Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Tổ chức hoạt động ngoại khóa nhằm nâng cao chất lượng dạy học ngữ văn 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (612.63 KB, 96 trang )

Tổ chức hoạt động ngoại khóa nhằm nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn
10
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nâng cao chất lượng dạy học là vấn đề cấp thiết của giáo dục Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay. Chúng ta đã và đang có những đổi mới mạnh mẽ về
nội dung, PPDH. Chất lượng dạy học sẽ cao khi nó kích thích được hứng thú,
nhu cầu, sở thích và khả năng độc lập, tích cực tư duy của HS. Để làm được
điều đó, bên cạnh việc đổi mới nội dung, PPDH thì sự phối hợp các hình thức
tổ chức dạy học là một việc làm cần thiết. Trong nhà trường hiện nay điều đó
chưa được quan tâm đúng mức và hình thức lên lớp là một hình thức phổ biến.
Trong nghị quyết Trung ương lần thứ 4 về “Tiếp tục đổi mới sự nghiệp
giáo dục và đào tạo”, Bộ giáo dục đã kêu gọi “Đổi mới phương pháp, cải tạo
phương pháp; dạy học phải phát huy được tính tích cực chủ động sáng tạo của
HS..” [Trích nghị quyết Trung ương lần thứ 4 về “Tiếp tục đổi mới sự nghiệp
giáo dục và đào tạo”]. Ngoại khóa là một hoạt động tạo được hiệu quả cao
trong dạy học góp một phần không nhỏ vào việc đổi mới PPDH, giúp HS phát
huy được tính tích cực chủ động và nâng cao hiệu quả học tập.
Hiện nay vấn đề HS chán học đang trở thành trở ngại lớn đối với toàn
ngành giáo dục nói chung và đặc biệt là bộ môn văn học nói riêng. Ngoại khóa
chính là một công cụ hữu hiệu giúp việc dạy và học trở nên đơn giản và hiệu
quả hơn.
Ngoại khóa là một hoạt động lý thú được HS đón nhận và nó cũng giúp
cho các em tăng thêm tình đoàn kết, giúp đỡ nhau trong học tập cũng như
trong cuộc sống. Bên cạnh đó, ngoại khóa cũng giúp làm giảm thiểu tình trạng
bạo lực học đường đang là vấn đề hết sức nhức nhối không chỉ cho nhà trường
phổ thông, phụ huynh HS mà còn của toàn xã hội.
Khối kiến thức cần tiếp thu quá nặng về lý thuyết, chưa gắn nhiều với
thực tế gây ra khó nhớ, khó nắm bắt đối với HS. HĐNK giúp HS có những
Nguyễn Thị Hồng Chín – SPNV K52 – ĐH Giáo dục – ĐHQGHN


1


Tổ chức hoạt động ngoại khóa nhằm nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn
10
liên hệ giữa lý thuyết được học với thực tế khiến chuyển tải kiến thức thành kĩ
năng thực thụ của bản thân mỗi HS.
Môn văn có đặc thù là cần bồi dưỡng tâm hồn để HS có những cảm nhận
tốt về phát hiện và lĩnh hội cái hay, cái đẹp. Chính vì thế việc học không chỉ
bó gọn về mặt câu chữ lý thuyết mà cần phải có môi trường cởi mở để bồi
dưỡng tâm hồn cho HS. Ngoại khóa là một hình thức tạo ra môi trường mở
bồi dưỡng cho HS.
Từ những lý do trên, chúng tôi đã quyết định thực hiện đề tài này nhằm
nghiên cứu và tìm ra phương pháp hiệu quả, hợp lý để nâng cao chất lượng
dạy học Ngữ văn phổ thông hiện nay và đưa HĐNK trở thành một hoạt động
hữu ích, góp phần tích cực vào dạy học kiến thức cũng như hoàn thiện nhân
cách người học.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất phương pháp tổ chức HĐNK và xây dựng kế hoạch tổ chức một số
HĐNK có thể áp dụng vào việc giảng dạy môn Ngữ văn 10 nhằm góp phần
nâng cao hiệu quả dạy và học môn văn.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Chương trình Ngữ văn 10, HĐNK và việc tổ chức
các HĐNK.
- Phạm vi nghiên cứu: Chương trình ngữ văn 10.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lí luận liên quan đến hoạt động ngoại khoá
trong nhà trường phổ thông và HĐNK đối với môn Ngữ văn.
- Phương pháp tổ chức HĐNK môn Ngữ văn.
- Xây dựng kế hoạch tổ chức ngoại khóa đối với môn Ngữ văn 10.

5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Vận dụng các thao tác nghiên cứu các
tư liệu cần thiết: Sách giáo khoa Ngữ văn 10, PPDH văn, Hướng dẫn thực hiện
chương trình sách giáo khoa THPT môn Ngữ văn… Từ những tư liệu đã có

Nguyễn Thị Hồng Chín – SPNV K52 – ĐH Giáo dục – ĐHQGHN

2


Tổ chức hoạt động ngoại khóa nhằm nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn
10
qua quá trình đọc, phân tích, chúng tôi tổng hợp lại thành những lý thuyết
phục vụ cho đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Qua quá trình kiến tập cũng như thực
tập sư phạm, qua việc trực tiếp giảng dạy chương trình Ngữ văn 10 ở trường
THPT, chúng tôi tiến hành quan sát thực tiễn, dự giờ, phỏng vấn đối với HS về
vấn đề nghiên cứu của đề tài, từ đó đánh giá, tổng hợp và đưa ra những giải
pháp để giải quyết vấn đề của đề tài.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Đối với đề tài này, vì lý nhiều lý do,
chúng tôi không đủ điều kiện để thực tổ chức thực nghiệm. Tuy nhiên, để
khẳng định tính hiệu quả của việc tổ chức HĐNK, chúng tôi đã sử dụng bảng
hỏi để đánh giá mức độ hứng thú của HS đối với HĐNK. Trong thời gian thực
tập tại trường THPT Phan Đình Phùng, tôi cũng được trực tiếp dẫn HS tham
quan dã ngoại tại thành Cổ Loa và Đền Sóc. Từ thực tế đó, chúng tôi đánh giá
kết quả đạt được, trên cơ sở đó xây dựng, lồng ghép các kế hoạch ngoại khóa
sao cho vừa đảm bảo được hiệu quả của hoạt động ngoại khóa vừa nâng cao
được chất lượng dạy học Ngữ văn.

6. Cấu trúc đề tài

Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung của đề tài gồm:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về hoạt động ngoại khóa ở nhà trường
phổ thông
1.1. HĐNK trong nhà trường phổ thông
1. 2. HĐNK trong dạy học Ngữ văn 10
Chương 2. Tổ chức HĐNK trong dạy học Ngữ văn 10
2.1. Thực trạng việc tổ chức HĐNK văn học ở trường phổ thông
Nguyễn Thị Hồng Chín – SPNV K52 – ĐH Giáo dục – ĐHQGHN

3


Tổ chức hoạt động ngoại khóa nhằm nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn
10
2.2. Chương trình Ngữ văn 10
2.3. HĐNK môn Ngữ văn lớp 10
Phụ lục
1. Ngày hội văn hóa dân gian
2. Chương trình tham quan dã ngoại văn học
3. Kế hoạch phát động cuộc thi báo tường văn học
4. Phiếu điều tra phỏng vấn dành cho giáo viên
5. Phiếu điều tra phỏng vấn dành cho học sinh

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG NGOẠI
KHÓA Ở NHÀ TRƯỜNG PHỔ THÔNG
1.1 HĐNK trong nhà trường phổ thông
1.1.1 Khái niệm HĐNK
Quá trình sư phạm tổng thể gồm quá trình dạy học và quá trình giáo dục
(theo nghĩa hẹp). Quá trình giáo dục và quá trình dạy học bổ sung, hỗ trợ,
thống nhất, gắn bó hữu cơ với nhau, tác động qua lại trong quá trình phát triển

nhân cách của HS.
Nguyễn Thị Hồng Chín – SPNV K52 – ĐH Giáo dục – ĐHQGHN

4


Tổ chức hoạt động ngoại khóa nhằm nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn
10
Quá trình dạy học không những giúp người học lĩnh hội các tri thức khoa
học một cách hệ thống mà còn nhằm hình thành nhân cách một cách toàn diện
thông qua các môn học cụ thể trong chương trình.
Quá trình giáo dục được tổ chức nhằm hình thành ở người học: hệ thống tri
thức, kĩ năng, thái độ. Từ đó hình thành ở người học những phẩm chất xã hội,
tâm lý, thể chất, cách ứng xử đúng đắn thông qua các mối quan hệ trong tập
thể, trong nhóm, trong các hoạt động học tập, vui chơi, văn nghệ, thể dục thể
thao, hoạt động xã hội.
Cùng với dạy học trên lớp thì ngoại khóa là một bộ phận rất quan trọng và
vô cùng cần thiết trong toàn bộ quá trình dạy học – giáo dục ở nhà trường phổ
thông. Hai bộ phận này gắn bó, hỗ trợ với nhau trong quá trình giáo dục.
Căn cứ vào Quyết định số 47/2002/QĐ-BGD&ĐT ngày 19/11/2002 thì
chương trình HĐNK , hoạt động ngoài giờ lên lớp là một bộ phận
của hệ thống giáo dục ở trường THPT phân ban từ năm 2002-2003 và đối với
các trường THPT phân ban đại trà từ năm học 2006- 2007 cho đến nay. Do
vậy để có thể tổ chức quản lý tốt hoạt động, mang lại hiệu quả cao đối với việc
nâng cao chất lượng giảng dạy - học tập trong nhà trường phổ thông cần có sự
quan tâm đúng mức và đầu tư nghiên cứu về bản chất hoạt động, nội dung,
cách thức quản lý.
HĐNK là một thuật ngữ dùng để chỉ các hình thức hoạt động kết hợp
dạy học với vui chơi ngoài lớp, nhằm mục đích gắn việc giảng dạy, học tập
trong nhà trường với thực tế xã hội. Mục tiêu của môn này nhằm củng cố,

khắc sâu những tri thức đã học qua các môn học trên lớp, mở rộng, nâng cao
hiểu biết cho HS về các lĩnh vực đời sống xã hội, tăng vốn hoạt động thực
tiễn…

Nguyễn Thị Hồng Chín – SPNV K52 – ĐH Giáo dục – ĐHQGHN

5


Tổ chức hoạt động ngoại khóa nhằm nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn
10
HĐNK là một hình thức tổ chức dạy học, là một dạng hoạt động của HS
tiến hành ngoài giờ lên lớp chính thức, ngoài phạm vi quy định của chơng
trình bộ môn nhằm hỗ trợ cho chương trình nội khoá, góp phần hoàn thiện và
phát triển nhân cách, bồi dưỡng năng khiếu và tài năng sáng tạo của HS.
Theo tác giả Nguyễn Quang Đông “Do sự hạn chế của thời gian lên lớp
trong chương trình chính khoá, đồng thời với sự gia tăng không ngừng của tri
thức đã làm xuất hiện mâu thuẫn giữa nhu cầu nhận thức của HS với tính kế
hoạch của chương trình. Để giải quyết mâu thuẫn này, người ta tổ chức các
HĐNK nhằm tạo điều kiện cho mỗi HS có thể mở rộng, đào sâu kiến thức,
phát triển những hứng thú, năng lực cá nhân và kích thích thiên hướng của các
em về một mặt hoạt động nào đó. “[6;5]
HĐNK là một hình thức tổ chức dạy học có đặc điểm:
+ HĐNK được thực hiện ngoài giờ học, nó không mang tính bắt buộc
mà tuỳ thuộc vào hứng thú, sở thích, nguyện vọng của mỗi HS trong khuôn
khổ khả năng và điều kiện tổ chức có được của nhà trường.
+ HĐNK có thể được tổ chức dưới nhiều dạng: dạng tập thể cả lớp,
dạng nhóm theo năng khiếu, dạng học tập, dạng vui chơi, dạng thường kì,
dạng đột xuất nhân những dịp kỉ niệm hay lễ hội.
+ HĐNK có thể được tổ chức theo những hình thức như: tổ ngoại khoá;

câu lạc bộ khoa học; dạ hội khoa học; dạ hội nghệ thuật .v.v...
+ Nội dung ngoại khoá rất đa dạng, bao gồm cả mặt văn hoá, khoa học
công nghệ, thể dục thể thao, kĩ thuật... nhằm giúp HS mở rộng, đào sâu, làm
phong phú thêm những điều đã được học trong các giờ nội khoá của môn học
tương ứng.

Nguyễn Thị Hồng Chín – SPNV K52 – ĐH Giáo dục – ĐHQGHN

6


Tổ chức hoạt động ngoại khóa nhằm nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn
10
+ Ngoại khoá do GV bộ môn, GV chủ nhiệm, Đoàn thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh... và HS của một lớp hay một số lớp thực hiện.
Để tiến hành các HĐNK đạt hiệu quả giáo dục đòi hỏi phải có sự tổ
chức chặt chẽ, tỉ mỉ của GV, sự giúp đỡ của nhà trường, của hội cha mẹ HS và
những tổ chức đỡ đầu, kết nghĩa... Bên cạnh đó, GV cần động viên được sự
tham gia nhiệt tình của tập thể của HS, của mỗi cá nhân, cần tạo dựng được
những hạt nhân nòng cốt trong mỗi dạng HĐNK.
1.1.2. Vai trò của HĐNK trong dạy học
* Tác dụng giáo dục:
- HĐNK góp phần giáo dục tính tổ chức, tính kế hoạch, tinh thần làm chủ và
hợp tác. Ngoại khoá được thực hiện cơ bản dựa trên sự tự nguyện, tự giác của
HS cộng với sự giúp đỡ hướng dẫn của GV sẽ động viên HS nỗ lực hết mình
giải quyết vấn đề đặt ra.
- HĐNK làm cho quá trình dạy bộ môn thêm phong phú đa dạng, làm cho việc
học tập của HS thêm hứng thú sinh động, tạo cho HS lòng hăng say yêu công
việc, đó là điều kiện để phát triển khả năng, năng lực của HS. Qua ngoại khoá
HS có điều kiện tự làm, tập dượt phát huy óc sáng tạo, tự tin, dám nghĩ dám

làm.
* Tác dụng giáo dưỡng:
- HĐNK góp phần củng cố, bổ sung kiến thức cho HS. Thông qua HĐNK,
kiến thức HS thu nhận được sẽ sâu sắc hơn. Trong khi được tự mình nghiên
cứu, tự mình tìm hiểu vấn đề và tranh luận với bạn bè, trí lực và khả năng sáng
tạo của HS được phát triển.
- Vì điều kiện thời gian, trong chương trình nội khoá có những phần GV
không thể giới thiệu hết được. Những phần này nếu được bổ sung bởi HĐNK
thì kiến thức của HS sẽ được mở rộng thêm. HS có thể thu nhận được kiến
Nguyễn Thị Hồng Chín – SPNV K52 – ĐH Giáo dục – ĐHQGHN

7


Tổ chức hoạt động ngoại khóa nhằm nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn
10
thức dưới nhiều hình thức như: Nhóm ngoại khoá, câu lạc bộ khoa học, hội
vui, hội thi...
* Tác dụng giáo dục kĩ thuật tổng hợp, định hướng nghề nghiệp:
Qua HĐNK, HS được rèn luyện một số kĩ năng như: Tập nghiên cứu
một vấn đề, thuyết minh trình bày trước đám đông, tập sử dụng những dụng
cụ, thiết bị thường gặp trong đời sống, những máy móc từ đơn giản tới hiện
đại. Qua đó sẽ nảy nở ở HS tình cảm nghề nghiệp và bước đầu có ý thức về
nghề nghiệp mà HS sẽ chọn trong tương lai.
* HĐNK là điều kiện thuận lợi để GV có thể thử nghiệm các PPDH: Qua
HĐNK GV có điều kiện tốt để thực hiện và kiểm tra các kết quả nghiên cứu
của mình, do GV nắm vững khả năng, tâm lí của HS nên hiệu quả của việc thử
nghiệm sẽ cao hơn.
1.1.3. Các loại hoạt độngngoại khóa
- Hoạt động vận động: Hoạt động vận động là loại hoạt động yêu cầu HS

phải vận dụng thể lực để hoàn thành một nhiệm vụ được đặt ra. Nó bao gồm
các trò chơi vận động đan xen với kiến thức được học. Hoạt động vận động
vừa giúp HS có hứng thú hơn trong công việc, vừa tạo sự năng động, linh hoạt
và dẻo dai. Không những thế, hoạt động vận động còn giúp HS ghi nhớ lâu dài
và áp dụng tốt vào thực tế đời sống. Đối với loại hoạt động này, người GV cần
phải có khả năng tổ chức cao, cần phải biết lựa chọn và đan cài một cách hợp
lý kiến thức được học vào trong hoạt động, bên cạnh đó còn thúc đẩy sự tự
giác và kích thích được hứng thú ở người học. Hoạt động vận động là loại hoạt
động không thể thiếu trong việc tổ chức HĐNK và nó đóng vai trò rất lớn đối
với việc học cũng như sự giải trí của HS. Đối với bất kì môn học nào, người
dạy cũng phải tìm ra những cách tổ chức hợp lý để hoạt động này phát huy
hiệu quả cao nhất.
Nguyễn Thị Hồng Chín – SPNV K52 – ĐH Giáo dục – ĐHQGHN

8


Tổ chức hoạt động ngoại khóa nhằm nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn
10
- Hoạt động văn nghệ: Hoạt động văn nghệ là hoạt động giúp HS được
thể hiện những khả năng, năng khiếu về lĩnh vực văn nghệ. Hoạt động này yêu
cầu người học có năng khiếu văn nghệ, có tinh thần tham gia và bên cạnh đó
phải biết sáng tạo và linh hoạt. Hoạt động văn nghệ giúp HS có được sự thư
giãn, thoải mái sau những giờ học căng thẳng, giúp tăng tinh thần đoàn kết
trong tập thể HS và tạo nên mối quan hệ bạn bè, thầy trò càng thêm có ý
nghĩa. Hoạt động văn nghệ là một hoạt động hữu ích giúp người học vừa tìm
hiểu được những ý nghĩa của những phần được học qua một hình thức hiêu
quả cao, hiểu sâu hơn và ghi nhớ lâu những kiến thức đã học. Như vậy, khi
tích hợp những kiến thức được học trong hoạt động văn nghệ sẽ giúp việc dạy
học đạt được hiệu quả cao bên cạnh việc HS được thể hiện mình và phát triển

tài năng, năng khiếu cũng như tăng niềm đam mê, yêu thích đối với môn học.
- Hoạt động rèn luyện kĩ năng tổ chức: Đây là hoạt động mà trong đó, HS
được thể hiện vai trò và khả năng tổ chức của bản thân, làm chủ việc tìm hiểu
tri thức không qua sự giảng dạy của GV. Hoạt động tổ chức đặt HS vào những
hoàn cảnh, tình huống và các vai trong xã hội, tự mình tìm cách xử lý để đạt
được những hiệu quả cao nhất trong vai trò của mình. Hoạt động này giúp HS
có kĩ năng tổ chức cũng như kĩ năng giải quyết vấn đề. Ngoài ra, hoạt động
này còn giúp cho HS có những hiểu biết sâu sắc hơn và định hướng nghề
nghiệp sau khi ra trường. Ở hoạt động tổ chức, GV chỉ đóng vai trò hướng dẫn
cho HS về những đặc điểm, cách thức tổ chức để hoạt động của HS đạt được
hiệu quả cao nhất. Hoạt động tổ chức còn tạo ra tính liên kết giữa lý thuyết và
thực tế giúp HS hiểu được tác dụng cũng như tầm quan trọng của việc học lý
thuyết.
- Hoạt động phát triển năng khiếu, tài năng: Hoạt động phát triển năng
khiếu, tài năng là loại hoạt động mà ở đó, HS được thể hiện tài năng, năng
Nguyễn Thị Hồng Chín – SPNV K52 – ĐH Giáo dục – ĐHQGHN

9


Tổ chức hoạt động ngoại khóa nhằm nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn
10
khiếu của mình. Hoạt động tài năng bao gồm rất nhiều hoạt động tùy theo khả
năng, năng khiếu của HS. Đối với môn Ngữ văn, hoạt động tài năng có thể là
hoạt động viết truyện ngắn, làm thơ, bình văn, diễn kịch… Hoạt động tài năng
vừa giúp khám phá, phát hiện và thúc đẩy tài năng của HS phát triển, vừa giúp
HS tiếp cận tri thức một cách thoải mái, tự nhiên nhất, không bị thúc ép, gò
bó. Khi tham gia vào hoạt động tài năng, họ sinh sẽ được tiếp thêm hứng thú,
niềm say mê đối với công việc học tập, trau dồi thêm tri thức xã hội và tự rèn
luyện bản thân.

1.1.4. Nguyên tắc tổ chức HĐNK.
Khi tổ chức HĐNK cho HS cần tuân thủ những nguyên tắc nhất định về
nội dung và hình thức. Trước hết, cần phải đảm bảo các nguyên tắc chung sau:

+
+
+
+
+
+
+
+
+

Phù hợp với điều kiện, bối cảnh của nhà trường và địa phương.
Phù hợp với nhu cầu, hứng thú, xu hướng phát triển của HS
Đảm bảo tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS.
Về mặt nội dung, HĐNK cần:
Phải gắn liền với nhiệm vụ, yêu cầu giáo dục đã đặt ra
Nội dung phải phù hợp với HS
Lứa tuổi
Trình độ nhận thức
Giới tính
Sức khỏe
Nội dung phải phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất, xã hội
Thời gian (các ngày lễ lớn trong năm)
Trường lớp (sân bãi, dụng cụ, phòng ốc…)
Địa bàn dân cư (miền núi, đồng bằng, thành phố, nông thôn…)
Kinh phí (từ nguồn quỹ của trường, phụ huynh hỗ trợ, HS đóng góp…)
Sự quan tâm của các tổ chức xã hội, cộng đồng (các ban ngành, hội phụ


huynh …)
• Về mặt hình thức
- Hình thức phải hấp dẫn, thu hút HS.
- Phải phù hợp với nội dung.

Nguyễn Thị Hồng Chín – SPNV K52 – ĐH Giáo dục – ĐHQGHN

10


Tổ chức hoạt động ngoại khóa nhằm nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn
10
- Có sự thay đổi, sáng tạo những hình thức mới, tránh lặp lại nhiều lần một
hình thức.
1.2. Hoạt động ngoại khóa môn Ngữ văn
1.2.1 Nhiệm vụ của dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông
∗ Đặc điểm của môn Ngữ văn ở trường phổ thông
Trong nhà trường phổ thông, cùng với các môn như Toán, Vật lý, Hóa
học…, Ngữ văn là một môn học bắt buộc trong chương trình chính khóa và
chiếm một thời lượng khá nhiều trong phân phối chương trình so với các môn
học khác. Bộ môn Ngữ văn thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn. Thế
nhưng không giống như các môn học khác, môn học Ngữ văn vừa là một bộ
môn khoa học lại vừa có tính nghệ thuật ngôn từ. Chính vì thế việc giảng dạy
và học tập Ngữ văn luôn có những đặc thù riêng.
Hiện nay, với bộ sách giáo khoa mới, môn Ngữ văn được chia thành ba
phân môn: Văn học, Tiếng việt và Làm văn. Tuy nhiên việc phân chia đó
không làm mất đi đặc trưng vốn có của môn học này – một môn học đòi hỏi
phải kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa kiến thức và tình cảm thẩm mĩ
trong cách dạy của GV và cách học của HS. Một giờ học thực sự hiệu quả

phải “tính đến tác động về tâm hồn, tình cảm thẩm mĩ” [12, 62], HS phải tiếp
thu được kiến thức từ đó rút ra được những cái hay, cái đẹp, những bài học của
cuộc sống. Người ta vẫn nói học văn là học làm người, tức là nhấn mạnh giá
trị đạo đức thẩm mĩ của môn học đối với người học – một giá trị nổi bật của
môn Ngữ văn trong nhà trường. Không khí giờ học văn cũng là một điều khác
biệt rất dễ nhận thấy khi so sánh giờ học văn với giờ học các môn học khác.
Theo ý kiến của viện sĩ Sec-bi-na “vấn đề dạy học văn trong nhà trường
quả là một vấn đề cực kì phức tạp…quá trình dạy học văn là một quá trình

Nguyễn Thị Hồng Chín – SPNV K52 – ĐH Giáo dục – ĐHQGHN

11


Tổ chức hoạt động ngoại khóa nhằm nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn
10
phức hợp đan kết nhiều quá trình tâm lý, ngôn ngữ, văn hóa, sư phạm. Dạy
văn là một lĩnh vực đòi hỏi nhiều tìm tòi, sáng tạo của cá nhân người lên lớp”
[13;25]
∗ Các nhiệm vụ của dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông
Trong nhà trường phổ thông từ trước đến nay, môn Ngữ văn vẫn luôn
được xác định như một môn học quan trọng, một môn học chính được phân
phối thời gian học tương đối nhiều so với các môn học khác. Với những đặc
trưng riêng của bộ môn, có thể xác định nhiệm vụ quan trọng nhất của dạy học
Ngữ văn trong nhà trường là giáo dục nhận thức, góp phần hình thành và phát
triển nhân cách cho HS. Thông qua kiến thức được cung cấp qua các bài học,
HS sẽ tự lĩnh hội và trang bị cho mình những hiểu biết về thế giới bên ngoài,
về xã hội và con người, về những tình cảm, đạo lý để sống đúng và sống đẹp.
Theo tác giả Phan Trọng Luận: “Dạy văn có nhiệm vụ cực kì quan trọng, xuất
phát từ đặc thù của bộ môn là phát triển tâm hồn, tình cảm cho HS. Cái đúng,

cái hay, cái đẹp không hề tách rời nhau…”[13;44]
Từ vị trí của môn Ngữ văn trong chương trình giáo dục phổ thông, có
thể xác định dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông có 3 nhiệm vụ cơ bản sau:
-

Cung cấp cho HS những kiến thức về Tiếng Việt, Văn học và Làm văn,

hình thành và phát triển ở HS năng lực sử dụng Tiếng Việt, năng lực tiếp nhận
tác phẩm văn học, ngoài ra còn giúp HS có thêm những hiểu biết về văn hóa,
xã hội, lịch sử, đời sống nội tâm của con người và của bản thân
Với vai trò là một môn học công cụ, môn Ngữ văn trang bị cho HS năng
lực sử dụng Tiếng Việt và tiếp nhận tác phẩm văn học để HS được học tập và
sinh hoạt, nhận thức về xã hội và con người, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm và
nhân cách.

Nguyễn Thị Hồng Chín – SPNV K52 – ĐH Giáo dục – ĐHQGHN

12


Tổ chức hoạt động ngoại khóa nhằm nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn
10
-

Bồi dưỡng cho HS năng lực tưởng tượng, sáng tạo, làm giàu xúc cảm

thẩm mĩ và định hướng thị hiếu lành mạnh nhằm hoàn thiện nhân cách HS.
1.2.2. Hoạt động ngoại khóa văn học
∗ Mục đích của ngoại khóa văn học
Theo quan điểm PPDH, HĐNK phải được xác định là một hình thức dạy

học nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả trong việc tiếp nhận kiến thức của
HS. Trong môn Ngữ văn, những giờ học được tiến hành tốt sẽ gây hứng thú
cho HS đối với tất cả những gì có quan hệ tới đời sống và sự sáng tạo của nhà
văn. Điều này khó có thể đáp ứng được hết trong khuôn khổ những giờ học
thông thường đã quy định trong kế hoạch. Do đó HĐNK sẽ thực sự phát huy
tác dụng. “Ngoại khóa văn học vừa là hoạt động thẩm mĩ góp phần tạo ra lối
sống văn hóa và khả năng hưởng thụ văn hóa nghệ thuật cho HS” [ 1;381].
Mục đích chung của ngoại khóa văn học tập trung ở những điểm sau:
- Củng cố những kiến thức đã học ở chương trình nội khóa. Trong những
giờ học trên lớp, HS chủ yếu tiếp thu những kiến thức nền tảng trong một
khuôn khổ thời gian nhất định, tương đối hạn hẹp. Những nội dung được học
đôi khi bị dồn nén khiến cho việc tiếp thu kiến thức ở HS chưa thực sự hiệu
quả. Hoạt động ngoại khóa là một biện pháp hữu hiệu để củng cố lại kiến
thức cho HS đồng thời giải tỏa những căng thẳng, áp lực do việc học tập mang
lại.
- Mở rộng, nâng cao kiến thức cho HS. Ngoài việc củng cố lại kiến thức
trong chương trình nội khóa, HĐNK còn giúp HS tiếp cận với những nguồn tri
thức ngoài sách giáo khoa, sát với thực tế đời sống để các em mở rộng thêm
tầm hiểu biết về tri thức văn hóa cũng như hiểu biết thêm về mặt kiến thức xã
hội.

Nguyễn Thị Hồng Chín – SPNV K52 – ĐH Giáo dục – ĐHQGHN

13


Tổ chức hoạt động ngoại khóa nhằm nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn
10
- Tăng cường tính thực hành, gắn lý thuyết với thực tiễn. Như ở trên đã
nói, hoạt động học tập trên lớp của HS được gói gọn trong một khoảng thời

gian nhất định nên việc đưa thực hành vào là một việc làm rất khó. Ngoài
những tiết thực hành theo đúng phân phối chương trình thì việc tổ chức cho
HS thực hành là một việc khá khó khăn. Chính vì thế việc học đi đôi với hành
không được đảm bảo. HS cũng vì thế mà thiếu kiến thức thực tiễn, học gạo để
lấy điểm. HĐNK giúp HS có cơ hội thực hành được những kiến thức được
học. Các em được tự mình trải nghiệm từ đó hiểu sâu hơn những gì được học
và biết vận dụng chúng một cách sáng tạo vào trong thực tế.
- Rèn kĩ năng cảm thụ tác phẩm, kĩ năng sử dụng ngôn ngữ, nói đúng,
viết đúng, năng lực tư duy, khái quát… Việc học của HS trong những giờ trên
lớp chủ yếu giúp HS tìm hiểu nội dung cũng như giá trị của tác phẩm văn học,
học cách làm một bài văn và kiến thức về tiếng Việt. Tuy nhiên, để nâng cao
năng lực cảm thụ cho HS và các kĩ năng cần thiết về ngôn ngữ và tư duy thì
HĐNK đóng vai trò khá quan trọng. Các hoạt động như thuyêt trình, viết văn,
làm thơ, kể chuyện …trong chương trình ngoại khóa giúp HS có thêm năng
lực cảm thụ văn chương sâu sắc và giúp HS nâng cao và phát triển khả năng
về ngôn ngữ và tư duy rất lớn.
- Giáo dục và vun đắp những tình cảm tốt đẹp, thân ái…ở HS. Bên cạnh
những tác dụng về việc hoàn thiện tri thức của HS, HĐNK còn giúp HS có sự
đoàn kết giúp đỡ nhau, cùng nhau thực hiện những nhiệm vụ chung. Từ đó,
các em hiểu được ý nghĩa của sự đoàn kết, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau, vun đắp
trong nhau những tình cảm bạn bè trong sáng, thứ tình cảm có thể nói là quan
trọng nhất cần được bồi dưỡng khi các em còn ngồi trên ghế nhà trường.
Nói tóm lại, mục đích cuối cùng của HĐNK văn học là phục vụ cho
việc học ngữ văn được tốt hơn vì thế khi thiết kế chương trình phải phù hợp và
Nguyễn Thị Hồng Chín – SPNV K52 – ĐH Giáo dục – ĐHQGHN

14


Tổ chức hoạt động ngoại khóa nhằm nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn

10
dựa trên cở sở chương trình nội khóa. Các tri thức, kĩ năng trong chương trình
HĐNK có thể được mở rộng nhưng phải đảm bảo hỗ trợ cho việc học tập của
HS được hiệu quả hơn.
∗ Nguyên tắc HĐNK văn học
Theo tác giả Phan Trọng Luận [13;386], HĐNK văn học có 4 nguyên tắc cơ
bản sau:
- Gắn với đời sống
HĐNK văn học không chỉ gắn với đời sống của việc dạy học văn mà còn
phải gắn với đời sống thực tiễn, đời sống văn hóa xã hội để tiếp tục thực hiện
việc giáo dục thẩm mĩ, để hình thành và phát triển nhân cách cho HS. HĐNK
văn học phải giữ mối liên hệ sinh động với đời sống văn hóa và nghệ thuật của
xã hội. Tuy vậy, HĐNK văn học không thể tách rời bộ môn chính khóa trong
nhà trường.
- Nguyên tắc phối hợp
HĐNK văn học không phải là việc giảng dạy và học tập lại bộ môn
Văn nhưng nó luôn gắn liền với nội dung giảng dạy của bộ môn, trình độ GV
và gắn với trình độ tri thức và năng lực vận dụng của HS về văn học. HĐNK
văn học trong trường THPT có thể cần phối hợp với các nghệ sĩ, nhà văn, nhà
thơ, nhà lý luận phê bình, nhà sư phạm có uy tín, tác giả, đạo diễn, các cơ
quan ngoài trường để tổ chức HĐNK sao cho sâu sắc về nội dung và phong
phú về hình thức. Có như vậy mới thu hút đông đảo HS tham gia vào hoạt
động này một cách tự nguyện.
- Nguyên tắc tự nguyện
Đây là một nguyên tắc rất quan trọng bởi trong HĐNK nói chung và
trong ngoại khóa văn học nói riêng nếu HS không tham gia một cách tự
nguyện thì sẽ không thể có hiệu quả. Tự nguyện phải xuất phát từ chính ý thức

Nguyễn Thị Hồng Chín – SPNV K52 – ĐH Giáo dục – ĐHQGHN


15


Tổ chức hoạt động ngoại khóa nhằm nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn
10
của HS. Việc giáo dục ý thức tự nguyện phải được GV coi trọng bằng cách
hướng dẫn để các em đề xuất ý kiến, chịu trách nhiệm tổ chức, biết đánh giá,
rút kinh nghiệm, cải tiến HĐNK văn học mà chính các em hứng thú và tự
nguyện tham gia.
- Nguyên tắc chủ động, sáng tạo
Nguyên tắc này đặt ra nhằm khuyến khích sự sáng tạo của HS trong tổ
chức hoạt động. GV chỉ nên là người hướng dẫn cách tổ chức và dành cho HS
tự thiết kế những ý tưởng. Tôn trọng nguyên tắc chủ động sáng tạo để phát
triển ở HS sự năng động, óc bao quát công việc và phát hiện ra những khâu
trọng yếu, những trọng điểm cần đầu tư, gia công, tập trung tinh lực. Nguyên
tắc sáng tạo giúp HS phát triển khả năng ứng biến, khả năng huy động tri thức,
kinh nghiệm, phương tiện tập trung để hoàn thành công việc nhanh chóng và
có hiệu quả. Hơn nữa, nguyên tắc này góp phần rèn luyện khả năng tích lũy tri
thức, kinh nghiệm và kĩ năng hoạt động văn hóa, văn nghệ cho HS trên cơ sở
hiểu biết dần qui luật sáng tạo cái đẹp trong hoạt động thẩm mĩ.

Nguyễn Thị Hồng Chín – SPNV K52 – ĐH Giáo dục – ĐHQGHN

16


Tổ chức hoạt động ngoại khóa nhằm nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn
10

CHƯƠNG 2: TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHÓA TRONG DẠY

HỌC NGỮ VĂN 10
2.1. Thực trạng việc tổ chức HĐNK môn ngữ văn ở trường THPT
Để có cơ sở thực tiễn cho đề tài chúng tôi đã tiến hành khảo sát thực
trạng việc tổ chức HĐNK môn Ngữ văn lớp 10. Mục đích khảo sát nhằm tìm
hiểu hiệu quả của việc tổ chức HĐNK của các trường THPT và mức độ hứng
thú của HS đối với HĐNK. Trên cơ sở đó đưa ra cách thức tổ chức HĐNK đối
với môn Ngữ văn ở trường THPT cụ thể là lớp 10 để nâng cao hiệu quả học
tập môn Ngữ văn lớp 10.
2.1.1. Đối tượng khảo sát
Chúng tôi tiến hành phỏng vấn 10 GV tổ ngữ văn lớp 10 tại hai trường
THPT Phan Đình Phùng – Hà Nội và THPT Văn Lâm – Hưng Yên . Ngoài ra
chúng tôi cũng tiến hành khảo sát trên 120 em tại ba lớp10 của trường THPT

Nguyễn Thị Hồng Chín – SPNV K52 – ĐH Giáo dục – ĐHQGHN

17


Tổ chức hoạt động ngoại khóa nhằm nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn
10
Phan Đình Phùng – Hà Nội và trường THPT Văn Lâm – Hưng Yên thông qua
những phiếu điều tra.
2.1.2. Nội dung khảo sát
Chúng tôi tiến hành điều tra bằng các phiếu thăm dò ý kiến HS và GV
về hứng thú trong giờ học môn Ngữ văn và hứng thú đối với HĐNK. Ngoài
ra, để phục vụ cho đề tài, chúng tôi đi tìm hiểu những hình thức HĐNK mà
các GV và HS cho là có hiệu quả để từ đó tìm ra phương pháp, cách thức tổ
chức HĐNK sao cho có hiệu quả và thiết thực nhất đối với việc dạy học.
Qua quá trình khảo sát chúng tôi phân tích và nhận xét việc tổ chức
HĐNK môn Ngữ văn lớp 10 như sau:

2.1.3. Phân tích thực trạng của việc tổ chức HĐNK môn Ngữ văn
 Về phía GV:
Qua trao đổi với 1 số GV dạy lớp 10 thì tất cả các GV đều cho rằng:
chương trình Ngữ văn được biên soạn một cách có hệ thống và có trọng tâm.
Các bài đọc văn có một vị trí vô cùng quan trọng trong chương trình. Các bài
tiếng Việt và Làm văn là công cụ hữu hiệu và đắc lực để tìm hiểu tác phẩm
văn học. Nhiệm vụ của GV là phải giúp HS hiểu được nội dung và ý nghĩa
truyền tải trong tác phẩm cũng như nắm vững được những kiến thức tiếng Việt
và Làm văn cần thiết để sử dụng tìm hiểu tác phẩm văn học..
Chúng tôi đã phỏng vấn 10 GV dạy văn thuộc hai trường THPT, một
trường trong nội thành Hà Nội và một trường tại địa phương. Kết quả cho
thấy, theo đánh giá của các GV, HS hiện nay không mấy hứng thú với môn
Ngữ văn kể cả ở nội thành cũng như ở địa phương. Lý do chủ yếu được các
thầy cô đưa ra là PPDH chưa mang lại hiệu quả, hình thức tổ chức dạy học
còn nghèo nàn, chưa thu hút được HS.
Nguyễn Thị Hồng Chín – SPNV K52 – ĐH Giáo dục – ĐHQGHN

18


Tổ chức hoạt động ngoại khóa nhằm nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn
10
Trong nội thành Hà Nội, do điều kiện cho phép, các trường có các
HĐNK được tổ chức thường xuyên và đa dạng hơn về hình thức. HS có điều
kiện tiếp cận với nhiều PPDH mới cũng như những hình thức dạy học đa
dạng. Tuy nhiên, hiệu quả của việc tổ chức HĐNK chưa cao. HS tham gia
hoạt động với tâm lý để hoàn thành nhiệm vụ, chưa thực sự tự giác. Cũng theo
các thầy cô, việc tổ chức ngoại khóa có hiệu quả chưa cao chủ yếu là do còn
mang nặng tính hình thức, chưa thực sự mang lại hứng thú học tập cho HS.
Đối với các trường ở địa phương, do điều kiện cơ sở vật chất chưa cho

phép cũng như việc tiếp cận với những PPDH tích cực, những hình thức dạy
học mới vẫn còn hạn chế nên việc tổ chức HĐNK chưa được quan tâm đúng
mức cũng như chưa thực sự mang lại hiệu quả đối với môn học. Bên cạnh đó,
do HS các trường này chưa có thói quen tích cực, không tự giác trong các hoạt
động nên việc tổ chức HĐNK là khá khó khăn. Chính vì thế mà hiệu quả của
các HĐNK khi tổ chức chưa được cao, chưa tạo được hứng thú ở HS cũng
như chưa mang lại hiệu quả đối với môn học.
Từ kết quả phỏng vấn GV trong các trường phổ thông có thể kết luận:
Việc tổ chức các HĐNK bước đầu phát huy tác dụng đối với HS khi học tập
môn Ngữ văn. HS đã có thái độ tích cực hơn với các hoạt động cũng như việc
học môn Ngữ văn. Tuy nhiên, do việc tổ chức HĐNK còn mang nặng tính
hình thức và chưa được sự quan tâm, chú trọng đúng mức nên hiệu quả đạt
được chưa cao.
 Về phía HS:
Qua phỏng vấn 120 em HS thuộc 2 trường THPT chúng tôi nhận thấy:
HS hiện nay đa phần không mấy hứng thú đối với môn Ngữ văn. Khi được
hỏi môn học nào các em yêu thích nhất thì chỉ có 15% HS yêu thích môn Ngữ
Nguyễn Thị Hồng Chín – SPNV K52 – ĐH Giáo dục – ĐHQGHN

19


Tổ chức hoạt động ngoại khóa nhằm nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn
10
văn. Chủ yếu các em thích các môn học thuộc ban tự nhiên và những môn học
đòi hỏi tư duy tự nhiên cao. Về mức độ hứng thú đối với môn Ngữ văn, chúng
tôi thống kê được số liệu cụ thể như sau:
Bảng 2.1: Mức độ hứng thú của HS đối với môn Ngữ văn
Mức độ
Số HS

Tỉ lệ %

Hứng thú
25
20.9%

Bình thường
67
55.8%

Không thích
28
23.3%

Như vậy, qua bảng số liệu ta thấy, mức độ hứng thú của HS đối với môn
ngữ văn là chưa cao. Chính vì thế việc đổi mới phương pháp cũng như hình
thức dạy học là rất cần thiết để nâng cao hứng thú đối với việc học môn ngữ
văn của HS để từ đó nâng cao hiệu quả dạy học môn Ngữ văn. Từ việc khảo
sát hứng thú đối với việc học môn Ngữ văn, chúng tôi tiếp tục tìm hiểu hứng
thú của HS đối với HĐNK môn Ngữ văn để qua đó tìm ra phương hướng giúp
tăng hứng thú học tập của HS và nâng cao hiệu quả dạy học môn Ngữ văn ở
trường phổ thông.
Qua điều tra chúng tôi thấy, việc tổ chức HĐNK tuy còn chưa được thực sự
quan tâm và chú trọng nhưng đã mang lại hiệu quả nhất định. HS đã có những
quan tâm nhất định đến hoạt động này và tích cực tham gia. Dưới đây là bảng
số liệu thu được sau khi điều tra 120 HS.
Bảng 2.2: Mức độ hứng thú của HS đối với HĐNK môn Ngữ văn
Mức độ
Số HS
Tỉ lệ %


Rất hứng thú
48
40%

Bình thường
50
41.7%

Không quan tâm
22
18.3%

Nguyễn Thị Hồng Chín – SPNV K52 – ĐH Giáo dục – ĐHQGHN

20


Tổ chức hoạt động ngoại khóa nhằm nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn
10
Qua bảng số liệu trên ta thấy, số lượng HS cảm thấy hứng thú và quan tâm
tới HĐNK là tương đối cao. Điều này chứng tỏ HĐNK giúp tăng hứng thú học
tập đối với môn Ngữ văn. GV nên có những hình thức tổ chức HĐNK nhằm
bổ trợ cho việc học môn Ngữ văn, tránh việc dạy học nhồi nhét kiến thức
khiến phản tác dụng giáo dục. HĐNK vừa có ý nghĩa tích cực trong việc hình
thành, hoàn thiện nhân cách HS bên cạnh đó, nếu biết lồng ghép hợp lý thì đây
là một hình thức hỗ trợ đắc lực cho việc giảng dạy. Ngoài ra chúng ta thấy, tỉ
lệ HS tỏ ra không quan tâm tới hoạt động này vẫn còn ở mức cao chứng tỏ
HĐNK được tổ chức chưa thực sự hấp dẫn, lôi cuốn. Để hoạt động này nhận
được sự quan tâm của HS đòi hỏi người GV cần phải nỗ lực xây dựng tổ chức

sao cho hấp dẫn và phong phú cả về nội dung cũng như hình thức ngoại khóa.
⇒ Qua khảo sát thực trạng việc tổ chức HĐNK môn Ngữ văn ở trường
THPT, chúng tôi nhận thấy đây là một hình thức dạy học mới, phát huy hiệu
quả tích cực của việc dạy học. HĐNK góp phần đổi mới dạy học Ngữ văn,
nâng cao hứng thú học tập ở HS, thúc đẩy tính tự giác và là một hình thức hữu
hiệu cần được đưa vào chương trình dạy học để việc dạy học đạt được hiệu
quả cao nhất.
2.2. Chương trình Ngữ văn 10
2.2.1. Mục tiêu của chương trình Ngữ văn 10 THPT
- Môn Ngữ văn cung cấp cho HS những kiến thức phổ thông, cơ bản, hiện đại,
có tình hệ thống về ngôn ngữ (trọng tâm là tiếng Việt) và văn học (trọng tâm
là văn học Việt Nam), phù hợp với trình độ phát triển của lứa tuổi và yêu cầu
đào tạo nguồn nhân lực trong thời kì công nghiệp hoa, hiện đại hóa đất nước.
- Môn Ngữ văn hình thành và phát triển ở HS các năng lực sử dụng tiếng Việt,
tiếp nhận văn học, cảm thụ thẩm mĩ; phương pháp học tập, tư duy, đặc biệt là
phương pháp tự học; năng lực ứng dụng những điều đã học vào cuộc sống.
Nguyễn Thị Hồng Chín – SPNV K52 – ĐH Giáo dục – ĐHQGHN

21


Tổ chức hoạt động ngoại khóa nhằm nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn
10
- Môn Ngữ văn bồi dưỡng cho HS tình yêu tiếng Việt, văn học, văn hóa; tình
yêu gia đình, thiên nhiên, đất nước; lòng tự hào dân tộc; ý chí tự lập, tự cường;
lí tưởng xã hội chủ nghĩa; tinh thần dân chủ, nhân văn; giáo dục cho HS trách
nhiệm công dân, tinh thần hữu nghị và hợp tác quốc tế, ý thức tôn trọng và
phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại.
2.2.2. Cấu trúc sách giáo khoa Ngữ văn 10





-

Cấu trúc bài đọc văn:
Tên tác phẩm, đoạn trích
Kết quả cần đạt
Tiểu dẫn
Văn bản
Chú thích đặt dưới trang
Hướng dẫn học bài
Bài tập nâng cao
Tri thức đọc - hiểu – đặt ở cuối cụm bài
Cấu trúc bài khái quát, lí thuyết
Phần nội dung khái quát, lí thuyết
Luyện tập
Cấu trúc bài luyện tập: gồm một chuỗi bài tập
Cấu trúc bài làm văn gồm:
Tiết làm văn. Một chùm đề tham khảo
Tiết trả bài. Nêu các định hướng trả bài

2.2.3. Nội dung chương trình Ngữ văn 10
∗ Phần tiếng Việt
- Phong cách ngôn ngữ và biện pháp tu từ
+ Ngôn ngữ dạng nói và dạng viết
+ Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt
+ Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật
- Hoạt động giao tiếp
+ Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ

Nguyễn Thị Hồng Chín – SPNV K52 – ĐH Giáo dục – ĐHQGHN

22


Tổ chức hoạt động ngoại khóa nhằm nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn
10
- Một số kiến thức khác
+ Khái quát về lịch sử tiếng Việt.
+ Yêu cầu về sử dụng tiếng Việt.
+ Một số yếu tố Hán Việt thường dùng để cấu tạo từ.
- Củng cố và hoàn thiện một số kiến thức, kĩ năng đã học ở Trung học cơ sở
Từ vựng, ngữ pháp, hoạt động giao tiếp, các biện pháp tu từ.
∗ Phần Làm văn
- Những vấn đề chung về văn bản và tạo lập văn bản
Hệ thống hóa kiến thức chung về văn bản đã học ở Trung học cơ sở.
- Các kiểu văn bản và phương thức biểu đạt
+ Hệ thống hóa các kiểu văn bản đã học ở Trung học cơ sở:
 Văn bản tự sự có yếu tố miêu tả, biểu cảm; cách tóm tắt văn bản tự sự theo
nhân vật chính.
 Văn bản thuyết minh; cách tóm tắt văn bản thuyết minh.
 Văn bản nghị luận: luận điểm, luận cứ, lập luận; cách làm bài văn nghị
luận.
+ Luyện nói, luyện viết đoạn văn, bài văn tự sự, thuyết minh, nghị luận.
+ Một số kiểu văn bản khác: kế hoạch cá nhân; quảng cáo.
∗ Phần văn học
- Văn học dân gian Việt Nam
+ Sử thi: Đăm Săn (trích đoạn Chiến thắng Mtao Mxây).
+ Truyền thuyết: Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy.
+ Truyện cổ tích: Tấm Cám.

+ Truyện cười: Nhưng nó phải bằng hai mày; Tam đại con gà.
+ Đọc thêm truyện thơ: Tiễn dặn người yêu (Trích đoạn Lời tiễn dặn).
Nguyễn Thị Hồng Chín – SPNV K52 – ĐH Giáo dục – ĐHQGHN

23


Tổ chức hoạt động ngoại khóa nhằm nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn
10
+ Ca dao: Một số bài ca dao yêu thương tình nghĩa, ca dao than thân, ca dao
châm biếm hài hước.
- Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX
+ Thơ: Thuật hoài – Phạm Ngũ Lão; Bảo kính cảnh giới, số 43 – Nguyễn
Trãi; Nhàn – Nguyễn Bỉnh Khiêm; Độc Tiểu Thanh kí – Nguyễn Du.
+ Đọc thêm: Quốc tộ - Đỗ Pháp Thuận; Cáo tật thị chúng – Mãn Giác; Quy
hứng – Nguyễn Trung Ngạn.
+ Phú: Bạch Đằng giang phú – Trương Hán Siêu.
+ Ngâm khúc: Chinh phụ ngâm khúc (Trích đoạn Tình cảnh lẻ loi của người
chinh phụ).
+ Nghị luận: Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi; Tựa “Trích diễm thi tập” –
Hoàng Đức Lương.
+ Đọc thêm: Hiền tài là nguyên khí quốc gia – Thân Nhân Trung.
+ Sử kí: Đại Việt sử kí toàn thư (Trích đoạn Hưng Đạo Đại Vương Trần
Quốc Tuấn) – Ngô Sĩ Liên
+ Đọc thêm: Đại Việt sử kí toàn thư (Trích đoạn Thái sư Trần Thủ Độ) – Ngô
Sĩ Liên.
+ Truyện: Truyền kì mạn lục (Trích: Tản Viên từ phán sự lục) – Nguyễn Dữ.
+

Truyện thơ Nôm: Truyện Kiều (trích đoạn Trao duyên, Nỗi thương mình,

Chí khí anh hùng) – Nguyễn Du.

+ Đọc thêm: Truyện Kiều (Trích đoạn Thề nguyền) – Nguyễn Du.
- Văn học nước ngoài
+ Sử thi Ô-đi-xê (Trích đoạn Uy-lit-xơ trở về) – Hô-me-rơ; Ra-ma-ya-na
(Trích đoạn Ra-ma buộc tội) – Van-mi-ki.
+ Tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc: Tam quốc diễn nghĩa (Trích đoạn Hồi
trống Cổ Thành) – La Quán Trung.
Nguyễn Thị Hồng Chín – SPNV K52 – ĐH Giáo dục – ĐHQGHN

24


Tổ chức hoạt động ngoại khóa nhằm nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn
10
+ Đọc thêm: Tam quốc diễn nghĩa (trích đoạn Tào Tháo uống rượu luận anh
hùng) – La Quán Trung.
+ Thơ Đường và thơ hai-cư: Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi
Quảng Lăng – Lí Bạch; Thu hứng – Đỗ Phủ.
+ Đọc thêm: thơ Đường: Hoàng Hạc lâu – Thôi Hiệu; Khuê oán – Vương
Xương Linh; Điểu minh giản – Vương Duy; thơ hai cư: trích thơ M. Ba-sô,
Y. Bu-son (Nhật Bản).
- Lịch sử văn học
+ Quá trình văn học
Khái quát về văn học Việt Nam qua các thời kì lịch sử; văn học dân gian Việt
Nam; văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX.
+ Tác giả văn học (không có bài học riêng)
Sơ lược về cuộc đời và sự nghiệp của các tác giả có tác phẩm được học trong
chương trình, chú trọng các tác giả Nguyễn Trãi, Nguyễn Du.
- Lí luận văn học

+ Văn bản văn học
 Văn bản văn học, ngôn từ, hình tượng, ý nghĩa.
+ Thể loại (không có bài học riêng)
 Sơ lược về một số thể loại văn học dân gian và văn học trung đại (Việt
Nam và nước ngoài) được học trong chương trình.
+ Một số khái niệm lí luận văn học khác (không có bài học riêng)
 Nhân vật trữ tình, cốt truyện, kết cấu.
2.3. Tổ chức hoạt động ngoại khóa môn Ngữ văn lớp 10
2.3.1. Một số định hướng lựa chọn nội dung ngoại khóa

Nguyễn Thị Hồng Chín – SPNV K52 – ĐH Giáo dục – ĐHQGHN

25


×