Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Nghiên cứu các giải pháp nâng cao chất lượng nhân lực tại học viện y dược học cổ truyền việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (372.4 KB, 78 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nguồn nhân lực luôn là một yếu tố quyết định đối với sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia nói chung và đối với sự nghiệp giáo dục nói riêng. Do đó,
để thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lược của sự nghiệp giáo dục chúng ta cần
nhận thức một cách sâu sắc, đầy đủ những giá trị to lớn và có ý nghĩa quyết định
của nhân tố con người, chủ thể của mọi sáng tạo, “nguồn tài nguyên” vô giá, vô tận
của đất nước, phải có cách nghĩ, cách nhìn mới về vai trò động lực và mục tiêu của
con người trong sự nghiệp giáo dục từ đó xây dựng các chương trình, kế hoạch và
chiến lược phát triển nguồn lực phù hợp, phát huy tối đa nhân tố con người, tạo ra
động lực mạnh mẽ cho sự nghiệp phát triển giáo dục bền vững, hiệu quả và lâu dài.
Thực tế công tác xây dựng, phát triển đội ngũ nhân lực thời gian qua đã đạt
được một số kết quả tích cực, vừa tăng về số lượng (năm 1986, số lượng lao động là
1,2 triệu người, hiện tại là hơn 1,7 triệu người) vừa nâng lên về chất lượng (một bộ
phận lao động đã có năng lực, trình độ, nghiệp vụ đáp ứng đòi hỏi của một nền hành
chính chuyên nghiệp, hiện đại). Tuy nhiên, trước yêu cầu đổi mới, phát triển và hội
nhập, đội ngũ nhân lực còn bộc lộ những bất cập. Điều đó được thể hiện không chỉ
về kỹ năng quản lý yếu, thiếu tính nhạy bén thị trường, mà còn thể hiện ở tinh thần
trách nhiệm thực thi công vụ chưa cao, một bộ phận nhân lực còn có những biểu
hiện suy thoái phẩm chất, đạo đức. Nói riêng trong lĩnh vực giáo dục, đội ngũ cán
bộ viên chức vẫn còn tồn tại một bộ phận không nhỏ những người không đủ trình
độ chuyên môn, kỹ thuật để có thể giảng dạy và phục vụ giảng dạy.
Ngày nay, chất lượng đội ngũ nhân lực có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với
sự phát triển giáo dục. Giáo dục có được kết quả thắng lợi, đào tạo được nhiều thế
hệ sinh viên sau này ra trường sẽ trở thành công dân tốt cho đất nước thì điều cơ
bản phải có được đội ngũ nhân lực vững vàng về chuyên môn, thành thạo về nghiệp
vụ. Vì tính cấp thiết này mà tác giả chọn đề tài “Nghiên cứu các giải pháp nâng
cao chất lượng nhân lực tại Học viện Y Dược học cổ truyền Việt Nam”.



2

2. Mục đích của đề tài
- Xây dựng căn cứ cho những giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ nhân
lực
- Từ các giải pháp đề xuất, chất lượng đội ngũ nhân lực của nhà trường ngày
một nâng cao để Học viện Y Dược học cổ truyền Việt Nam ngày càng phát triển
trong tương lai.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là chất lượng đội ngũ nhân lực thuộc các
tổ chức đào tạo, bệnh viện, viện nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: Chất lượng đội ngũ nhân lực tại Học viện Y Dược học cổ
truyền Việt Nam.
- Về thời gian: Số liệu thu thập phục vụ nghiên cứu trong giai đoạn 20072012.

4. Phương pháp nghiên cứu
Hệ thống phương pháp sử dụng bao gồm các phương pháp: Điều tra, khảo
sát, thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh để làm rõ vấn đề.
- Cụ thể phương pháp điều tra: Sử dụng phương pháp phỏng vấn nhằm thu
thập những thông tin cần thiết.
- Phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích: Từ các thông tin có được nhờ
phương pháp điều tra, tác giả sẽ thống kê và tổng hợp các số liệu theo từng lĩnh vực,
nội dung cụ thể sau đó tiến hành phân tích những số liệu đó một cách chi tiết và
khoa học.
- Phương pháp so sánh: Từ kết quả có được tác giả tiến hành so sánh với số
liệu từ những thời kỳ trước để đưa ra nhận xét một cách chính xác vấn đề cần
nghiên cứu.



3

5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về chất lượng nhân lực trong các đơn
vị đào tạo ngành Y tế
Chương 2: Thực trạng chất lượng nhân lực tại Học viện Y Dược học cổ
truyền Việt Nam
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng nhân lực tại Học viện
Y Dược học cổ truyền Việt Nam


4

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG NHÂN
LỰC TRONG CÁC ĐƠN VỊ ĐÀO TẠO NGÀNH Y TẾ
1.1. Khái niệm nhân lực, chất lượng nhân lực
1.1.1. Khái niệm nhân lực
- Nhân lực bao gồm tất cả các tiềm năng của con người trong một tổ chức
hay xã hội (kể cả những thành viên trong ban lãnh đạo doanh nghiệp) tức là tất cả
các thành viên trong doanh nghiệp sử dụng kiến thức, khả năng, hành vi ứng xử và
giá trị đạo đức để thành lập, duy trì và phát triển doanh nghiệp.
- Khái niệm nguồn nhân lực: Nguồn nhân lực là nguồn lực con người, có
quan hệ chặt chẽ với dân số, là bộ phận quan trọng nhất của dân số, trong đó vai trò
tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Tùy theo cách tiếp cận khái niệm
nguồn nhân lực có thể khác nhau, do đó, quy mô nguồn nhân lực cũng khác nhau.
Với cách tiếp cận dựa vào khả năng lao động của con người: Nguồn nhân lực
là khả năng lao động của xã hội, của toàn bộ những người có cơ thể phát triển bình
thường có khả năng lao động. Trong tính toán và dự báo nguồn nhân lực của quốc

gia hoặc của địa phương gồm hai bộ phận: Những người trong độ tuổi lao động có
khả năng lao động và những người ngoài độ tuổi lao động thực tế có tham gia lao
động.
Với cách tiếp cận dựa vào trạng thái hoạt động kinh tế của con người: Nguồn
nhân lực gồm toàn bộ những người đang hoạt động trong các ngành kinh tế, văn
hóa, xã hội…
Với cách tiếp cận dựa vào khả năng lao động của con người và giới hạn tuổi
lao động: Nguồn nhân lực gồm toàn bộ những người trong độ tuổi lao động, có khả
năng lao động không kể đến trạng thái có việc làm hay không. Với khái niệm này
quy mô nguồn nhân lực chính là nguồn lao động.
Với cách tiếp cận dựa vào độ tuổi lao động và trạng thái không hoạt động
kinh tế: Nguồn nhân lực dự trữ gồm những người trong độ tuổi lao động nhưng
chưa tham gia lao động vì những lý do khác nhau bao gồm những người làm công


5

việc nhà cho chính gia đình mình (nội trợ), học sinh, sinh viên, người thất nghiệp,
bộ đội xuất ngũ, lao động hợp tác với nước ngoài đã hết hạn hợp đồng về nước,
người hưởng lợi tức và những người khác ngoài các đối tượng trên.
Với cách phân biệt khái niệm như trên giúp cho các nhà hoạch định chính
sách có biện pháp khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực.
Nguồn nhân lực được xem xét và nghiên cứu theo số lượng và chất lượng. Số
lượng nguồn nhân lực thể hiện quy mô nguồn nhân lực và tốc độ tăng nguồn nhân
lực hàng năm. Chất lượng nguồn nhân lực thể hiện mối quan hệ giữa các yếu tố cấu
thành nên bản chất bên trong của nguồn nhân lực, được biểu hiện thông qua các tiêu
thức: Sức khỏe, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn lành nghề, cơ cấu đội ngũ,.
…Chất lượng nguồn nhân lực do trình độ phát triển kinh tế xã hội và chính sách đầu
tư phát triển nguồn nhân lực của chính phủ quốc gia quyết định.
- Vai trò của nguồn nhân lực: Theo nhà kinh tế người Anh - William Petty

cho rằng lao động là cha, đất đai là mẹ của mọi của cải vật chất, C.Mác cho rằng
con người là yếu tố số một của LLSX. Trong truyền thống Việt Nam xác định ''Hiền
tài là nguyên khí của quốc gia". Nhà tương lai học người Mỹ - Avill Toffer nhấn
mạnh vai trò của lao động tri thức. Theo ông ta "Tiền bạc tiêu mãi cũng hết, quyền
lực rồi sẽ mất, chỉ có trí tuệ của con người thì khi sử dụng không những không mất
đi mà còn lớn lên" (Power Shift - Thăng trầm quyền lực - AvillToffer).
Thứ nhất: Nguồn nhân lực quyết định quá trình tăng trưởng và phát triển
kinh tế - xã hội. Nguồn nhân lực, nguồn lao động là nhân tố quyết định việc khai
thác, sử dụng, bảo vệ và tái tạo các nguồn lực khác. Giữa nguồn lực con người, vốn,
tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật, khoa học công nghệ… có mối quan
hệ nhân quả với nhau, nhưng trong đó nguồn nhân lực được xem là năng lực nội
sinh chi phối quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. So với các
nguồn lực khác, nguồn nhân lực với yếu tố hàng đầu là trí tuệ, chất xám có ưu thế
nổi bật ở chỗ nó không bị cạn kiệt nếu biết bồi dưỡng, khai thác và sử dụng hợp lý,
còn các nguồn lực khác dù nhiều đến đâu cũng chỉ là yếu tố có hạn và chỉ phát huy
được tác dụng khi kết hợp với nguồn nhân lực một cách có hiệu quả. Vì vậy con


6

người với tư cách là nguồn nhân lực, là chủ thể sáng tạo, là yếu tố bản thân của quá
trình lao động sản xuất, là trung tâm của nội lực. Ngày nay một quốc gia có thể
không giàu về tài nguyên, điều kiện thiên nhiên không mấy thuận lợi nhưng nền
kinh tế có thể tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững nếu hội đủ bốn điều kiện
sau:
Một là, quốc gia đó biết đề ra đường lối kinh tế đúng đắn.
Hai là, quốc gia đó biết tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối đó.
Ba là, quốc gia đó có đội ngũ công nhân kỹ thuật tay nghề cao và đông đảo.
Bốn là, quốc gia đó có các nhà doanh nghiệp tài ba.
Thứ hai: Nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quyết định sự thành

công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là quá trình chuyển đổi căn bản,
toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, xã hội, từ sử dụng lao động thủ công
là phổ biến sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động được đào tạo cùng với
công nghệ tiên tiến, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra
năng suất lao động xã hội cao. Đối với nước ta đó là một quá trình tất yếu để phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khi đất nước ta đang bước vào
giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn, tiếp cận kinh tế tri thức trong điều
kiện phát triển kinh tế - xã hội còn thấp, do đó yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, nhất là trí lực có ý nghĩa quyết định tới sự thành công của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và phát triển bền vững. Đảng ta đã xác định phải
lấy việc phát huy chất lượng nguồn nhân lực làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh chóng và bền vững, hiệu quả và lâu dài.
Thứ ba: Nguồn nhân lực là điều kiện để rút ngắn khoảng cách tụt hậu, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Thứ tư: Nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện hội nhập kinh tế quốc
tế. Quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và quốc tế, nguồn nhân lực đặc biệt
là nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức
lớn.


7

Nhân lực của Học viện Y Dược học cổ truyền Việt Nam báo gồm cả công
chức và viên chức. Tác giả xin làm rõ vài nét về công chức và viên chức:
Công chức là những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào các chức danh
trong các cơ quan Nhà nước (trong đó tập trung vào các cơ quan hành chính) để
thực thi hoạt động công vụ và được hưởng lương và các khoản thu nhập từ ngân
sách Nhà nước. Công chức của một quốc gia thường là công dân, người có quốc
tịch của nước sở tại và thường nằm trong biên chế. Phạm vi làm việc của công chức

là các cơ quan Nhà nước, tuy nhiên pháp luật nhiều nước quy định công chức có thể
làm việc không chỉ trong cơ quan Nhà nước. Luật Cán bộ, công chức Việt Nam năm
2008 có quy định rằng: Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ
nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan gồm: Đảng Cộng sản Việt
Nam; Cơ quan Nhà nước; Tổ chức chính trị – xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp
huyện; Cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam mà không phải là sĩ
quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; Cơ quan, đơn vị
thuộc Công an nhân dân Việt Nam mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên
nghiệp; Trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng
Cộng sản Việt Nam; Trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập
của Nhà nước; Trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của
Nhà nước tổ chức chính trị – xã hội.
Viên chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm
việc tại đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ
quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của Pháp luật.


8

*) Phân biệt công chức và viên chức
Bảng 1.1: Bảng so sánh công chức, viên chức
Công chức
- Vận hành quyền lực Nhà nước, làm

Viên chức
- Thực hiện chức xã hội, trực tiếp thực

nhiệm vụ quản lý
- Hình thức tuyển dụng: Thi tuyển, bổ


hiện nghiệp vụ.
- Hình thức tuyển dụng: Xét tuyển, ký

nhiệm, có quyết định của cơ quan Nhà

hợp đồng làm việc.

nước có thẩm quyền thuộc biên chế.
- Lương: Hưởng lương từ ngân sách

- Lương: Một phần từ ngân sách, còn lại

Nhà nước theo ngạch, bậc.
- Nơi làm việc: Cơ quan Nhà nước, tổ

là nguồn thu sự nghiệp.
- Nơi làm việc: Đơn vị sự nghiệp và đơn

chức công tác xã hội (Thành đoàn,

vị sự nghiệp của các tổ chức xã hội.

Thành ủy).
(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ những quy định của Nhà nước)

1.1.2. Khái niệm chất lượng nhân lực
Theo Từ điển tiếng Việt thì "chất lượng" hiểu ở nghĩa chung nhất là "cái tạo
nên phẩm chất, giá trị của một con người, sự vật, sự việc" [36, tr.44].
Đối với một con người sống trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
Chất lượng của cá nhân đó được hiểu là tổng hợp những phẩm chất nhất định về sức

khỏe, trí tụê khoa học, chuyên môn nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức, ý chí, niềm
tin, năng lực, luôn gắn bó với tập thể, với cộng đồng và tham gia một cách tích cực
vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước yêu cầu chất lượng nhân lực càng cao hơn - đòi
hỏi người có những trình độ phẩm chất theo yêu cầu như nêu ở trên thì người phải
gương mẫu, đi tiên phong về lý luận và thực tiễn, chấp hành nghiêm chỉnh chủ
trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, giữ vững tiêu
chuẩn và tư cách của người cán bộ.
Mỗi cá nhân không tồn tại một cách biệt lập mà phải được đặt trong một
chỉnh thể thống nhất của đội ngũ tập thể. Vì vậy, quan niệm về chất lượng nhân lực


9

phải được đặt trong mối quan hệ biện chứng giữa chất lượng của từng cán bộ với
chất lượng của cả đội ngũ. Chất lượng của cả đội ngũ không phải là sự tập hợp giản
đơn số lượng mà là sự tổng hợp sức mạnh của toàn bộ đội ngũ. Sức mạnh này bắt
nguồn từ phẩm chất vốn có bên trong của mỗi nhân lực và nó được tăng lên gấp bội
bởi tính thống nhất của tổ chức, của sự giáo dục, đào tạo, phân công, quản lý, của
kỷ luật.
Như vậy, các yếu tố cấu thành chất lượng đội ngũ nhân lực không chỉ bao
gồm một mặt, một khía cạnh nào đó, mà nó bao gồm cả một hệ thống, được kết cấu
như một chỉnh thể toàn diện từ chất lượng của từng cán bộ (đây là yếu tố cơ bản
nhất, tiên quyết nhất) cho đến cơ cấu số lượng nam nữ, độ tuổi, thành phần của đội
ngũ cùng với việc bồi dưỡng, giáo dục, phân công, quản lý kiểm tra giám sát và
thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của đơn vị.
Để nâng cao chất lượng của đội ngũ nhân lực, cần phải giải quyết tốt mối
quan hệ giữa chất lượng với số lượng nhân lực. Chỉ khi nào hai mặt này quan hệ hài
hòa, tác động hữu cơ với nhau thì mới tạo nên sức mạnh đồng bộ của cả đội ngũ.
Trong thực tế chúng ta cần phải chống hai khuynh hướng, khuynh hướng thứ nhất là

chạy theo số lượng, ít chú trọng đến chất lượng dẫn đến cán bộ nhiều về số lượng
nhưng hoạt động không hiệu quả. Khuynh hướng thứ hai, cầu toàn về chất lượng
nhưng không quan tâm đến số lượng. Khuynh hướng này là một nguyên nhân quan
trọng làm cho tuổi đời bình quân của đội ngũ nhân lực ngày càng cao, hẫng hụt về
thế hệ. Trong giai đoạn hiện nay thì cần hơn hết là phải coi trọng chất lượng của
nhân lực trên cơ sở bảo đảm số lượng hợp lý.
Từ những đặc điểm trên có thể khái niệm: Chất lượng đội ngũ nhân lực là
một hệ thống những phẩm chất, giá trị được kết cấu như một chỉnh thể toàn diện
được thể hiện qua phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ năng lực, khả
năng hoàn thành nhiệm vụ của mỗi nhân lực và cơ cấu, số lượng, độ tuổi, thành
phần của cả đội ngũ nhân lực.


10

1.1.3. Tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng nhân lực ngành Y tế
1.1.3.1. Khái niệm Y học cổ truyền và Y học hiện đại trong nền Y tế Việt Nam
Y học là khoa học và nghệ thuật chữa bệnh, bao gồm nhiều phương pháp
chăm sóc sức khỏe nhằm duy trì, hồi phục cơ thể từ việc phòng ngừa và chữa bệnh.
Y học hiện đại (YHHĐ) ứng dụng các ngành khoa học sức khỏe, y sinh
học, công nghệ y học để chuẩn đoán và chữa trị bệnh tật bằng thuốc men, phẫu
thuật hoặc bằng phương pháp trị liệu khác. Từ "y học" trong tiếng Anh
là "medicine" có nguồn gốc từ tiếng Latin là "ars medicina", nghĩa là "nghệ thuật
chữa bệnh".
Y học cổ truyền (YHCT) là phương pháp phòng và chữa bệnh không dùng
thuốc. YHCT Việt Nam có nhiều loại cây thuốc quý, nhiều bài thuốc hay và nhiều
kinh nghiệm chữa bệnh trong dân gian của đồng bào các dân tộc trải qua thực tiễn
hàng ngàn năm đến nay vẫn còn nguyên giá trị chữa bệnh, cứu người. Đặc biệt,
những bài thuốc bồi bổ cơ thể được nhiều người sử dụng, đã góp phần nâng cao thể
trạng, phát triển giống nòi người Việt Nam. Hơn thế nữa, nhiều phương pháp chữa

bệnh không dùng thuốc như châm cứu, bấm huyệt, khí công, dưỡng sinh... không
chỉ người dân Việt Nam ưa chuộng sử dụng chữa bệnh mà người dân nhiều nước
trên thế giới cũng rất tin tưởng và ưa thích, nó trở thành phương pháp chữa bệnh
độc đáo trên thế giới. Trong nhiều năm qua, Việt Nam đã từng bước lồng ghép
YHCT vào hệ thống Y tế quốc gia, phát huy được vai trò to lớn của YHCT. Đường
lối phát triển YHCT Việt Nam đã được khẳng định nhất quán trong nhiều năm qua
là: Kế thừa, phát huy, phát triển YHCT, kết hợp với YHHĐ, xây dựng nền YHCT
Việt Nam khoa học dân tộc và đại chúng. Hơn 60 năm qua, kiên trì thực hiện đường
lối phát triển YHCT của Chính phủ, Ngành Y tế Việt Nam đã đạt được một số thành
tựu quan trọng trên lĩnh vực YHCT. Việt Nam đã xây dựng được mạng lưới công
tác YHCT từ Trung ương đến cơ sở. Về hệ thống quản lý nhà nước, Bộ Y tế có Vụ
Y học cổ truyền; Sở Y tế có phòng hoặc chuyên viên theo dõi công tác YHCT. Hiện
nay, cả nước có 5 viện và bệnh viện đầu ngành về YHCT và 54 bệnh viện YHCT


11

tuyến tỉnh/thành phố. Trong các bệnh viện đa khoa tuyến Trung ương và tuyến tỉnh
đều có khoa YHCT, bệnh viện huyện có khoa YHCT hoặc có bác sỹ YHCT trong
khoa nội, trạm y tế xã, phường có bộ phận khám chữa bệnh bằng YHCT và vườn
cây thuốc nam. Ngoài ra, còn có các cơ sở khám chữa bệnh YHCT ngoài công lập
như phòng chẩn trị YHCT, cơ sở điều dưỡng, phục hồi chức năng bằng YHCT,...
Trong hệ thống tổ chức Hội Đông y thì chúng ta có 4 cấp: Trung ương, tỉnh, huyện,
xã nhưng trong thực tế nguồn nhân lực của các cấp Hội vẫn còn mỏng, trình độ
chuyên môn, năng lực lãnh đạo còn nhiều hạn chế. Nhìn lại chặng đường phát triển
của Y dược học cổ truyền Việt Nam, có thể khẳng định YHCT Việt Nam có những
đóng góp to lớn trong sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân. Tuy nhiên,
trong xu thế phát triển chung của y học, YHCT vẫn bộc lộ một số hạn chế, tồn tại
như chất lượng chẩn đoán, điều trị của YHCT chưa cao, nhiều bài thuốc, cây thuốc
chưa được nghiên cứu rõ ràng dưới ánh sáng của khoa học YHHĐ, nên chưa thực

sự thuyết phục nhân dân sử dụng. Để tiếp tục phát huy hơn nữa vai trò của YHCT
trong sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân, Nhà nước ta rất
quan tâm đến phát triển YHCT. Quan điểm của Đảng và Nhà nước là YHCT là một
di sản văn hóa của dân tộc, có vai trò và tiềm năng to lớn trong sự nghiệp chăm sóc,
bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân, do đó Ngành Y tế chúng ta phải có trách
nhiệm tập trung kế thừa, phát triển và xây dựng nền YHCT Việt Nam khoa học, dân
tộc và đại chúng.

1.1.3.2. Tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng nhân lực của ngành Y
tế
Nghề thầy thuốc là một nghề cao quý bởi đây là nghề chữa bệnh, cứu người.
Cho nên người thầy thuốc không chỉ giỏi về chuyên môn mà phải có tâm, có đức
hết lòng vì người bệnh, chăm lo, quan tâm cho người bệnh như chính những người
thân yêu trong gia đình mình. Chính là thể hiện câu nói của Bác Hồ “Lương y như
từ mẫu” đã ghi vào tâm trí của mỗi cán bộ y tế. Đặc thù của nghề nghiệp y tế không
giống như những nghề nghiệp khác là nó liên quan trực tiếp tới sức khỏe của người
bệnh. Họ chịu trách nhiệm về phần xác và cả phần hồn của thân chủ. Một sự chậm


12

trễ, thờ ơ của họ có thể làm chết người. Một sự cẩu thả của họ trong lời ăn tiếng nói
có thể gây nỗi đau cho người khác. Mối quan hệ giữa thầy thuốc và bệnh nhân là
một mối quan hệ đặc biệt. Người bệnh đến với thầy thuốc không phải để tìm kiếm
thuốc men hay những thông tin liên quan đến bệnh tật, mà còn mang theo cả những
nỗi băn khoăn, lo lắng, sợ hãi… Và như vậy, nhiều khi chỉ cần một câu nói, một cái
nhìn, một bàn tay… của người thầy thuốc cũng đủ giải quyết vấn đề của người
bệnh. Người thầy thuốc nào khi bước vào trường y cũng với tâm nguyện vì người,
đó là một thiên hướng trong việc chọn nghiệp chứ không phải là một sự đầu tư...
Nghề y không thể coi là một ngành kinh doanh, một mũi nhọn kinh tế, vì nếu như

thế người ta sẽ nghĩ đến việc khai thác tối đa lợi nhuận trên sức khỏe con người.
Người thầy thuốc thường mất ăn mất ngủ trước một ca bệnh lý, thường bứt rứt ăn
năn dài lâu trước một lỡ lầm đôi khi không sao tránh khỏi trong lúc hành nghề. Xã
hội cần tôn trọng và đánh giá đúng sự đóng góp của người thầy thuốc để giúp họ
sống xứng đáng với vai trò, chức năng mà xã hội đã giao phó. Trong lịch sử danh
nhân y học Việt Nam, có rất nhiều thầy thuốc, các bậc danh y bao giờ cũng có tâm
cao, đức dày, y học tinh thông là tấm gương soi cho các thầy thuốc và cho mọi
người. Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác đã dạy: "Không có nghề nào nhân đạo
bằng nghề cứu người. Không có nghề nào vô nhân đạo bằng nghề y thiếu đạo đức".
Bác Hồ kính yêu là một tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng. Tư tưởng của
Người luôn coi đạo đức là gốc rễ của con người, của tài năng. Với các thầy thuốc,
Bác càng đặc biệt chú ý hơn về đạo đức. Bác dặn: "Người bệnh phó thác tính mệnh
của họ nơi các cô, các chú. Chính phủ phó thác cho các cô, các chú việc chữa bệnh
tật và giữ sức khỏe cho đồng bào. Đó là một nhiệm vụ rất vẻ vang. Vì vậy, cán bộ
cần phải thương yêu, săn sóc người bệnh như anh em ruột thịt của mình, coi họ đau
đớn cũng như mình đau đớn. Lương y như từ mẫu, câu nói ấy rất đúng". Thực hiện
lời dạy của Bác Hồ kính yêu, đội ngũ cán bộ y tế từ tỉnh đến tận xã, ấp vùng sâu,
vùng xa đã nỗ lực phấn đấu vượt lên mọi khó khăn gian khổ, trong hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và Mỹ có nhiều cán bộ y tế đã hy sinh cho ngày độc lập.


13

Trong thời bình hiện nay, phát huy tính năng động sáng tạo, nghiên cứu và
ứng dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật hiện đại, ngành tiếp tục ra sức mình
cứu chữa, đem lại sức khỏe, hạnh phúc cho nhân dân được Đảng và chính quyền
tin yêu, nhân dân quý mến. Nhiều cá nhân và tập thể được nêu gương điển hình
tiên tiến, vinh dự được Đảng và Nhà nước tặng thưởng nhiều bằng khen và huân
chương cao quý. Rất nhiều thầy thuốc Việt Nam gần đây nhất đã nêu cao gương
sáng cho chúng ta học tập cả về chuyên môn lẫn đức hạnh như Tôn Thất Tùng,

Tôn Thất Bách, Đặng Văn Ngữ, Phạm Ngọc Thạch, Vũ Đình Tụng, Đỗ Đức Vân,
Đặng Văn Chung... và còn bao thầy thuốc, lương y, y sĩ, y tá, hộ lý... khác trong
hàng ngũ những anh hùng áo trắng đã nêu gương sáng cho đời, mà chúng ta
không thể kể hết. Khách quan đánh giá, nhìn chung, đội ngũ thầy thuốc nước ta
hiện nay vẫn giữ được y đức và có y thuật cao, ngày đêm tận tụy vì sức khỏe của
nhân dân. Một số thầy thuốc còn tình nguyện hiến máu cứu chữa người bệnh,
không nhận thù lao của bệnh nhân, có người giúp đỡ tiền để bệnh nhân nghèo
chữa bệnh, có người khám bệnh cấp thuốc miễn phí cho dân.
Cuộc sống hôm nay, trong cơ chế mới bộn bề và sôi động, đặc trưng nổi bật
đang xuyên qua các quan hệ xã hội là đồng tiền có xu hướng ngự trị và khuynh
đảo. Từ đó, dẫn tới sự xuống cấp của đạo đức và truyền thống tốt đẹp. Người tốt,
có đức thường khó giàu. Thầy thuốc cũng vậy, nếu tất cả đều trở thành quan hệ
mua bán không tình nghĩa thì không thể nói đến đạo đức. Trong cơ chế mới, những
thầy thuốc tài năng, đức độ vẫn có nhiều điều kiện để làm giàu. Cái giàu tiền bạc
ấy bằng chính tâm và đức của thầy thuốc. Sự giàu có ấy là giàu có chính đáng, xã
hội và nhân dân rất trân trọng và tôn vinh. Song, có một bộ phận thầy thuốc có
những thái độ và hành vi hết sức vô cảm trước nỗi đau của người bệnh, bởi vì động
lực của những người này không hoàn toàn hướng tới việc chữa trị cho người bệnh
và đang làm "méo mó" nghề thầy thuốc cao quý, người thầy thuốc được coi như
mẹ hiền. Tuy nhiên số thầy thuốc giảm sút y đức không nhiều, vì thế, không thể vì
một số "con sâu" mà đánh giá sai về những cống hiến đáng ghi nhận của đại đa số
thầy thuốc, từ đó giảm sự quan tâm đến đời sống vật chất tinh thần của những


14

người thầy thuốc. Các thầy thuốc giỏi, có đạo đức cao đều để lại tiếng thơm muôn
thuở trong nhân gian.
Vì vậy, việc nâng cao chất lượng nhân lực trong lĩnh vực y tế đóng một vai
trò hết sức quan trọng trong ngành Y nói riêng và nền kinh tế nói chung vì chất

lượng đội ngũ nhân lực ngành y tế ảnh hưởng tới toàn bộ nguồn nhân lực. Ngành y
tế có bền vững thì nguồn nhân lực trong xã hội mới bền vững và phát triển.

1.2. Các tiêu chí đánh giá chất lượng nhân lực ngành Y tế
1.2.1. Đặc điểm nhân lực trong các đơn vị y tế
1.2.1.1. Tính chất công việc
Nhân lực trong lĩnh vực y tế làm việc trong các bệnh viện, trạm xá, trung tâm
y tế hay các cơ sở đào tạo lĩnh vực y tế.
Tính thường xuyên thể hiện ở việc tuyển dụng là không giới hạn về thời
gian. Khi đã được tuyển dụng vào một ngạch, chức danh, chức vụ thì một người là
nhân lực trong ngành Y tế sẽ làm việc thường xuyên, liên tục, không gián đoạn về
mặt thời gian.
Tính chuyên môn nghiệp vụ được thể hiện là nhân lực được xếp vào một
công việc cụ thể trong nhiều lĩnh vực của ngành nghề Y tế. Nhân lực y tế trong các
đơn vị đào tạo ngành y tế có chức năng giảng dạy, hướng dẫn người học nghiên cứu
khoa học. Nhân lực y tế trong các cơ sở y tế có nhiệm vụ thăm, khám, chữa bệnh
cho bệnh nhân.

1.2.1.2. Con đường hình thành nhân lực y tế
Nếu nhân lực y tế là công chức thì có hai con đường hình thành công chức là
thông qua tuyển dụng và bổ nhiệm. Việc tuyển dụng công chức do cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền tiến hành căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ, vị trí việc làm và chỉ tiêu
biên chế được giao. Cơ quan thực hiện việc tuyển dụng công chức bao gồm những
cơ quan được quy định tại Điều 39 Luật cán bộ, công chức. Đó là: Tòa án nhân dân
tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước, Văn phòng Quốc hội,
Văn phòng Chủ tịch nước, Bộ, các cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc chính phủ, Ủy


15


ban nhân dân cấp tỉnh, cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức chính trị - xã
hội. Các cơ quan này đều tiến hành tuyển dụng công chức trong các cơ quan và các
đơn vị thuộc quyền quản lý.
Người được tuyển dụng phải là người đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy
định tại Khoản 1 Điều 36 Luật cán bộ, công chức và không phải những người được
quy định tại Khoản 2 Điều 36. Khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện người được tuyển
dụng phải trải qua kỳ thi tuyển hoặc xét tuyển theo quy định của pháp luật. Thi
tuyển là một phương thức tuyển dụng công chức. Trong đó hình thức, nội dung thi
tuyển phải phù hợp với ngành, nghề, bảo đảm lựa chọn được những người có phẩm
chất, trình độ và năng lực đáp ứng yêu cầu tuyển dụng. Bên cạnh đó, đối với những
người thỏa mãn các điều kiện tuyển dụng và cam kết tình nguyện làm việc từ 05
năm trở lên ở miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số,
vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thì được tuyển dụng thông qua
xét tuyển.
Người được tuyển dụng vào công chức phải thực hiện chế độ tập sự theo quy
định của Chính phủ. Hết thời gian tập sự, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị
sử dụng công chức đánh giá phẩm chất đạo đức và kết quả công việc của người đó.
Nếu đạt yêu cầu thì đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý công chức
quyết định bổ nhiệm chính thức vào ngạch. Bên cạnh việc bổ nhiệm vào một ngạch
sau khi người được tuyển dụng hoàn thành chế độ tập sự thì bổ nhiệm còn là một
con đường trực tiếp hình thành công chức. Đó là việc công chức được bổ nhiệm để
giữ một chức vụ lãnh đạo, quản lý. Việc bổ nhiệm công chức giữ một chức vụ lãnh
đạo, quản lý phải căn cứ vào nhu cầu, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, đơn vị hay
tiêu chuẩn, điều kiện của chức vụ lãnh đạo, quản lý. Thẩm quyền, trình tự, thủ tục
bổ nhiệm công chức lãnh đạo, quản lý được thực hiện theo quy định của pháp luật
và của cơ quan có thẩm quyền. Như vậy, con đường hình thành công chức y tế là
tuyển dụng và bổ nhiệm. Trong đó, tuyển dụng là con đường đặc thù.

1.2.1.3. Nơi công tác



16

Nhân lực y tế với chuyên môn chủ yếu là khám, chữa bệnh cho bênh nhân
làm việc trong các bệnh viện, trạm xá, trung tâm y tế. Nhân lực y tế với chuyên môn
chính là đào tạo, giảng dạy sinh viên làm việc trong các cơ sở đào tạo lĩnh vực y tế.

1.2.1.4. Nguồn trả lương
Nếu nhân lực là công chức thì những người này là những người trong biên
chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, đối với nhân lực y tế
trong đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được đảm bảo từ quỹ lương của đơn vị sự
nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.

1.2.2. Các tiêu chí đánh giá chất lượng nhân lực ngành Y tế
1.2.2.1. Về phẩm chất chính trị
Đây là tiêu chuẩn đầu tiên, là điều kiện đối với mỗi cán bộ y tế nói chung. Để
trở thành những nhà tổ chức, những người cán bộ có năng lực trước hết phải là
người có phẩm chất chính trị. Phẩm chất chính trị của đội ngũ nhân lực y tế được
biểu hiện trước hết là sự tin tưởng tuyệt đối đối với lý tưởng cách mạng, kiên định
với mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, đó là con đường mà Bác Hồ và Đảng ta đã
lựa chọn, kiên quyết đấu tranh bảo vệ quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật
của Nhà nước, không dao động trước những khó khăn thử thách. Đồng thời phải có
biện pháp để đường lối đó đi vào thực tiễn cuộc sống của nhân dân địa phương.
Nhân lực y tế có phẩm chất chính trị tốt không chỉ bằng những lời tuyên bố,
hứa hẹn mà quan trọng hơn là việc nghiêm chỉnh chấp hành đường lối, chỉ thị, nghị
quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước, kỷ luật nơi làm việc. Phẩm chất chính
trị của mỗi cán bộ y tế còn biểu hiện thông qua thái độ phục vụ nhân dân, tinh thần
gương mẫu trong công tác, tinh thần trách nhiệm đối với đời sống của đồng bào
nhân dân tại cơ sở mình công tác. Đặc biệt người cán bộ y tế phải là người không
chạy theo cám dỗ của đồng tiền, có phẩm chất chính trị tốt phải là người luôn trăn

trở trước những khó khăn của sinh viên, người bệnh, phải có quyết tâm đưa cơ sở
nơi mình công tác ngày càng phát triển về mọi mặt.

1.2.2.2. Về phẩm chất đạo đức


17

Đây là phẩm chất rất quan trọng đối với đội ngũ nhân lực y tế, nó là cái
"gốc" của người cán bộ y tế. Y đức là đạo đức của người hành nghề y tế, thể hiện
các tiêu chuẩn, nguyên tắc đạo đức được xã hội thừa nhận, nhằm điều chỉnh hành
vi, cách ứng xử của thầy thuốc với bệnh nhân và cộng đồng. Y đức xác định trách
nhiệm, lương tâm, danh dự và niềm hạnh phúc của người thầy thuốc. Nghề y là một
nghề đặc biệt: Bởi vì không có nghề nào lại đi vào đời sống con người một cách sâu
sắc và cấp thiết như nghề y. Không có nghề nào như nghề y mà một lỗi lầm hay một
thiếu sót, dù nhỏ nhất lại có thể gây nên những tác hại lớn đến sức khoẻ và tính
mạng con người. Hơn nữa, nghề Y là một nghề nhân đạo, quan hệ thiết thực đến đời
sống và tính mạng con người, đến hạnh phúc của từng gia đình, liên quan chặt chẽ
tới tương lai, giống nòi, đến sức khoẻ và sự cường thịnh của một dân tộc và sự phồn
vinh của một quốc gia.
Đối tượng phục vụ của thầy thuốc là bệnh nhân, đó không phải là máy móc,
công trình kiến trúc hay đường xá mà là người. Một người cụ thể đang ở tình trạng
bệnh tật, đau đớn cả về thể xác cũng như tinh thần, họ cần sự quan tâm, cần được
cứu chữa và giúp đỡ của thầy thuốc. Sức khoẻ, sự sống của họ được giao phó cho
thầy thuốc. Vì vậy không thể tha thứ cho sự cẩu thả, sự bàng quan và chủ nghĩa
hình thức ở người thầy thuốc. Hiện nay, những "ta thán" từ phía bệnh nhân không
tập trung nhiều ở chuyên môn mà là thái độ phục vụ của nhân viên y tế. Người thầy
thuốc không được có thái độ ban ơn, lạm dụng nghề nghiệp và gây phiền hà cho
người bệnh. Kê đơn phải phù hợp với chẩn đoán và bảo đảm sử dụng thuốc hợp lý,
an toàn, không vì lợi ích cá nhân mà giao cho người bệnh thuốc kém phẩm chất,

thuốc không đúng với yêu cầu và mức độ bệnh. Khi người bệnh ra viện, phải dặn dò
chu đáo, hướng dẫn họ tiếp tục điều trị, tự chăm sóc và giữ gìn sức khỏe. Đối với đa
số những người làm ngành y, thì việc nâng cao y đức trước tiên là việc nâng cao tay
nghề, nâng cao trình độ nghiên cứu, chẩn đoán, làm chủ trang thiết bị hiện đại để có
thể nhanh chóng tìm ra nguyên nhân gây bệnh, biện pháp điều trị và cách điều trị.
Cùng với đó là việc nâng cao tinh thần trách nhiệm để tận tuỵ với người bệnh. Như
vậy, điều cốt lõi nhất của y đức vẫn là sự xuất phát từ lương tâm và trách nhiệm của


18

những người thầy thuốc. Những người thầy thuốc có y đức thì dù trong môi trường
nào họ cũng sẽ hành động vì tình người. Cho nên, việc thường xuyên giữ gìn, bảo
vệ, trau dồi y đức là điều cần thiết. Bên cạnh đó, với một cơ chế làm việc khoa học,
minh bạch về quyền lợi, nghĩa vụ, chắc chắn sẽ ngăn chặn được sự suy thoái y đức
của một bộ phận y - bác sĩ. Với những sinh viên y khoa, hành trang đầu tiên khi
bước vào nghề là lời tuyên thệ trước Tượng Hypocrate - Y tổ của thế giới và Hải
Thượng Lãn Ông - Y tổ của Việt Nam, “Coi nghề thầy thuốc mà họ đã chọn như
một con đường cứu người và giúp đời”. Người thầy thuốc mới ra trường chỉ là mới
bắt đầu cho y nghiệp và y đạo của mình. Vì vậy cần phải rèn luyện, phấn đấu, tu
dưỡng nhiều hơn nữa để trở thành một người thầy thuốc chân chính, vừa có tài vừa
có đức, xứng đáng với lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh “Lương y như từ mẫu”.
* Những quy định về y đức (tiêu chuẩn đạo đức của người làm công tác y tế - Ban
hành kèm theo quyết định 2088/ BYT – QĐ ngày 06/11/1996 của Bộ trưởng Bộ Y
tế).
Khi đã tự nguyện đứng trong hàng ngũ y tế phải thực hiện những quy định sau:
1. Lương tâm và trách nhiệm cao, hết lòng yêu nghề, luôn rèn luyện nâng cao phẩm
chất đạo đức của người thầy thuốc, không ngừng rèn luyện và tích cực nghiên cứu
khoa học để nâng cao trình độ chuyên môn, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn và
gian khổ, hy sinh và mất mát, tất cả vì sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ của

nhân dân.
2. Tôn trọng luật pháp và thực hiện nghiêm túc các quy chế chuyên môn. Không
được sử dụng bệnh nhân làm thực nghiệm cho những phương pháp chẩn đoán, điều
trị, nghiên cứu khoa học khi chưa được phép của Bộ Y tế và sự chấp nhận của bệnh
nhân.
3. Tôn trọng quyền được khám bệnh, chữa bệnh của nhân dân, tôn trọng những bí
mật riêng tư của bệnh nhân. Khi thăm khám, chăm sóc cần bảo đảm kín đáo, lịch
sự. Quan tâm đến bệnh nhân trong diện chính sách ưu đãi xã hội, không được phân
biệt đối xử với bệnh nhân, không có thái độ ban ơn, lạm dụng nghề nghiệp và gây


19

phiền hà cho bệnh nhân. Phải trung thực khi thanh toán các chi phí khám chữa
bệnh.
4. Tiếp xúc với bệnh nhân và gia đình họ, luôn có thái độ niềm nở, tận tình, trang
phục phải chỉnh tề, sạch sẽ để tạo niềm tin cho bệnh nhân, phải giải thích tình hình
bệnh tật cho bệnh nhân và gia đình họ hiểu để cùng hợp tác điều trị, phổ biến cho
họ về chính sách, quyền lợi và nghĩa vụ của bệnh nhân, động viên an ủi, khuyến
khích bệnh nhân điều trị, tập luyện để chóng hồi phục. Trong trường hợp bệnh nhân
nặng hoặc tiên lượng xấu cũng phải hết lòng cứu chữa và chăm sóc đến cùng và báo
cho gia đình bệnh nhân.
5. Khi cấp cứu phải khẩn trương chẩn đoán, xử trí kịp thời không được đùn đẩy
bệnh nhân.
6. Kê đơn thuốc phải phù hợp với chẩn đoán của bác sĩ và bảo đảm sử dụng thuốc
men hợp lý, an toàn, không vì lợi ích cá nhân mà giao cho bệnh nhân thuốc kém
phẩm chất, thuốc không đúng với yêu cầu cho phép và không đúng với mức độ căn
bệnh của bệnh nhân.
7. Không được rời bỏ vị trí khi làm nhiệm vụ, theo dõi và xử lý kịp thời các diễn
biến.

8. Khi bệnh nhân ra viện phải dặn dò chu đáo, hướng dẫn họ tiếp tục điều trị, tự
chăm sóc và giữ gìn sức khoẻ.
9. Khi bệnh nhân tử vong phải cảm thông sâu sắc, chia buồn và hướng dẫn, giúp đỡ
gia đình làm các thủ tục cần thiết.
10. Thật thà đoàn kết, tôn trọng đồng nghiệp, kính trọng các bậc thầy, sẵn sàng
truyền thụ kiến thức, học hỏi kinh nghiệm giúp đỡ lẫn nhau.
11. Khi bản thân có thiếu sót, phải tự giác nhận trách nhiệm vì mình, không đổ lỗi
cho đồng nghiệp, cho tuyến trước.
12. Hăng hái tham gia công tác tuyên truyền giáo dục sức khỏe, phòng chống dịch
bệnh, cứu chữa người bị tai nạn, ốm đau tại cộng đồng, gương mẫu thực hiện nếp
sống vệ sịnh, giữ gìn môi trường trong sạch.

1.2.2.3. Về trình độ năng lực


20

Đây là yếu tố vô cùng quan trọng trong việc đánh giá chất lượng đội ngũ
nhân lực trong lĩnh vực y tế. Y đức bao gồm cả cái tâm lẫn cái tài của người thầy
thuốc. Giỏi mà không có tâm là không được, có tâm mà không giỏi thì chỉ làm hại
bệnh nhân. Y đức của thầy thuốc không chỉ đánh giá ở bề ngoài, ở thái độ phục vụ
tận tâm, tận tụy với bệnh nhân mà còn phải là chuyên môn. Khi đã tự nguyện đứng
trong hàng ngũ y tế phải nghiêm túc thực hiện lời dạy của Bác Hồ. Phải có lương
tâm và trách nhiệm cao, hết lòng yêu nghề, luôn rèn luyện nâng cao phẩm chất đạo
đức của thầy thuốc. Không ngừng học tập và tích cực nghiên cứu khoa học để nâng
cao trình độ chuyên môn, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, gian khổ vì sự nghiệp
chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân. Đã mang trên mình bộ áo trắng với sứ mệnh
cao cả là mang lại sức khỏe cho người bệnh, những người làm công tác y tế phải có
trình độ chuyên môn vững vàng, nghiệp vụ thành thạo và được đào tạo một cách
khoa học và hệ thống. Trình độ năng lực không chỉ giới hạn trong cái mà bản thân

đã biết, cán bộ y tế còn được đánh giá cao trong việc luôn luôn tự học tập, trau dồi
kiến thức phục vụ cho công tác chữa bệnh, nghiên cứu của mình. Nhân lực y tế nên
kế thừa quan điểm học tập của Hải Thượng Lãn Ông:
a) Nêu cao tinh thần khổ học: “Tìm hiểu sách vở của khắp các nhà nghiên cứu,
nghiên cứu ngày đêm, mỗi khi được một câu cách ngôn của hiền triết xưa thì ghi
ngay tại chỗ biện luận kỹ càng, luôn luôn suy nghĩ. Phàm những câu chân lý ngoài
lời nói, phần nhiều nảy ra trong lúc suy tưởng, nhân đó suy rộng ra, càng ngày càng
tinh vi, như chiếc vòng không cùng tận…”
b) Học tập có chọn lọc: Ông đã lĩnh hội được những điều hay mới đưa vào sách. Ý
của ông muốn chắt lọc lấy những tinh hoa của các sách, những vốn quý của dân
gian về y học để đưa vào một bộ sách tóm gọn để tiện xem, tiện đọc…”
c) Học tập có sáng tạo: Ông nghiên cứu sách xưa, nhưng có nhiều chỗ ông không
rập khuôn hoàn toàn như xưa.
d) Học tập có phương pháp: Trong việc học tập cần phải đọc rộng, tham khảo nhiều.
Khi đã có tư liệu nhiều rồi phải biết sắp xếp tóm gọn cho hệ thống thì mới tránh
được bệnh tản mát, hoặc lộn xộn mâu thuẫn nhau.


21

đ) Học tập với tinh thần suy nghĩ độc lập: Ông thừa kế sách xưa một cách toàn tâm
toàn ý. “Khi có chút thì giờ nhàn rỗi là nghiên cứu sách thuốc xưa nay, luôn luôn
phát huy biến hoá, thâm nhập được vào tâm, thấy rõ được ở mắt thì tự nhiên ứng
vào việc làm mà không sai lầm”.

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng nhân lực
1.3.1. Vấn đề đào tạo, bồi dưỡng
Chất lượng đội ngũ nhân lực hình thành và chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố,
trong đó chủ yếu và quan trọng là thông qua đào tạo với mục đích "Làm cho trở
thành người có năng lực theo tiêu chuẩn nhất định" [35, tr.45]. Nhân lực y tế là một

trong những nguồn lực, thành phần quan trọng nhất của hệ thống y tế, liên quan trực
tiếp đến chất lượng chăm sóc sức khỏe, tính mạng của người bệnh và công tác bảo
vệ chăm sóc sức khỏe của nhân dân.
Đào tạo đội ngũ cán bộ y tế là làm cho đội ngũ này có được những năng lực
theo những tiêu chuẩn nhất định. Năng lực ở đây bao gồm trình độ về kiến thức,
năng lực về hiểu biết, nhận thức sự việc, năng lực điều hành, tổ chức thực hiện, sơ
kết, tổng kết rút kinh nghiệm và đề xuất giải pháp để thực hiện đạt mục tiêu...Một
chương trình đào tạo đúng đắn, hợp lý sẽ mang lại hiệu quả là một đội ngũ nhân lực
không chỉ giỏi chuyên môn, nghiệp vụ mà còn có tâm, có đức. Ngược lại, chương
trình đào tạo không phù hợp, đội ngũ thầy giáo không tận tâm với nghề sẽ đào tạo
ra những bác sỹ không có kiến thức, năng lực. Nhận thức được tầm quan trọng của
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ y tế trong giai đoạn mới, Đảng ta coi việc đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ y tế là việc làm thường xuyên cần được ưu tiên trong sự
nghiệp đổi mới theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thực hiện chủ
trương chung của Đảng trong thời gian qua, Chính phủ đã xây dựng và ban hành
nhiều văn bản quy phạm Pháp luật quan trọng nhằm đẩy mạnh hoạt động đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ nhân lực y tế có đủ phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.


22

1.3.2. Cơ chế bổ nhiệm, tuyển dụng
Nói đến cơ chế tuyển dụng, bổ nhiệm tức là nói đến cách thức, phương pháp
để lựa chọn và bố trí nhân lực cho đúng người, đúng việc nhằm phát huy năng lực
và sở trường của họ để đạt kết quả cao trong công tác. Như vậy tuyển dụng, bổ
nhiệm là hai khâu công việc của quá trình sử dụng công chức nhằm đạt mục đích
chung, nó vừa là những điều kiện cần thiết vừa là yêu cầu của khoa học quản lý con
người. Tính khoa học thể hiện ở chỗ nó phải dựa vào cơ sở lý luận và thực tiễn của
quy luật phát triển xã hội, đường lối, nguyên tắc, phương pháp và những yếu tố tâm

lý học để đánh giá, tuyển dụng, bổ nhiệm. Nếu làm tốt công tác tuyển dụng, bổ
nhiệm chúng ta sẽ lựa chọn được những người có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức,
có trình độ năng lực và xếp họ vào đúng chỗ, đúng việc. Việc sắp xếp đúng chỗ,
đúng việc sẽ tạo điều kiện phát huy tinh thần hăng say làm việc, khuyến khích tinh
thần học tập và rèn luyện nâng cao trình độ chuyên môn.
Chính vì vậy công tác tuyển chọn, bổ nhiệm có ảnh hưởng rất lớn đối với
chất lượng nhân lực của Việt Nam nói chung và đội ngũ nhân lực y tế nói riêng.

1.3.3. Chế độ chính sách
Chế độ, chính sách là công cụ điều tiết cực kỳ quan trọng trong quản lý xã
hội. Chế độ, chính sách tác động mạnh mẽ đến hoạt động của con người. Chế độ,
chính sách có thể mở đường, là động lực thúc đẩy tính tích cực, tài năng, sáng tạo,
nhiệt tình, trách nhiệm của mỗi con người, nhưng cũng có thể kìm hãm hoạt động
của con người, làm thui chột tài năng, sáng tạo, nhiệt tình trách nhiệm của mỗi con
người. Vì vậy, chế độ chính sách là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng đội ngũ
nhân lực. Có thể nói trong tình hình hiện nay việc đổi mới cơ chế sử dụng và chính
sách đối với nhân lực là khâu có tính đột phá.
Trong thời gian vừa qua Đảng, Nhà nước đã có nhiều quyết sách cho y tế
nhằm khắc phục tình trạng thiếu hụt đội ngũ nhân lực và nâng cao chất lượng đội
ngũ nhân lực để có thể đảm đương được nhiệm vụ trong thời kỳ mới. Tuy nhiên, hệ
thống chính sách đối với đội ngũ nhân lực miền núi vẫn còn nhiều hạn chế. Chế độ
tiền lương và phụ cấp đối với nhân lực khu vực này chưa trở thành đòn bẩy kích
thích làm việc với sự nhiệt tình hăng say. Hệ thống chính sách vẫn mang tính chắp


23

vá không đồng bộ. Chưa khuyến khích những người công tác ở cơ sở vùng sâu,
vùng xa. Cơ chế quản lý, việc xây dựng ban hành và tổ chức thực hiện chính sách
còn chồng chéo, thiếu nhất quán, không đồng bộ từ quy hoạch đến đào tạo bồi

dưỡng, bố trí sử dụng đến cơ chế kiểm tra, giám sát...Thiết nghĩ, chế độ chính sách
cho nhân lực nơi đây có đảm bảo thì mới mang lại hiệu quả cao trong công tác của
nhân lực.

1.3.4. Công tác quản lý, kiểm tra, giám sát
Kiểm tra, giám sát và quản lý là hoạt động nhằm nắm chắc thông tin, diễn
biến về tư tưởng, hoạt động của cán bộ, giúp cho cấp ủy và thủ trưởng phát hiện vấn
đề nảy sinh, kịp thời điều chỉnh và tác động, làm cho đội ngũ cán bộ công chức luôn
hoạt động đúng hướng, đúng nguyên tắc. Qua đó để có thưởng phạt nghiêm minh,
ngăn chặn cái xấu, cái tiêu cực, phát huy những nhân tố tích cực; Đồng thời nắm
vững thực trạng của đội ngũ nhân lực và là cơ sở để làm tốt công tác đào tạo và sử
dụng bố trí nhân lực.


24

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG NHÂN LỰC TẠI HỌC
VIỆN Y DƯỢC HỌC CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
2.1. Giới thiệu chung về Học viện Y Dược học cổ truyền Việt Nam
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Học viện Y Dược học cổ truyền
Việt Nam trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam
a/ Quá trình hình thành và phát triển của Học viện Y Dược học cổ truyền Việt

Nam
Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, YHCT Việt Nam đã góp phần tạo nên
bản sắc văn hóa xã hội. Từ những danh y lỗi lạc như Đại y thiền sư Tuệ Tĩnh
(TK14), Chu Văn An (TK14), Nguyễn Trực (TK15), Hoàng Đôn Hòa (TK16), Lê
Đức Vọng (TK17), Đào Công Chính (TK17), Đại y tôn Hải Thượng Lãn Ông Lê
Hữu Trác (TK18), Nguyễn Đình Chiểu (TK19),… đến những ông lang, bà mế ở
mỗi làng bản đều suốt đời vì sức khỏe cộng đồng. Từ những tác phẩm nổi tiếng như

Nam Dược thần hiệu, Hồng nghĩa giác tử y thư (TK14), Châm cứu tiệp hiệp diễn ca
(TK15), Dược thảo tân biên (TK15), Bảo Anh Lương Phương (TK15), Bảo sinh
diên thọ toản yếu (TK17), Nhan khoa yếu lược (TK17), Hải thượng y tông tâm lĩnh
(TK18), Ngư Tiều vấn đáp y thuật (TK19),… cho đến nhưng kinh nghiệm dân gian
truyền miệng về chữa bệnh, phòng bệnh bao đời nay đều là những tinh hoa y học và
văn hóa của dân tộc.
Việc kế thừa và phát huy nền YHCT dân tộc là một mục tiêu của y tế cách
mạng được Đảng, Bác Hồ kính yêu vạch ra ngay từ khi mới thành lập nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa. Trong thư gửi hội nghị cán bộ y tế tháng 2 năm 1955, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã viết “Xây dựng một nền y tế thích hợp với nhu cầu của nhân
dân ta. Y học phải dựa trên nguyên tắc: Khoa học, dân tộc và đại chúng. Ông cha ta
ngày trước có nhiều kinh nghiệm quí báu về cách chữa bệnh bằng thuốc ta, thuốc
bắc. Để mở rộng phạm vi y hoc, các cô các chú cũng nên chú trọng nghiên cứu và
phối hợp thuốc Đông và thuốc Tây”. Xác định nhiệm vụ của nghành y tế, trong nghị
quyết Đại hội đại biểu Đảng cộng sản Việt Nam toàn quốc lần thứ III (1960), đã ghi:


25

“Cần kết hợp chặt chẽ giữa YHCT và YHHĐ trong công tác y tế trên các mặt phòng
bệnh, chữa bệnh sản xuất thuốc men, đào tạo cán bộ và nghiên cứu khoa học”.
Tháng 3 năm 1971, Trường Y học cổ truyền Tuệ Tĩnh được thành lập trong
những điều kiện rất khó khăn về cơ sở vật chất cũng như nhân lực. Nhưng với tâm
huyết của những lương y, nhà giáo, nhà khoa học tài năng thuộc các thế hệ nối tiếp
nhau như Nguyễn Kiều, Huỳnh Liên Đoàn, Trương Việt Bình… nhà trường đã từng
bước phát triển. Vừa chăm lo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đào tạo, nhà trường vừa
tập trung nghiên cứu sưu tầm, bảo tồn các tài liệu YHCT, các phương pháp chữa
bệnh, các bài thuốc, vị thuốc quý hiếm.
Tháng 2/2005 Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết 46/NQ-TW nhấn mạnh việc
phát triển nghành y dược học cổ truyền thành một ngành khoa học và sớm thành lập

Học viện Y Dược học cổ truyền Việt Nam. Ngày 02/02/2005 Phó Thủ Tướng Chính
Phủ Phạm Gia Khiêm đã ký Quyết định số 30/QĐ/TTg 2005 thành lập Học viện Y
Dược học cổ truyền Việt Nam trên cơ sở YHCT Tuệ Tĩnh. Ngày 19/05/2005 Bộ Y tế
đã long trọng công bố sự ra đời của Học viện Y Dược học cổ truyền Việt Nam - một
cơ sở đào tạo chuyên sâu bậc đại học đầu tiên về Y Dược học cổ truyền của đất
nước, đồng thời cử GS.TS Lê Ngọc Trọng – Thứ trưởng Bộ Y tế kiêm nhiệm Giám
đốc Học viện.
Việc thành lập Học viện Y Dược học cổ truyền Việt Nam là một sự kiện lịch
sử, một bức tiến quan trọng của 60 năm nền y tế cách mạng, một sự chuyển biến về
chất của hệ thống đào tạo nhân lực YHCT. Đồng thời sự kiện trọng đại này còn
đánh dấu một bước phát triển của nghành y tế Việt Nam trong sự nghiệp bảo vệ,
chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chính Phủ.
Học viện Y Dược học cổ truyền Việt Nam được Bộ Y tế giao nhiệm vụ đào
tạo nhân lực, nghiên cứu khoa học, điều trị và phòng bệnh bằng YHCT. Học viện Y
Dược học cổ truyền Việt Nam đã và đang tập trung tăng cường đội ngũ cán bộ
giảng dạy có tri thức, có lòng yêu nghề, có đạo đức cách mạng. Mặt khác Học viện
cũng kịp thời triển khai đầu tư xây dựng cơ bản, trang bị các thiết bị vật tư kỹ thuật


×