Phần 1: MỞ ĐẦU
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Sáng kiến: “Một số biện pháp giúp trẻ 3-4 tuổi làm quen với tác
phẩm văn học”
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Lĩnh vực Phát triển ngôn ngữ
3. Tác giả: Họ và tên: Vũ Thị Đông
Nữ
Ngày, tháng, năm sinh:
Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm mầm non
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường mầm non Thúc Kháng
Điện thoại:
4. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu: Trường mầm non Thúc Kháng
Điện thoại: 03206.524 440
5. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Tài liệu hỗ trợ phát triển ngôn ngữ 3 - 4 tuổi
- Đồ dùng dạy và học
- Đối tượng: Trẻ lớp 3 tuổi A - Trường mầm non Thúc Kháng
6. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Từ tháng 9 năm 2017 đến
tháng 02 năm 2018
TÁC GIẢ
XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ
(Ký, ghi rõ họ tên)
ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
......................................................................
......................................................................
......................................................................
......................................................................
......................................................................
1
TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
Trong công tác giáo dục trẻ mầm non thì việc cho trẻ làm quen với văn
học là việc làm thường xuyên không thể thiếu . Văn học còn có tác dụng giáo
dục về mọi mặt đối với trẻ như : Ngôn ngữ , đạo đức ,trí tuệ , thẩm mỹ , thể
lực và đạc biệt là ngôn ngữ . Ngôn ngữ là phương tiện để giao tiếp và dùng
ngôn ngữ để bày tỏ nguyện vọng của mình đồng thời ngôn ngữ là công cụ của
tư duy vì vậy các nhà giáo dục sử dụng nhiều phương pháp văn học khác
nhau nên có nội dung khác nhau
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến
Tôi đã nghiên cứu và áp dụng sáng kiến “Một số biện pháp giúp
trẻ 3-4 tuổi làm quen với tác phẩm văn học” từ thời điểm tháng 9 năm 2017
đến tháng 02 năm 2018 tại lớp mẫu giáo 3 - 4 tuổi mà tôi phụ trách.
3. Nội dung sáng kiến
Trong nội dung sáng kiến của mình chúng tôi chỉ ra được thực trạng còn
tồn tại trên cơ sở đó chúng tôi đã xây dựng và đề xuất một số biện pháp sau :
Biện pháp 1. Xây dựng kế hoạch của lớp:
Biện pháp 2. Công tác tuyên truyền:
Biện pháp 3. Công tác tự bồi dưỡng:
Biện pháp 4. Công tác làm đồ dùng, đồ chơi:
Biện pháp 5. Công tác của giáo viên giúp trẻ thực hiện LQVH
* Tính mới, tính sáng tạo của sáng kiến:
- Xác định nội dung cần truyền đạt giúp cho vốn tác phẩm văn học của trẻ
có nội dung thông báo ngắn gon, rõ ràng. Sắp xếp nội dung đã lựa chọn giúp
cho lời nói của trẻ được đầy đủ hợp lý và có logic.
- Lựa chọn từ giúp trẻ diễn tả chính xác nội dung mình cần thông báo.
Chọn từ giúp cho lời nói của trẻ rõ rang, chính xác và mang sắc thái biểu cảm.
- Sắp xếp cấu trúc lời nói có sự liên kết các câu nói lại với nhau tạo thành
chuỗi lời nói nhằm diễn tả trọn vẹn một ý, một nội dung nào đó để giúp người
nghe hiểu được.Đây là sự sản xuất toàn bộ nội dung thông báo có logic.
2
- Diễn đạt nội dung nói phải ngừng nghỉ ngắt giọng đúng, để giọng nói
của trẻ không ê, a, ậm ừ. Luyện cho trẻ tác phong khi nói phải thoai mái, tự
nhiên, khi nói nhìn vào mặt người nói.
* Khả năng áp dụng của sáng kiến: Nhiệm vụ phát triển ngôn ngữ
mạch lạc được thực hiện ở mọi lúc mọi nơi trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ.
Tiếp tục dạy trẻ biết nghe – hiểu – trả lời câu hỏi của người lớn. Biết trò chuyện
với những người xung quanh. Dạy trẻ kể chuyện về đồ chơi, đồ vật theo tranh,
kể lại tác phẩm văn học, kể có trình tự, diễn cảm.
*
* Lợi ích thiết thực của sáng kiến : Áp dụng sáng kiến “Một số biện
pháp giúp trẻ 3-4 tuổi làm quen với tác phẩm văn học” sẽ mang lại những lợi
ích sau:
- Giúp trẻ phát triển thẩm mĩ, giáo dục kỹ năng sống từ đó góp phần phát
triển toàn diện nhân cách trẻ.
4. Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến
Áp dụng sáng “Một số biện pháp giúp trẻ 3-4 tuổi làm quen với tác
phẩm văn học” đã mang lại hiệu quả cao. Gíao viên chủ động, linh hoạt và
sáng tạo hơn. Đa số trẻ mạnh dạn, tự tin. Phụ huynh đã quan tâm và cùng phối
hợp với giáo viên trong việc chăm sóc, giáo dục trẻ.
5. Đề xuất kiến nghị để thực hiện áp dụng sáng kiến
Để thực hiện có hiệu quả hơn nữa việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ trong
trường mầm non, chúng tôi rất cần có sự quan tâm hơn nữa của BGH nhà
trường và lãnh đạo cấp trên tạo điều kiện tốt về cơ sở vật chất, về chuyên môn
nghiệp vụ để từ đó tôi khắc phục những khó khăn cũng như hạn chế của bản
thân khi thực hiện việc áp dụng sáng kiến.
3
Phần 2: MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
Giáo dục mầm non là ngành học mở đầu trong hệ thống giáo dục quốc
dân ,chiếm vị trí rất quan trọng . Giáo dục mầm non có nhiệm vụ xây dựng
những cơ sở ban đầu ,đặt nền móng cho việc hình thành nhân cách con người
Đây là thời điểm mấu chốt và quan trọng nhất , ở cái thời điểm ấy tất cả
mọi việc đều bắt đầu : Bắt đầu ăn , bắt đầu nói , bắt đầu nghe ,nhìn và vận
động bằng đôi chân , đôi tay của mình ….Tất cả những cử chỉ đó dều làm nên
những thói quen , kể cả thói quen xấu .Cho nên giáo dục mầm non đã góp
phần không nhỏ vào việc giáo dục thế hệ trẻ . Trách nhiệm nặng nề và cao cả
ấy tất cả thuộc về cô giáo mầm non , tạo nên nền tảng vững chắc chặng khôn
lớn của trẻ. Ở lứa tuổi này “ Cái sảy nảy cái ung ” chính vì vậy nhạy cảm và
có trách nhiệm cao là một yêu cầu không thể thiếu trong công tác chăm sóc
giáo dục trẻ , cô giáo phải rất linh hoạt nhạy bén kịp thời ,có năng lực và có
tính chủ động ,sáng tạo cao .
Giáo dục có tầm quan trọng rất lớn đối với đời sống con người nhất là
tuổi mầm non . Ca dao xưa có câu “ Dạy con từ thủơ còn thơ ” câu ca dao
ấy đã đi vào lòng người và không thể nào quên . Mỗi chúng ta đều được lớn
lên từ những tiếng ru dịu ngọt của ông bà cha mẹ , ngay từ lúc chào đời
những tiếng ru êm dịu của bà của mẹ lại cất lên “ Cháu ơi cháu ở với bà ”
Hoặc “ Con cò lặn lội bờ sông ” …Đã tan biến vào hồn ta và cùng ta lớn dậy .
Lớn lên chút nữa ta lại được bay bổng trong thế giới cổ tích như được
vui chơi những trò chơi gắn với những câu ca dao , đồng dao “ Chi chi chành
chành ” hay “ Nu na nu nống ”.
Chúng ta lớn lên bằng những tiếng ru ấy và cũng lớn lên bằng những câu
chuyện thần tiên . Ta lớn lên về thể xác và cũng mở rộng dần đôi cánh của
tâm hồn và tình cảm . Chính vì lẽ đó việc cho trẻ mầm non - Đặc biệt là trẻ ở
độ tuổi 3- 4 tuổi làm quen với các tác phẩm văn học là hết sức quan trọng và
cần thiết bởi vì : Thông qua văn học giúp cho trẻ nhận biết được thế giới
4
xung quanh , mở rộng vốn hiểu biết của trẻ đối với thiên nhiên và cuộc sống
xung quanh thông qua đó trẻ biết tích luỹ được những kinh nghiệm sống .
Đặc biệt thông qua việc làm quen với văn học giúp cho ngôn ngữ của trẻ
phát triển ,làm phong phú thêm vốn từ của trẻ , trẻ biết dùng từ chính xác biểu
cảm.
Văn học còn giúp cho trẻ nhận biết được cái hạy, cái đẹp , cái thiện ,cái
ác.
Xuất phát từ vấn đề trên hơn nữa bản thân tôi là một giáo viên trực “Một số
biện pháp giúp trẻ 3-4 tuổi làm quen với tác phẩm văn học” này với mục
đích giúp trẻ dễ dàng hơn trong việc cảm nhận ngôn ngữ nghệ thuật của thơ
chuyện và biết thể hiện nó bằng chính ngôn ngữ hành động của trẻ.
2. Thực trạng của vấn đề
Năm 2017 – 2018 tôi được Ban giám hiệu nhà trường phân công chủ
nhiệm và giảng dạy lớp mẫu giáo 3 4 tuổi, tổng số cháu của lớp là 28 cháu.
như sau.
Nhìn chung giáo viên đều nhiệt tình , có tinh thần trách nhiệm , yêu
nghề, mến trẻ quan tâm chăm sóc và giáo dục trẻ .
Nhà trường và phòng giáo dục luôn quan tâm tới mọi hoạt động của giáo
viên nhất là việc nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Các bậc phụ huynh đã có sự quan tâm đến việc chăm sóc và giáo dục trẻ
vì vậy hầu hết trẻ trong lớp đều nhanh nhẹn ,tích cực .
*/ Khó khăn :
Bên cạnh những thuận lợi trên chúng tôi cũng còn gặo không ít khó khăn
đó là :
Lớp học còn chật chội gây khó khăn cho việc tổ chức các hoạt động.
Khả năng nhận thức của học sinh không đồng đều
Đồ dùng , đồ chơi chưa đáp ứng được nhu cầu vui chơi của trẻ .
Một số bậc phụ huynh chưa thực sự hiểu về trách nhiệm của gia đình
trong việc chăm sóc , giáo dục trẻ cũng như chương trình chăm sóc trẻ ở lứa
5
tuổi mầm non do vậy chưa có có biện pháp phối , kết hợp giữa cha mẹ và cô
giáo để đạt hiệu quả giáo dục tốt nhất.
Từ thực trạng trên tôi đã mạnh dạn áp dụng những giải pháp sau
3. Các giải pháp, biện pháp thực hiện
Muốn đạt được kết quả cao trong vấn đề này thì trước hết cô giáo cần
phải yêu văn học, say mê văn học, thích học hỏi tìm tòi khám phá những cái
hay cái đẹp trong từng tác phẩm văn học, tích luỹ kiến thức, hiểu biết về văn
học nói chung và cụ thể là các bài thơ câu chuyện, đặc biệt là thơ chuyện Mầm
non.
3.1. Biện pháp 1: Xây dựng kế hoạch của lớp:
Vào đầu năm học tôi tôi đã nghiên cứu kế hoạch của nhà trường, dựa vào
tình hình thực tế của lớp, tôi đã xây dựng kế hoạch giảng dạy, nêu rõ mục đích
yêu cầu và các biện pháp thực hiện. Khi đã được nhà trường duyệt tôi dựa vào
kế hoạch năm học để xây dựng kế hoạch cụ thể của lớp từng tháng, từng chủ
đề, từng học kỳ và thực hiện theo đúng kế hoạch đã xây dựng.
3.2. Biện pháp 2: Công tác tuyên truyền:
Bên cạnh việc xây dựng kế hoạch thực tiễn của lớp thì công tác tuyên
truyền đến các bậc phụ huynh và cộng đồng hiểu được nội dung của môn văn
học đối với trẻ 5 tuổi cũng là vấn đề quan trọng và cấp thiết. Đây là một việc
làm rất khó khăn vì đa số phụ huynh làm nông nghiệp nên rất ít quan tâm đến
nội dung giảng dạy ở cấp mầm non nên còn nhiều hạn chế, vì vậy tôi đã lựa
chọn một số biện pháp tuyên truyền sau :
-Tuyên truyền trong buổi họp phụ huynh đầu năm. Trước khi họp tôi
chuẩn bị chu đáo về nội dung sẵn có như : đĩa truyện, thơ, ti vi, đầu đĩa, máy vi
tính, và các đồ dùng thủ công khác để tuyên truyền môn làm quen văn học. Khi
trao đổi tôi giải thích cho phụ huynh hiểu ý nghĩa của văn học đối với sự phát
triển của trẻ, tác động của công nghệ thông tin để trẻ làm quen với văn học.
-Xây dựng góc tuyên truyền có nội dung và hình thức phong phú để ở
những nơi dễ nhìn, để phụ huynh xem vào giờ đón trả trẻ .
6
Bằng các hình thức trên thì đa số các bậc phụ huynh và cộng đồng đã
hiểu được vai trò, ý nghĩa và tầm quan trọng của của việc cho trẻ làm quen văn
học nên đã nhiệt tình ủng hộ để lớp thực hiện tốt môn học này .
3.3. Biện pháp 3: Công tác tự bồi dưỡng:
Đi đôi với công tác tuyên truyền thì công tác tự bồi dưỡng rất cần thiết:
+ Tham gia đầy đủ các buổi học bồi dưỡng do nhà trường và Phòng
GD&ĐT tổ chức .
+ Tham gia dự giờ để học hỏi đồng nghiệp, thường xuyên trao đổi trong
các buổi sinh hoạt chuyên môn do nhà trường và cụm tổ chức. Qua đó rút kinh
nghiệm cho từng tiết dạy về phương pháp hình thức tổ chức dạy học. Rút kinh
nghiệm về giọng đọc và giọng kể … trên cơ sở đó bản thân tôi cũng lựa chọn
những phương pháp phù hợp với đặc điểm của lớp, hình thức tổ chức tiết dạy
cho học sinh lớp mình đang dạy .
+ Tự xây dựng cho mình giáo án phù hợp với đặc điểm của lớp, những
tiết tập cho trẻ kể chuyện sáng tạo. Tích cực trao đổi với đồng nghiệp về
phương pháp và hình thức tổ chức, tự rèn luyện về giọng đọc, giọng kể cho
diễn cảm. Tôi còn tự học hỏi, tìm tòi, truy cập mạng internet khai thác tối đa tài
liệu tranh minh họa. Ngoài ra từ tranh ảnh khai thác được, tôi có thể làm thành
fim ngắn được lồng tiếng tạo cho câu chuyện bài thơ thêm sinh động, hấp dẫn
hơn nhằm phục vụ tiết học tốt gây hứng thú cho trẻ khi học môn LQVH…
3.4. Biện pháp 4: Công tác làm đồ dùng, đồ chơi :
Nhận thức được tầm quan trọng của đồ dùng trực quan trong việc nâng
cao chất lượng giáo dục trẻ 5 tuổi làm quen với văn học. Vì vậy tôi đã tìm tòi,
học tập và suy nghĩ để sáng tạo ra một số đồ dùng, đồ chơi phục vụ chuyên đề.
Cụ thể vào các buổi thứ bảy trong tuần tôi cùng với đồng nghiệp tập trung làm
đồ dùng như : vẽ tranh, làm mô hình rối dẹt, làm tranh nổi, khâu rối tay…
Ngoài ra những sản phẩm khó tôi nhờ sự giúp đỡ của đồng nghiệp để sản phẩm
của mình được đẹp mắt và gần gũi hơn . Nhờ có sự đầu tư trên nên đã phát huy
tối đa khả năng hoạt động của trẻ, kích thích sự khám phá bằng các giác quan,
phát triển trí tò mò ham hiểu biết của trẻ. Đó là hiệu quả phấn khởi của việc đầu
7
tư thích đáng vào hoạt động đồ chơi, sách tranh truyện của nhà trường góp
phần đồng hành cùng môn văn học.
3.5. Biện pháp 5: Công tác của giáo viên giúp trẻ thực hiện LQVH:
Qua phân tích trên thì tất cả các biện pháp như: lập kế hoạch, tuyên
truyền, bồi dưỡng và làm đồ dùng đồ chơi v v… mỗi biện pháp đều có ý nghĩa
riêng trong việc thực hiện tốt tiết dạy nhưng sẽ không hiệu quả khi chúng ta bỏ
qua vài biện pháp cụ thể khác:
a. Nghiên cứu kỹ tác phẩm.
- Để giúp trẻ nâng cao khả năng cảm thụ văn học thì việc tạo cơ hội cho
trẻ làm quen với tác phẩm văn học phải thường xuyên. Ngay từ đầu năm học
lãnh đạo nhà trường đã trang bị cho lớp nhiều quyển truyện, tập tranh. Ngoài ra
bản thân tôi còn sưu tầm các sách văn học, các hoạ báo, tạp chí, lịch cũ, nguyên
liệu cho trẻ tự làm sách để xây dựng một “Góc thư viện” mang nội dung văn
học. Tại “Góc thư viện” trẻ được xem các tranh truyện, tạp chí, hoạ báo.
- Để tiết học đạt kết quả cao thì trước hết người giáo viên phải xác định
rõ mục đích yêu cầu của tác phẩm và phải thuộc tác phẩm. Từ đó đưa ra nội
dung giáo dục phù hợp với cốt truyện, phù hợp với lứa tuổi của trẻ. Bên cạnh
đó giáo viên phải chú ý đến giọng kể của mình, kể diễn cảm, đúng ngữ điệu của
từng nhân vật trong truyện, thể hiện nét mặt cử chỉ, tư thế phù hợp với diễn
biến của câu truyện thì mới thu hút sự chú ý của trẻ. Giọng đọc, giọng kể của
cô nhịp nhàng, đúng nhịp điệu sẽ giúp trẻ hiểu sâu sắc hơn về nội dung bài thơ,
câu truyện và khả năng cảm thụ văn học của trẻ cũng được nâng cao.
- Muốn cho trẻ làm quen với một tác phẩm văn học (dù là một câu
chuyện hay một bài thơ) thì người giáo viên phải luôn dành thời gian để đọc tác
phẩm nhiều lần. Vì vậy khi tôi dạy về văn học, tôi tin rằng mình cũng đã phần
nào góp phần nâng cao khả năng cảm thụ tác phẩm văn học của trẻ
- Lựa chọn nhân vật và cách thể hiện hành động và cử chỉ của nhân vật.
Muốn câu chuyện được người nghe hiểu nội dung và nhớ nội dung một cách
ghi nhớ và sâu sắc thì việc lựa chọn nhân vật là cực kỳ quan trọng.
Ví dụ:
8
+ Trong truyện “Ai đáng khen nhiều hơn” tôi đã chọn nhân vật Thỏ mẹ
và hai anh em Thỏ.
+ Trong truyện “ Thỏ và Dê” tôi đã chọn nhân vật Thỏ, Dê và Chó Sói.
+ Trong bài thơ “ Mèo đi câu cá” tôi đã chọn hai anh em Mèo.
b. Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học qua ứng dụng công nghệ
thông tin (CNTT).
- Để hoạt động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học, dù là thơ hay
truyện. Muốn đạt kết quả cao thì việc đầu tiên giáo viên phải chuẩn bị tốt đồ
dùng dạy học, đồ dùng đẹp hấp dẫn sẽ thu hút sự chú ý của trẻ. Trước đây giáo
viên thường sử dụng tranh minh hoạ làm đồ dùng chính trong hoạt động cho trẻ
làm quen với tác phẩm văn học. Song với hình thức đổi mới hiện nay, thời đại
CNTT nên việc ứng dụng CNTT vào bài giảng mang lại kết quả rất cao. Biện
pháp này luôn gây sự chú ý, tò mò cho trẻ. Vì vậy giáo viên nên đưa CNTT vào
giảng dạy trong các tiết học ở lớp sẽ mang lại kết quả cao.
Cụ thể:
* Đơn giản là các hình ảnh đưa vào bài giảng powẻpoint, sử dụng các
hiệu ứng, màu sắc phù hợp cũng đã gây sự chú ý của trẻ. Những giáo viên có
khả năng sử dụng máy tính thành thạo, họ có thể chuyển các bức tranh có sẵn
của bài thơ, câu chuyện thành đoạn phim hoạt hình, hay ta có thể đưa đoạn
phim quay sẵn phù hợp với nội dung, như thế rất thu hút và gây hứng thú cho
trẻ.
Khi dạy trẻ môn LQVH cần lựa chọn truyện có nội dung phù hợp với
chủ điểm: Bản thân tôi phải tìm tòi, sưu tầm ở sách, tập truyện tranh của
chương trình lớp 5 tuổi, những truyện, thơ có nội dung phù hợp với chủ điểm ở
lứa tuổi của trẻ.
Ví dụ:
+Trong chủ điểm “Gia đình” tôi đã chọn truyện “Thần Sắt”.
+Trong chủ điểm “Thế giới động vật” tôi đã chọn bài thơ “Mèo đi câu
cá”.
+ Ngoài ra tôi còn chọn được truyện ngoài chương trình “Thỏ và Dê”.
9
- Với câu chuyện “Thần sắt” tôi đã xây dựng đoạn phim về nội dung câu
chuyện, kết hợp lồng giọng kể rất hứng thú làm cho trẻ dễ nhớ nội dung truyện
và thấy được nét đặc trưng của các nhân vật.
c. Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học qua làm rối
- Với truyện “ Thỏ và Dê” (truyện ngoài chương trình) tôi đã làm được
bộ rối tay sau:
Tôi đã dùng xốp dày (xốp ở các thùng đựng tủ lạnh, ti vi), dùng dao gọt
để tạo thành đầu nhân vật và dùng giấy nhám đánh nhẵn. Sau đó dùng hồ dán
bồi 2 - 3 lớp giấy báo lên xốp và dùng keo để dán khăn mặt vào xốp (nếu dán
trực tiếp khăn mặt lên xốp thì keo nóng và làm sụn xốp)
+ Lấy dao nhọn khoét lỗ và dùng bìa cứng cuốn lại cắm vào để làm cổ.
+ Dùng vải vụn cắt và khâu thành áo rối (áo rối có 2 mảnh). áo rối dài
rộng tùy thuộc vào đầu của rối và tùy thuộc vào nhân vật trong truyện.
+ Dùng keo để dán áo rối vào cổ.
+ Dùng khuy, xốp để làm mắt, mũi, mồm của nhân vật.
+ Cắt tai nhân vật bằng mi ca trong, sau đó dán khăn mặt vào cả 2 mặt
của mi ca trong.
d. Tạo môi trường cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học qua trò
chơi đóng kịch:
- Là hoạt động giúp trẻ phát triển trí nhớ và giáo dục trẻ tinh thần tập thể.
Qua hoạt động đóng kịch, trẻ truyền đạt lại nội dung câu truyện, làm sống lại
10
tâm trạng, hành động ngôn ngữ hội thoại của các nhân vật trong truyện, đồng
thời trẻ biết thể hiện tình cảm và đánh giá các nhân vật trong truyện. Khi đóng
kịch trẻ dễ dàng nắm được nội dung, ý nghĩa của tác phẩm, nắm được tính liên
tục của câu truyện, điều này góp phần đẩy mạnh sự phát triển tư duy, cảm thụ
tác phẩm một cách sâu sắc ở trẻ. Để đạt được điều đó thì trước khi cho trẻ đóng
kịch, giáo viên phải cho trẻ ôn lại nội dung câu truyện và đàm thoại với trẻ về
nội dung. Giúp trẻ hiểu sâu hơn về nội dung truyện và lời thoại của các nhân
vật trong truyện. Để từ đó trẻ biết thể hiện những sắc thái khác nhau về ngữ
điệu, tính cách tâm trạng của các nhân vật trong truyện nhằm giúp trẻ phân biệt
được giọng điệu lời nói của các nhân vật, khắc hoạ được tính cách nhân vật.
Để trẻ nhớ được ngôn ngữ, lời thoại của các nhân vật trong truyện để
đóng kịch, trước hết cô cho trẻ nhắc lại lời thoại của nhân vật sau đó cho trẻ
đóng vai theo tổ hoặc nhóm.
Ví dụ trong truyện “Chú dê đen” cho tổ 1 làm dê trắng, tổ 2 làm dê đen,
tổ 3 làm cho sói để trẻ tự thể hiện hành động, điệu bộ của nhân vật cho quen và
thành thạo. Sau đó phân vai cho từng trẻ theo vai của các nhân vật trong truyện.
Lúc này cô giáo là người dẫn truyện và trẻ tự diễn theo nội dung câu truyện.
Khi trẻ diễn xong, cho trẻ tự nhận xét về vai diễn của mình, của bạn, từ đó trẻ
xác định được thái độ của trẻ đối với nhân vật trong truyện là yêu hay ghét. Trò
chơi đóng kịch thực sự giúp trẻ cảm nhận tác phẩm văn học một cách sâu sắc.
Để đạt được điều đó, việc trang trí sân khấu và hoá trang cho trẻ rất quan trong.
Ví dụ như câu truyện “3 chú Lợn” tôi làm sân khấu có màn che, rồi trang
trí cảnh phù hợp với câu truyện. Bên cạnh việc làm mô hình sân khấu thì việc
hoá trang cho trẻ đóng kịch cũng rất cần thiết. Với nhân vật “3 chú Lợn” tôi
cho trẻ mặc mặt nạ hình con lợn, bao tay và giầy hình chân con lợn và áo quần
màu sắc khác nhau phù hợp với tính cách của từng nhân vật. Việc hoá trang và
bố trí sân khấu phù hợp, trang phục đẹp sẽ giúp trẻ tự tin khi nhập vai tạo cho
trẻ hứng thú hơn với từng vở diễn.
Tóm lại : khi day ta có thể sử dụng phương pháp kể chuyện bàng tranh ảnh
làm thành đoạn pim có lồng giọng kể hoặc xử dụng phương pháp kể bằng rối ,
11
kết hợp với trò chơi đóng kịch trong từng loại tiết thì kết quả sẽ đạt chất lượng
cao .Ngoài tiết hoạt động có chủ đích tôi còn mở máy cho trẻ được nghe và
quan sát dể trẻ thuộc và cảm nhận được văn học đi sâu vào tâm hồn trẻ.
4. Kết quả đạt được
Sau khi thực hiện các biện pháp trên tôi nhận thấy kết quả đã được nâng
cao lên rõ rệt, cụ thể là:
*Đối với bản thân:
Chọn phương pháp giảng dạy phù hợp cho trẻ 3-4 tuổi làm quen với tác
phẩm văn học cụ thể:
+Giọng đọc, giọng kể diễn cảm hơn, giọng kể hợp với tính cách của
từng nhân vật thu hút được sự chú ý của trẻ.
+Biết cách lấy hình ảnh minh họa lồng ghép giọng đọc và kể thành đoạn
phim khi xử dụng công nghệ thông tin một cách thành thạo, để hỗ trợ tiết dạy
sinh động, hấp dẫn, sáng tạo trong quá trình dạy.
+ Chất lượng khảo sát trẻ:
Môn
Thơ
Khảo sát đầu năm
-Hứng thú: 55%
Khảo sát cuối năm
-Hứng thú: 85%
So sánh
-Tăng 30%
-Hiểu nội dung: 60%
-Hiểu nội dung: 85%
-Tăng 25%
-Thuộc tác phẩm: 60% -Thuộc tác phẩm: 90%
-Tăng 30%
-Đọc diễn cảm: 50%
-Hứng thú: 65%
-Đọc diễn cảm: 75%
-Hứng thú: 90%
-Tăng 25%
-Tăng 25%
Truyện -Hiểu nội dung: 40%
-Hiểu nội dung:80%
-Tăng 40%
-Kể diễn cảm: 20%
-Kể diễn cảm: 45%
-Tăng 25%
- Sau khi áp dụng một số biện pháp cho trẻ cảm thụ văn học trong năm
học đã cho thấy:
+ Trẻ thông minh sáng tạo hơn khi học các tiết văn học.
+ Trẻ thích được đóng kịch.
+ Trẻ thích đọc thơ kể truyện.
+ Trẻ ghi nhớ thuộc thơ truyện lâu hơn.
12
+ Trẻ có khả năng tự sáng tạo và thể hiện tính cách nhập vai một cách
linh hoạt.
+ Biết kể truyện sáng tạo, kể theo trí tưởng tượng một cách phong phú và
đa dạng.
13
Phần 3: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Áp dụng sáng kiến “Một số biện pháp giúp trẻ 3-4 tuổi làm quen với
tác phẩm văn học” như sau:
- Cô giáo cần phải ân cần nhẹ nhàng đối với trẻ, chịu khó tìm tòi, tranh
ảnh, thơ ca, câu đố, đông dao… mang tính chất phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
- Luôn tạo cho trẻ một tinh thần thoải mái, lồng ghép các hành vi tốt về
phát triển ngôn ngữ.
- Thường xuyên dạy trẻ, động viên trẻ đọc các bài thơ,câu đố mang tính
chất giáo dục giúp trẻ làm quen tác phẩm văn học ở mọi lúc mọi nơi.
- Thường xuyên trao đổi với các bậc phụ huynh để phối hợp hướng dẫn
để cùng phối hợp dạy và bồi dưỡng cho trẻ.
- Bản thân cô giáo cần nhiều thời gian để nghiên cứu ,tham khảo tài liệu
qua sách báo ,ti vi ….Đầu tư vào cách tổ chức, cách hoạt động sao cho phù hợp
với tiết dạy. Cô giáo làm nhiều đồ dùng đồ chơi, không ngừng rèn luyện năng
lực, học hỏi chị em đồng nghiệp, tham dự các hội thi từ đó phát huy tính tích
cực cho bản thân .
2. Khuyến nghị
Để giáo viên thực hiện tốt hơn nữa việc giúp trẻ làm quen tác phẩm văn
học, tôi xin mạnh dạn đề xuất một số khuyến nghị sau:
- Đối với giáo viên:
+ Cần nghiên cứu tài liệu về cách làm đồ dùng phục vụ cho môn học.
+ Có kế hoạch cụ thể về các nội dung dạy trẻ luyện nói, đọc thơ, đọc
truyện, luyện phát âm chuẩn phù hợp với điều kiện và đặc điểm trẻ.
-Phải thực hiện tốt kế hoạch giảng dạy đã xây dựng đồng thời xác định
cho trẻ 3-4 tuổi làm quen với văn học là nhiệm vụ cần thiết giúp trẻ phát triển
ngôn ngữ mạch lạc, chính xác .
- Nắm vững phương pháp giảng dạy trẻ làm quen với văn học. Giáo viên
trước tiên phải là người phát âm chuẩn xác đối với trẻ, có giọng kể diễn cảm
14
- Làm tốt công tác tuyên truyền về tầm quan trọng của văn học đối với
trẻ 3-4 tuổi để phụ huynh hiểu rõ mục đích, ý nghĩa của nội dung giảng dạy .
- Tích cực học hỏi với đồng nghiệp, tìm tòi UDCNTT vào dạy học để
phát huy khả năng sáng tạo của mình trong công tác phục vụ tiết dạy .
- Tham gia đầy đủ các hoạt động thực hành về chuyên đề văn học .
- Nghiên cứu tài liệu phục vụ môn dạy, khai thác tối đa công nghệ thông
tin để tiết dạy sinh động và hấp dẫn .
- Tích cực làm đồ dùng, đồ chơi theo chủ đề, đồ dùng minh hoạ cần
phong phú, đa dạng hấp dẫn. Giáo viên phải sử dụng khoa học gọn gàng đúng
lúc.
- Đối với nhà trường:
+ Tổ chức các buổi thảo luận, chuyên đề về dạy trẻ rèn luyện phát triển
ngôn ngữ
+ Xây dựng các tiết hoạt động mẫu về nội dung rèn luyện phát triển
ngôn ngữ cho trẻ để giáo viên học tập và được bồi dưỡng về chuyên môn
nghiệp vụ.
+ Chọn lọc và tạo thành bộ đĩa bài giảng điện tử với nội dung giúp trẻ
rèn luyện phát triển ngôn ngữ để giáo viên ứng dụng khi tổ chức hoạt động cho
trẻ.
- Đối với cấp Phòng, Sở giáo dục:
+ Tạo nhiều cơ hội cho giáo viên được trau dồi năng lực sư phạm qua
các lớp bồi dưỡng chuyên môn về nội dung giáo dục phát triển ngôn ngữ cho
trẻ.
+ Cung cấp các tài liệu có nội dung về giáo dục phát triển ngôn ngữ cho
trẻ mầm non để giáo viên nghiên cứu và học tập.
Trên đây là một số sáng kiến của bản thân tôi nhằm giúp trẻ 3-4 tuổi
“làm quen với tác phẩm văn học”.
Trong quá trình thực hiện đề tài, bản thân tôi đã cố gắng, song về mặt
nội dung cũng như hình thức trình bày không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi
15
rất mong nhận được sự góp ý xây dựng của Hội đồng khoa học các cấp để đề
tài của tôi hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
16