Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Lợi nhuận - các biện pháp nâng cao lợi nhuận trong doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.69 KB, 15 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trong sản xuất kinh doanh nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường
nên những hoạt động của doanh nghiệp cần hướng vào một mục tiêu nhất định
là lợi nhuận. Lợi nhuận được coi là một trong những đòn bẩy kinh tế đồng thời
là một chỉ tiêu cơ bản để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận tác
động đến tất cả các mặt hoạt động của doanh nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp đến
tình hình tài chính của doanh nghiệp, việc thực hiện được chỉ tiêu lợi nhuận là
điều kiện quan trọng đảm bảo cho tình hình tài chính của doanh nghiệp vững
chắc. Vì vậy tôi chọn đề tài:
"Lợi nhuận - các biện pháp nâng cao lợi nhuận trong doanh nghiệp" để làm
tiểu luận.
1
PHẦN I
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ LỢI NHUẬN VÀ
CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO LỢI NHUẬN
I. KHÁI NIỆM VỀ LỢI NHUẬN
Ngay từ khi có hoạt động sản xuất trao đổi mua bán hàng hoá, lợi nhuận trong
kinh doanh là một đề tài nghiên cứu tranh luận của nhiều trường phái, nhiều nhà lý
luận kinh tế.
Adamsmith là người đầu tiên trong số các nhà kinh tế học cổ điển nghiên cứu
về lợi nhuận.
Theo quan điểm của Adamsmith thì ông coi lợi tức là một bộ phận của lợi
nhuận, sinh ra từ lợi nhuận và nguồn gốc của lợi nhuận là một bộ phận sản phẩm
do lao động của công nhân tạo nên.
Trên cơ sở lý luận của Adamsmith, Ricardo tiếp trụ kế thừa những thành tựu
của các tiền bối đi trước gạt bỏ đi những chỗ chưa hợp lý hay còn mâu thuẫn, từ đó
bổ sung và phát triển thêm thành lí luận riêng của mình ông cho rằng: Lợi nhuận là
một phần giá trị do công nhân tạo nên, đó là phần còn lại của nhà tư bản sau khi đã
trừ lương cho công nhân.
Đến cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX nhà kinh tế học tư sản Sismonde đã
bảo vệ tư tưởng đúng đắn của Adamsith về vấn đề bóc lột quần chính lao động để


tạo ra lợi nhuận cho nhà tư bản: Từ đó, ông phát triển thêm và đi đến khẳng định:
lợi nhuận là kết quả của việc cướp bóc công nhân, còn địa tô là sản phẩm không
được trả công của nông dân.
Thế kỷ XIX J.B.Say đưa ra quan điểm như sau: Lợi nhuận doanh nghiệp
chính là tiền công trả cho lao động giám sát và quản lý.
Theo cách giải thích của Malthus: Lợi nhuận là khoản công thêm vào giá cả,
lưu thông là lĩnh vực trong đó lợi nhuận xuất hiện khi bán hàng hoá đắt hơn giá
mua.
Trên những tinh hoa của các bậc tiền bối đi trước Mác thừa kế và xây dựng
quan điểm cho chính mình. Mác đã phân chia tư bản thành tư bản bất biến và khả
biến liên quan đến giá trị thặng dư. Sản xuất giá trị thặng dư phụ thuộc vào quá
trình của lực lượng sản xuất.
Môn học tài chính đưa ra đinh nghĩa lợi nhuận như sau:
Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng các hợp đồng sản xuất kinh doanh, là
chỉ tiêu chất lượng đánh hiệu quả kinh tế các hoạt động của doanh nghiệp. Từ góc
độ doanh nghiệp có thể thấy rằng lợi nhuận của doanh nghiệp là khoản chênh lệch
2
giữa thu nhập và chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để đạt được thu nhập đó các hợp
đồng của doanh nghiệp đưa lại.
Như vậy lợi nhuận giữ 1 vai trò quan trọng trong hợp đồng sản suất kinh doanh
của doanh nghiệp vì trong cơ chế thị trường , doanh nghiệp có tồn tại và phát triển
được hay không thì điều quyết định là doanh nghiệp có tạo được lợi nhuận hay không.
II. BẢN CHẤT VỀ LỢI NHUẬN
1. Nguồn gốc của lợi nhuận
Adamsmith xuất phát từ quan điểm giá trị trao đổi của mọi hàng hoá để từ đó
đưa ra nguồn gốc của lợi nhuận là do lao động sản xuất ra hàng hoá đó quyết định.
Ông còn cho rằng không chỉ có lao động nông nghiệp mà cả lao động công nghiệp
cũng tạo ra lợi nhuận, tư bản cho vay nhận được lợi tức cho vay khi cho vay vốn,
tư bản ngân hàng thu được lợi nhuận ngân hàng khi kinh doanh nghiệp vụ ngân
hàng.

Kế thừa những nguyên lý đúng đắn khoa học của những nguyên lý đúng đắn
khoa học của những lý luận tiền bối.
Các Mác đã khẳng định về nguồn gốc lợi nhuận là do lao động làm thuê tạo
ra, về bản chất lợi nhuận là hình thái biểu hiện của giá trị thặng dư, là kết quả của
lợi nhuận không được trả công.
2. Sự hình thành lợi nhuận
Để vạch rõ sự hình thành lợi nhuận trong sản xuất kinh doanh TBCN các Mác
bắt đầu từ CFSX TBCN. Để có thể xuất ra hàng hoá có giá trị là CTVTM.
Trong đó:
C là tư bản bất biến
V là tư bản khả biến
M là giá trị thặng dư
CTV: CFSX TBCN
Khi đưa hàng hoá đem ra trao đổi trên thị trường thì theo quy luật giá trị, giá
bán bằng với giá trị của hàng hoá là C + V+ m. Do vậy, nhà tư bản thu được 1
khoản tiền lớn hơn chi phí mà họ bỏ ra. Số chênh lệch này gọi là lợi nhuận.
III. KẾT CẤU CỦA LỢI NHUẬN
Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp rất đa dạng và phong phú.
Hoạt động của doanh nghiệp trong 1 kỳ kinh doanh không bao gồm những hoạt
động sản xuất chính, các mặt hàng dịch vụ theo đúng ngành nghề đăng ký kinh
doanh, mà còn tiến hành nhiều nghiệp vụ hoạt động, đa dạng, phức tạp và có tính
chất thường xuyên, không chủ yếu như hoạt động tài chính, hoạt động bất thường.
Nhìn chung , cấu thành lợi nhuận của doanh nghiệp thường bao gồm 3 bộ phận.
3
- Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh: Là lợi nhuận thu được từ hoạt
động sản xuất kinh doanh.
- Lợi nhuận từ hoạt động tài chính: Là lợi nhuận thu được từ các hoạt động
đầu tư tài chính ra ngoài doanh nghiệp.
- Lợi nhuận từ hoạt động bất thường : Là lợi nhuận từ những hoạt động mà
doanh nghiệp không dự tính trước của các dự tính nhưng ít có khả năng thực hiện,

những hoạt động mang tính chất không thường xuyên.
Tỉ trọng của mỗi bộ phận lợi nhuận trong tổng lợi nhuận doanh nghiệp có sự
khác nhau giữa các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực kinh doanh khác nhau và
thuộc các môi trường kinh tế khác nhau.
Tuy nhiên, nhìn chung lợi nhuận từ hợp đồng sản xuất kinh doanh trong
doanh nghiệp sản xuất chiếm tỷ trọng cao, có ý nghĩa quyết định trong tồn tại lợi
nhuận của doanh nghiệp. Nhưng đối với các ngân hàng, tổ chức tín dụng thì lợi
nhuận từ hợp đồng tài chính lại chiếm chủ yếu, có ý nghĩa quyết định tồn tại lợi
nhuận.
IV. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN LỢI NHUẬN
Trong điều kiện hiện nay, với sự linh hoạt của cơ chế thị trường, các doanh
nghiệp có thể đồng thời tham gia đầu tư vào nhiều lĩnh vực nên hoạt động của
doanh nghiệp rất phong phú và đa dạng. Song hoạt động nào mục tiêu của doanh
nghiệp vẫn là lợi nhuận. Vì vậy việc xem xét những nhân tố ảnh hưởng đến lợi
nhuận mà nội dung cơ bản lợi nhuận từ hợp đồng sản xuất kinh doanh là khoản
chênh lệch giữa phương thức bán hàng với chi phí sản xuất kinh doanh và thuế
theo quyết định của nhà nước.
Như vậy có thể nhận thức rằng có 2 nhóm nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận.
1. Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến chi phí sản xuất kinh doanh
- Chi phí NVL: Chiếm chủ yếu trong tồn tại giá thành sản phẩm, do đó nếu
tiết kiệm được chi phí này sẽ làm giảm giá thành và tăng lợi nhuận.
Để sử dụng hợp lý và tiết kiệm chi phí NVL phải biết được nguồn gốc hình
thành từ đó biết được các nguyên tố ảnh hưởng:
+ Mức tiêu hao bình quân của từng loại NVL: Cùng sản phẩm như cũ, chúng
ta cải tiến mẫu mã, quy cách, kiểu dáng, kích thước sản phẩm cho phù hợp với thị
hiếu người tiêu dùng, song cùng với khối lượng nguyên vật liệu ta sản xuất ra số
lượng sản phẩm nhiều hơn thì hiển nhiên chi nguyên vật liệu trên một sản phẩm
giảm dẫn đến sản xuất giảm.
+ Giá vật liệu xuất dùng: Phụ thuộc vào nhà cung cấp, thời điểm mua, phương
tiện vận chuyển.

+ Sử dụng vật liệu thay thế: Sử dụng nguyên vật liệu rẻ tiền thay thế nguyên
vật liệu đắt tiền, nguyên vật liệu trong nước thay thế nguyên vật liệu ngoại nhập.
4
- Chi phí tiền lương: Phải hợp lý, không cao quá mà cũng không được thấp quá.
Vì trả lương thấp quá ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm, cũng như năng suất lao
động.
- Chi phí quản lý sản xuất kinh doanh: Nhà quản lý không cần nhiều để giảm
chi phí sản xuất và chất lượng công việc để tránh trường hợp đùn đẩy công việc, đổ
trách nhiệm cho nhau.
- Chi phí lưu thông: Nhằm đảm bảo tiêu thụ hàng hoá, sản phẩm. Tuy nhiên
giảm chi ở đây là mức độ cho phép để đảm bảo chất lượng sản phẩm và uy tín của
doanh nghiệp.
2. Những nhân tố ảnh hưởng đến doanh thu bán hàng.
- Đặc điểm sản xuất kinh doanh của từng ngành nghề, doanh nghiệp: Ngành
công nghiệp sản phẩm phong phú, đa dạng, ngành nông nghiệp sản xuất theo thời
vụ, ngành xây dựng sản xuất theo đơn đặt hàng.
- Khối lượng sản phẩm sản xuất ra: Nghiên cứu thị trường và khả năng sản
xuất của mình để xác định cần sản xuất bao nhiêu sản phẩm là phù hợp tránh tình
trạng ứ đọng hàng hoá và thiếu hàng hoá bán. Đây là công việc rất khó.
- Chất lượng sản phẩm: Tác động tỉ lệ thuận với doanh thu
- Giá cả sản phẩm ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu
- Tổ chức bán hàng.
+ Hình thức bán hàng: Phong phú đa dạng: bán buôn bán lẻ, tại kho, tại cửa
hàng, tại nhà...
+ Tổ chức thanh toán đa dạng bằng tiền mặt, séc, chuyển khoản, chiết khấu
đối với khách hàng thanh toán ngay.
V. VAI TRÒ, TÁC DỤNG CỦA LỢI NHUẬN ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG
SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP.
Trong nền kinh tế thị trường để tồn tại và phát triển đòi hỏi doanh nghiệp phải
thu được lợi nhuận. Lợi nhuận là mục tiêu, là khát vọng đối với mọi doanh nghiệp,

vì vậy lợi nhuận được coi là đòn bẩy kinh tế quan trọng đồng thời là một chỉ tiêu
đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Sau khi thu được lợi nhuận, doanh nghiệp phân bổ cho các quĩ đầu tư phát
triển kinh doanh, quĩ dự phòng tài chính, quỹ khen thưởng phúc lợi... Do vậy khi
lợi nhuận càng cao thì thu nhập của người lao động tăng lên dẫn đến nâng cao đời
sống vật chất tinh thần của người lao động. Hơn nữa lợi nhuận còn có tác dụng
giúp cho doanh nghiệp có khả năng mở rộng hoạt động sản xuất, thu hút lao động
giải quyết thất nghiệp.
Lợi nhuận còn là nguồn thu chủ yếu thông qua việc nộp thuế thu nhập theo
ngân sách Nhà nước.
5
Nắm bắt được tầm quan trọng của lợi nhuận vậy phải có những biện pháp để
nâng cao lợi nhuận.
VI. CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO LỢI NHUẬN.
Nâng cao lợi nhuận là điều kiện tăng trưởng và phát triển, bởi lẽ mỗi doanh
nghiệp là một tế bào của nền kinh tế. Vì vậy các doanh nghiệp phải hoạt động kinh
doanh có hiệu quả thì nền kinh tế mới phát triển được. Xuất phát từ đó, trước tiên
chúng ta phải hiểu được ý nghĩa của việc nâng cao lợi nhuận.
1. ý nghĩa của việc nâng cao lợi nhuận.
Lợi nhuận giữ vị trí quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, lợi nhuận tác động đến mọi mặt hoạt động của doanh nghiệp và ảnh
hưởng trực tiếp đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. Chính vì vậy việc nâng
cao lợi nhuận là một điều kiện quan trọng để đảm bảo cho tình hình tài chính của
doanh nghiệp được vững chắc.
Lợi nhuận là nguồn tích luỹ cơ bản để mở rộng tái sản xuất xã hội. Nâng cao lợi
nhuận trong doanh nghiệp sẽ đảm bảo cho doanh nghiệp làm tròn nghĩa vụ của mình
đối với Nhà nước, người lao động và chính doanh nghiệp. Cụ thể các nghĩa vụ đó là.
• Nộp thuế cho ngân sách Nhà nước.
• Đảm bảo thu nhập và nâng cao mức sống cho người lao động.
• Bảo toàn và phát triển vốn của doanh nghiệp.

Ý nghĩa cơ bản nhất của việc nâng cao lợi nhuận trong doanh nghiệp chính là
để khẳng định vị trí vai trò cũng như uy tín của doanh nghiệp trên thương trường.
Đồng thời nâng cao lợi nhuận cũng là một phương tiện hữu hiệu để tận dụng khai
thác những tiềm năng, thế mạnh của doanh nghiệp và trên cơ sở đó tạo điều kiện
cho doanh nghiệp chiếm lĩnh thị trường.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận
- Doanh thu tiêu thụ sản phẩm: Phụ thuộc vào chất lượng sản phẩm, giá cả
kiểu dáng, kích cỡ, mẫu mã sản phẩm là chủ yếu. Ngoài ra đưa ra chính sách
khuyến khích thanh toán tiền hàng nhanh, đa dạng hoá hình thức bán hàng.
- Chi phí sản xuất kinh doanh: Giảm chi phí tuyệt đối trong điều kiện giữ
nguyên khối lượng sản phẩm ở đầu ra nhưng lại giảm chi phí bất biến ở đầu vào
thông qua việc sắp xếp lại biên chế, tinh giảm công tác quản lý... hoặc phương
pháp giảm tương đối chi phí, phương pháp này hướng vào việc đầu tư, tăng chi phí
sản xuất ở đầu vào (chi phí khả biến) nhằm tăng năng xuất lao động do đó có cơ
hội tăng lợi nhuận
3. Các biện pháp nâng cao lợi nhuận.
Tăng lợi nhuận trong kinh doanh là mục tiêu cơ bản của các doanh nghiệp là sự
tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp. Nhưng lợi nhuận đạt đến mức nào là hợp
6

×