. Theo ông, cần phải điều khiển chứ không
phải là đàn áp xung đột. Bởi thứ nhất, điều khiển cho phép kiểm soát ngay cả những
xung đột nhạy cảm nhất và thứ hai, chuyển lực lượng phá hoại của xung đột thành
lực lượng sáng tạo, biến xung đột thành lực lượng phục vụ xã hội.
Các nhà khoa học mácxit khi nghiên cứu xung đột xã hội, đặc biệt nhấn mạnh

bản chất kinh tế khách quan và bản chất giai cấp của xung đột, nguyên nhân của
xung đột, suy cho cùng là vị trí của các tập đoàn người trong hệ thống sản xuất xã
hội, là lợi ích kinh tế. Chính chúng quy định những hoạt động chính trị - xã hội của
con người của các nhóm xã hội. Đây là nguyên nhân gốc rễ của xung đột xã hội, của
những đối kháng xã hội.
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã xây dựng cơ sở lý luận rất căn bản và rõ ràng
về MTXH. Quan điểm mácxit về MTXH nằm trong hệ thống các quan điểm về phát
triển xã hội nói chung; đó là cơ sở lý luận cho chiến lược, sách lược về đấu tranh giai
cấp của giai cấp công nhân, về giải quyết các MTXH cụ thể.
Từ cuối thế kỷ XX trở lại đây, ở phương Tây có nhiều công trình nghiên cứu
về vấn đề mâu thuẫn, trong đó có các công trình sau:
Nhóm tác giả John Burton và Frank Dukes (1990), Conflict: Resolution and
provention (Xung đột: Nghị quyết và quy chế)[33], đã phân tích lý thuyết về xung


9

đột xã hội. Các tác giả cho rằng xung đột xã hội là một vấn đề khách quan và cần tìm
kiếm một sự hiểu biết chung về các phương pháp để giải quyết. Tác phẩm được chia
thành năm phần: Phần một mô tả cách tiếp cận tổng quát về giải quyết xung đột, phân
tích cơ bản về hành vi, động cơ, chiều hướng và môi trường xung đột, cách thức xung
đột xuất hiện và leo thang; Phần hai, tác phẩm phân tích bối cảnh chính trị - xã hội
dẫn đến các xung đột, các tác giả cho rằng vấn đề cốt lõi trong xung đột xã hội là
xung đột về nhu cầu, quyền lực, văn hóa và sắc tộc; Phần ba phân tích về giải pháp
cho các xung đột xã hội. Các tác giả cho rằng ảnh hưởng của luật pháp cũng như tác
động của chính phủ đóng vai trò quan trọng trong giải quyết xung đột, đồng thời nhấn
mạnh việc làm cho văn hoá khác biệt trở nên tương đồng cũng là giải pháp hữu ích
giải quyết xung đột; Phần bốn đề cập đến các chính sách dài hạn và thay đổi hệ thống
để giải quyết xung đột. Các tác giả nhận định những thay đổi chính sách hoặc thể chế
không phù hợp là yếu tố dẫn xã hội đến sự chống đối, rối loạn; Phần năm đánh giá về

vai trò và tầm quan trọng của giáo dục trong việc thúc đẩy giải quyết xung đột xã hội.
Về cơ bản, tác phẩm mô tả bối cảnh và quá trình xung đột cũng như phương pháp
giải quyết xung đột ở mức độ lý thuyết chung.
Nhóm tác giả Christopher Mitchell và Michael R. Banks (1996), Handbook of
Conflict Resolution: the Analytical Problem - Solving Approach (Sổ tay giải quyết
xung đột: Vấn đề Phân tích - Phương pháp Giải quyết) [6]. Các tác giả giới thiệu các
quan điểm lý thuyết và các chiến lược thực tiễn về phân tích xung đột và phương
pháp giải quyết. Tác phẩm phác thảo cơ sở lý thuyết của cách tiếp cận xung đột,
khẳng định bạo lực chính là vấn đề chứ không phải là những khía cạnh của cuộc
sống góp phần vào nó, rằng bạo lực là kết quả của mâu thuẫn lợi ích và mục tiêu
của các bên khác nhau. Vấn đề là làm thế nào để xác định khi một tình huống xung
đột đã chín muồi để khởi sự một nỗ lực giải quyết. Tác phẩm đã tập hợp nhiều kinh
nghiệm thực tiễn về cách tiếp cận và giải quyết những mâu thuẫn, xung đột xã hội,
cũng từ những vấn đề mâu thuẫn, xung đột cụ thể, điển hình trong thực tiễn đó, các
tác giả đã đưa ra những phương sách giải quyết tình huống thực tế thích hợp.
Nhìn chung, những công trình nghiên cứu của các tác giả nói trên đã phân tích
sâu sắc và lý giải nhiều khía cạnh của MTXH. Theo các tác giả, xung đột chính là
sự căng thẳng giữa cái đang có và cái cần phải có, tương ứng với sự cảm nhận của
những nhóm và cá nhân nhất định; xung đột xã hội phát sinh từ tâm trạng căng


10

thẳng giữa các cá nhân (Lewis Coser); xung đột là những quan hệ, hành vi biểu hiện
các mâu thuẫn, vừa thông qua đó để giải quyết các mâu thuẫn khác nhau (Georg
Simmel); đời sống xã hội dựa trên cơ sở các quyền lợi, do đó thường nảy sinh sự
mâu thuẫn, đối lập vì lợi ích, từ đó dẫn tới xung đột giữa các nhóm; mâu thuẫn và
xung đột cũng làm cho các hệ thống xã hội bị phân hóa và luôn có xu hướng hướng
tới sự thay đổi tiến bộ, có thể đem lại những kết quả có lợi cho xã hội; xung đột bị
nén lại không giải tỏa là khối u ác tính nguy hiểm trong cơ thể xã hội (Ralph Gustav

Dahrendrof); vấn đề cốt lõi trong xung đột xã hội là xung đột về nhu cầu, quyền lực,
văn hóa và sắc tộc (John Burton và Frank Dukes); bạo lực là kết quả của mâu thuẫn
lợi ích và mục tiêu của các bên khác nhau (Christopher Mitchell và Michael R.
Banks); vị trí của các tập đoàn người trong hệ thống sản xuất xã hội, lợi ích kinh tế
là nguyên nhân gốc rễ của xung đột, của những đối kháng xã hội (các nhà mácxit).
Ở nước ta hiện nay sau 30 năm đổi mới, bên cạnh những thành tựu to lớn về
mọi mặt trong đời sống KT-XH, thì đồng thời trong xã hội ngày càng nảy sinh
nhiều mâu thuẫn phức tạp. Từ đó vấn đề MTXH nói chung và MTXH trong
CDCCKT nói riêng đã và đang thu hút sự chú ý của nhiều nhà khoa học. Có thể kể
đến các công trình sau:
Phạm Ngọc Quang (1986), trong bài viết “Mối quan hệ biện chứng giữa quy
luật xã hội và mâu thuẫn xã hội” [90] cho rằng: MTXH tồn tại khách quan và chính
là sự biểu hiện của phương thức thể hiện, phương thức tác động, phương thức hiện
thực hóa các quy luật xã hội nói chung, các quy luật của chủ nghĩa xã hội nói riêng.
Việc nhận thức và vận dụng các quy luật xã hội cũng là nhận thức, quản lý quá trình
vận động những mâu thuẫn nảy sinh do sự tác động của các quy luật tương ứng, qua
đó tìm ra các biện pháp khoa học giải quyết các mâu thuẫn.
Trong công trình “Thử vận dụng lý luận về mâu thuẫn vào thời kỳ quá độ ở
nước ta” (1991)[91], tác giả Phạm Ngọc Quang đã khẳng định chỉ có một phép biện
chứng khoa học, đúng đắn là phép biện chứng duy vật mácxít, đây là cơ sở phương
pháp luận để nghiên cứu MTXH trong quá trình hình thành, phát triển chủ nghĩa xã
hội và trong giai đoạn xây dựng đất nước hiện nay. Theo tác giả, khái niệm MTXH
thuộc phạm trù mâu thuẫn biện chứng, MTXH là mâu thuẫn của một bộ phận trong
một chỉnh thể mâu thuẫn tổng quát. MTXH trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta gồm có các mâu thuẫn trong nền kinh tế quá độ, mâu thuẫn giữa yêu cầu


11

giải phóng sức sản xuất, năng động hóa nền kinh tế với tình trạng quan liêu của hệ

thống kiến trúc thượng tầng chính trị, sự thiếu hụt của hệ thống chính sách, luật pháp.
Từ đó tác giả chỉ ra động lực giải quyết mâu thuẫn trong thời kỳ quá độ ở nước ta.
Phạm Ngọc Quang (2001), trong tác phẩm “Về mâu thuẫn cơ bản, mâu thuẫn
chủ yếu và cách giải quyết trên con đường phát triển đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa” [94]. Tác giả quan niệm mâu thuẫn vừa là nguồn gốc, nguyên nhân, vừa là
động lực cho mọi quá trình phát triển. Sự tồn tại của mâu thuẫn là cái khách quan
hiển nhiên không thể bỏ qua, tuy nhiên chúng ta chủ quan thường muốn loại bỏ mâu
thuẫn càng nhanh càng tốt, bất kể tình trạng chín muồi của mâu thuẫn như thế nào,
bất kể điều kiện khách quan và chủ quan cho việc giải quyết mâu thuẫn đó ra sao.
Đây đó người ta che dấu mâu thuẫn hoặc điều hòa các mặt đối lập hoặc họ hy vọng
bằng cách đó các mâu thuẫn sẽ mất đi. Tuy nhiên, thực tế hoàn toàn ngược lại, các
mâu thuẫn càng trở nên gay gắt, làm cho tình hình thực tế càng thêm phức tạp. Ở tác
phẩm này, tác giả đã làm rõ MTXH là sự thống nhất và đấu tranh giữa những con
người với các cấp độ khác nhau, giữa những khuynh hướng, các lực lượng và các
thực thể xã hội - những thiết chế xã hội tương ứng có lợi ích cơ bản đối lập nhau tạo
thành nguồn gốc phát triển của xã hội.
Lê Hữu Tầng (1997) trong cuốn “Về động lực của sự phát triển kinh tế-xã hội”
[117] khẳng định, để tìm nguồn gốc và động lực phát triển của sự vật, thì phải tiến
hành phân tích các mâu thuẫn hiện đang tồn tại và tác động trong sự vật. Nhưng
ngoài những mâu thuẫn này còn phải tìm các yếu tố khác đóng vai trò là động lực
của sự phát triển đó nữa. Công trình đã xem xét mối quan hệ giữa phát triển kinh tế
và giải quyết các vấn đề xã hội trên cơ sở lấy lợi ích con người làm động lực trung
tâm của mọi sự phát triển.
Nguyễn Ngọc Hà (1998), trong cuốn “Một số vấn đề về nhận thức quy luật và
mâu thuẫn” [35] cho rằng MTXH trước hết nó là mâu thuẫn, do đó nó phải tồn tại
các đặc trưng của mâu thuẫn nói chung. MTXH là mối quan hệ tác động qua lại
giữa các mặt đối lập tồn tại trong chỉnh thể xã hội, nó là nguồn gốc, động lực của sự
vận động xã hội. Theo tác giả, suy cho cùng mâu thuẫn trong xã hội là cuộc đấu
tranh của con người với con người và giữa con người với giới tự nhiên vì những
nhu cầu, lợi ích vật chất và tinh thần của họ. Trong số các mâu thuẫn của xã hội

đang tồn tại thì mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX là mâu thuẫn cơ bản, biểu hiện


12

trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa giữa quá trình xã hội hóa LLSX với QHSX dựa
trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư liệu sản xuất, biểu hiện mâu thuẫn ấy trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn chủ nghĩa tư bản là mâu thuẫn
giữa sự phát triển LLSX với các QHSX lỗi thời đang kìm hãm nó. Mâu thuẫn là
nguyên nhân của sự phát triển khi nó được giải quyết đúng đắn, phù hợp với quy
luật phát triển của sự vật, ngược lại, nó sẽ là nguyên nhân của sự thoái hóa khi con
người chúng ta giải quyết mâu thuẫn không đúng đắn, không phù hợp với sự phát
triển của sự vật.
Nguyễn Tấn Hùng (1999), trong “Phương pháp phân tích mâu thuẫn và sự vận
dụng nó trong nghiên cứu quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội”
[48] đã đưa ra một số vấn đề lý luận chung về mâu thuẫn. Tác giả nhận định, mâu
thuẫn là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, từ đó chỉ ra thực chất của
phương pháp phân tích mâu thuẫn là dựa trên nguyên tắc phân đôi cái thống nhất để
nhận thức các mặt đối lập và nguyên tắc thống nhất các mặt đối lập. Theo tác giả,
trong đời sống xã hội, mâu thuẫn luôn luôn tồn tại một cách khách quan và tất yếu.
Muốn vượt qua được những trở lực mù quáng và hướng đến tự do, con người không
có cách nào khác là nhận thức và giải quyết một cách đúng đắn những mâu thuẫn
trong đời sống xã hội của mình. Để làm được việc này, trước hết phải phân tích mâu
thuẫn, sau đó vạch ra những nguyên tắc, những con đường, những phương pháp để
giải quyết chúng.
Trong công trình “Mâu thuẫn, một số vấn đề lý luận và thực tiễn” [49], tác giả
Nguyễn Tấn Hùng cho rằng: mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan, phổ biến
không tách rời với sự phát triển của thế giới khách quan; mâu thuẫn cần được xem xét
ở hai cấp độ bản chất và hiện tượng, nếu chỉ chú ý đến mâu thuẫn của hiện tượng mà
bỏ qua mâu thuẫn bản chất sẽ dẫn đến sai lầm khi giải quyết vấn đề thực tiễn. Theo

tác giả có thể phân loại thành 5 dạng trong MTXH: thứ nhất, phân chia theo mối quan
hệ chủ thể - khách thể, trong đó MTXH chia thành mâu thuẫn giữa xã hội với tự
nhiên và mâu thuẫn giữa người với người trong xã hội; thứ hai, phân chia căn cứ vào
từng mặt của đời sống xã hội, trong đó MTXH chia thành các mâu thuẫn kinh tế, mâu
thuẫn chính trị, mâu thuẫn tư tưởng và mâu thuẫn giữa các mặt đó; thứ ba, phân chia
căn cứ theo lợi ích căn bản hay không căn bản của mâu thuẫn, trong đó MTXH chia
thành mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng; thứ tư, phân chia căn cứ


13

tùy theo tính phổ biến của mâu thuẫn trong lịch sử, trong đó MTXH chia thành mâu
thuẫn phổ biến của xã hội loài người, mâu thuẫn chung của một số HTKT-XH, mâu
thuẫn của từng thời kỳ cụ thể; thứ năm, phân chia căn cứ vào vai trò và quan hệ của
mâu thuẫn trong một HTKT-XH nhất định, MTXH chia thành mâu thuẫn vốn có của
HTKT-XH đó, mâu thuẫn tàn dư của HTKT-XH cũ.
Hồ Bá Thâm (2011) với công trình “Mâu thuẫn xung đột lợi ích nhóm, thực
trạng, xu hướng và giải pháp” [120] đã nghiên cứu về những mâu thuẫn, những xung
đột lợi ích trong điều kiện phát triển mới của thời kỳ chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch
hóa tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường trong xã hội Việt Nam hiện
nay. Công trình đã khái quát rõ hơn về mâu thuẫn, xung đột lợi ích nhóm xã hội, cư
dân trên một số lĩnh vực KT-XH hiện nay ở TP. Hồ Chí Minh nói riêng và ở nước ta
nói chung. Theo nhóm nghiên cứu thì xung đột xã hội trong lịch sử không chỉ xung
đột giai tầng xã hội mà còn tồn tại xung đột cấp độ nhóm. Xung đột thường gắn liền
với đấu tranh giai cấp, dân tộc – tôn giáo, với hình thức vũ trang, chiến tranh, cách
mạng, cải cách...Có bốn dạng của mối quan hệ mật thiết và tác động lẫn nhau: tranh
đua, xung đột, thích nghi, đồng hóa, trong đó xung đột xã hội giữ vị trí trung tâm. Tác
giả cho rằng, xung đột vừa có vai trò tích cực và tiêu cực, tùy theo tính chất, thời
điểm của nó, nhưng là tất yếu với các mức độ khác nhau bên cạnh hiện tượng đồng
thuận xã hội, như là hai mặt của xã hội, nhưng tùy thời kỳ lịch sử mà mặt nào ưu trội

hơn. Tuyệt đối hóa mặt nào cũng không đúng. Các xung đột không chỉ là hình thức
giải quyết mâu thuẫn mà còn hiện diện với tính cách là thuộc tính, điều quan trọng và
tất yếu của đời sống xã hội.
1.2. Tổng quan nghiên cứu về thực trạng và những gợi ý giải pháp giải quyết
mâu thuẫn xã hội trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở Việt Nam
hiện nay
Thực trạng MTXH nói chung và MTXH trong phát triển kinh tế nông nghiệp
cũng là đề tài được nhiều học giả quan tâm nghiên cứu, có thể kể đến:
Đỗ Nguyên Phương (1994), trong công trình “Về sự phân tầng xã hội ở nước
ta trong giai đoạn hiện nay” [85]; và trong đề tài “Những đặc trưng và xu thế phát
triển cơ cấu xã hội Việt Nam đang đổi mới” [86] đã phân tích, đánh giá sâu sắc về
thực trạng cơ cấu xã hội hiện tại và các nguyên nhân của hiện tượng phân tầng xã
hội Việt Nam trong phát triển kinh tế thị trường. Tác giả cho rằng, những biến động


14

cơ cấu xã hội luôn bao hàm sự phức tạp hóa của các quan hệ xã hội; để đảm bảo cho
cơ cấu xã hội vận động theo chiều hướng tích cực, nhất thiết phải có một hệ thống
chính sách KT-XH phù hợp, thỏa mãn các loại lợi ích cơ bản và chính đáng của
toàn xã hội.
Nguyễn Văn Thân (2000), trong “Con đường và chính sách mở cửa” [119], đã
phân tích trạng thái biến động và tác động lẫn nhau hết sức phức tạp giữa các mặt
của đời sống con người Việt Nam, như: mức sống vật chất tiêu dùng, mức thu nhập,
mức hưởng thụ văn hóa tinh thần, tự do cá nhân, quan hệ gia đình, quan hệ bạn bè,
đạo đức lối sống, an ninh trật tự xã hội,… Chính sách đổi mới đã tác động làm
chuyển biến các mặt cơ bản nêu trên theo xu hướng tích cực; đồng thời làm xuất
hiện một số khuynh hướng xuống cấp, tiêu cực trong đời sống con người nói chung
và trong quan hệ xã hội nước ta nói chung. Tác giả cũng đã đưa ra giải pháp khắc
phục là tận dụng thành tựu kinh tế, đầu tư hơn nữa cho văn hóa, giáo dục và đào tạo

nhằm xây dựng một cách vững chắc mô hình nhân cách nhân bản trong điều kiện
kinh tế thị trường.
GS.Franc Ellis (1995), với cuốn “Chính sách nông nghiệp trong các nước đang
phát triển” [106], tác giả đã phân tích thực trạng phân hóa trong sản xuất nông
nghiệp và tính tất yếu hình thành nền kinh tế hộ, trang trại nông dân trong tiến trình
hội nhập kinh tế thế giới của các nước đang phát triển, đánh giá cao vai trò của hệ
thống chính sách nông nghiệp hướng đến xây dựng cơ chế chính sách hỗ trợ nông
nghiệp chuyển đổi về quy mô sản xuất, phát triển thị trường, HĐH sản xuất nông
nghiệp. Tất cả hệ thống chính sách nông nghiệp nhằm hỗ trợ cho doanh nghiệp
nông nghiệp và kinh tế trang trại nông thôn Việt Nam phát triển, đáp ứng yêu cầu
của sản xuất, chế biến và thị trường để họ đóng góp xứng đáng vào CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn và xây dựng đất nước.
Trần Đắc Hiến (2008) trong công trình “Vấn đề mâu thuẫn xã hội ở nông thôn
Việt Nam hiện nay” [46] đã tập trung phân tích thực trạng một số MTXH điển hình
ở nông thôn Việt Nam từ khi đổi mới thực hiện kinh tế thị trường, đẩy mạnh CNH,
(HĐH) và hội nhập quốc tế. Tác giả cho rằng MTXH ở nông thôn nước ta có nhiều
hình thức và đan xen lẫn nhau, diễn biến mâu thuẫn phức tạp, cụ thể như: Mâu
thuẫn giữa người nông dân với nhà đầu tư (doanh nghiệp) trong thực hiện chính
sách bồi thường giải phóng mặt bằng khi thu hồi đất nông nghiệp nhằm xây dựng


15

các khu công nghiệp; mâu thuẫn giữa người nông dân với các doanh nghiệp trong
vấn đề ô nhiễm và bảo vệ môi trường; mâu thuẫn giữa người nông dân với một bộ
phận cán bộ các cấp chính quyền cơ sở có biểu hiện tiêu cực, tham nhũng; mâu
thuẫn giữa các nhóm dân cư có sự khác biệt về mức sống, thu nhập; mâu thuẫn giữa
các cá nhân, gia đình, dòng họ, thôn xã; mâu thuẫn giữa các dân cư làng nghề với
cộng đồng lân cận; mâu thuẫn giữa cộng đồng dân cư bản địa và dân nhập cư...
Theo tác giả, có một số nguyên nhân cơ bản gây nên tình trạng MTXH ở nông thôn

nước ta hiện nay, như: Chủ trương, chính sách nông nghiệp và thực hiện chủ
trương, chính sách nông nghiệp còn nhiều bất cập; Hệ thống chính trị cơ sở huyện,
xã còn nhiều hạn chế, việc thực hiện Quy chế dân chủ còn chưa tốt; Tác động của
văn hóa truyền thống như tính cộng đồng làng xã, tầm nhìn nhận thức thôn dân,
phong tục tập quán lạc hậu; bên canh các nguyên nhân trên còn có nguyên nhân tác
động do các thế lực thù địch chống phá, tuyên truyền xuyên tạc chủ trương đường
lối của Đảng và Nhà nước, gây mất đoàn kết trong nhân dân. Tác giả đã cho rằng
nguyên nhân cơ bản nhất của MTXH ở nông thôn nước ta là những bất cập trong
chủ trương, chính sách, luật pháp và việc thực hiện các chủ trương, chính sách đó ở
các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương nông thôn.
Lê Du Phong (2007), trong công trình “Thu nhập, đời sống, việc làm của người
có đất bị thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, kết cấu hạ tầng, kinh
tế - xã hội, các công trình công cộng phục vụ lợi ích quốc gia”[82] đã phân tích thực
trạng vấn đề về đời sống, thu nhập và việc làm của đối tượng bị thu hồi đất, đi sâu
phân tích những bức xúc của người dân trong việc thực hiện thu hồi đất, đền bù, giải
phóng mặt bằng, thực hiện tái định cư. Tác giả cho rằng, những bức xúc không được
giải tỏa, bị dồn nén gây bất bình trong đời sống nhân dân là tác nhân trực tiếp tạo
thành các điểm nóng gây mất an ninh trật tự xã hội, kìm hãm sự phát triển.
Các báo cáo tham luận tại hội thảo Sự thống nhất và mâu thuẫn về lợi ích
giữa các nhóm, giai tầng xã hội ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay - Thực trạng và
giải pháp (2006) do Viện nghiên cứu Xã hội thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với
Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ, báo Sài Gòn giải phóng tổ chức; Hoàng Ngọc
Hòa (2008) với cuốn Nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong quá trình đẩy mạnh
CNH, HĐH ở nước ta, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, các nhà nghiên cứu xem
xét hệ quả tất nhiên của quá trình phân hóa đời sống xã hội nông thôn trong sự


16

chuyển dịch của sản xuất nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH và thị trường hóa,

xem xét các MTXH phát sinh giữa các nhóm xã hội nông thôn và hệ thống hóa các
giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm sự ổn định nhất định lợi ích kinh tế của nông dân,
phát triển nền sản xuất nông nghiệp Việt Nam trong hội nhập kinh tế thế giới.
Lê Quốc Lý (chủ biên), (2014), trong cuốn “Lợi ích nhóm, thực trạng và giải
pháp” [70] đã nhìn nhận lợi ích nhóm dưới nhiều giác độ khác nhau, có nhóm lợi
ích tác động tích cực, nhưng cũng có nhóm tác động tiêu cực. Ở Việt Nam, lợi ích
nhóm tác động tiêu cực biểu hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Nhóm tác giả đã nhận diện những quan hệ lợi ích nhóm tác động tiêu cực, biểu hiện
trong quan hệ không bình thường giữa những người có chức quyền với doanh
nghiệp như: quan hệ nhóm thân hữu; quan hệ nhóm chung lợi ích; quan hệ lợi ích
cục bộ; quan hệ vụ lợi cá nhân hoặc các tổ chức của người có chức quyền với doanh
nghiệp. Những người có chức quyền nhũng nhiễu, gây phiền hà cho doanh nghiệp
hòng đòi tiền hối lộ; bảo kê các hoạt động phi pháp; hưởng hoa hồng vượt mức quy
định trong hợp đồng; cấu kết gian lận trong thực hiện giao dịch, dịch vụ của cơ
quan nhà nước; quan chức sử dụng doanh nghiệp nhà nước để thu lợi, lợi dụng
thông tin có được nhờ công vụ để thu lợi…Trên cơ sở các biểu hiện của lợi ích
nhóm, nhóm tác giả đã đề xuất giải pháp trong việc giáo dục đạo đức, công tác quản
lý cán bộ, công chức trong thời kỳ đổi mới.
Trong công trình “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn –
Vấn đề và giải pháp” (2012) [69], tác giả Lê Quốc Lý khẳng định, bên cạnh những
thành tựu đã đạt được, tiến trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn cũng phát sinh
nhiều vấn đề phức tạp. Tác giả liệt kê sự bất cập trong các chính sách phát triển
nông nghiệp, nông thôn: giữa quá trình ĐTH với quá trình phát triển nông thôn, xây
dựng nông thôn mới; mâu thuẫn giữa lợi ích công nghiệp với nông nghiệp; khoảng
cách giữa thành thị với nông thôn; mâu thuẫn giữa nền nông nghiệp dựa trên tri
thức khoa học với sự bảo tồn giá trị và tri thức nông nghiệp truyền thống; giữa hàng
hóa nông nghiệp hiện đại được sản xuất bởi tiến bộ khoa học kỹ thuật và cơ giới
hóa với những sản phẩm nông nghiệp mang sắc thái vùng, miền tự nhiên có giá trị
chênh lệch cao. Tác giả đã phần nào đánh giá thực trạng những tác động của tiến
trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Việt Nam

Lê Doãn Khải (2001), trong công trình “Quá trình chuyển dịch cơ cấu lao


×