Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại công ty cổ phần than tây nam đá mài vinacomin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (563.92 KB, 97 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong xu thế phát triển của nền kinh tế đất nước như hiện nay, ngành Than
đang khẳng định là ngành công nghiệp giữ vai trò quan trọng của nền kinh tế quốc
dân. Từ chỗ sản lượng khai thác than từ 12 triệu tấn năm 2000, đến nay ngành Than
đã đạt trên 42 triệu tấn. Để có thể đạt được mức sản lượng mục tiêu 80 triệu tấn vào
năm 2025 và trong tương lai xa hơn nữa thì các doanh nghiệp ngành Than cần có
chiến lược tận dụng cơ hội về vốn, về khoa học kỹ thuật, công nghệ và quản lý kinh
tế khi nước ta mở cửa hội nhập với khu vực và quốc tế.
Khi nói về hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp, đối với doanh nghiệp khai
thác than nói riêng và các doanh nghiệp nói chung trong nền kinh tế thị trường, xét
cho cùng cũng chính là hiệu quả của việc sử dụng tốt nhất các nguồn lực mà doanh
nghiệp có và có thể huy động vào sản xuất kinh doanh trong điều kiện môi trường
kinh doanh để đem lại lợi ích kinh cao nhất cho doanh nghiệp.
Cùng với nhiều nguồn lực khác, vốn (vốn kinh doanh) là một nguồn lực hết
sức quan trọng và là tiền đề để doanh nghiệp có thể bắt đầu thực hiện hoạt động
kinh doanh. Quy mô vốn kinh doanh sẽ quyết định quy mô sản xuất kinh doanh và
ảnh hưởng tới sự phát triển trong tương lai của doanh nghiệp. Chính vì vậy, việc
quản lý và sử dụng vốn luôn giữ vai trò quan trọng trong công tác quản lý sản xuất,
kinh doanh của doanh nghiệp.
Là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vưc khai thác khoáng sản, Công ty
cổ phần Than Tây Nam Đá Mài - Vinacomin đang từng bước khẳng định mình trên
con đường phát triển. Tuy nhiên khi nguồn tài nguyên cũng như các nguồn lực khác
ngày càng khan hiếm thì Công ty không chỉ quan tâm đến việc tìm nguồn huy động
bổ sung vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh mà quan trọng hơn là phải tìm mọi
biện pháp quản lý vốn chặt chẽ, khoa học nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh
doanh của doanh nghiệp mình.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh
doanh và tình hình thực tế tại Công ty cổ phần Than Tây Nam Đá Mài - Vinacomin,


tác giả đã lựa chọn đề tài” Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh


2

tại Công ty cổ phần Than Tây Nam Đá Mài - Vinacomin” để nghiên cứu cho luận
văn thạc sỹ của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở khái quát và hệ thống hoá lý luận, phân tích đánh giá thực trạng
của doanh nghiệp đề tài đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
kinh doanh tại Công ty cổ phần Than Tây Nam Đá Mài – Vinacomin nhằm mục
đích đem lại hiệu quả kinh doanh và phát triển bền vững Công ty.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Các nội dung về vốn kinh doanh, các nhân tố ảnh
hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của công ty cổ phần Than Tây Nam Đá
Mài - Vinacomin và biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công
ty.
Phạm vi nghiên cứu: Để thực hiện đề tài, phạm vi nghiên cứu được giới hạn
trong Công ty cổ phần Than Tây Nam Đá Mài - Vinacomin qua các năm 2012,
2013, 2014.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề:
- Những lý luận liên quan đến vốn kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn kinh
doanh của doanh nghiệp.
- Phân tích, đánh giá thực trạng vốn kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn
kinh doanh tại Công ty cổ phần Than Tây Nam Đá Mài – Vinacomin qua các năm
2012, 2013, 2014.
- Trên cơ sở đánh giá những hạn chế bất cập ở trên, luận văn đề xuất một số
giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty Cổ phần Than Tây
Nam Đá Mài - Vinacomin nói riêng và tại các doanh nghiệp khai thác than nói

chung.
5. Phương pháp nghiên cứu


3

Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn dựa trên cớ sở
phương pháp luận duy vật biện chứng, phương pháp hệ thống. Các phương pháp cụ
thể như sau:
- Phương pháp phân tích tài liệu: Phương pháp này được sử dụng để phân
tích các các tài liệu liên quan như sách tham khảo, tạp chí chuyên ngành, các tài liệu
thu thập tại đơn vị, các quy định của Nhà nước...
- Phương pháp quan sát đối tượng: Phương pháp này sử dụng để quan sát
việc sử dụng vốn kinh doanh trong khai thác than…
- Phương pháp chuyên gia (phương pháp kinh nghiệm): Tham khảo ý kiến
của các chuyên gia bao gồm những nhà khoa học nghiên cứu về mặt lý luận và các
chuyên gia quản lý vốn tại doanh nghiệp.
- Phương pháp thống kê: Sử dụng để thống kê và xử lý các số liệu liên quan
đến kết quả kinh doanh, lao động…
- Phương pháp hệ thống: Sử dụng để tổng hợp lại số liệu sau khi tiến hành
phân tích, đưa ra kết quả đánh giá.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài luận văn
- Ý nghĩa khoa học: đề tài nghiên cứu, hệ thống hoá và tổng kết những lý
luận cơ bản về vốn kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh
nghiệp.
- Ý nghĩa thực tiễn: trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng hiệu quả sử
dụng vốn kinh doanh tại Công ty cổ phần Than Tây Nam Đá Mài - Vinacomin, luận
văn đề xuất một số giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh
doanh của Công ty trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn

Luận văn gồm 3 chương với kết cấu như sau:
Chương 1: Tổng quan lý luận và thực tiễn về vốn kinh doanh và hiệu quả sử
dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng vốn kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
tại Công ty cổ phần Than Tây Nam Đá Mài – Vinacomin
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công
ty cổ phần Than Tây Nam Đá Mài – Vinacomin


4

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VỐN KINH DOANH VÀ
HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Tổng quan lý luận về vốn kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
của doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm vốn kinh doanh đối với doanh nghiệp
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã trải qua nhiều hình thái kinh tế xã
hội khác nhau và cùng với quá trình đó sản xuất kinh doanh đã trở thành hoạt động
cơ bản nhằm tạo ra của cải vật chất cho xã hội, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của
con người. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, chủ thể tiến hành hoạt động sản
xuất kinh doanh là các doanh nghiệp.
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh bất cứ một doanh nghiệp nào
cũng cần phải có vốn. Vốn là yếu tố cơ bản và là tiền đề không thể thiếu của quá
trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để dự trữ vật tư, mua sắm
máy móc thiết bị, chi phí cho quá trình sản xuất kinh doanh và được thể hiện ở
nhiều hình thái khác nhau trong quá trình luân chuyển. Vậy thế nào là vốn kinh
doanh?
Trong lý luận và thực tiễn có nhiều quan niệm khác nhau về vốn, mỗi quan
điểm nhìn nhận vốn dưới một góc độ nhất định. Theo lý thuyết kinh tế cổ điển và

tân cổ điển: vốn là một trong các yếu tố đầu vào để sản xuất kinh doanh (đất đai, tài
nguyên, lao động, vốn).
Theo Paul Samuelson và William D. Nordhaus thì: “Vốn là khái niệm
thường dùng để chỉ các hàng hoá là vốn nói chung, một nhân tố sản xuất. Một hàng
hoá làm vốn, khác với nhân tố sơ yếu (đất đai, lao động) ở chỗ: Nó là một đầu vào
mà bản thân là một đầu ra của một nền kinh tế gồm: vốn vật chất (nhà máy, thiết bị,
kho hàng), vốn tài chính (tiền, chứng khoán, tín phiếu)” [14]. Quan điểm này đã cho
chúng ta thấy rõ nguồn gốc hình thành vốn, trạng thái biểu hiện của vốn và đặc
điểm cơ bản nhất của hàng hoá vốn là chúng vừa là sản phẩm đầu ra, vừa là yếu tố
đầu vào của sản xuất nhưng hạn chế cơ bản của quan điểm này là chưa cho thấy
mục đích sử dụng của vốn.
Theo Karl Marx “ Vốn (tư bản) là giá trị mang lại giá trị thặng dư, là đầu vào
của quá trình sản xuất” [7], tức là một yếu tố khi sử dụng trong quá trình sản xuất sẽ


5

tạo ra một lượng giá trị lớn hơn giá trị của bản thân nó. Tuy nhiên quan niệm này
cũng mới chỉ đề cập đến phạm trù tư bản là tiền khi được dùng để mua sắm các yếu
tố đầu vào của quá trình sản xuất để tạo ra giá trị thặng dư. Nói cách khác, vốn luôn
gắn liền với hoạt động của khu vực sản xuất vật chất trực tiếp vì theo Marx chỉ có
khu vực sản xuất vật chất mới tạo ra của cải vật chất và giá trị thặng dư mà thôi.
Còn David Begg thì cho rằng “vốn là các yếu tố của sản xuất và bao gồm hai
loại vốn hiện vật và vốn tài chính. Vốn kinh doanh tồn tại ở các hình thái hiện vật
như giá trị của các tài sản cố định, hàng hoá, mặt bằng sản xuất kinh doanh,… và
vốn tài chính tồn tại ở các hình thái giá trị như tiền và các giấy tờ có giá trị thuộc
quyền sở hữu của doanh nghiệp” [13].
Theo ý nghĩa kinh tế, một số quan điểm lại cho rằng: vốn kinh doanh bao
gồm toàn bộ các yếu tố kinh tế được bố trí để sản xuất hàng hoá, dịch vụ như tài sản
hữu hình, tài sản vô hình, các kiến thức về kinh tế kỹ thuật của doanh nghiệp được

tích luỹ, sự khéo léo về trình độ quản lý và tác nghiệp của cán bộ điều hành cùng
chất lượng đội ngũ công nhân viên trong doanh nghiệp, các lợi thế cạnh tranh như
vị trí, uy tín.
Từ các quan điểm trên, có thể hiểu: Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là một
yếu tố của sản xuất, bao gồm tất cả tài sản hữu hình và vô hình, tồn tại dưới hình
thái tiền tệ và hiện vật mà doanh nghiệp đang sử dụng để tiến hành hoạt động sản
xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, hình thái tiền tệ tạo thuận lợi cho việc tổng hợp, phân tích đánh
giá hiệu quả sử dụng vốn nên xét dưới hình thái giá trị có thể cho rằng:
“Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản
hữu hình và tài sản vô hình được đầu tư vào sản xuất kinh doanh nhằm mục tiêu
sinh lời”
Cũng qua phân tích các quan niệm trên có thể rút ra những đặc trưng cơ bản
của vốn kinh doanh như sau:
Thứ nhất, vốn là một hàng hoá đặc biệt và cũng được lưu thông trên thị
trường. Giá cả của vốn hay chi phí sử dụng vốn là lãi suất hay mức doanh lợi kỳ
vọng trên thị trường.
Thứ hai, vốn được biểu hiện bằng tiền nhưng không phải mọi nguồn tiền đều
là vốn. Tiền tiêu dùng hàng ngày, tiền cất trữ không phải là vốn. Tiền chỉ trở thành


6

vốn khi nó đại diện cho một lượng hàng hoá nhất định và được đưa vào quá trình
sản xuất kinh doanh để sinh lời. Bản thân tiền cũng chỉ biến thành vốn khi nó được
tích tụ và tập trung đến một mức độ đủ lớn để có thể bỏ vào kinh doanh.
Thứ ba, vốn không chỉ là tiền mà luôn luôn biểu hiện dưới các hình thái khác
nhau như tài sản hữu hình, tài sản vô hình, tài sản tài chính. Từ đặc trưng này, khi
huy động vốn vào sản xuất kinh doanh không chỉ tập trung vào huy động vốn bằng
tiền mà còn phải rất chú trọng đến các tài sản có sẵn trong từng doanh nghiệp và các

giá trị vô hình như vị trí địa lý, bí quyết công nghệ, phát minh sáng chế, giá trị
thương hiệu.
Thứ tư, vốn có giá trị về mặt thời gian, một đồng vốn ngày hôm nay khác
một đồng vốn ngày mai do sự biến động của giá cả và lạm phát nên sức mua của
đồng tiền ở các thời điểm khác nhau là khác nhau.
Từ các đặc trưng trên có thể coi vốn sản xuất kinh doanh là tiền đề của mọi
quá trình đầu tư vào sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp.
1.1.2. Phân loại vốn kinh doanh
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp có thể phân loại theo nhiều tiêu thức khác
nhau.
1.1.2.1. Căn cứ vào thời gian sử dụng vốn
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp được chia thành hai loại: vốn dài hạn và
vốn ngắn hạn.
* Vốn dài hạn:
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh trước tiên doanh nghiệp phải
mua sắm, xây dựng hay lắp đặt các tài sản cố định, số vốn đầu tư ứng trước để mua
sắm, xây dựng hay lắp đặt tài sản cố định hữu hình và vô hình được gọi là vốn dài
hạn của doanh nghiệp.
Số vốn đầu tư ứng trước nếu sử dụng có hiệu quả nó sẽ không bị mất đi,
doanh nghiệp sẽ thu hồi lại sau khi tiêu thụ các sản phẩm, hàng hoá hay dịch vụ của
mình. Mặt khác, là số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng tài sản cố định
nên quy mô vốn dài hạn nhiều hay ít sẽ quyết định quy mô tài sản cố định từ đó ảnh
hưởng rất lớn đến trình độ trang bị kỹ thuật và công nghệ, năng lực sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Ngược lại, những đặc điểm kinh tế của tài sản cố định


7

trong quá trình sử dụng lại có ảnh hưởng quyết định, chi phối đặc điểm tuần hoàn
và chu chuyển của vốn dài hạn.

+ Đặc điểm của vốn dài hạn:
Thứ nhất, vốn dài hạn tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm điều này
do đặc điểm của tài sản cố định được sử dụng lâu dài trong nhiều chu kỳ sản xuất
quyết định.
Thứ hai, vốn dài hạn được luân chuyển dần dần từng phần trong các chu kỳ
sản xuất. Khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, vốn dài hạn được chia
làm hai phần, một bộ phận vốn dài hạn tương ứng với giá trị hao mòn của tài sản cố
định sẽ được luân chuyển và cấu thành chi phí sản xuất sản phẩm (dưới hình thức
chi phí khấu hao). Bộ phận còn lại được lưu giữ trong giá trị còn lại của tài sản cố
định để được chuyển dịch vào giá trị sản phẩm trong các chu kỳ kinh doanh tiếp
theo.
Thứ ba, sau nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh, vốn dài hạn mới hoàn thành
một vòng luân chuyển.
Sau mỗi chu kỳ sản xuất, phần vốn được luân chuyển vào giá trị sản phẩm
dần dần tăng lên, song phần vốn đầu tư ban đầu vào tài sản cố định lại dần giảm
xuống cho đến khi hết thời gian sử dụng tài sản cố định, giá trị của nó được chuyển
dịch hết vào giá trị sản phẩm đã sản xuất thì vốn dài hạn mới hoàn thành một vòng
luân chuyển. Như vậy quá trình sản xuất kinh doanh cũng chính là quá trình vận
động không ngừng của vốn dài hạn.
Từ khái niệm và đặc điểm của vốn dài hạn ta có thể khái quát về vốn dài hạn
như sau:
Vốn dài hạn của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về
tài sản cố định mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần trong nhiều
chu kỳ sản xuất kinh doanh và hoàn thành xong một vòng tuần hoàn khi tài sản cố
định hết thời gian sử dụng.
Đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, vốn dài hạn chiếm tỷ trọng tương
đối lớn trong tổng vốn kinh doanh và có tính chất quyết định tới năng lực sản xuất
của doanh nghiệp, hơn nữa việc sử dụng vốn dài hạn thường gắn với các quyết định
đầu tư dài hạn, thời gian thu hồi vốn chậm nên trong quá trình vận động vốn dài hạn
dễ gặp rủi ro như lạm phát, hao mòn vô hình do sự tiến bộ không ngừng của khoa



8

học kỹ thuật. Vì vậy, để sử dụng có hiệu quả vốn dài hạn doanh nghiệp cần thực
hiện các biện pháp nhằm bảo toàn và phát triển vốn sau mỗi chu kỳ kinh doanh.
* Vốn ngắn hạn:
Vốn ngắn hạn của doanh nghiệp là số vốn tiền tệ ứng trước để đầu tư, mua
sắm tài sản ngắn hạn nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp được thực hiện thường xuyên, liên tục.
+ Đặc điểm của vốn ngắn hạn:
Phù hợp với các đặc điểm của tài sản ngắn hạn, vốn ngắn hạn của doanh
nghiệp không ngừng vận động qua các giai đoạn của chu kỳ kinh doanh: dự trữ sản
xuất, sản xuất và lưu thông. Qua mỗi giai đoạn của chu kỳ kinh doanh vốn ngắn hạn
luôn thay đổi hình thái biểu hiện từ hình thái tiền tệ ban đầu sang hình thái vốn vật
tư hàng hoá dự trữ và vốn sản xuất rồi cuối cùng lại quay trở về hình thái vốn tiền
tệ. Sau mỗi chu kỳ tái sản xuất, vốn ngắn hạn hoàn thành một vòng luân chuyển.
Quá trình vận động của vốn ngắn hạn được diễn ra liên tục và thường xuyên lặp đi
lặp lại theo chu kỳ và được gọi là quá trình tuần hoàn, chu chuyển của vốn ngắn
hạn.
Như vậy có thể thấy đặc điểm vận động của vốn ngắn hạn khác hẳn với với
vốn dài hạn đó là: tham gia toàn bộ và chu chuyển một lần vào giá trị sản phẩm, sau
mỗi chu kỳ sản xuất lại phải mua sắm lượng tài sản ngắn hạn mới và hình thành một
vòng tuân hoàn mới.
Từ khái niệm và đặc điểm của vốn ngắn hạn có thể khái quát về vốn ngắn
hạn của doanh nghiệp như sau: Vốn ngắn hạn của doanh nghiệp là số vốn tiền tệ
ứng trước để đầu tư, mua sắm tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp nhằm đảm bảo
cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành thường xuyên liên tục, nó chuyển
toàn bộ một lần toàn bộ vào giá thành sản phẩm mới được tạo ra và được thu hồi
sau khi bán hàng đi và thu tiền về.

1.1.2.2. Căn cứ vào đặc điểm sở hữu của vốn
Theo tiêu thức này, vốn kinh doanh của doanh nghiệp được chia thành hai
loại là: vốn chủ sở hữu và các khoản nợ phải trả.
Vốn chủ sở hữu: Là số vốn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, doanh
nghiệp có đầy đủ các quyền chiếm hữu, chi phối và định đoạt. Vốn chủ sở hữu của
doanh nghiệp gồm vốn điều lệ do chủ sở hữu đầu tư, vốn bổ sung từ lợi nhuận và


9

các quỹ của doanh nghiệp, vốn tài trợ của Nhà nước (nếu có). Vốn chủ sở hữu thể
hiện quyền tự chủ về mặt tài chính của doanh nghiệp nên tỷ trọng của nó trong tổng
nguồn vốn càng lớn, sự độc lập về tài chính của doanh nghiệp càng cao và ngược
lại. Nó là phần còn lại trong tổng nguồn vốn sau khi trừ đi toàn bộ nợ phải trả.
Các khoản nợ phải trả: Là số vốn mà doanh nghiệp khai thác, huy động từ
các chủ thể khác qua vay nợ ngân hàng, các tổ chức tài chính, tiền vay từ phát hành
trái phiếu và các khoản chiếm dụng tạm thời như phải trả người bán, phải trả công
nhân viên,…Doanh nghiệp được quyền sử dụng số vốn này trong một khoảng thời
gian nhất định sau đó phải hoàn trả cho chủ nợ.
Việc huy động số vốn này rất quan trọng đối với doanh nghiệp, giúp doanh
nghiệp có thể cung ứng kịp thời, đầy đủ vốn cho sản xuất kinh doanh. Với sức ép về
chi phí sử dụng vốn vay và thời hạn hoàn trả vốn vay sẽ thúc đẩy doanh nghiệp sử
dụng vốn tiết kiệm, hiệu quả. Ngoài ra, việc tranh thủ sử dụng các khoản chiếm
dụng tạm thời cũng tạo điều kiện cho doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu vốn và nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của mình.
Tuy nhiên, khi sử dụng số vốn này doanh nghiệp cần xem xét sự phụ thuộc
vào nguồn vốn vay và chi phí sử dụng vốn. Mặt khác, doanh nghiệp cũng cần phải
cân nhắc hiệu quả kinh doanh và lợi nhuận có thể bị ảnh hưởng bởi lãi suất tiền vay.
Như vậy, sự kết hợp giữa nguồn vốn chủ sở hữu và các khoản nợ phải trả
giúp doanh nghiệp đảm bảo nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, song

tuỳ thuộc vào tình hình chung của nền kinh tế, đặc điểm ngành nghề và tình hình
thực tế của doanh nghiệp để lựa chọn cơ cấu nguồn vốn hợp lý, điều này quyết định
tới sự thành bại của doanh nghiệp.
1.1.3. Vai trò của vốn kinh doanh đối với doanh nghiệp
Khi đề cập tới vai trò của vốn đối với quá trình sản xuất kinh doanh của một
doanh nghiệp có thể thấy rằng vốn có tầm quan trọng đặc biệt. Dù doanh nghiệp
thuộc bất kỳ thành phần kinh tế nào, với quy mô lớn hay nhỏ thì vốn vẫn là điều
kiện đầu tiên và không thể thiếu được khi doanh nghiệp được thành lập và tiến hành
các hoạt động sản xuất kinh doanh. Có thể khái quát vai trò của vốn trên các khía
cạnh sau:
- Thứ nhất, vốn là yếu tố tiền đề của mọi quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.


10

Trong lý thuyết kinh tế, hàm sản xuất thông dụng được biểu diễn bằng công
thức P= f(k, l, t) trong đó k là vốn; l là lao động và t là công nghệ.
Như vậy có thể thấy vốn là một trong ba yếu tố tiền đề đối với sự ra đời và
tồn tại của bất kỳ loại hình sản xuất kinh doanh nào. Dù doanh nghiệp thuộc thành
phần kinh tế nào với quy mô ra sao thì vốn vẫn là điều kiện không thể thiếu đối với
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngay từ giai đoạn đầu của quá
trình sản xuất doanh nghiệp đã cần một lượng vốn nhất định để mua sắm các yếu tố
đầu vào của quá trình sản xuất cần thiết là sức lao động (cụ thể là thuê lao động), tư
liệu sản xuất (cụ thể là máy móc thiết bị; nguyên, nhiên vật liệu; công nghệ,...). Như
vậy có thể thấy vốn không chỉ là một trong ba yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất
mà nó còn là yếu tố có tính chất quyết định đối với hai yếu tố còn lại. Không có vốn
thì doanh nghiệp cũng không thể đảm bảo được hai yếu tố còn lại là lao động và
công nghệ. Đồng thời quy mô của vốn càng lớn nó sẽ quyết định đến quy mô sản
xuất của doanh nghiệp.

- Thứ hai, quy mô của vốn là điều kiện quyết định đến quy mô kinh doanh và
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
Muốn được thành lập mọi doanh nghiệp phải có một lượng vốn nhất định
theo quy định. Vì thế quy mô của vốn đủ lớn là điều kiện không thể thiếu cho mỗi
doanh nghiệp khi khởi nghiệp kinh doanh. Trong quá trình kinh doanh, để tồn tại
phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh, các doanh nghiệp phải không ngừng đầu
tư đổi mới kỹ thuật, công nghệ sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm và mở rộng
quy mô kinh doanh. Điều đó đòi hỏi quy mô vốn kinh doanh của doanh nghiệp ngày
càng phải được bổ sung, mở rộng để đáp ứng yêu cầu phát triển và nâng cao năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
- Thứ ba, hiệu quả sử dụng vốn là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp đánh giá
hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, vốn kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của mọi
tài sản mà doanh nghiệp sử dụng trong kinh doanh. Trong quá trình đó, vốn kinh
doanh được luân chuyển, tham gia vào nhiều giai đoạn, nhiều khâu của quá trình
sản xuất và được biểu hiện dưới các hình thức khác nhau. Kết quả cuối cùng trong
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được thể hiện ở lợi nhuận doanh nghiệp. Do
đó mức sinh lời hay tỷ suất lợi nhuận trên một đồng vốn kinh doanh là một chỉ tiêu


11

chất lượng tổng hợp phản ánh hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
Từ đó giúp doanh nghiệp định hướng xây dựng các giải pháp để không ngừng nâng
cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
1.1.4. Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường mục đích cao nhất của mọi doanh nghiệp trong
sản xuất kinh doanh chính là tối đa hoá lợi ích của chủ sở hữu mà trực tiếp là gia
tăng lợi nhuận. Điều này đồng nghĩa với việc doanh nghiệp phải khai thác và sử
dụng triệt để mọi nguồn lực sẵn có của mình, trong đó sử dụng có hiệu quả nguồn

vốn là yêu cầu bắt buộc đối với mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Để làm rõ khái niệm hiệu quả sử dụng vốn, trước hết cần tìm hiểu các khái
niệm có liên quan đến hiệu quả.
Có thể thấy rằng “hiệu quả” là một phạm trù kinh tế có phạm vi rộng và nội
hàm phức tạp. Quan điểm về “hiệu quả” có thể được xem xét từ nhiều góc độ khác
nhau. Về góc độ lợi ích có thể phân chia thành hiệu quả kinh tế, hiệu quả chính trị xã hội, hiệu quả an ninh quốc phòng, bảo vệ môi trường sống,...Về cấp độ hay phạm
vi xem xét hiệu quả như hiệu quả kinh tế quốc dân (ở tầm vĩ mô), hiệu quả ngành và
vùng lãnh thổ, hiệu quả của doanh nghiệp (ở tầm vi mô). Như vậy khi xét ở các góc
độ khác nhau thì hình thức biểu hiện và cách đánh giá hiệu quả cũng khác nhau.
Khi nghiên cứu sự phát triển của các hệ thống kinh tế nói chung, người ta
thường quan sát mối quan hệ giữa các yếu tố đầu vào và đầu ra của chúng. Đây là
mối quan hệ bịên chứng, nhân quả được lượng hoá theo quan hệ hàm tố mà đầu vào
là nguyên nhân được coi là biến số, còn đầu ra là kết quả được coi là hàm số Y.
Theo mối quan hệ này thì thấy sự phát triển của các hệ thống kinh tế là sự kết hợp
của hai hình thức phát triển chiều rộng và chiều sâu phù hợp với từng giai đoạn lịch
sử cụ thể. Nhìn chung, khi trình độ phát triển sản xuất xã hội ở mức độ thấp, các hệ
thống kinh tế thường hướng vào phát triển theo chiều rộng. Đặc điểm của loại hình
phát triển này là sự gia tăng sản phẩm đầu ra chủ yếu dựa vào sự gia tăng số lượng
của các yếu tố đầu vào như tăng diện tích đất đai, tăng lao động, tăng số lượng máy
móc thiết bị,... Nhưng khi các loại nguồn lực của xã hội trở nên khan hiếm, đồng
thời trình độ sản xuất xã hội tiến lên ở mức cao hơn thì các hệ thống kinh tế lại thiên
về phát triển kinh tế theo chiều sâu. Theo loại hình này sự gia tăng sản phẩm đầu ra
lại chủ yếu dựa vào sự gia tăng chất lượng đầu vào như nâng cao hiệu suất sử dụng


12

đất đai, nâng cao hiệu suất sử dụng máy móc thiết bị, hiệu suất sử dụng vốn và năng
suất lao động,... Như vậy, dù với cùng một lượng đầu vào như cũ hoặc ít hơn vẫn có
thể tạo ra được một lượng đầu ra lớn hơn. Sự phát triển của khoa học công nghệ là

chìa khoá quyết định và đảm bảo cho loại hình phát triển theo chiều sâu.
Từ những phân tích ở trên, có thể hiểu theo nghĩa chung nhất:
Hiệu quả là một phạm trù kinh tế phản ánh chất lượng và tính hữu ích của
việc sử dụng các yếu tố chi phí đầu vào trong quá trình sản xuất, được xác định
bằng mối quan hệ so sánh giữa kết quả đầu ra và chi phí đầu vào của một hệ thống
kinh tế trong một thời gian nhất định.
Ở đây đầu vào và đầu ra của các hệ thống kinh tế ở các cấp độ khác nhau có
những điểm giống và khác nhau.
Đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân (ở tầm vĩ mô), kết quả đầu ra đáng
quan tâm nhất là sản lượng của nền kinh tế, hiện nay đang được sử dụng các thước
đo chủ yếu là GDP (tổng sản phẩm quốc nội) hoặc GNP (tổng sản phẩm quốc dân);
đầu vào của nó là các nguồn lực hiện có như đất đai, tài nguyên, lao động, vốn,
công nghệ và các nguồn lực khác,...
Đối với các doanh nghiệp (ở tầm vi mô), đầu ra chủ yếu là kết quả sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp như tổng giá trị sản xuất, doanh thu, lợi nhuận, giá trị
gia tăng,... còn chi phí đầu vào bao gồm hai loại:
Loại thứ nhất là chi phí để tạo ra nguồn lực (gọi tắt là nguồn lực) như diện
tích đất đai, số lượng máy móc thiết bị, nhà xưởng, số lượng vốn, lao động thuộc
quyền quản lý của doanh nghiệp.
Loại thứ hai là chi phí sử dụng nguồn lực (gọi là chi phí thường xuyên) là sự
tiêu hao hoặc chi phí các yếu tố sản xuất như tổng giá thành, chi phí trung gian,
tổng thời gian làm việc của máy, tổng số thời gian làm việc của người lao động,..
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hiệu quả sử dụng vốn, vì thế ở đây tác giả
chỉ xem xét các yếu tố đầu ra thuộc kết quả kinh doanh và đầu vào là vốn kinh
doanh của doanh nghiệp, một loại nguồn lực có vai trò rất quan trọng đối với doanh
nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn kinh doanh được sử dụng nhằm
thu kết quả kinh doanh cuối cùng đó là lợi nhuận, nên hiệu quả sản xuất kinh doanh



13

thường được đánh giá dựa trên sự so sánh giữa lợi nhuận thu được và vốn kinh
doanh bỏ ra. Như vậy có thể nói :
Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế
phản ánh chất lượng và tính hữu ích của việc sử dụng vốn kinh doanh, được xác
định bằng mối quan hệ so sánh giữa kết quả kinh doanh và vốn kinh doanh của
doanh nghiệp.
1.1.5. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp
1.1.5.1. Phương pháp đo lường hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
Đo lường hiệu quả là việc lượng hoá mức độ hiệu quả của hoạt động sản xuất
kinh doanh trong một không gian và thời gian cụ thể. Công cụ để đo lường hiệu quả
là các chỉ tiêu hiệu quả. Tuy nhiên, do tính phức tạp và nhiều mặt của hiệu quả nên
không thể chỉ sử dụng một chỉ tiêu nào đó mà thường phải dùng nhiều chỉ tiêu, hợp
thành hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh
nghiệp.
Các chỉ tiêu hiệu quả thường được xác định dưới dạng thương số giữa chỉ
tiêu kết quả và chỉ tiêu chi phí hoặc ngược lại. Bản thân kết quả và chi phí kinh
doanh cũng có thể được xác định theo nội hàm khác nhau, đó là toàn bộ kết quả và
chi phí hay chỉ là phần kết quả hoặc chi phí gia tăng (kết quả, chi phí cận biên).
Việc tính toán hai loại chỉ tiêu hiệu quả dưới dạng thuận và nghịch là cần thiết vì
trong phản ánh hiệu quả chúng có giá trị như nhau nhưng về mặt phân tích lại có tác
dụng khác nhau. Dưới đây chúng ta có thể xem xét cụ thể hơn các phương pháp đo
lường hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp theo các góc độ đó.
+ Chỉ tiêu dạng thuận và chỉ tiêu dạng nghịch.
Chỉ tiêu dạng thuận (H) được xác định bởi thương số của kết quả (Y) so với
chi phí (X), theo công thức:

H


Y
X

(1.1)

Chỉ tiêu dạng nghịch (E) được tính bằng thương số của chi phí (X) so với kết
quả (Y), theo công thức:

E

X
Y

(1.2)


14

Với tính chất là những số tương đối cường độ, hai loại chỉ tiêu này có ý
nghĩa tương đương nhau về mặt phản ánh mức độ hiệu quả nhưng lại có tác dụng
khác nhau. Chỉ tiêu hiệu quả dạng thuận H cho biết một đơn vị chi phí đầu vào X có
thể tạo ra bao nhiêu đơn vị kết quả đầu ra Y trong kỳ nghiên cứu. Từ đó xác định
được tác động của tổng chi phí bỏ ra đến tổng kết quả thu được. Ngược lại, chỉ tiêu
hiệu quả dạng nghịch E cho biết để thu được một đơn vị kết quả Y cần phải bỏ ra
bao nhiêu chi phí X. Theo đó có thể xác định được mức độ ảnh hưởng của hiệu quả
đến tổng chi phí đã tiết kiệm được (hay bị lãng phí) để thu được tổng kết quả trong
kỳ.
+ Chỉ tiêu hiệu quả toàn phần (bình quân) và chỉ tiêu hiệu quả biên (cận
biên).
Chỉ tiêu hiệu quả toàn phần biểu hiện sự so sánh toàn bộ trị số kết quả và chi

phí kinh doanh bao gồm phần có trước, thuộc tái sản xuất giản đơn và phần mới
được tăng thêm thuộc tái sản xuất mở rộng. Các chỉ tiêu được xác định theo công
thức (1.1), (1.2) ở trên là các chỉ tiêu hiệu quả toàn phần.
Khác chỉ tiêu hiệu quả toàn phần, chỉ tiêu hiệu quả biên biểu hiện sự so sánh
trị số của phần kết quả mới với phần chi phí mới được bổ sung tăng thêm, thuộc tái
sản xuất mở rộng. Như vậy:
- Chỉ tiêu hiệu quả biên dạng thuận (Hb) được xác định:
Hb 

Y
X

(1.3)

- Chỉ tiêu hiệu quả biên dạng nghịch (Eb) được xác định:
Eb 

X
Y

(1.4)

Chỉ tiêu hiệu quả biên thuận cho biết khi tăng một đơn vị chi phí đầu vào có
thể tạo thêm bao nhiêu kết quả đầu ra. Ngược lại chỉ tiêu hiệu quả biên nghịch lại
cho thấy rằng để tăng thêm một đơn vị kết quả đầu ra cần tăng thêm bao nhiêu đơn
vị chi phí đầu vào.
Các chỉ tiêu hiệu quả biên có ý nghĩa rất lớn trong việc đo lường và đánh giá
hiệu quả do vai trò quan trọng của lý thuyết biên trong kinh tế học hiện đại. Nó là



15

căn cứ cho việc định giá các yếu tố đầu vào cũng như cho việc phân phối sản phẩm
và thu nhập.
Do vừa cần phải sử dụng chỉ tiêu dạng thuận và chỉ tiêu dạng nghịch lại vừa
cần phải sử dụng chỉ tiêu toàn phần và chỉ tiêu biên nên số lượng các chỉ tiêu hiệu
quả sẽ rất nhiều. Nên trong thực tế để đo lường và đánh giá hiệu quả đơn giản,
chính xác và tập trung nêu lên được những vấn đề bản chất nhất người ta đã lược bỏ
đi các chỉ tiêu ít có ý nghĩa và chỉ chọn ra những chỉ tiêu cơ bản nhất.
1.1.5.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp
Thông thường để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh
nghiệp người ta chọn chỉ tiêu kết quả kinh doanh là doanh thu và lợi nhuận và chỉ
tiêu nguồn lực đầu vào là vốn kinh doanh, đồng thời tập trung vào hiệu quả chung
sử dụng tổng vốn kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định.
a. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp có ý nghĩa then chốt và
quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Các chỉ tiêu hiệu quả
sử dụng tổng vốn phản ánh kết quả tổng hợp quá trình sử dụng toàn bộ vốn, tài sản
của một doanh nghiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Đồng thời nó phản ánh
chất lượng và trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bao gồm các
chỉ tiêu sau:
+ Hiệu suất toàn phần của vốn kinh doanh:
Hiệu suất toàn phần
của vốn kinh doanh

=

Doanh thu thuần trong kỳ
Tổng vốn kinh doanh bình quân trong kỳ


(1.5)

Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn kinh doanh tạo ra được bao nhiêu đồng
doanh thu trong kỳ.
Từ hệ số trên ta thấy, hiệu suất toàn phần vốn kinh doanh không chỉ phụ
thuộc vào doanh thu sản phẩm tiêu thụ mà còn phụ thuộc vào sự tăng, giảm của
tổng vốn kinh doanh bình quân. Do đó, muốn tăng hiệu suất toàn phần vốn kinh
doanh không những phải tăng doanh thu sản phẩm mà còn phải tiết kiệm vốn. Hiệu
suất toàn phần vốn kinh doanh càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn của doanh
nghiệp càng cao. Có thể đánh giá hiệu suất sử dụng vốn kinh doanh kỳ này so với
kỳ trước hoặc với kế hoạch để thấy được xu hướng vận động của nó.


16

Công thức xác định hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh trên đây được tính cho:
- Tổng số vốn thuộc quyền sử dụng của doanh nghiệp (tính bình quân).
- Số vốn bình quân có thể sử dụng vào sản xuất kinh doanh trong kỳ.
- Số vốn bình quân đã được sử dụng vào sản xuất kinh doanh trong kỳ bao
gồm vốn dài hạn và vốn ngắn hạn.
+ Mức doanh lợi toàn phần của vốn kinh doanh:
Mức doanh lợi toàn phần
của vốn kinh doanh

=

Lợi nhuận sau thuế trong kỳ
Tổng vốn kinh doanh bình quân trong kỳ

(1.6)


Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn kinh doanh có thể đem lại bao nhiêu đồng
lợi nhuận cho doanh nghiệp trong kỳ. Đây là một trong những chỉ tiêu phân tích
quan trọng phản ánh hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Mức doanh lợi toàn
phần của vốn kinh doanh càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của
doanh nghiệp càng cao và ngược lại. Tuỳ theo tình hình doanh nghiệp, phạm vi và
mục đích phân tích mà tử số có thể chọn là lợi nhuận trước thuế hoặc lợi nhuận sau
thuế và có thể so sánh mức doanh lợi toàn phần vốn kinh doanh kỳ này so với kỳ
trước để thấy được hiệu quả sử dụng vốn.
+ Suất vốn kinh doanh (toàn phần) của doanh thu:
Suất vốn kinh doanh
(toàn phần) của doanh thu

=

Tổng vốn kinh doanh bình quân trong kỳ
Doanh thu thuần trong kỳ

(1.7)

Chỉ tiêu này cho biết để tạo ra một đồng doanh thu trong kỳ thì doanh nghiệp
phải bỏ ra bao nhiêu đồng vốn kinh doanh. Đây là chỉ tiêu nghịch đảo của hiệu suất
toàn phần vốn kinh doanh, chỉ tiêu này càng giảm chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn
kinh doanh của doanh nghiệp càng cao và ngược lại.
+ Suất vốn kinh doanh (toàn phần) của lợi nhuận:
Suất vốn kinh doanh
(toàn phần) của lợi nhuận

=


Tổng vốn kinh doanh bình quân trong kỳ
Lợi nhuận sau thuế trong kỳ

(1.8)

Chỉ tiêu này phản ánh để tạo ra một đồng lợi nhuận trong kỳ thì cần phải bỏ ra
bao nhiêu đồng vốn kinh doanh. Suất vốn kinh doanh của lợi nhuận càng nhỏ thì
hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp càng cao và ngược lại.
+ Hiệu suất biên của vốn kinh doanh:


17

Mức tăng của tổng doanh thu thuần
Hiệu suất biên của vốn
kinh doanh

=

trong kỳ
Mức tăng của tổng vốn kinh doanh bình

(1.9)

quân trong kỳ
Chỉ tiêu này cho biết khi tăng thêm một đồng vốn kinh doanh thì được thu tăng
thêm mấy đồng doanh thu trong kỳ. Hiệu suất biên càng cao thì hiệu quả sử dụng
vốn kinh doanh tăng thêm của doanh nghiệp càng cao và ngược lại.
+ Mức doanh lợi biên của vốn kinh doanh:
Mức tăng của tổng lợi nhuận sau thuế

Mức doanh lợi biên
của vốn kinh doanh

=

trong kỳ
Mức tăng của tổng vốn kinh doanh bình

(1.10)

quân trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh khi tăng thêm một đồng vốn kinh doanh thì được tăng
thêm mấy đồng lợi nhuận trong kỳ. Mức doanh lợi biên càng cao thì hiệu quả sử
dụng vốn kinh doanh tăng thêm của doanh nghiệp càng cao và ngược lại.
+ Suất vốn kinh doanh biên của doanh thu:
Mức tăng của tổng vốn kinh doanh bình
Suất vốn kinh doanh
biên của doanh thu

=

quân trong kỳ
Mức tăng của tổng doanh thu thuần trong

(1.11)

kỳ
Chỉ tiêu này cho biết muốn tăng thêm một đồng doanh thu cần phải tăng thêm
mấy đồng vốn kinh doanh. Suất vốn kinh doanh biên doanh thu của doanh nghiệp
càng giảm thì hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp càng cao và

ngược lại.
+ Suất vốn kinh doanh biên của lợi nhuận:
Mức tăng của tổng vốn kinh doanh bình
Suất vốn kinh doanh biên
của lợi nhuận

=

quân trong kỳ
Mức tăng của tổng lợi nhuận sau thuế

(1.12)

trong kỳ
Chỉ tiêu này cho biết muốn tăng thêm một đồng lợi nhuận cần phải tăng thêm
mấy đồng vốn kinh doanh. Suất vốn kinh doanh biên lợi nhuận của doanh nghiệp


18

càng giảm thì hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tăng thêm của doanh nghiệp càng
cao và ngược lại.
Trong cơ chế thị trường khi phân tích hiệu quả sử dụng vốn, ngoài việc dùng
các nhóm chỉ tiêu phản ánh vốn kinh doanh còn dùng các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả
sử dụng vốn theo bộ phận của vốn kinh doanh như vốn ngắn hạn và vốn dài hạn.
b. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn dài hạn
Có nhiều chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn dài hạn nhưng có thể áp dụng
các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đối với vốn dài hạn bình quân như sau:
+Hiệu suất toàn phần vốn dài hạn:
Hiệu suất toàn phần vốn

dài hạn

=

Doanh thu thuần trong kỳ
Vốn dài hạn bình quân trong kỳ

(1.13)

Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn dài hạn tham gia tạo ra bao nhiêu đồng
doanh thu trong kỳ. Hiệu suất toàn phần vốn dài hạn càng cao thì hiệu quả sử dụng
vốn dài hạn càng cao và ngược lại.
+ Mức doanh lợi toàn phần vốn dài hạn:
Mức doanh lợi toàn phần
vốn dài hạn

=

Lơi nhuận sau thuế trong kỳ
Vốn dài hạn bình quân trong kỳ

(1.14)

Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn dài hạn tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận
trong kỳ. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn dài hạn càng cao và
ngược lại.
+ Suất vốn dài hạn của doanh thu:
Suất vốn dài hạn của
doanh thu


=

Vốn dài hạn bình quân trong kỳ
Doanh thu thuần trong kỳ

(1.15)

Là đại lượng nghịch đảo của chỉ tiêu hiệu suất toàn phần vốn dài hạn. Nó
phản ánh để tạo ra một đồng doanh thu thì cần bao nhiêu đồng vốn dài hạn. Chỉ tiêu
này càng nhỏ chứng tỏ hiệu suất sử dụng vốn dài hạn càng cao.
Các chỉ tiêu còn lại đánh giá hiệu quả sử dụng vốn dài hạn cũng giống như
đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh.
c. Các chỉ tiêu đánh giá sử dụng vốn ngắn hạn
Cũng như các chỉ tiêu tính toán đối với vốn kinh doanh, vốn dài hạn các chỉ
tiêu tính toán đối với vốn ngắn hạn bao gồm:


19

+Hiệu suất toàn phần vốn ngắn hạn:
Hiệu suất toàn phần vốn
ngắn hạn

=

Doanh thu thuần trong kỳ
Vốn ngắn hạn bình quân trong kỳ

(1.16)


Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn ngắn hạn tham gia tạo ra bao nhiêu đồng
doanh thu trong kỳ. Hiệu suất toàn phần vốn ngắn hạn càng cao chứng tỏ hiệu quả
sử dụng vốn ngắn hạn của doanh nghiệp càng cao và ngược lại.
+ Mức doanh lợi toàn phần vốn ngắn hạn:
Mức doanh lợi toàn phần
vốn ngắn hạn

=

Lơi nhuận sau thuế trong kỳ
Vốn ngắn hạn bình quân trong kỳ

(1.17)

Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn ngắn hạn tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận
trong kỳ. Mức doanh lợi toàn phần vốn ngắn hạn càng cao chứng tỏ hiệu quả sử
dụng vốn ngắn hạn của doanh nghiệp càng cao và ngược lại.
+ Suất vốn ngắn hạn của doanh thu:
Suất vốn ngắn hạn của
doanh thu

=

Vốn ngắn hạn bình quân trong kỳ
Doanh thu thuần trong kỳ

(1.18)

Là đại lượng nghịch đảo của chỉ tiêu hiệu suất toàn phần vốn ngắn hạn. Nó
phản ánh để tạo ra một đồng doanh thu thì cần bao nhiêu đồng ngắn hạn. Chỉ tiêu

này càng nhỏ chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn ngắn hạn càng cao.
Các chỉ tiêu còn lại đánh giá hiệu quả sử dụng vốn ngắn hạn cũng giống như
đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh.
Ngoài ra để đánh giá hiệu quả vốn ngắn hạn người ta cũng có thể xem xét
thêm chỉ tiêu vòng quay hàng tồn kho, vòng quay khoản phải thu trong kỳ của
doanh nghiệp.
+ Vòng quay hàng tồn kho:
Vòng quay hàng tồn kho

=

Giá vốn hàng bán trong kỳ
Hàng tồn kho bình quân trong kỳ

(1.19)

Vòng quay hàng tồn kho là số lần mà hàng hoá tồn kho bình quân luân chuyển
trong kỳ. Chỉ tiêu này phản ánh số vòng luân chuyển hàng tồn kho trong một thời
kỳ nhất định. Số vòng quay hàng tồn kho càng cao chỉ ra rằng việc tổ chức và quản
lý là tốt, doanh nghiệp có thể rút ngắn chu kỳ kinh doanh và giảm được lượng vốn
bỏ ra vào hàng tồn kho.


20

+ Vòng quay các khoản phải thu:

Vòng quay khoản phải thu =

Doanh thu thuần trong kỳ

Khoản phải thu bình quân trong kỳ

(1.20)

Vòng quay các khoản phải thu phản ánh tốc độ chuyển đổi các khoản phải thu
thành tiền mặt của doanh nghiệp. Vòng quay các khoản phải thu càng lớn chứng tỏ
tốc độ thu hồi các khoản phải thu nhanh, vốn của doanh nghiệp ít bị chiếm dụng.
1.1.6. Những nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của
doanh nghiệp
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp ngoài việc sử dụng các
chỉ tiêu để phân tích, chúng ta cần nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả
sử dụng vốn. Từ đó giúp cho nhà quản lý đưa ra các quyết định chính xác, sát thực
với điều kiện hoàn cảnh cụ thể môi trường hoạt động của doanh nghiệp. Nhìn chung
các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp có thể chia
thành các nhóm sau:
a. Nhóm nhân tố khách quan
Bất kỳ doanh nghiệp nào cũng hoạt động trong một môi trường kinh doanh
nhất định. Môi trường kinh doanh là tất cả những điều kiện bên ngoài ảnh hưởng tới
hoạt động của doanh nghiệp. Bao gồm các nhân tố sau:
+ Môi trường tự nhiên
Là toàn bộ các yếu tố tự nhiên tác động đến doanh nghiệp như nguồn tài
nguyên thiên nhiên, khí hậu, thời tiết, môi trường sinh thái. Các điều kiện làm việc
trong môi trường tự nhiên thích hợp sẽ làm tăng năng suất lao động và tăng hiệu
quả công việc. Tính chất thời vụ, thiên tai,... có thể làm giảm năng suất thu hoạch
của các doanh nghiệp nông nghiệp. Kể cả doanh nghiệp sản xuất công nghiệp cũng
có thể bị ảnh hưởng không nhỏ. Đối với các doanh nghiệp khai thác mỏ do tính chất
hoạt động gắn chặt với môi trường tự nhiên, các điều kiện về mỏ địa chất và phụ
thuộc vào nguồn tài nguyên thiên nhiên nên nhân tố này tác động mạnh mẽ tới công
nghệ khai thác, tới sản lượng khai thác và ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp.

+ Môi trường kinh tế


21

Bao gồm các yếu tố tác động như tăng trưởng kinh tế, thu nhập quốc dân,
lạm phát, lãi suất, tỷ giá hối đoái,... đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Khi nền kinh tế tăng trưởng hay suy thoái nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới khả
năng tiêu thụ sản phẩm, tới mức doanh thu của doanh nghiệp và từ đó ảnh hưởng tới
nhu cầu về vốn kinh doanh. Những biến động của nền kinh tế có thể gây ra những
rủi ro trong kinh doanh mà doanh nghiệp không thể lường trước được. Đặc biệt đối
với các nước có nền kinh tế mở thì những biến động của thị trường thương mại và
thị trường tài chính quốc tế sẽ tác động mạnh mẽ đối với tất cả các doanh nghiệp
hoạt động ở các lĩnh vực khác nhau. Một ví dụ rất cụ thể về cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu trong thời gian vừa qua đã tạo ra sự ảnh hưởng mang tính chất dây
chuyền với hàng loạt các tập đoàn tập đoàn kinh tế của các quốc gia như Mỹ, Anh,
Pháp, Nhật Bản,... dẫn tới sự phá sản và suy giảm lợi nhuận nghiêm trọng.
+ Môi trường chính trị, pháp lý
Môi trường chính trị, pháp lý đối với doanh nghiệp là hệ thống các chủ
trương, chính sách, hệ thống pháp luật tác động đến hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.
Nhà nước tạo môi trường điều hành các doanh nghiệp phát triển sản xuất
kinh doanh và hướng các hoạt động đó theo kế hoạch vĩ mô của nhà nước dựa trên
cơ sở pháp luật kinh tế và các biện pháp kinh tế. Trong hoạt động sản xuất kinh
doanh, bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải chấp hành pháp luật, các chính sách, chế
độ của Nhà nước. Chính vì vậy mà khi có bất kỳ một sự thay đổi nào trong chính
sách, chế độ hiện hành đều có ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động của các doanh
nghiệp. Có thể rõ ràng nhận thấy, nếu như các chính sách của Nhà nước hợp lý,
mang tính tích cực sẽ giúp cho doanh nghiệp dễ dàng hơn trong hoạch định chiến
lược sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và ngược lại. Do đó, khi

xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh mỗi doanh nghiệp cần phải nghiên cứu kỹ
các chính sách tài chính, tiền tệ, kinh tế của Nhà nước và khả năng ảnh hưởng như
thế nào đến hoạt động sản xuất kinh doanh trên cơ sở đó có kế hoạch sử dụng vốn
sao cho đạt hiệu quả.
+ Môi trường khoa học công nghệ
Môi trường khoa học công nghệ là sự tác động của hệ thống các yếu tố như
trình độ tiến bộ của khoa học, kỹ thuật. Những tiến bộ của khoa học kỹ thuật và


22

công nghệ mới có khả năng biến đổi quá trình sản xuất kinh doanh của một doanh
nghiệp và tác động sâu sắc đến hai yếu tố cơ bản tạo nên khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp trên thị trường đó là chất lượng sản phẩm và giá bán sản phẩm.
Trong điều kiện hiện nay khi khoa học công nghệ phát triển như vũ bão thì
sự chênh lệch về trình độ công nghệ giữa các quốc gia ngày càng lớn. Doanh nghiệp
muốn kinh doanh có hiệu quả thì cần phải nắm bắt được những tiến bộ của khoa
học, công nghệ hiện đại để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, nâng cao sức
cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Từ đó doanh nghiệp có thể đạt kết quả tốt
hơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn của
doanh nghiệp.
+ Môi trường cạnh tranh
Cơ chế thị trường là cơ chế có sự cạnh tranh gay gắt. Cạnh tranh có tác dụng
thúc đẩy doanh nghiệp nỗ lực tìm mọi cách để phát triển sản xuất kinh doanh. Tuy
nhiên nó cũng có mặt trái là nếu cạnh tranh quá gay gắt sẽ có ảnh hưởng không tốt
đến hoạt động của doanh nghiệp do mức lợi nhuận bị giảm. Bất kỳ một doanh
nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh cũng phải không
ngừng đầu tư nhằm tìm mọi cách để nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí, hạ
giá thành để có thể đứng vững trên thị trường. Doanh nghiệp sản xuất phải dựa trên
những nghiên cứu đầy đủ về nhu cầu thị trường để có thể đưa ra được những sản

phẩm đáp ứng được nhu cầu tối đa cho người tiêu dùng.
+ Quan hệ cung cầu trên thị trường
Yếu tố cung cầu trên thị trường có tác động rất lớn đến hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp, tới hiệu quả sử dụng vốn. Cung, cầu trên thị trường
ảnh hưởng trực tiếp tới tối lượng sản phẩm mà doanh nghiệp có thể tiêu thụ. Theo
quy luật cung, cầu nếu trên thị trường nhu cầu của khách hàng giảm xuống, sản
phẩm của doanh nghiệp tiêu thụ cũng giảm theo từ đó làm doanh thu và lợi nhuận
của doanh nghiệp giảm, hiệu quả sử dụng vốn giảm. Đồng thời yếu tố cung cầu trên
thị trường cũng ảnh hưởng tới giá cả của hàng hoá. Khi nhu cầu của một loại hàng
hoá nào đó trên thị trường tăng nhanh hơn sự gia tăng khối lượng sản phẩm có thể
cung ứng sẽ làm giá cả tăng lên. Khi giá cả đầu ra tăng có thể làm lợi cho doanh
nghiệp nhưng cũng do sự biến động về giá có thể cũng làm cho doanh nghiệp gặp
khó khăn trong việc kinh doanh với nguyên nhân là có thể giá đầu vào cũng tăng


23

hoặc do giá tăng nên tác động ngược lại làm cho cầu giảm xuống ảnh hưởng tới
hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Như vậy, việc dự đoán được một cách
tương đối chính xác cung, cầu của thị trường trong tương lai là một điều vô cùng
cần thiết đối với các doanh nghiệp.
b. Nhóm nhân tố chủ quan
Ngoài các nhân tố mang tính chất khách quan nói trên, còn rất nhiều các
nhân tố chủ quan thuộc về bản thân doanh nghiệp cũng tác động tới hiệu quả vốn
kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Ngành nghề, chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp
Nhân tố này tạo điểm xuất phát cho doanh nghiệp cũng như định hướng cho
sự phát triển của doanh nghiệp trong suốt quá trình tồn tại. Ảnh hưởng của tính chất
ngành nghề đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp thể hiện ở quy mô, cơ cấu
vốn kinh doanh. Quy mô, cơ cấu vốn khác nhau sẽ ảnh hưởng tới tốc độ luân

chuyển vốn, tới phương pháp đầu tư, thể thức thanh toán, chi trả... do đó ảnh hưởng
tới doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp. Với ngành nghề kinh doanh mà doanh
nghiệp lựa chọn cùng với chiến lược kinh doanh đã vạch ra bao giờ chủ doanh
nghiệp cũng cần phải giải quyết những vấn đề về tài chính như:
- Xác định nhu cầu vốn đáp ứng cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Cơ cấu vốn và phương thức huy động vốn hợp lý, doanh nghiệp cần xem
xét chi phí sử dụng vốn để giữ không làm thay đổi số lợi nhuận dành cho chủ sở
hữu doanh nghiệp.
- Cơ cấu tài sản được đầu tư như thế nào cho hợp lý, mức độ hiện đại so với
đối thủ cạnh tranh đến đâu.
Ngoài ra qua ngành nghề kinh doanh doanh nghiệp còn có thể tự xác định
được mức độ lợi nhuận sẽ đạt được, khả năng chiếm lĩnh phát triển thị trường trong
tương lai, sự đổi mới và đa dạng hoá sản phẩm kinh doanh,... để có kế hoạch bố trí
nguồn lực cho phù hợp.
Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm tổng thể các mục tiêu
nhiệm vụ, sách lược trên các mặt thị trường, sản phẩm, phương châm kinh doanh.
Chiến lược kinh doanh có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với toàn bộ hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp xác định được chiến


24

lược kinh doanh sẽ đảm bảo việc kinh doanh có hiệu quả, gia tăng lợi nhuận và
đứng vững trên thị trường.
+ Trình độ tổ chức, quản lý và sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp
- Trình độ quản lý vốn
Đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh
nghiêp. Ngoài việc huy động vốn nhằm đảm bảo sản xuất kinh doanh tiến hành bình
thường, đồng thời đáp ứng yêu cầu mở rộng quy mô hay đầu tư chiều sâu thì với
lượng vốn nhất định, doanh nghiệp phải phân bổ số vốn này đầu tư vào tài sản ngắn

hạn, tài sản dài hạn một cách hợp lý, hiệu quả. Để có thể làm được điều này các
doanh nghiệp cần phải tiến hành thẩm định các dự án đầu tư, chất lượng thẩm định
dự án đầu tư có tác động lớn tới quyết định đầu tư của doanh nghiệp. Việc lựa chọn
dự án đầu tư không phù hợp và đầu tư vốn vào các lĩnh vực không hợp lý sẽ dẫn
đến tình trạng lãng phí vốn, thất thoát vốn và ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn
của doanh nghiệp.
- Nhân tố con người
Đây cũng được coi là nhân tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến hiệu quả sử dụng vốn
của doanh nghiệp. Con người được đề cập ở đây là bộ máy quản lý và lực lượng lao
động trong doanh nghiệp.
Trước hết là trình độ quản lý của người lãnh đạo doanh nghiệp. Vai trò của
người lãnh đạo trong sản xuất kinh doanh rất quan trọng. Một nhà lãnh đạo không
có trình độ quản lý sẽ không có phương án sản xuất hiệu quả, không bố trí hợp lý
các khâu các giai đoạn sản xuất, gây lãng phí về nhân lực, vốn và vật tư,... Điều này
sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn
nói riêng. Trình độ quản lý của nhà lãnh đạo giỏi thể hiện ở sự kết hợp một cách tối
ưu và hài hoà giữa các yếu tố của quá trình sản xuất kinh doanh, giảm thiểu những
chi phí không cần thiết đồng thời nắm bắt những cơ hội kinh doanh, đem lại sự tăng
trưởng và phát triển bền vững cho doanh nghiệp.
Trình độ tay nghề của lực lượng lao động thể hiện ở khả năng tìm tòi sáng
tạo trong công việc, cải tiến sáng kiến kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất lao động
góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
+ Khả năng đầu tư ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất kinh
doanh


25

Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ như ngày nay, nó đang
trở thành một nguồn lực quan trọng góp phần vào sự thành công của doanh nghiệp.

Khả năng đầu tư ứng dụng khoa học kỹ thuật tiến bộ và công nghệ hiện đại nói
chung là điều kiện vật chất để doanh nghiệp sản xuất ra những sản phẩm mới, hợp
thị hiếu, chất lượng cao đồng thời có thể rút ngắn chu kỳ sản xuất sản phẩm, giảm
tiêu hao nguyên vật liệu hoặc sử dụng các loại vật tư thay thế cho phép doanh
nghiệp tiết kiệm chi phí, tăng sức cạnh tranh trên thị trường.
+Thương hiệu và uy tín của doanh nghiệp
Trong cơ chế thị trường, sự cạnh tranh luôn diễn ra quyết liệt mà yếu tố quan
trọng nhất là chỗ đứng vững chắc của doanh nghiệp trong lòng khách hàng. Do vậy,
thương hiệu, uy tín đóng vai trò quyết định tới sự thành bại trong cuộc chiến khẳng
định sự tồn tại và sức mạnh của doanh nghiệp. Vấn đề xây dựng và khẳng định
thương hiệu sản phẩm cũng chính là khẳng định sự sống còn của doanh nghiêp, nó
có ý nghĩa vô cùng quan trọng đặc biệt trong giai đoạn hội nhập và phát triển như
hiện nay.
Tóm lại, có rất nhiều nhân tố tác động và ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng
vốn của doanh nghiệp. Nhưng những nhân tố thuộc về bản thân doanh nghiệp vẫn
được coi là những nhân tố quan trọng nhất, bởi vì do cùng một môi trường kinh
doanh chung, tức là có cùng các thuận lợi và khó khăn như nhau thì việc một doanh
nghiệp làm ăn có hiệu quả hay không, sức cạnh tranh có cao hơn so với các doanh
nghiệp khác hay không là tuỳ thuộc vào chính sự nỗ lực của bản thân doanh nghiêp
đó. Đối với các nhân tố mang tính chủ quan doanh nghiệp hoàn toàn có thể rút kinh
nghiệp, sửa chữa và khắc phục những khuyết điểm để nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn; trong khi đối với các nhân tố mang tính chất khách quan thì doanh nghiệp chỉ
có thể dự đoán và tiến hành phòng ngừa cũng như khắc phục ở một mức độ nhất
định nào đó. Chính vì vậy, những nỗ lực của doanh nghiệp trong việc cố gắng và
chủ động xây dựng các biện pháp quản lý và sử dụng vốn sẽ góp phần nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn chứ không phải chỉ trông chờ và giải thích sự yếu kém của
mình là do các nguyên nhân khách quan.
1.2. Kinh nghiệm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh một số doanh
nghiệp nước người và bài học cho các doanh nghiệp Việt Nam



×