Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Sự phát triển ngữ nghĩa của nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (394.25 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HIỀN
ĐÀO XUÂN HỘ
I
SỰ PHÁT TRIỂN NGỮ NGHĨA
CỦA NHÓM TỪ CHỈ BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI
TỪ GÓC ĐỘ NGÔN NGỮ HỌC TRI NHẬN

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số

: 9 22 90 20

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

HÀ NỘI - 2018


Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
VIỆN NGÔN NGỮ HỘC VIỆN KHOA HỌC XÁC HỘI V
IỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. NGUYỄN VĂN HIỆP.TS. Phạm Hữu
Nghị

Phản biện 1: GS.TS. Lê Quang Thiêm
Phản biện 2: GS.TS. Nguyễn Thiện Giáp


Phản biện 3: PGS.TS. Phạm Hùng Việt

Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Học viện, họp tại
Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, 477
Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội.
Vào hồi .... giờ ... ngày .... tháng ..... năm 201...

Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Học viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Trong ngôn ngữ học, nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người (BPCTN) luôn
thu hút sự chú ý đặc biệt của các nhà ngôn ngữ thuộc nhiều khuynh hướng khác.
Cho đến nay, đã có nhiều công trình sách, báo, bài viết ở trong và ngoài nước
trình bày nhiều nghiên cứu thú vị về nhóm từ này. Tuy nhiên, các tác giả chủ yếu
tiếp cận nhóm từ này hoặc trên phương diện ngữ nghĩa đơn thuần, hoặc ở góc độ
ngôn ngữ tri nhận nhưng các kết quả nghiên cứu còn tương đối đơn lẻ, rời rạc và
chưa mang tính chất hệ thống. Cách tiếp cận như vậy chưa thực sự làm rõ những
vấn đề mang tính cốt lõi của ngôn ngữ học tri nhận. Vì vậy, trong luận án này,
chúng tôi đặc biệt chú ý tới cách tiếp cận của ngôn ngữ học tri nhận về hiện
tượng phát triển ngữ nghĩa, quan điểm của ngôn ngữ học tri nhận về ẩn dụ và
hoán dụ - hai phương thức tri nhận cơ bản, cũng là hai con đường phát triển ngữ
nghĩa cơ bản của nhóm từ này.
Từ những lí do trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài: “Sự phát triển ngữ
nghĩa của nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người dưới góc độ ngôn ngữ học
tri nhận” với mong muốn đem đến một cái nhìn đa chiều về con đường
phát triển ngữ nghĩa và những đặc điểm tâm lí, văn hóa dân tộc gắn với quá

trình nghiệm thân liên quan đến sự phát triển ngữ nghĩa. Các kết quả nghiên
cứu của luận án sẽ góp phần làm rõ thêm một số vấn đề ẩn dụ, hoán dụ tri
nhận. Luận án cũng mong muốn góp phần minh chứng ẩn dụ, hoán dụ
không chỉ là vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cấu trúc mà còn là vấn đề trọng
tâm của ngôn ngữ học tri nhận – đó là quá trình tư duy, phản ánh nhận thức
của con người trong qua trình tri nhận thế giới xung quanh.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài này, mục đích nghiên cứu của luận án là miêu tả con
đường chuyển nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN trong tiếng Việt dưới ánh
sáng của lí thuyết Ngôn ngữ học tri nhận. Qua đó, luận án góp phần xác
định đặc điểm tri nhận, đặc trưng văn hóa dân tộc qua sự chuyển nghĩa của
nhóm từ chỉ BPCTN trong tiếng Việt.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích như trên, luận án thực hiện các nhiệm
vụ sau:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước về nghĩa và sự
phát triển nghĩa của từ; tình hình nghiên cứu về nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể
người trong tiếng Việt.

1


- Làm rõ các khái niệm liên quan đến đề tài: khái niệm nghĩa của từ,
sự phát triển ngữ nghĩa của từ, các vấn đề lí thuyết thuộc Ngôn ngữ học tri
nhận, các vấn đề lí thuyết hữu quan giữa chuyển nghĩa và ngôn ngữ học tri nhận.
- Làm rõ quá trình chuyển nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN trong tiếng
Việt theo quan điểm của ngôn ngữ học tri nhận thông qua những việc làm
cụ thể sau:
+ Thông qua tổ chức ý niệm của miền “BPCTN” xác định ý niệm

điển mẫu của miền. Nhận dạng sự phát triển nghĩa của từ qua mô hình tỏa
tia của điển mẫu và hệ thống ánh xạ từ miền nguồn “BPCTN” sang các
miền đích khác.
+ Thống kê, phân loại, phân tích các ẩn dụ ý niệm, hoán dụ ý niệm
liên quan “BPCTN” để làm rõ cơ sở chuyển nghĩa và đặc trưng chuyển
nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN trong tiếng Việt.
- Đối chiếu với một số ngôn ngữ khác (trong một số trường hợp) như
tiếng Anh, Mĩ, tiếng Hán để so sánh đặc trưng tư duy dân tộc qua hiện
tượng chuyển nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tiến hành khảo sát sự phát triển ngữ nghĩa của nhóm từ chỉ
BPCTN trong tiếng Việt từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận qua hai phương
thức chuyển nghĩa chính là phương thức chuyển nghĩa ẩn dụ và hoán dụ.
Nguồn Ngữ liệu khảo sát: Để tìm hiểu quá trình chuyển nghĩa của
nhóm từ chỉ BPCTN trong tiếng Việt dưới góc nhìn của ngôn ngữ học tri
nhận, luận án khảo sát các biểu thức ẩn dụ và hoán dụ ý niệm trong các tác
phẩm văn học (luận án khảo sát khoảng 70 truyện ngắn, tiểu thuyết đương
đại và 150 truyện cổ tích; 7.000 câu tục ngữ; 2129 câu ca dao; 1.620 câu đố
thuộc nhiều chủ đề khác nhau); các báo (Thể thao, dân trí, phụ nữ…); các
truyện ngắn trên các tạp chí (văn học, tạp chí Văn nghệ) .… Từ điển tiếng
Việt và nguồn ngữ liệu trong ngôn ngữ sinh hoạt hằng ngày.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp phân tích, miêu tả
Từ những nguồn ngữ liệu đã thu thập, chúng tôi sử dụng phương
pháp này để miêu tả, phân tích đặc điểm ngữ phát triển ngữ nghĩa của nhóm
từ chỉ BPCTN trong tiếng Việt dưới góc độ ngôn ngữ học tri nhận.
4.2. Phương pháp phân tích nghĩa tố
Phương pháp phân tích nghĩa tố phân xuất ý nghĩa của từ thành các
nghĩa tố, từ đó nhận diện về sự chuyển nghĩa, cơ chế chuyển nghĩa, từ đó
xác định mô hình tỏa tia cơ của từ chỉ BPCTN trong tiếng Việt. Phương

pháp này cũng là phương pháp nghiên cứu chính trong luận án.
4.3. Phương pháp phân tích ý niệm

2


Phương pháp này được sử dụng để phân tích các ý niệm miền
BPCTN trong tiếng Việt, từ đó tìm ra đặc trưng riêng trong cách ý niệm hóa
miền BPCTN trong tiếng Việt.
4.4. Thủ pháp so sánh
Thủ pháp này được sử dụng trong chương 2 và chương 3 nhằm mục
đích so sánh những điểm tương đồng và khác biệt về chuyển nghĩa thông
qua quá trình ý niệm hóa các từ chỉ BPCTN của cộng đồng người bản ngữ
nói tiếng Việt và một số ngôn ngữ khác như tiếng Anh, Mĩ,... Với thủ pháp
này, sự phát triển nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN được nhìn nhận một cách
đa chiều và được bộc lộ rõ nét hơn.
4.5. Thủ pháp thống kê, phân loại
Luận án sử dụng thủ pháp này để thống kê, phân loại các ẩn dụ, hoán dụ ý
niệm miền BPCTN trong tiếng Việt. Dựa trên kết quả đó, luận án có thể rút ra
một số nhận xét về đặc điểm chuyển nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN trong tiếng
Việt dưới góc độ ngôn ngữ học tri nhận và xây dựng bức tranh ngôn ngữ qua ý
niệm BPCTN. Danh sách 1087 biểu thức ẩn dụ và hoán dụ ý niệm được nhập
vào máy trên chương trình Microsofl Excel với các thông tin:
STT
Từ chỉ BPCTN
Loại (ẩn/ hoán)
Văn cảnh
Xuất xứ
1
xx

xx
xx
xx
Những thông tin này đảm bảo tính chính xác về mặt xuất xứ cũng
như sự rõ ràng về mặt ngữ nghĩa.
Ngoài các phương pháp: miêu tả, phân tích nghĩa tố, phân tích ý niệm
và các thủ pháp: so sánh, thống kê, các phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ
học khác cũng được sử dụng để giải quyết các nhiệm vụ của luận án: phân
tích ngữ cảnh, nghiên cứu trường hợp.
5. Đóng góp mới của luận án
Kết quả của luận án có thể được xem là những nghiên cứu mới nhất
về sự chuyển nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN nhìn từ bình diện ngôn ngữ
học tri nhận. Luận án chỉ ra cơ chế chuyển nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN
theo quan điểm của ngôn ngữ học tri nhận, từ đó, tìm ra đặc trưng văn hóa
dân tộc thể hiện qua sự phát triển nghĩa của nhóm từ này trong tiếng Việt.
Các nghiên cứu trước đã tập trung nghiên cứu sự chuyển nghĩa của nhóm từ
này dưới ánh sáng của văn hóa nhưng các nghiên cứu đó mới chủ yếu tập
trung ở một vài thành tố đơn lẻ mà chưa có tính hệ thống. Dưới ánh sáng
của lí thuyết ngôn ngữ học tri nhận, luận án khảo sát hệ thống các ẩn dụ và
hoán dụ ý niệm qua ngữ liệu để chứng minh tính phổ quát và đặc trưng
riêng về sự phát triển nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN trong tiếng Việt.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án
6.1. Về lí luận

3


Luận án nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống về sự phát triển
ngữ nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN dưới góc độ ngôn ngữ học tri nhận.
Thực hiện được những nhiệm vụ đã đề ra, luận án sẽ có đóng góp nhất định

vào việc phân tích các đặc điểm chuyển nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN trên
cơ sở mối quan hệ giữa ngữ nghĩa và tri nhận, cung cấp thêm những nhận
xét, những ngữ liệu về hiện tượng chuyển nghĩa này trên cơ sở lí luận mới
của ngôn ngữ học tri nhận và trên ngữ liệu của các từ chỉ BPCTN. Luận án
có thể góp phần cung cấp tư liệu để làm phong phú thêm cho lí thuyết về
ngôn ngữ học đối chiếu và bổ sung thêm tư liệu cho việc nghiên cứu ngôn
ngữ học tri nhận, góp phần chứng minh ẩn dụ, hoán dụ tri nhận không chỉ là
vấn đề của ngôn ngữ và còn là vấn đề của tư duy, nhận thức.
6.2. Về thực tiễn
Luận án là những lí giải cụ thể về những hiện tượng ngôn ngữ có liên
quan đến ẩn dụ, hoán dụ ý niệm BPCTN trong thực tiễn giao tiếp tiếng
Việt. Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ giúp cho người bản ngữ có cái nhìn
cụ thể hơn khi sử dụng nhóm từ này trong ngôn cảnh, sử dụng chúng tốt
hơn, đa dạng hơn, tinh tế hơn, đạt hiệu quả giao tiếp cao. Mặt khác, các kết
quả nghiên cứu có thể được dùng nghiên cứu, giảng dạy tiếng Việt cũng
như nghiên cứu và giới thiệu văn hóa Việt Nam.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài các phần: mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham
khảo và nguồn tư liệu trích dẫn, luận án gồm ba chương sau đây:
Chương 1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết
Chương 2. Phương thức chuyển nghĩa của nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể
người trong tiếng Việt từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận
Chương 3. Đặc trưng tri nhận của người Việt qua sự phát triển ngữ
nghĩa của nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người trong tiếng Việt từ góc độ
ngôn ngữ học tri nhận
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT
Nghĩa của từ nói chung, sự chuyển nghĩa của từ nói riêng là một trong
những vấn đề trung tâm cơ bản của nghiên cứu ngôn ngữ. Cho đến nay, đã có rất

nhiều công trình đề cập đến nội dung này theo các góc độ khác nhau. Vì vậy, trong
chương này, luận án điểm lại một số công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài,
từ đó xác định cơ sở lí luận có tính đường hướng cho đề tài.

4


1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về nghĩa và sự phát triển ngữ nghĩa của từ
từ góc độ ngôn ngữ học cấu trúc
Luận án đã điểm lại quá trình phát triển lý thuyết về nghĩa của từ,
chuyển nghĩa của từ. Xuất phát từ những bài viết có tên Semasiologi (ngữ
nghĩa học) của tác giả người Đức Reizing Berary, các nghiên cứu của tác
giả Benjamin, tác phẩm Metaphisical Etymology của tác giả Horne Tooke,
tiếp đó là công trình nghiên cứu Science des significations của tác giả người
Pháp Michel Bréal - được coi là công trình đầu tiên xác lập ngữ nghĩa như
một bộ môm khoa học nhân văn.
Về sự chuyển nghĩa từ vựng, có một số công trình điển hình như:
Language change: Progress or Decay của Aitchison, An introduction to
Historical Linguistics của tác giả Crowley, hoặc Undersanding Language
Change của tác giả Mc. Mahon, An introduction to Language của tác giả
Fromkin. Qua các tác phẩm này, các tác giả đã tập hợp và hệ thống hóa
những nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi ngôn ngữ.
Ở trong nước, các công trình nghiên cứu của các tác giả: các công trình
của tác giả Đỗ Hữu Châu: Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng và Từ vựng ngữ nghĩa
tiếng Việt, Các công trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thiện Giáp với cơ sở
ngôn ngữ, từ vựng học tiếng Việt; Tác giả Lý Toàn thắng với Mấy vấn đề Việt
Ngữ học và ngôn ngữ học đại cương, Dạy học tiếng Việt như một ngoại ngữ:
nhìn từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận và ngôn ngữ văn hóa,; Tác giả Nguyễn
Đức Tồn với cuốn Đặc trưng văn hóa của ngôn ngữ và tư duy. Cùng hướng

nghiên cứu này, còn có các bài viết của các tác giả Nguyễn Văn Tu, Nguyễn Đức
Dân, Hồ Lê, Cù Đình Tú....và một số luận án như: Luận án tiến sĩ Những đặc
trưng văn hóa của hiện tượng chuyển nghĩa trong tiếng Việt (so sánh với tiếng
Nga) của tác giả Lê Thị Thanh Tâm, luận án Đặc điểm định danh và hiện tượng
chuyển nghĩa trong trường từ vựng tên gọi bộ phận cơ thể người trong tiếng Lào
của tác giả Chăm Phommavông, Đặc điểm trường từ vựng ngữ nghĩa tên gọi
động vật của Nguyễn Thúy Khanh …
Tóm lại, theo quan sát của chúng tôi, “nghĩa và hiện tượng chuyển
nghĩa của từ” là một trong những vấn đề trung tâm của ngôn ngữ học cấu
trúc. Hiện tượng này được đề cập trong rất nhiều công trình nghiên cứu.
Trong phạm vi của luận án, chúng tôi chỉ đề cập những vấn đề có liên quan
đến đề tài luận án
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về nghĩa và sự phát triển ngữ nghĩa của từ

5


từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận
Luận án đã điểm lại các công trình nghiên cứu về ngôn ngữ học tri
nhận của các tác giả nước ngoài như: G. Lakoff và M. Johnson, M. Turner,
Z. Kovecses, G. Fauconnier, , C. Fillmore, J.E. Grady, M. Green… Trong
các công trình nghiên cứu của mình, các tác giả xoay quanh một số lí thuyết
cơ bản của ngôn ngữ học tri nhận như: thuyết nghiệm thân, miền ý niệm,
ánh xạ, ẩn dụ ý niệm, hoán dụ ý niệm, pha trộn ý niệm…
Ở Việt Nam, các tác giả qua tâm nghiên cứu về ngôn ngữ học tri
nhận có: tác giả Lý Toàn Thắng; Trần Văn Cơ; Nguyễn Đức Dân, Nguyễn
Thiện Giáp, Nguyễn Văn Hiệp, Trịnh Sâm .…
Ngoài ra, còn rất nhiều luận văn, luận án và các bài báo đăng trong
các tạp chi chuyên ngành của các tác giả: Võ Thị Dung, Nguyễn Ngọc Vũ,
Phan Thế Hưng, Lê Thị Thanh Tâm, Trần Trọng Hiếu; Nguyễn Thị Hạnh

Phương, Tạ Thành Tấn .… cũng nghiên cứu các nội dung thuộc ngôn ngữ
học tri nhận.
Có thể nói, bức tranh toàn cảnh về Ngôn ngữ học tri nhận nói chung,
nghĩa và chuyển nghĩa dưới góc độ ngôn ngữ tri nhận nói riêng nói riêng ở
Việt Nam và trên thế giới ngày càng được mở rộng. Trong khuôn khổ và
mục tiêu của luận án, chúng tôi chỉ trình bày dưới đây vấn đề có liên quan
trực tiếp nhất tới đề tài nghiên cứu
1.1.3. Tình hình nghiên cứu về nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người
Các công trình và tác giả tiêu biểu, trước hết phải kể đến một số
nghiên cứu về sự chuyển nghĩa của một số từ chỉ BPCTN trong tiếng
Trung Quốc của Ning Yu như “Body and emotion” (bộ phận cơ thể người
và cảm xúc), Metaphor, body, and culture: The Chinese under - standing of
gallbladder and courage (Ẩn dụ, thân thể và văn hóa: mối quan hệ giữa
“gan” và “sự can đảm”, The eye for sight and mind (Mắt để nhìn và để
nhận thức); một số nghiên cứu của Tomita Kenji về các từ chỉ BPCTN của
tiếng Nhật và tiếng Việt trong tương quan so sánh.
Nhóm từ chỉ BPCTN cũng được đề cập trong các công trình nghiên
cứu của các tác giả của tác giả Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp, Đỗ Việt
Hùng, Bùi Minh Toán, Nguyễn Đức Tồn, Lý Toàn thắng. Tiếp tục hướng
nghiên cứu đó, Chăn Phôm Ma Vông với “Đặc điểm định danh và hiện
tượng chuyển nghĩa của trường từ vựng tên gọi bộ phận cơ thể người tiếng
Lào”, Đặng Đức Hoàng trong luận án tiến sĩ “Đối chiếu tiếng Anh và tiếng
Việt trên bình diện chuyển đổi ngữ nghĩa”, tác giả Nguyễn Văn Hải với
luận án “Các từ chỉ bộ phận cơ thể người trong tiếng Việt và các từ tương

6


đương trong tiếng Anh”, tác giả Trần Thị Minh với luận văn thạc sĩ “Hiện
tượng chuyển nghĩa từ vựng trong tiếng Anh và tiếng Việt (trường nghĩa:

người, thực vật)”, tác giả Trịnh Thị Thanh Huệ (2012) đã chỉ ra sự tương
đồng và khác biệt trong cách tư duy của hai dân tộc Việt - Hán qua đề tài
“Nghiên cứu so sánh đối chiếu ẩn dụ trong tiếng Việt và tiếng Hán từ góc
độ ngôn ngữ học tri nhận (trên tư liệu bộ phận cơ thể người)”; luận văn
thạc sĩ của Nguyễn Hoàng Linh (2013) với đề tài “Đặc trưng tri nhận văn
hóa của người Việt (Qua nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người”); tác giả Lê
Thị Khánh Hòa với luận văn thạc sĩ (2011) “Về cấu trúc vị từ + tên gọi
BPCTN (kiểu như Mát tay, lên mặt, nóng ruột)”; một số bài nghiên cứu
được đăng trên các tạp chí của tác giả Lê Thị Diên Anh, tác giả Nguyễn
Ngọc Vũ …. Hầu hết các nghiên cứu này chủ yếu khai thác miền ý niệm là
BPCTN, lí giải cơ chế tri nhận của một số ẩn dụ và hoán dụ trên cơ sở tác
động của những yếu tố văn hóa, điều kiện địa lí của từng dân tộc.
Như vậy, cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về nhóm từ
chỉ “bộ phận cơ thể người” theo những cách tiếp cận khác nhau. Qua đó, có
thể nhận thấy một số điểm như sau:
Một là, các từ chỉ BPCTN là nhóm từ hạt nhân, cơ bản trong hệ
thống từ vựng của mỗi ngôn ngữ.
Hai là, các từ chỉ BPCTN được nghiên cứu không đồng đều, có
những từ được khảo sát rất sâu, có những từ mới chỉ được đề cập ở mức độ
khái quát.
Ba là, nhóm từ chỉ BPCTN đã được nghiên cứu theo nhiều góc độ
khác nhau: có thể được nghiên cứu từ góc độ ngôn ngữ học truyền thống;
hoặc theo hướng ngôn ngữ học tri nhận; hoặc tiếp cận theo kiểu tâm lí ngôn
ngữ dân tộc, hoặc từ góc nhìn của ngôn ngữ văn hoá. Tuy nhiên, dưới góc
nhìn của ngôn ngữ học tri nhận, sự phát triển nghĩa của nhóm từ này diễn ra
theo những cách thức nào? đặc điểm tri nhận của người bản ngữ qua sự
chuyển nghĩa của nhóm từ này được thể hiện như thế nào, thì cho đến nay,
chưa có công trình nào đề cập được một cách chi tiết và hệ thống.
1.2. Cơ sở lí thuyết liên quan đến đề tài
1.2.1. Một số lí thuyết cơ bản của ngôn ngữ học tri nhận

1.2.1.1. Tính nghiệm thân (Embodiment)
Giả thuyết nghiệm thân được hiểu là quá trình trải nghiệm của thân
thể với môi trường sống (địa lí, văn hóa, phong tục tập quán) từ đó hình
thành các cấu trúc ý niệm và ngôn ngữ. Giả thuyết Nghiệm thân được các
tác giả quan tâm như Lakoff và Johnson (1980), Margaret Wilson (2002),
Tim Rohrer (2007), Lawrence Sapiro (2011).
1.2.1.2. Ánh xạ
Ánh xạ (mapping) là sự phóng chiếu giữa những yếu tố của miền

7


nguồn và những yếu tố tương ứng của miền đích. Cơ chế của ánh xạ là
được kích hoạt căn cứ vào cơ thể, kinh nghiệm và tri thức.
1.2.1.3. Ý niệm, ẩn dụ và hoán dụ ý niệm
a. Ý niệm
Ý niệm (concept) là cái chứa đựng sự hiểu biết của con người về thế
giới được hình thành trong ý thức qua quá trình tri nhận và hiện thân trong
ngôn ngữ. Trong ý niệm có cái phổ quát và cái đặc thù.
b. Ẩn dụ ý niệm
“Ẩn dụ ý niệm là sự ý niệm hóa một miền tinh thần qua một miền tinh
thần khác đó là sự ánh xạ (mapping) có hệ thống từ một miền nguồn sang
một miền đích nhằm tạo nên một mô hình tri nhận (mô hình ẩn dụ) giúp
lĩnh hội miền đích cụ thể, hiệu quả hơn”[Kovecses]. Ẩn dụ gồm các tiểu
loại: ẩn dụ cấu trúc; ẩn dụ bản thể và ẩn dụ định hướng.
c. Hoán dụ ý niệm
“Hoán dụ là một quá trình tri nhận trong đó một thực thể ý niệm
(phương tiện)cung cấp sự tiếp nhận tinh thần đến một thực thể ý niệm khác
(đích) trong cùng một miền hoặc cùng một mô hình tri nhận lí tưởng”
[Kovecses].

d. Phân biệt ẩn dụ và hoán dụ ý niệm
 Điểm giống nhau: Ẩn dụ và hoán dụ đều là công cụ nhận thức; Ẩn
dụ và hoán dụ đều là phép chiếu; Ẩn dụ và hoán dụ đều có thể qui ước hoá;
Trong cả hai trường hợp ẩn dụ và hoán dụ, những diễn đạt ngôn ngữ xác
định các yếu tố nguồn trong phép chiếu cũng định ra các yếu tố đích.
[Lakoff và Turner]
 Khác biệt giữa ẩn dụ và hoán dụ: Khác nhau về số lượng miền, Khác
chức năng.
Quan hệ giữa ẩn dụ và hoán dụ: 1) hoán dụ là một phần trong ẩn dụ
(hoán dụ là một yếu tố, là động cơ hay cơ sở của ẩn dụ); 2) ẩn dụ thuần túy
và hoán dụ thuần túy ở hai đầu và giữa là các trường.
1.2.1.4. Miền tri nhận, miền nguồn, miền đích
a. Miền
Miền tri nhận là tập hợp các ý niệm có mối quan hệ mật thiết với nhau.
b. Miền nguồn và miền đích
Miền nguồn là một miền ý niệm mà các thực thể, quan hệ, thuộc
tính trong miền nguồn được ánh xạ tới miền đích giúp cụ thể hóa các thực
thể, quan hệ, thuộc tính trong miền đích

8


Miền đích là miền trừu tượng, được hiểu thông qua các ý niệm
miền nguồn
1.2.1.5. Điển mẫu
Điển mẫu (prototype) là gắn với phạm trù tri nhận và sự phạm trù
hóa. Đó là thành viên điển hình nhất, là thí dụ tốt nhất, nổi bật nhất của
phạm trù.
1.2.1.6. Mô hình tri nhận
Mô hình tri nhận (cognitive model) là những cách thức chung để ý

niệm hóa thế giới khách quan.
1.2.2. Sự phát triển ngữ nghĩa của từ từ góc nhìn của ngôn ngữ học tri
nhận
1.2.2.1. Nghĩa của từ và sự phát triển ngữ nghĩa của từ từ góc độ cấu trúc luận
a. Quan niệm về nghĩa của từ
Luận án đưa ra một số quan niệm về nghĩa của từ của các nhà nghiên
cứu trong và ngoài nước, nhìn chung các ý kiến bàn về nghĩa của từ đồng
quy ở hai nội dung: “Nghĩa của từ là một bản thể nào đó (đối tượng, khái
niệm hay sự phản ánh.. và Nghĩa của từ là một quan hệ nào đó (quan hệ
của từ đối với đối tượng hoặc quan hệ của từ đối với khái niệm ...)” [Đỗ
Hữu Châu]
b. Nét nghĩa và cấu trúc nghĩa của từ
“Nét nghĩa được hiểu là một dấu hiệu logic ứng với một thuộc tính
chung của sự vật, hiện tượng (biểu vật) được đưa vào nghĩa biểu niệm... ”
[Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến].
c. Hiện tượng nhiều nghĩa và sự chuyển biến ý nghĩa của từ
Hiện tượng nhiều nghĩa của từ gắn liền với hiện tượng chuyển nghĩa
của từ. Quá trình chuyển nghĩa của từ là quá trình chuyển đổi ý nghĩa từ
nghĩa này sang nghĩa khác hoặc từ một nghĩa sang nhiều nghĩa. Các nhà
ngôn ngữ thừa nhận trong quá trình chuyển nghĩa, các nghĩa cũ và nghĩa
mới của từ có mối quan hệ với nhau theo cách nào đó.
1.2.2.2. Hiện tượng chuyển nghĩa nhìn từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận
Dưới góc nhìn tri nhận, hiện tượng chuyển nghĩa của từ không chỉ là
sự thay đổi tên gọi một cách đơn thuần mà nó còn là hiện tượng mang tính
ý niệm, gắn với quá trình ý niệm hóa, là sự phóng chiếu từ miền ý niệm này
sang miền ý niệm khác.
1.2.2.3. Chuyển nghĩa xét trong mối quan hệ bộ ba: ngôn ngữ - tri nhận văn hóa

9



Bộ ba ngôn ngữ - tư duy, ý thức (hay rộng hơn: tri nhận) - văn hóa có
mối quan hệ hết sức chặt chẽ. Ngôn ngữ tồn tại không độc lập hoàn tòn với
văn hóa và tư duy, trái lại chúng có ảnh hưởng và tác động qua lại.
1.2.3. Khái quát về nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người
1.2.3.1. Số lượng tên gọi từ chỉ bộ phận cơ thể
Số lượng bộ phận cơ thể con người đã được tiếng Việt chia cắt định
danh là 289. Để định danh 289 BPCTN, tiếng Việt đã sử dụng 397 tên gọi
(gồm cả tên gọi biến thể). Trong số 397 tên gọi BPCTN có 263 tên gọi
thuần Việt và 134 tên gọi vay mượn. Các tên gọi BPCTN không phải thuần
Việt chủ yếu được vay mượn từ tiếng Hán (132/134 từ). Số tên gọi được
vay mượn từ ngôn ngữ Ấn - Âu trong tiếng Việt không đáng kể (2 từ).
1.2.3.2. Phân lập tên gọi bộ phận cơ thể người
- Trường nghĩa chỉ các bộ phận thuộc phần đầu: Mặt, tóc, râu, ria,
lòng, môi, miệng, mồm, má, hàm, lợi, răng, lưỡi, cổ họng, cằm, mép, mũi, lỗ
mĩ, sống mũi, mắt, khóe mắt, mí, mày, k hóe môi, cổ, yết hầu, họng, gáy,
đỉnh, thóp, trốc, chỏm, mai, mái, tái dương, mang tai, tai, chầm, trán, con
ngươi, óc, não,đầu, sỏ, sọ...
- Trường nghĩa chỉ các bộ phận thuộc phần nội tạng: Tim, lòng, dạ/
mề, phổi, cật, thận, bụng, gan…
- Trường nghĩa chỉ các bộ phận thuộc phần còn lại: Thân, mình, eo,
tay, khuỷu, cùi, cánh tay, bắp, cẳng, cổ tay, ngón, đốt, móng, bàn, mu, vai,
bả vai, sườn, lườn, lưng, sống lưng, cật, thận, ngực, nách, vú, thắt lưng,
hông, mông, đít, bẹn, hang, mu, rốn, trôn, khớp …
1.2.3.3. Đặc điểm cấu tạo và đặc điểm ngữ nghĩa của các từ thuộc trường
nghĩa chỉ bộ phận cơ thể người
Kết quả nghiên cứu trong công trình nghiên cứu “Đặc trưng Văn hóa
- Dân tộc của ngôn ngữ và tư duy”, tác giả đã chỉ ra:
Về đặc điểm cấu tạo của từ chỉ BPCTN: Trong trường từ vựng - ngữ
nghĩa tiếng Việt có gần 27% (108/309) tên gọi BPCTN là từ đơn tiết, được

cấu tạo trên cơ sở sử dụng một tổ hợp âm tố biểu thị đặc trưng nào đó được
chọn lựa từ trong số các đặc trưng của BPCT.
Về đặc điểm ngữ nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN: chúng tôi nhận
thấy, trong từ điển giải thích, về cơ bản các soạn giả đã áp dụng cách tường
giải nghĩa của nhóm từ này theo lối miêu tả, một số ít tên gọi còn lại được
giải thích bằng cách dùng từ đồng nghĩa. Trong cấu trúc nghĩa biểu niệm của
nhóm từ này thường chứa các nét nghĩa (semantic feature) về hình dáng, vị trí,

10


chức năng, kích thước, thuộc tính vật lí, màu sắc thời gian , cấu trúc, tính sở
thuộc, trong đó, có những nét nghĩa hạt nhân hình dáng, vị trí, chức năng và
các nét nghĩa ngoại vi như kích thước, màu sắc, tính sở thuộc…
Tiểu kết
Nghiên cứu về nghĩa của từ nói chung, và chuyển nghĩa của từ nói
riêng là vấn đề vô cùng phức tạp. Những nội dung này giúp luận án miêu tả
con đường chuyển nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN.
Sự phát triển ngữ nghĩa của từ là hiện tượng mang tính phổ quát ở
mọi ngôn ngữ. Ngôn ngữ học cấu trúc cho rằng: phát triển nghĩa của từ là
cách biến đổi từ nghĩa ban đầu, nghĩa gốc sang nghĩa mới, nghĩa chuyển
dựa trên hai phương thức chuyển nghĩa cơ bản đó là ẩn dụ và hoán dụ. Theo
quan điểm của ngôn ngữ học tri nhận, phát triển nghĩa không chỉ là vấn đề
của ngôn ngữ mà còn là hiện tượng mang tính ý niệm.
Luận án vận dụng lý thuyết về nghĩa của từ, các lí thuyết của ngôn
ngữ học tri nhận như: lí thuyết nghiệm thân, ánh xạ, lí thuyết về hoán dụ, ẩn
dụ ý niệm làm đường hướng để tiếp tục nghiên cứu các chương tiếp theo
của luận án.
Chương 2. PHƯƠNG THỨC CHUYỂN NGHĨA CỦA NHÓM
TỪ CHỈ BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI TRONG TIẾNG VIỆT

TỪ GÓC ĐỘ NGÔN NGỮ HỌC TRI NHẬN
Hệ thống ánh xạ từ ý niệm miền nguồn BPCTN đến các miền đích
khác phản ánh quá trình chuyển nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN trong tiếng
Việt. Theo lí thuyết của ngôn ngữ học tri nhận, ánh xạ cũng là căn cứ để
xác định, phân loại các ẩn dụ và hoán dụ ý niệm. Vì vậy, trước khi tìm hiểu
hệ thống ẩn dụ, hoán dụ ý niệm, luận án tập trung trình bày các nội dung cơ
bản như: tổ chức ý niệm miền BPCTN trong tiếng Việt, xác định các điển
mẫu từ đó xây dựng các mô hình tỏa tia của điển mẫu; khảo sát hệ thống
ánh xạ từ miền nguồn BPCTN tới các miền đích khác.
2.1. Cấu trúc ý niệm miền “bộ phận cơ thể người”
2.1.1. Hạt nhân của ý niệm “bộ phận cơ thể người”
Hạt nhân của ý niệm này gồm 397 thành viên (tên gọi các BPCTN)
như: Đầu, mình, chân, tay, miệng, mũi, mắt, chân, lưng…
2.1.2. Các giá trị ngoại vi của ý niệm “bộ phận cơ thể người”
Các giá trị ngoại vi là các yếu tố văn hóa thống nhất với nhau tạo
thành trường giá trị của ý niệm như: Văn hóa dân tộc, Văn hóa nhóm xã
hội, Văn hóa cá nhân, Văn hóa vùng, Văn hóa tộc người.
21.3. Các nhóm ý niệm của miền ý niệm “bộ phận cơ thể người”
Luận án đã lựa chọn các ngữ liệu để khảo sát thuộc nhiều thể loại

11


khác nhau: tiểu thuyết, truyện hiện đại, truyện cổ tích, ca dao, tục ngữ, câu
đố, các loại báo (Văn nghệ, Thể thao, Tuổi trẻ…).
Kết quả khảo sát, chúng tôi thu được 1807 biểu thức chuyển nghĩa
của nhóm từ chỉ BPCTN, cụ thể về số lượng:
Bảng 2.1. Thống kê ý niệm thuộc miền “bộ phận cơ thể người”
trong tiếng Việt
Số

STT Nhóm
Tỉ lệ
lượng
1
Phần đầu (mặt, mũi, miệng, mồm...)
736
40,73%
Phần nội tạng (bụng, lòng, dạ, gan, tim,
2
612
33,87%
phổi…)
Các bộ phận thuộc phần khác (tay, chân,
3
459
25,4%
vai, lưng...)
Tổng
1807
100%
2.1.4. Điển mẫu của miền ý niệm bộ phận cơ thể người
2.1.4.1. Điển mẫu của miền ý niệm bộ phận cơ thể người
Điển mẫu là thành viên điển hình một tập hợp, đó là thành viên nổi
bật nhất. Thông qua các tiêu chí khảo sát, 5 điển dạng của miền ý niệm
BPCTN gồm: đầu, mặt, tay, lòng, bụng
2.1.4.2. Sự vận động của các điển mẫu
Luận án đã biểu thị quá trình phát triển nghĩa của các điển mẫu bằng
các mô hình tỏa tia. Qua mô hình tỏa tia, có thể thấy cấu trúc ý niệm của từ
có sự tương đồng với cấu trúc nghĩa của từ đó. Sự đồng hình này được thể
hiện rõ ở: phần lớn các nghĩa phái sinh trong mô hình tỏa tia là trùng với

các nghĩa chuyển của từ (theo quan điểm ngôn ngữ học cấu trúc) theo hai
phương thức chuyển nghĩa ẩn dụ và hoán dụ. Chẳng hạn, trường hợp của từ
đầu: các nghĩa 1, 2 chuyển nghĩa theo phương thức hoán dụ; các nghĩa 3, 4,
5, 6, 7 chuyển nghĩa theo phương thức ẩn dụ (nghĩa 3, 4 chuyển nghĩa theo
nét nghĩa vị trí; nghĩa 5, 6, 7 chuyển nghĩa theo nét nghĩa chức năng). Tuy
nhiên, sự đồng hình này không phải là đồng nhất, bởi sự chuyển nghĩa theo
quan điểm của ngôn ngữ học tri nhận có phạm vi rộng hơn, phong phú hơn.
Điều này được thể hiện ở một số nghĩa phái sinh có trong mô hình tỏa tia
mà chưa được ghi trong hệ thống từ điển.
2.2. Ánh xạ giữa miền ý niệm “bộ phận cơ thể người” tới các miền ý
niệm khác
Sự chuyển nghĩa của hàng loạt các từ thuộc miền nguồn BPCTN
sang các miền đích là một quá trình ánh xạ. Vì vậy, Trong phần này, luận
án tập trung khảo sát sự ánh xạ một chiều giữa miền ý niệm nguồn
“BPCTN” tới các miền ý niệm khác

12


2.2.1. Ánh xạ từ miền nguồn “bộ phận cơ thể người” tới miền ý niệm
“không gian”

Với tư cách là ý niệm miền nguồn, các BPCTN thường được kích
hoạt để tri nhận vị trí, hướng của không gian hình thành những “bản đồ
không gian”: trên đầu, dưới chân, trước mặt, sau lưng, mặt trước, mặt sau,
mặt trái, mặt phải hoặc không gian địa lí đầu thôn, đầu xóm, lưng trời,
trong lòng, trong bụng, đáy lòng… Cấu trúc này tạo nên một hệ thống
thống nhất trong tri nhận về thế giới khách quan. Chẳng hạn, theo vị trí của
BPCTN, hình thành các ánh xạ: TRONG LÀ RUỘT - NGOÀI LÀ DA;
TRÊN LÀ ĐẦU - DƯỚI LÀ CHÂN; TRƯỚC LÀ MẶT - SAU LÀ

LƯNG….

2.2.2. Ánh xạ từ miền nguồn “bộ phận cơ thể người” tới miền ý niệm
“thời gian”

Trong hệ thống ánh xạ từ miền “BPCTN” đến miền thời gian, thành
tố được kích hoạt chủ yếu nhất và có tính hệ thống là bộ phận “đầu” chẳng
hạn: đầu tiết học, đầu buổi, đầu tuần, đầu tháng, đầu năm, đầu
mùa,…Trong những ý niệm này, “đầu” được tri nhận là khoảng thời gian
trước nhất. Ngoài ra, trong các kết hợp khác, miền “BPCTN” còn ánh xạ
lên một khoảng thời gian tâm tưởng thông qua các ý niệm: lọt lòng (mới
sinh), đầu xanh (thanh niên), tóc bạc da mồi (thời gian về già), nhắm mắt
xuôi tay (lúc chết).
2.2.3. Ánh xạ từ miền “bộ phận cơ thể người” tới miền “con người”
Ý niệm “BPCTN” cũng được kích hoạt để cấu trúc hóa ý các ý
niệm trừu tượng hơn thuộc về chính con người.
Theo kết quả khảo sát, các ý niệm ánh xạ từ miền nguồn là
“BPCTN” đến miền đích “con người” tạo thành các hoán dụ ý niệm có số
lượng phong phú và phức tạp nhất như: BPCTN LÀ VẬT CHỨA CẢM XÚC,
BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI LÀ TÂM TRẠNG CON NGƯỜI, BỘ PHẬN
CƠ THỂ NGƯỜI LÀ TÍNH CÁCH CON NGƯỜI…. Những ý niệm này sẽ
được phân tích kĩ hơn qua các biểu thức ẩn dụ, hoán dụ trong phần tiếp theo
của luận án.
2 .2.4. Ánh xạ từ miền nguồn “bộ phận cơ thể người” tới miền đích “đồ vật”
Trong quá trình nhận thứ về đồ vật, các ý niệm BPCTN cũng được sử
dụng để tri nhận về đồ vật, hình thành ẩn dụ thượng cấp CON NGƯỜI LÀ ĐỒ
VẬT cho các ẩn dụ thượng cấp BPCTN LÀ BỘ PHẬN CỦA ĐỒ VẬT

2.2.5. Ánh xạ từ miền nguồn “bộ phận cơ thể người” tới miền đích
“thực vật”


Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy, khi tri nhận ý niệm “thực vật”,
các thành tố thuộc miền nguồn “BPCTN” được kích hoạt chủ yếu là những
bộ phận lộ diện, dễ dàng được con người tri nhận như: mắt, tay, thân, đầu,

13


sườn…. Các thành tố thuộc miền nguồn này chủ yếu ánh xạ sang các bộ
phận của thực vật tạo nên các biểu thức ẩn dụ quen thuộc: đốt mía, đốt tre;
mắt tre, mắt mía, mắt dứa, mắt na, mắt mầm của củ khoai tây; tay bầu,
tay bí; ruột tre, ruột nứa, ruột bí, ruột bầu,…
2.2.6. Ánh xạ từ miền nguồn “bộ phận cơ thể người” tới miền đích
“động vật”
Theo nguyên lí dĩ nhân vi trung, con người đã dùng chính các
BPCT của mình để nhận thức về chính các bộ phận của cơ thể động vật:
mắt gà, tai lợn, chân trâu, cổ gà, tai dê, ruột ngan, da cá, tay gấu, tay
bạch tuộc, chân rết…. Sự ánh xạ này diễn ra rất tự nhiên tạo ra các ẩn dụ
có tính quy ước cao.
2.2.7. Ánh xạ từ miền nguồn “bộ phận cơ thể người” tới miền đích “tự
nhiên - xã hội”
Để nhận thức về hiện tượng tự nhiên huyền bí, một số BPCTN cũng
được kích hoạt tạo nên các ánh xạ: tâm bão, tâm áp thấp, mắt bão, rốn lũ,
đầu gió, đầu sóng, đầu nguồn, đầu cơn mưa…. Các khái niệm đạo đức,
các quan hệ giữa con người với con người cũng được người Việt tri nhận
qua các ý niệm BPCTN: bẩn bụng, bẩn tay, cao tay; anh em ruột, anh em
như thể tay chân…
2.3. Hệ thống ẩn dụ, hoán dụ ý niệm miền “bộ phận cơ thể người”
trong tiếng Việt
2.3.1. Ẩn dụ ý niệm “bộ phận cơ thể người” trong tiếng Việt

2.3.1.1. Ẩn dụ vật chứa ý niệm “bộ phận cơ thể người” trong tiếng Việt
Ẩn dụ vật chứa cho phép con người vạch đường ranh giới, hình
thành không gian bên trong để tri nhận về đối tượng
Theo kiểu ẩn dụ này, các BPCTN như là những vật chứa cảm xúc,
tiền bạc, cơ hội…
(a) LÒNG, BỤNG, GAN, LÀ VẬT CHỨA CẢM XÚC, SUY NGHĨ
- Hắn nghĩ bụng, bây giờ mà trời sáng, chắc cả làng nhận ra mình
mất . (Tiếu lâm Việt Nam – Tam Tam tuyển chọn)
- Tôi đem lòng yêu Nga ngay từ buổi đầu gặp cô ấy. (37 truyện
ngắn – Nguyễn Thị Thu Huệ)
(b) GAN LÀ VẬT CHỨA SỰ TỨC GIẬN
- Tức đầy gan đầy ruột. (Tổng tập văn học dân gian người Việt, tập
2, Nguyễn Xuân Kính)
(c) ĐẦU/ NÃO/ ÓC LÀ VẬT CHỨA
- Tôi cóc sợ mà thiết nghĩ đầu óc nó chứa bã đậu hay thứ rác rưởi
gì mà dám lên đời đe dọa tôi…(Phải lấy người như anh – Trần Thu Trang)
(d) MẮT LÀ VẬT CHỨA
- Có những ngày dài lê thê, ánh hoàng hôn lặng lẽ phủ đầy đôi mắt

14


. (Đi tìm một nửa của mình – Thanh Lan)
(e) TAY LÀ VẬT CHỨA
- Nắm trong tay quyền lực tuyệt đối có thể lựa chọn đội thắng cuộc,
liệu HLV Cris Horwang sẽ “nể tình xưa” với Lukkade hay công bằng với
những người mới… (Báo dân trí)
(f) MIỆNG LÀ VẬT CHỨA
- Bệnh ngoài miệng chui vào, vạ trong miệng trào ra. (Tổng tập
văn học dân gian người Việt, tập 2, Nguyễn Xuân Kính)

2.3.1.2. Ẩn dụ định hướng
“Ẩn dụ ý niệm định hướng cho phép người nói xác lập một tập hợp
các ý niệm đích mạch lạc bằng một số định hướng không gian cơ bản của
con người, chẳng hạn trên - dưới, trong - ngoài, trung tâm - ngoại vi, và
tương tự”
(a) Định hướng lên - xuống
(a1) VUI LÀ ĐỊNH HƯỚNG LÊN CỦA CÁC BỘ PHẬN CƠ THỂ,
BUỒN LÀ ĐỊNH HƯỚNG XUỐNG
- Cảm giác gì đó lạ lắm, vui, đúng rồi…. lòng hắn chắc hẳn đang
bay trên chín tầng mây (Truyện ngắn tình yêu - Thanh Lan).
- Nói lời chia tay Thanh, lòng cô nặng trĩu. (Cạm bẫy tuổi mới lớn –
Hoài Thương)
(a2) TỰ HÀO LÀ NGỬA MẶT LÊN, XẤU HỔ LÀ CÚI ĐẦU XUỐNG
- Làm kẻ cả phải ngửa mặt lên. (Tổng tập văn học dân gian người
Việt, tập 2, Nguyễn Xuân Kính)
- Nó òa khóc trong giây phút cha cúi đầu nhận tội. (Phút hối hận –
Khánh Ly)
(b) Định hướng ra – vào: ĐỊNH HƯỚNG VÀO CỦA BỘ PHẬN CƠ THỂ
LÀ SỰ TẬP TRUNG; ĐỊNH HƯỚNG RA LÀ SỰ LƠ LÀ THIẾU TẬP
TRUNG
- Cả ngày chỉ thấy chú tôi cắm đầu cắm cổ vào cuốn sách để tìm một
chi tiết nhỏ ấy. (Tôi Thấy hoa vàng trên cỏ xanh – Nguyễn Nhật Ánh)
- Bọn trẻ con ngồi dưới lớp ra vẻ hiểu lắm, thế nhưng mắt chúng để
ngoài sân – nơi có những bong bóng mưa. (Con chó nhỏ mang giỏ hoa
hồng – Nguyễn Nhật Ánh)
(c) Định hướng trước - sau
(c1) CÔNG KHAI TRƯỚC MẶT, GIẤU GIẾM SAU LƯNG
- Anh đã có vợ sau lưng/ Có con trước mặt, anh đừng chơi hoa. (Ca
dao - Tổng tập văn học dân gian người Việt, tập 2, Nguyễn Xuân Kính)
- Trước mặt vợ, anh ta tỏ ra là người chồng chung tình, thế nhưng

sau lưng anh ta lại lén lút hẹn hò với cô gái khác. (Ngoại tình hiện đại –
Vy Oanh)

15


(c2) TƯƠNG LAI ĐỊNH VỊ Ở TRƯỚC MẮT, QUÁ KHỨ Ở SAU
LƯNG:
- Bỏ lại quá khứ sau lưng, anh quyết tâm làm lại cuộc đời. (Lập
thân – Thanh Sơn)
- Trước mắt anh, ánh sáng le lói ngày mới đang ló rạng xa phía
chân trời…(Mảnh vỡ của đàn ông - Hồ Anh Thái)
2.3.1.3. Ẩn dụ cấu trúc
“Ẩn dụ ý niệm cấu trúc cho phép người nói hiểu miền đích dưới
dạng cấu trúc của miền nguồn. Cách hiểu này dựa trên một bộ những
tương ứng ý niệm giữa các thành tố của hai miền” [dẫn theo Lakoff và
Johnson]. Qua khảo sát, chúng tôi phân chia thành một số tiểu loại ẩn dụ
cấu trúc sau:
(a) THỰC VẬT LÀ BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI
(b) ĐỒ VẬT LÀ BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI
(c) THỰC THỂ, HIỆN TƯỢNG TỰ NHIÊN LÀ BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI
(d) KHÔNG GIAN, THỜI GIAN LÀ BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI
Tóm lại, ẩn dụ ý niệm “bộ phận cơ thể người” gồm ba loại ẩn dụ bản
thể, ẩn dụ định hướng, ẩn dụ cấu trúc. Sự phân loại này mang tính rành
mạch, không có sự chồng lấn thể hiện tính cục bộ của ẩn dụ ý niệm.
Hệ thống ẩn dụ ý niệm miền “BPCTN” trong tiếng Việt gồm nhiều
loại, mỗi loại lại được phân thành nhiểu tiểu loại. Điều này cho thấy tính
hệ thống và tính tầng bậc trong hoạt động tri nhận của con người.
2.3.2. Hoán dụ ý niệm “bộ phận cơ thể người”
2.3.2.1. Bộ phận cơ thể người đại diện cho người

(a) MẶT ĐẠI DIỆN CHO NGƯỜI
- Hôm nay, nhà trai đến xem mặt cô dâu (Báo)
(b) TAY ĐẠI DIỆN CHO NGƯỜI
- Đó là tay ghi ta rất chuyên nghiệp.
(a) TAY THAY CHO KĨ NĂNG
- Nữ tác giả “mát tay” ở nhiều lĩnh vực…(Báo)
2.3.2.2. Bộ phận cơ thể người đại diện cho tính cách, phẩm chất, ý chí của
con người
(a) BỤNG, LÒNG ĐẠI DIỆN CHO TÍNH CÁCH, PHẨM CHẤT CON
NGƯỜI
(a1) BỤNG, LÒNG ĐẠI DIỆN CHO TÍNH CÁCH NGAY THẲNG,
THỦY CHUNG
- Bụng thẳng như tờ giấy phong. (Tổng tập văn học dân gian người
Việt, tập 2, Nguyễn Xuân Kính)
(a2) BỤNG ĐẠI DIỆN CHO TÍNH CÁCH XẤU XA, ĐỘC ÁC
- Bụng gian miệng thẳng. (Tổng tập văn học dân gian người Việt,

16


tập 2, Nguyễn Xuân Kính)
Trong những biểu thức này, có sự tương tác giữa ẩn dụ BỤNG LÀ
VẬT CHỨA và BỤNG ĐẠI DIỆN CHO TÍNH CÁCH CON NGƯỜI.
(b) TIM, GAN, LÒNG, DẠ ĐẠI DIỆN CHO Ý CHÍ CON NGƯỜI: Trong
tiếng Việt, kiểu hoán dụ này thường kết hợp với các ý niệm như: QUYẾT
TÂM LÀ VẬT CỨNG, TÌNH CẢM LÀ CÂY THẲNG ĐỨNG:
- Long thuyết phục Thùy đã nhiều lần, nhưng cô vẫn không xiêu
lòng. (Những mảnh ghép tình yêu – Thu Huệ)
(c) MẶT ĐẠI DIỆN CHO TÍNH CÁCH CON NGƯỜI
(c1) MẶT ĐẠI DIỆN CHO TÍNH CÁCH TRƠ LÌ

- Ông Hai quát ông ổng trong nhà thế mà thằng Hải con ông cứ trơ
cái mặt ra. (Gió về làng - Vũ Phong)
(c2) MẶT ĐẠI DIỆN CHO SỰ THAY ĐỔI VỀ BẢN CHẤT CỦA CON
NGƯỜI: giở mặt, sấp mặt, trở mặt,
(c3) MẶT ĐẠI DIỆN CHO TÍNH CÁCH KIÊU NGẠO, HỢM HĨNH.
Đây cũng là trường hợp hoán dụ lấy kết quả để chỉ ra nguyên nhân. Các ví
dụ loại này gồm có: kênh mặt, lên mặt, vác mặt …
2.3.2.3. Bộ phận cơ thể đại diện cho kĩ năng và khả năng của con người
(a) TAY THAY CHO KĨ NĂNG
- Cô diễn lên tay, có nét hơn… (Báo). Hoán dụ này là sự kết hợp
giữa một ý niệm hoán dụ TAY THAY CHO NGƯỜI và một số ẩn dụ như:
MÁT LÀ TỐT (mát tay), CÂY CỐI LÀ KINH NGHIỆM (non tay, già
tay), ĐỊNH HƯỚNG LÊN LÀ TỐT (cao tay).
(b) BỤNG, LÒNG, DẠ ĐẠI DIỆN CHO KHẢ NĂNG NHẬN THỨC VÀ
GHI NHỚ CỦA CON NGƯỜI
- Thằng bé rất sáng dạ, tiếp thu bài rất nhanh bác ạ! (Chuyện học,
Quang Trinh)
(c) MẮT THAY CHO KHẢ NĂNG NHÌN NHẬN, ĐÁNH GIÁ
- Con Hai mồ côi từ nhỏ nhưng cũng gọi là có con mắt tinh đời khi
không lấy Thắng - kẻ lắm tiền nhiều của nhưng nghiện ngập và vũ phu
(Hồng Nhan đa truân - Thanh Lưu)
(d) TAI THAY CHO KHẢ NĂNG CHÚ Ý CỦA CON NGƯỜI
- Nhân dân là tai mắt của cơ quan an ninh. (Báo)
(e) MIỆNG, MÉP THAY CHO KHẢ NĂNG NÓI NĂNG, LẬP LUẬN
CỦA CON NGƯỜI
- Nhưng bây giờ thì cái sự “có duyên” ấy lại khiến tôi hết sức khó
chịu… Nhiều lần, tôi phải hét lên: “Anh có im đi không!? Tôi không thích
một gã bẻm mép như anh xuất hiện trong căn nhà này!” (dantri.com.vn)
2.3.2.4. Bộ phận cơ thể đại diện cho tình cảm của con người
(a) BỘ PHẬN CƠ THỂ ĐẠI DIỆN CHO TỨC GIẬN


17


(a1) MẶT ĐẠI DIỆN CHO TỨC GIẬN
- Khuê cũng nổi nóng, anh đỏ mặt tía tai - Đưa quyển vở cho cô
giáo. (Tình yêu học đường - Lan Hương)
(a2) RUỘT, GAN ĐẠI DIỆN CHO GIẬN DỮ
- Fan Thái Lan lộn ruột khi để Việt Nam vượt mặt trên bảng xếp
hạng FIFA. (Báo Thể Thao)
(b) BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI ĐẠI DIỆN CHO NIỀM VUI
(b1) MẶT ĐẠI DIỆN CHO NIỀM VUI
- Con về làm rể nhà ấy thì mẹ cũng nở mày nở mặt, mà phần con ít
nhất hai vợ chồng cũng được vài ba mẫu ruộng. (Kho tàng truyện cổ tích
Việt Nam - Nguyễn Đổng Chi)
(b2) RUỘT, LÒNG, DẠ ĐẠI DIỆN CHO NIỀM VUI
- Hữu Thắng khen bầu Đức mát lòng mát dạ trong ngày ra mắt.
(Báo Thể Thao)
(c) BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI ĐẠI DIỆN CHO NỖI BUỒN
(c1) MẮT ĐẠI DIỆN CHO NỖI BUỒN
(116) Mắt lưng tròng, con bé buồn lắm, vài ngày sau thì con chó chết.
(Con chó nhỏ mang giỏ hoa hồng - Nguyễn Nhật Ánh)…
(c2) RUỘT, GAN, TIM ĐẠI DIỆN CHO NỖI BUỒN
- Tiếng khóc ai oán của cô gái trẻ chết chồng trong mỗi chiều mùa đông
đã làm nẫu ruột nẫu gan người qua đường. (Gặp lại một thuở - Đào Vũ)
(d) BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI ĐẠI DIỆN CHO SỢ HÃI
- Phương Hồi bị tát mạnh đến mức người loạng choạng, nửa bên mặt
sưng lên,... Người ngoài đứng xem và bạn tên tóc đỏ đều sợ tái mặt vì phản
ứng của Trần. (Web trẻ thơ)
(e) BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI ĐẠI DIỆN CHO XẤU HỔ

- Sao ngượng đỏ mặt vì sự cố trang phục. (dantri.com.vn)
2.4. Pha trộn miền ý niệm “bộ phận cơ thể người” với các miền ý niệm
khác
2.4.1. Mạng lưới pha trộn ba miền ý niệm
Ở kiểu pha trộn ý niệm này, không gian miền nguồn cung cấp hầu
hết các đặc trưng cho cả mạng lưới pha trộn. Điều này có nghĩa là các
thành tố, thuộc hai không gian nhập được lựa chọn ánh xạ trong không
gian pha trộn để hình thành các ý niệm mới (không cần qua không gian
chung)
2.4.2. Mạng lưới pha trộn bốn miền ý niệm
Pha trộn ý niệm theo mô hình này thường thể hiện qua những
thành ngữ so sánh như: đầu Ngô mình Sở, đầu chày đít thớt, miệng nam
mô bụng bồ dao găm,….

18


2.4.3. Mạng lưới pha trộn phức hợp
Mô hình phức hợp là kết quả của quá trình ánh xạ phức hợp trong
nhiều miền không gian, là kết nối phức tạp giữa các yếu tố tương ứng
trong các miền ý niệm.
Tiểu kết
Quá trình tỏa tia của các điển mẫu miền ý niệm BPCTN trong tiếng
Việt có một đồng hình với cơ chế phát triển nghĩa từ vựng. Tuy nhiên, sự
đồng hình này không phải là đồng nhất.
Hệ thống ánh xạ từ ý niệm miền nguồn BPCTN đến các ý niệm
miền đích là rất phong phú đa dạng: thời gian, không gian, thực vật, đồ vật,
con người cho thấy sự dịch chuyển miền (nghĩa) linh hoạt của ý niệm
BPCTN đồng thời khẳng định tính đa dạng, phức hợp của tư duy trong quá
trình tri nhận và nhận thức thế giới của con người.

Ẩn dụ, hoán dụ ý niệm miền “BPCTN” trong tiếng Việt mang tính
hệ thống. Các ẩn dụ, hoán dụ ý niệm được phân thành nhiều loại, mỗi loại
lại gồm nhiều tiểu loại nhỏ thể hiện quá trình tri nhận của con người qua ý
niệm “BPCTN” có tính đa dạng, phong phú và theo một hệ thống nhất định
chứng minh cho sự chuyển nghĩa nhóm từ chỉ BPCT không phải mang tính
riêng lẻ mà có tính tầng bậc và hệ thống.
Sự tương tác ẩn - hoán chứng minh quá trình chuyển nghĩa của
nhóm từ chỉ BPCTN là một quá trình liên tục rất phức tạp, đa dạng. Trong
quá trình phân tích sự ánh xạ trong nhiều kết hợp, vừa có tri nhận ẩn dụ vừa
có tri nhận hoán dụ.
Tìm hiểu các mô hình pha trộn là tìm hiểu con đường phát triển nghĩa
của của nhóm từ chỉ BPCTN theo quan điểm của ngôn ngữ học tri nhận.
Chương 3
ĐẶC TRƯNG TRI NHẬN CỦA NGƯỜI VIỆT
QUA SỰ PHÁT TRIỂN NGỮ NGHĨA CỦA NHÓM TỪ CHỈ BỘ
PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI TRONG TIẾNG VIỆT
Dẫn nhập
Trong chương này, luận án tập trung phân tích đặc điểm tri nhận của
người Việt thông qua cơ chế ánh xạ từ miền nguồn BPCTN sang các miền
đích và bức tranh ngôn ngữ về thế giới qua ý niệm bộ phận cơ thể người.
3.1. Cơ chế ánh xạ giữa miền bộ phận cơ thể người sang các miền đích khác
Ở chương 2, luận án đã trình bày hệ thống ánh xạ từ miền ý niệm
nguồn BPCTN sang các miền đích: không gian, thời gian, con người, đồ
vật, thực vật. Hệ thống ánh xạ này phản ánh quá trình chuyển nghĩa mang

19


tính đồng loạt, hệ thống của nhóm từ chỉ BPCTN. Do vậy, tìm hiểu bản
chất, cơ sở của những ánh xạ từ miền nguồn BPCTN sang các ý niệm miền

đích cũng là tìm hiểu đặc trưng tri nhận của hiện tượng chuyển nghĩa của
nhóm từ này trong tiếng Việt.
Lakoff và Johnson đã chỉ ra điểm quan trọng trong lí thuyết tri nhận đó là
“tư duy mang tính nghiệm thân”:“Các ánh xạ không phải bất kì mà căn cứ
vào cơ thể, kinh nghiệm hằng ngày và tri thức”.
3.1.1. Kinh nghiệm về đặc điểm của các bộ phận cơ thể
Trong miền ý niệm BPCTN, những hiểu biết về hình dáng, chức
năng, hoạt động, màu sắc cảu các BPCT là cơ sở ánh xạ tới các ý niệm
miền đích. Những cơ sở này vừa mang tính bách khoa cho mọi dân tộc lại
vừa mang những đặc thù riêng của từng dân tộc.
3.1.2. Kinh nghiệm văn hóa
Văn hóa là thực tiễn được sáng tạo bởi con người, do con người tạo
ra. Văn hóa chi phối lối sống, nếp nghĩ của các thành viên trong cùng cộng
đồng. Trong lí thuyết tri nhận, văn hóa là kinh nghiệm được truyền từ đời
này sang đời khác, là nhân tố quan trọng để hình thành các ý niệm thông
qua các ánh xạ tương ứng. Trong ý niệm BPCT, kinh nghiệm về văn hóa
thuyết âm dương và những có sở văn hóa nảy sinh trong đời sống thường
ngày của cộng đồng người Việt.
3.2. Bức tranh ngôn ngữ về thế giới qua ý niệm bộ phận cơ thể người
trong tiếng Việt
3.2 .1. Bức tranh ngôn ngữ về không gian với ý niệm bộ phận cơ thể người
Giống như các ngôn ngữ, trong tiếng Việt, sự tri nhận không gian cũng
mang tính hệ thống, phổ quát, gắn liền với các ý niệm “BPCTN”: trước mặt - sau
lưng; trên đầu - dưới chân; tay bên trái - tay bên phải…. Ở chương 2, luận án đã
trình bày ánh xạ từ miền BPCTN đến miền đích không gian trong tiếng Việt.
Qua đó, có thể thấy, bức tranh về không gian qua ý niệm BPCTN là bức tranh về
không gian địa lí. Qua khảo sát, không gian tâm tưởng cũng được người Việt tri
nhận qua thành ngữ có chứa từ chỉ BPCTN như: xa mặt cách lòng. Cơ chế ngữ
nghĩa của thành ngữ này được hiểu thông qua sự tương tác giữa các ý niệm MẶT
ĐẠI DIỆN CHO CON NGƯỜI và LÒNG ĐẠI DIỆN CHO TÌNH CẢM. Như

vậy, xa mặt cách lòng có nghĩa là con người xa cách nhau thì tâm hồn khó đồng
điệu. Trong giao tiếp hằng ngày, cũng có những kết hợp như: tay trong tay, vai kề
vai, kề vai sát cánh… Những cách kết hợp này để tri nhận khoảng cách tâm
tưởng giữa con người với người, lúc này khoảng cách được rút ngắn và xóa nhòa.
Qua những phân tích trên, có thể thấy, sự tri nhận về không gian qua
ý niệm “BPCTN” trong tiếng Việt vừa có tính phổ quát chung lại vừa mang
tính đặc thù riêng của người bản ngữ.

20


3.2.2. Bức tranh ngôn ngữ về con người qua ý niệm bộ phận cơ thể người
3.2.2.1. Bức tranh ngôn ngữ về con người trí tuệ qua ý niệm bộ phận cơ thể người
Nếu như trong tiếng Anh, người bản ngữ thường tri nhận trí tuệ, nhận
thức, suy nghĩ của con người qua ý niệm “đầu” (head) thì trong tiếng Việt,
phạm trù này còn được người Việt tri nhận qua các bộ phận như “lòng”,
“ruột”, “dạ”, “bụng”. Đây chính là hệ quả của quan niệm coi trọng trục tâm
thận trong văn hóa nhận thức về con người của người Việt.
3.2.2.2. Bức tranh ngôn ngữ về ý chí, phẩm chất, tính cách con người qua ý
niệm bộ phận cơ thể người
Luận án đã tiến hành khảo sát và thu được 477 biểu thức tri nhận về
tính cách con người, trong đó lòng, ruột, bụng, dạ là những ý niệm đóng vai
trò quan trọng nhất trong việc tri nhận các ý niệm phẩm chất, tính cách con
người. Điều đặc biệt là, trong tư duy của người Việt, lòng là bộ phận trung
tâm hơn cả, là bộ phận cơ thể gần như mang tính tuyệt đối trong việc ý
niệm hóa các phẩm chất con người. Đây có thể coi là đặc trưng văn hóa
khác biệt so với các ngôn ngữ khác.
3.2.2.3. Bức tranh ngôn ngữ về trạng thái tâm lí con người qua ý niệm bộ
phận cơ thể người
Các trạng thái tâm lý của người Việt được tri nhận qua các ý niệm

BPCTN trong tiếng Việt rất phong phú và tinh tế. Điều đó thể hiện ở hơn
300 biểu thức ẩn, hoán có chứa các từ chỉ BPCTN thể hiện những trạng thái
phức tạp của con người. Các kết quả quan sát được cũng cho ta thấy rằng
các BPCT xuất hiện không đồng đều trong các biểu thức ngôn ngữ thuộc ý
niệm đích. Qua khảo sát, mặt xuất hiện với tỉ lệ cao nhất (50%), rồi đến mắt
(30%) và đến các bộ phận nội tạng như: lòng, ruột, bụng…
3.2.2.4. Bức tranh ngôn ngữ về hoạt động, kĩ năng của con người qua ý
niệm bộ phận cơ thể người
“Kĩ năng là năng lực, là khả năng của chủ thể thực hiện thuần thục
một hay một chuỗi hoạt động trên cơ sở hiểu biết kiến thức hoặc kinh
nghiệm”. Mỗi bộ phận cơ thể thực hiện một chức năng riêng do vậy, mỗi bộ
phận gắn với những kĩ năng đặc thù: “mắt” thường gắn với kĩ năng nhìn
nhận, đánh giá; “mũi” gắn với kĩ năng tìm, xác định sự việc; “não” gắn với
kĩ năng tư duy, lập luận, “miệng” gắn với kĩ năng lập luận …; đặc biệt
trong tiếng Việt “tay” xuất hiện trong rất nhiều các biểu thức ẩn dụ, hoán dụ
biểu thị kĩ năng của con người như: cao tay, mát tay, khéo tay, khéo chân,
khéo tay, tay dao tay thớt,…
3.2.3. Bức tranh ngôn ngữ về đồ vật, sự vật với ý niệm bộ phận cơ thể người
Trong quan niệm của người Việt, các đồ vật, đồ dùng, dụng cụ lao
động, phương tiện lao động sản xuất của con người đều được coi là “của
cải”. Từ con trâu, con gà, con lợn đến cái giường, cái bát, con dao, cây lúa,

21


cây na... Các đồ vật, sự vật trong cuộc sống và ở thế giới xung quanh được
tri nhận, so sánh, liên tưởng với con người một cách thân thiết, sống động
như một thực thể có đầy đủ các bộ phận: đầu, mắt, mũi mặt, tóc, chân, tay,
nách, vai, lưng, sườn. Sự tri nhận các bộ phận đồ vật bằng các từ chỉ
BPCTN của tiếng Việt trên chủ yếu dựa trên cơ chế kích hoạt các thuộc tính

như vị trí, hình dáng, chức năng của các BPCTN. Sự tri nhận này tạo thành
một thói quen, mang tính chất thường nhật trong cuộc sống. Người Việt, khi
bắt gặp loại đồ vật nào cũng có thể đặt cho chúng cái tên gọi bằng các từ chỉ
bộ phận cơ thể. Sự tiếp xúc, sử dụng các đồ vật trong cuộc sống hằng ngày
của người Việt đã tạo nên ấn tượng về sự tưởng tượng, so sánh các đồ vật
với con người trở thành tập quán tư duy riêng về đồ vật. Việc đặt chúng
trong mối quan hệ có tính chỉnh thể để tạo ra tên gọi cho các bộ phận của
các đồ vật là tập quán quen thuộc của người Việt.
Tiểu kết
Cơ chế ánh xạ ý niệm BPCTN phản ánh cơ chế chuyển nghĩa của
nhóm từ chỉ BPCTN. Có hai cơ sở chính tạo nên ý niệm ẩn, hoán dụ
BPCTN đó là cơ sở kinh nghiệm và cơ sở văn hóa.
Những cơ sở kinh nghiệm bao gồm: những hiểu biết của con người
về vị trí, hình dạng, chức năng cũng như các quá trình sinh lí của các
BPCTN. Những kinh nghiệm này thông qua quá trình khái quát hóa, phạm
trù hóa hình thành nên các ẩn dụ, hoán dụ ý niệm BPCTN. Tuy vậy, các ẩn
dụ, hoán dụ ý niệm BPCTN được tạo ra không đơn thuần chỉ dựa trên
những đặc tính tương đồng giống nhau của các đối tượng giữa miền nguồn
và miền đích mà ở cấp độ sâu hơn, sự ánh xạ này còn dựa trên những tương
quan kinh nghiệm của mỗi cá nhân con người có gắn bó mật thiết với
những đặc thù về tư duy và văn hóa dân tộc.
Sự chuyển nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN diễn ra rất phong phú, kết
quả là các từ chỉ BPCTN xuất hiện trong nhiều mảng của hiện thực cuộc
sống tạo nên bức tranh ngôn ngữ sinh động, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.
Đặc trưng văn hóa dân tộc của người Việt thể hiện qua sự chuyển
nghĩa của nhóm từ chỉ BPCTN vừa mang những nét chung phổ quát của các
ngôn ngữ lại vừa mang những nét riêng của dân tộc. Bức tranh ngôn ngữ về
thế giới qua ý niệm “BPCTN” trong tiếng Việt là một tấm gương phản
chiếu cách nhìn thế giới, cách tri nhận và mô tả về thế giới của người Việt
vốn được hàm chứa trong những đặc thù ngữ nghĩa và tri nhận. Qua bức

tranh ngôn ngữ này, cho phép chúng ta nhận ra chiều hướng tư duy logic,
sự phân tích tỉ mỉ, chi tiết hóa trong cách tri nhận của người Việt.

22


KẾT LUẬN
Nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể người là một trong những nhóm từ
trung tâm, cơ bản của mọi ngôn ngữ. Đây là nhóm từ ra đời sớm nhất và thu
hút được sự quan tâm chú ý của nhiều nhà nghiên cứu. Qua 3 chương,
những nghiên cứu của luận án được thể hiện ở một số nội dung cơ bản sau:
1. Theo quan điểm của ngôn ngữ học tri nhận, sự phát triển ngữ
nghĩa của từ không chỉ là hiện tượng của ngôn ngữ mà còn là hiện tượng
mang tính ý niệm. Nghiên cứu sự phát triển nghĩa của nhóm từ chỉ bộ phận
cơ thể người là nghiên cứu về quá trình ý niệm hóa thế giới của con người
thông qua nhóm từ này. Theo đó, luận án tập trung khảo sát tổ chức ý niệm
của miền bộ phận cơ thể người với tư cách là những ý niệm thuộc miền
nguồn. Theo kết quả khảo sát, tổ chức ý niệm miền nguồn có 397 thành tố
gồm 3 nhóm lớn với 5 điển mẫu tương ứng: phần đầu - đầu, mặt; phần nội
tạng - bụng, lòng; phần khác - tay. Mỗi nhóm có số lượng thành viên khác
nhau, có đặc điểm tri nhận khác nhau.
2. Quá trình tỏa tia của các điển mẫu miền ý niệm bộ phận cơ thể
người trong tiếng Việt có một đồng hình với cơ chế phát triển nghĩa từ
vựng.Tuy nhiên, sự đồng hình này không phải là đồng nhất, bởi sự chuyển
nghĩa theo quan điểm của ngôn ngữ học tri nhận là sản phẩm của tư duy và
ngôn ngữ chỉ là công cụ để biểu hiện của tư duy. Theo quan điểm của ngôn
ngữ học tri nhận, mỗi nghĩa trong phạm trù tỏa tia là một nghĩa ý niệm, các
nghĩa ý niệm này có liên quan đến nhau và liên quan đến nghĩa nguyên gốc
theo một cơ chế tư duy nhất định.
3. Miền ý niệm bộ phận cơ thể người đã ánh xạ lên hầu hết các

miền đích khác thuộc các lĩnh vực tự nhiên, xã hội, con người phản ánh quá
trình chuyển nghĩa, chuyển trường phong phú của nhóm từ chỉ bộ phận cơ
thể người. Mặt khác, các ánh xạ này mang tính hệ thống, đồng loạt minh
chứng cho quá trình chuyển nghĩa mang tính hệ thống của nhóm từ chỉ bộ
phận cơ thể người.
4. Trong miền ý niệm bộ phận cơ thể người, những yếu tố nằm
trong vùng ánh xạ từ miền “bộ phận cơ thể người” tới các miền đích không
gian, thời gian, thực vật, đồ vật được xếp vào nhóm các ẩn dụ ý niệm,
những yếu tố nằm trong vùng ánh xạ từ miền “bộ phận cơ thể người” tới
các miền “con người” được xếp vào nhóm các hoán dụ ý niệm. Như vậy, ẩn
dụ và hoán dụ ý niệm không chỉ là những phương tiện trang trí tu từ mà nó
còn là một cơ chế tri nhận. Hệ thống ẩn dụ, hoán dụ ý niệm miền “bộ phận
cơ thể người” trong tiếng Việt được phân loại thành các dạng: ẩn dụ bản thể
(BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI LÀ VẬT CHỨA), ẩn dụ định hướng (VUI
LÀ HƯỚNG LÊN CỦA CÁC BỘ PHẬN CƠ THỂ…), ẩn dụ cấu trúc

23


×