Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

SOKRATES và TRƯỜNG PHÁI SOKRATES

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.61 KB, 7 trang )

SOKRATES VÀ TRƯỜNG PHÁI
SOKRATES
I.KHÁI QUÁT VỀ SOKRATES
1.Sokrates(649-399 TCN)
Phác hoạ một hình ảnh chính xác về tiểu sử của Sokrates và quan điểm triết học
của ông là một nhiệm vụ vô cùng gian nan.
Sokrates không viết các tác phẩm triết học. Hiểu biết của chúng ta về ông, cuộc đời
và sự nghiệp của ông dựa trên ghi chép của các học trò và người cùng thời. Đầu
tiên trong số đó là Platon; tuy nhiên, tác phẩm của Xénophon, Aristoteles,
và Aristophanes cũng cung cấp những hiểu biết sâu sắc[1]. Tìm kiếm một hình ảnh
Sokrates "thật sự" là một điều rất khó khăn bởi những tác phẩm đó thường mang
tính triết lý hay là kịch hơn là sự thật lịch sử. Ngoài ra từ Thucydides (người không
đề cập đến Sokrates hay các triết gia nói chung), thật sự không có một tiểu sử thực
thụ của những người cùng thời với Platon. Kết quả tất yếu của điều đó là những
nguồn đó đã không mâu thuẫn với sự chính xác lịch sử. Các nhà sử học trước kia
phải đối mặt với việc làm hòa hợp rất nhiều tài liệu để tạo nên sự miêu tả chính xác
về cuộc đời và công việc. Kết quả của những nỗ lực như thế là sự tất yếu mang tính
hiện thực, là sự thống nhất đơn thuần.
Về tổng quan, Platon được xem như là nguồn thông tin chắc chắn về cuộc đời và
tác phẩm của Sokrates [2]. Tuy nhiên, điều đó cũng được làm sáng tỏ trong các tài
liệu và các tác phẩm lịch sử rằng Sokrates không đơn giản chỉ là nhân vật, hay phát
minh của Platon. Sự chứng nhận của Xénophon và Aristotle, theo như một số tác
phẩm của Aristophanes trong Mây, có thể hữu dụng trong việc liên kết nhận thức
về một Sokrates bằng xương bằng thịt bên cạnh các tác phẩm của Platon.
2.Cuộc đời
Chi tiết về Sokrates có nguồn gốc từ ba tác phẩm của những người cùng thời: Đối
thoại của Platon và Xénophon (đều là người say mê Sokrates), và các vở kịch của
Aristophanes. Ông cũng được miêu tả bởi một vài học giả, kể cả Eric
Havelock và Walter Ong, quán quân của việc kể truyền miệng, đứng sừng sững vào
buổi bình minh của văn viết chống lại sự truyền bá bừa bãi.
Vở kịch Mây của Aristophanes miêu tả Sokrates như là một chú hề dạy dỗ học trò


của mình cách thức lừa bịp để thoát nợ. Dĩ nhiên hầu hết tác phẩm của


Aristophanes đều mang tính chất châm biếm. Vì lẽ đó nó được cho là sự thành
công trong việc xây dựng nhân vật tiểu thuyết hơn là miêu tả chân thực.
Theo Platon, cha của Sokrates là Sophroniscus và mẹ là Phaenarete, một bà đỡ. Dù
được miêu tả như một mẫu người thiếu sức hấp dẫn bề ngoài và có vóc người nhỏ
bé nhưng Sokrates vẫn cưới Xanthippe, một cô gái trẻ hơn ông ta rất nhiều. Cô ấy
sinh cho ông ba đứa con trai Lamprocles, Sophroniscus và Menexenus. Bạn của
ông là Criton của Athena chỉ trích ông về việc bỏ rơi những đứa con trai của ông
khi ông từ chối việc cố gắng trốn thoát khỏi việc thi hành án tử hình.
Không rõ Sokrates kiếm sống bằng cách nào. Các văn bản cổ dường như chỉ ra
rằng Sokrates không làm việc. Trong Symposium của Xénophon, Sokrates đã nói
rằng ông nguyện hiến thân mình cho những gì ông coi là nghệ thuật hay công việc
quan trọng nhất: những cuộc tranh luận về triết học. Trong Mây Aristophanes miêu
tả Sokrates sẵn sàng chấp nhận trả công cho Chaerephon vì việc điều hành một
trường hùng biện, trong khi ở Apologia và Symposium của Platon và sổ sách kể
toán của Xénophon, Sokrates dứt khoát từ chối việc chỉ trả cho giảng viên. Để
chính xác hơn, trong Apologia Sokrates đã viện dẫn rằng cảnh nghèo nàn của ông
ấy là chứng cớ cho việc ông ấy không phải là một giáo viên. Theo Timon của
Phlius và các nguồn sau này, Sokrates đảm nhận việc trông coi xưởng đá từ người
cha. Có một lời truyền tụng cổ xưa, chưa được kiểm chứng bởi sự các học giả, rằng
Sokrates đã tạo nên bức tượng Three Grace ở gần Acropolis, tồn tại cho đến tận thế
kỉ thứ 2 sau Công nguyên.
Một số đoạn đối thoại của Platon quy cho việc Sokrates phục vụ trong quân đội.
Sokrates nói ông phục vụ trong quân đội Athen trong suốt ba chiến dịch:
tại Potidaea, Amphipolis, và Delium. Trong Symposium Alcibiades mô tả sự dũng
cảm của Sokrates trong trận Polidaea và Delium, kể lại chi tiết việc Sokrates cứu
mạng ông ta như thế nào tại cuộc chiến trước (219e – 221b). Sự phục vụ bất
thường của Sokrates ở Delium cũng được đề cập đến trong tác phẩm Laches với vị

tướng cùng tên với đoạn đối thoại (181b). Trong Apologia, Sokrates so sánh sự
phục vụ trong quân đội với việc ông bị rắc rối ở phòng xử án, và nói với tất cả bồi
thẩm đoàn nghĩ rằng việc ông nên từ bỏ triết học cũng phải nghĩ rằng những người
lính nên chạy trốn mỗi khi họ thấy họ có thể bị giết trong chiến trận.
3.Bản án và cái chết


Sokrates đã sống trong thời kỳ thịnh vượng của thành bang Athena cho đến lúc
nó suy tàn bởi người Sparta và liên minh của nó trong cuộc chiến
tranh Peloponnesus. Trong lúc Athena tìm kiếm sự ổn định và phục hồi từ thất
bại ê chề, nền cộng hòa dân chủ chủ nô của Athen bị nghi ngờ là làm suy yếu
sự lãnh đạo của nhà nước. Sokrates xuất hiện để chỉ trích thể chế dân chủ, và
một vài học giả giải thích rằng việc xét xử ông là biểu hiện của sự đấu tranh
chính trị.
Mặc dù luôn thể hiện sự trung thành đến chết với thành bang, song việc
Sokrates theo đuổi đến cùng lẽ phải và đức hạnh của ông đã mâu thuẫn với
chiều hướng chính trị và xã hội đương thời của Athena. Ông ca ngợi Sparta, chê
bai Athena, trực tiếp và gián tiếp trong nhiều cuộc đối thoại. Nhưng có lẽ hầu
hết các sử liệu xác thực đều cho thấy sự đối lập của Sokrates với thành bang là
ở quan điểm chỉ trích xã hội và luân lý của ông. Thích bảo vệ sự nguyên trạng
hơn là chấp nhận phát triển sự phi đạo đức. Trong lĩnh vực của mình Sokrates
cố gắng phá vỡ quan niệm lâu đời "chân lý thuộc về kẻ mạnh" rất thông dụng
ở Hy Lạp lúc bấy giờ. Platon cho Sokrates là "ruồi trâu" của nhà nước (như một
con ruồi châm chích con trâu, Sokrates châm chọc Athena. Quá đà hơn ông
chọc giận các nhà quản lý với ý kiến đòi xem xét các phán quyết toà án và các
quyết định. Cố gắng của ông để tăng cường ý thức của tòa án Athena có lẽ là
nguồn cơn cho việc hành hình ông.
Theo Apologia của Platon, cuộc đời như "ruồi trâu" của Athen bắt đầu khi bạn
ông Chaerephon hỏi nhà tiên tri ở Delphi rằng liệu có ai thông thái hơn
Sokrates; nhà tiên tri trả lời rằng không ai thông thái hơn. Sokrates tin rằng nhà

tiên tri đã nói đến một nghịch lý, bởi vì ông tin ông không biết gì cả. Sau đó
ông giải đáp bí ẩn bằng cách hỏi những người được cho là khôn ngoan ở
Athena, như là chính khách, thi sĩ hay thợ thủ công nhằm bác bỏ những lời nhà
tiên tri nói. Nhưng khi hỏi họ Sokrates đi đến kết luận, khi một người cho rằng
anh ta biết rất nhiều thì thực ra anh ta biết rất ít và không thông thái tẹo nào.
Sokrates nhận ra rằng nhà tiên tri đã đúng, những người được cho là khôn
ngoan nghĩ rằng họ biết nhiều trong khi thực tế thì ngược lại, tự ông cũng biết
rằng mình chả thông thái chút nào, nghịch lý thay, lại khiến ông là người khôn


ngoan duy nhất vì ông nhận thức được sự ngu dốt của mình. Nghịch lý sự khôn
ngoan của Sokrates đã khiến những người đứng đầu ở Athena mà ông từng đố
công khai cảm thấy mình trở nên ngốc nghếch, nên họ đã quay lại chống lại ông
và dẫn tới việc buộc tội những hành vi sai trái. Sokrates bảo vệ vai trò của ông
như ruồi trâu đến cùng; trong tù, khi ông được hỏi về đề xuất với hình phạt của
chính ông, ông đề nghị được chính phủ trả lương tuần và bữa tối miễn phí để bù
vào khoảng thời gian ông phải nghỉ, cung cấp tiền cho thời gian ông giúp ích
cho thành Athen. Tuy thế ông vẫn bị khép vào tội làm hư hỏng đầu óc của thanh
niên Athen và bị kết án tử hình bằng việc uống một loại độc dược bào chế
từ cây độc cần. Theo như sử liệu của Xénophon, Sokrates có chủ đích thách
thức bồi thẩm đoàn vì "ông ấy tin rằng ông ấy nên tự tử thì hơn". Xénophon
tiếp tục mô tả sự kháng cự Sokrates như là giải thích sự nghiêm khắc của người
già và Sokrates vui mừng như thế nào khi lừa được họ kết án ông tử hình. Điều
đó giúp ta hiểu ra rằng Sokrates cũng ước muốn được chết bởi ông "thật sự tin
cuộc đời thực của ông sẽ đến khi ông chết" Xénophon và Platon đồng ý rằng
Sokrates có một cơ hội giải thoát và những người tin theo ông có thể đút lót
lính coi ngục. Ông chọn ở lại bởi mấy lý do sau:
1.

Ông tin rằng sự trốn chạy là biểu hiện của sự sợ hãi cái chết, bởi ông tin

không triết gia nào làm thế.

2. Nếu ông trốn khỏi Athena, sự dạy dỗ của ông không thể ổn thỏa hơn ở
bất cứ nước nào khác như ông đã từng truy vấn mọi người ông gặp và
không phải chịu trách nhiệm về sự không vừa ý của họ.
3. Bằng sự chấp thuận sống trong khuôn khổ luật của thành bang, ông hoàn
toàn khuất phục chính bản thân ông để có thể bị tố cáo như tội phạm bởi
các công dân khác và bị tòa án của nó phán là có tội. Mặt khác có thể
ông bị kết tội vì phá vỡ sự "liên hệ cộng đồng" với Nhà nước, và gây tổn
hại đến Nhà nước, một sự trái ngược so với nguyên lý của Sokrates.
Lý do đầy đủ ẩn chứa sau lời từ chối trốn chạy của ông là chủ đề chính của vở
kịch Criton
Cái chết của Sokrates được diễn tả ở phần cuối của cuốn Phaedon của Platon.
Sokrates bác bỏ lời cầu xin của Criton để cố gắng thử trốn khỏi tù. Sau khi
uống độc dược, ông vẫn được dẫn đi dạo cho đến khi bước chân ông trở nên
nặng nề. Sau khi ông gục xuống, người quản lý độc dược véo thử vào chân ông.
Sokrates không còn cảm giác ở chân nữa. Sự tê liệt dần dần lan khắp cơ thể ông
cho đến khi nó chạy vào tim ông. Không lâu trước khi ông chết, Sokrates trăng
trối với Criton "Crito, chúng ta nợ một con gà trống với Asclepius. Làm ơn


đừng quên trả món nợ đó". Asclepius là thần chữa bệnh của người Hy Lạp, và
những lời cuối cùng của Sokrates nghĩa là cái chết là cách chữa bệnh và sự tự
do là việc tâm hồn thoát ra khỏi thể xác. Nhà triết học La Mã Seneca đã thử bắt
chước cái chết của Sokrates khi bị ép tự tử bởi Hoàng đế Nero.

II.TRIẾT HỌC
1.Phương pháp Sokrates
Có lẽ đóng góp quan trọng nhất của ông cho tư tưởng phương Tây là
phương pháp truy vấn biện chứng, được biết đến dưới tên gọi "phương pháp

Sokrates" hay phương pháp "bác bỏ bằng logic" (elenchus). Ông đã áp dụng
phương pháp này chủ yếu cho việc kiểm nghiệm các khái niệm quan trọng
về mặt đạo đức như Tốt đẹp và Công bằng. Platon là người đầu tiên miêu tả
phương pháp này với tác phẩm "Các cuộc hội thoại của Sokrates". Để giải
quyết một vấn đề, người ta chia nhỏ nó thành một hệ thống các câu hỏi, các
câu trả lời sẽ dần dần kết tinh ra lời giải mà ta tìm kiếm. Ngày nay, ảnh
hưởng của cách tiếp cận này có thể thấy rõ nhất ở việc sử dụng phương
pháp khoa học, mà bước đầu tiên là đặt ra giả thuyết. Sự phát triển và sử
dụng phương pháp này là một trong những đóng góp bền vững nhất của
Sokrates, đó là thành tố chính trong việc đánh giá ông là cha đẻ của triết học
chính trị, luân lý học, và là người khởi đầu của các xu hướng chính
trong triết học phương Tây.
Phương pháp Sokrates có thể được diễn tả như sau; một loạt câu hỏi được
đặt ra để giúp một người hay một nhóm người xác định được niềm tin cơ
bản và giới hạn của kiến thức họ. Phương pháp Sokrates là phương pháp
loại bỏ các giả thuyết, theo đó người ta tìm ra các giả thuyết tốt hơn bằng
cách từng bước xác định và loại bỏ các giả thuyết dẫn tới mâu thuẫn. Nó
được thiết kế để người ta buộc phải xem xét lại các niềm tin của chính mình
và tính đúng đắn của các niềm tin đó. Thực tế, Sokrates từng nói, "Tôi biết
anh sẽ không tin tôi, nhưng hình thức cao nhất của tinh túy con người là tự
hỏi và hỏi người khác" [3]
2. Trường phái Sokrates: Là những trường phái chịu ảnh hưởng tư
tưởng triết học Skorates được thành lập sau khi ông mất.
* Phái Mégare
Sự xuất hiện của phái như là dấu chấm hết thời kỳ cực thịnh của Triết học
Hy Lạp cổ đại để chuyển sang thời kỳ Hy Lạp hóa.
Euclide là một trong những người sáng lập ra phái này


Mang danh là trường phái nhỏ của Sokrates nhưng nó lại kế thừa hết sức

sang lọc những luận đề triết học của Sokrates
Xuất phát điểm triết học của họ là cái thiện bất biến và duy nhất.
Phái Mégare kết hợp chặt chẽ hình thức chứng minh phản chứng và thuật
ngụy biện trong tranh luận.
* Phái Cynique
Được gọi là phái Khuyển nho do Antisphene( 444- 336 TCN) sáng lập
Antisphene thường tổ chức các cuộc đàm thoại ở trường Kynosarges mà
Kynosarges theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là chó trắng. Bản thân ông cũng tự
xưng mình là chó lai
Người đương thời gọi trường phái này là Cynique ( vô liêm sỉ )
Phái tuyên truyền lối sống Apatia, đó là lối sống dửng dung, bình thản trước
tiền tài, danh vọng, hôn nhân… để trở về cuộc sống hoang sơ
So với phái Megare thì phái Cynique có ảnh hưởng sâu rộng hơn trong đời
sống xã hội vì nó đáp ứng được tâm lý của những người nghèo, bằng lòng
với cuộc sống hiện tại của họ
Lối sống này vào những thập niên giữa thế kỷ XX được khơi dậy ở phương
Tây với cái tên chủ nghĩa lãng mạn biến dạng
* Phái Cyrene
Tuyên truyền cho lối sống chủ trương tinh thần Hêđônê. Đó là lối sống đắm
chìm trong khoái lạc, ngập ứ trong nhục dục. Theo tôn chỉ :” khoái lạc là
phúc lợi cao nhất của con người’’
Khai sinh ra phái này là Asistippe ( 435- 360 TCN)
Điểm độc đáo của phái này là quan niệm về cảm giác. Lê Nin đã chỉ ra bản
chất của quan niệm này là: ‘’ Lẫn lộn cảm giác coi như là lý luận nhận thức
với cảm giác coi như là những nguyên tắc luân lý học’’
3.Đối thoại Sokrates
Phương pháp giảng dạy
Các bài dạy của ông thường được chia làm hai phần dựa trên sự đối
thoại:
 Phần thứ nhất: Phần hỏi và trả lời cho đến khi người đối thoại nhận

thức là mình sai.


 Phần thứ hai: Đây là phần lập luận: Ông giúp cho người đối thoại
hiểu và tự tìm lấy câu trả lời. Ông nói: "Mẹ tôi đỡ đẻ cho sản phụ,
còn tôi đỡ đẻ cho những bộ óc"
Tư tưởng
 "Hãy tự biết lấy chính mình."
 "Con người không hề muốn hung ác tàn bạo."
 "Việc gọi là tốt khi nó có ích."
 "Đạo đức là khoa học là lối sống."
 "Hạnh phúc có được khi nó dung hòa với đạo đức."
 "Điều bị bắt buộc phải làm cũng là điều hữu ích."
Câu nói nổi tiếng
 "Tôi biết rằng tôi không biết gì cả"



×