Tải bản đầy đủ (.pdf) (231 trang)

Trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính - bằng chứng từ các công ty niêm yết Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.76 MB, 231 trang )

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU
1.1. Giới thiệu
Trong nhận thức của phần lớn các nhà đầu tư thì hiệu quả công ty thường gắn
liền với giá cổ phiếu. Mục đích chính của quản trị là để tối đa hóa sự giàu có của công
ty (Sujoko, 2007), hiệu quả/giá trị công ty được phản ánh vào giá cổ phiếu đó là ổn
định hay tăng trưởng. Nếu giá cổ phiếu cao sẽ làm cho hiệu quả công ty cao và tác
động đến lòng tin của thị trường đối với hiệu quả công ty ở hiện tại, cũng như triển
vọng đối với công ty trong tương lai, rất quan trọng trong các giao dịch đầu tư. Tuy
nhiên, để đạt được hiệu quả công ty cao thì các nhà quản lý có thể thực hiện theo
nhiều cách khác nhau. Một là, tác động vào các chỉ số tài chính của công ty để cải
thiện lợi nhuận, vì lợi nhuận tăng có thể dẫn đến giá cổ phiếu trên thị trường chứng
khoán tăng. Hai là, các nhà quản lý công bố rộng rãi về việc thực hiện tốt trách nhiệm
xã hội (Corporate social responsibility – CSR) để nâng cao hình ảnh và làm tăng
doanh số bán hàng của công ty. Ba là, các nhà quản lý thực hiện tốt quản trị công ty,
vì quá trình quản trị công ty tốt hơn có thể làm tăng hiệu quả công ty. Bốn là, các công
ty lớn có xu hướng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vững chắc hơn nên nó được dự kiến
là sẽ làm gia tăng hiệu quả công ty. Cho nên, những công ty có báo cáo các thông tin
về trách nhiệm xã hội tốt, quản trị công ty tốt, và quy mô lớn được kỳ vọng sẽ có
những ảnh hưởng tốt đối vối việc cải thiện hiệu quả công ty. Như vậy, có nhiều khía
cạnh khác nhau để đạt được hiệu quả công ty cao và trách nhiệm xã hội là một trong
những khía cạnh được các nhà quản lý sử dụng để làm tăng hiệu quả công ty. Nhưng
trách nhiệm xã hội (CSR) là gì? Trách nhiệm xã hội có tác động như thế nào lên hiệu
quả công ty (hiệu quả tài chính)? Đó là hướng nghiên cứu chính của nghiên cứu này.
Thuật ngữ “Trách nhiệm xã hội” đã xuất hiện trong lý thuyết Quản trị và Kế
toán trong khoảng 45 năm (Wood, 2010). Trong những năm gần đây không chỉ các tổ
chức kinh tế mà cả xã hội ngày càng gia tăng mối quan tâm của họ đối với trách
nhiệm xã hội (Adams và Frost 2006; Gulyas 2009; Young và Thyil 2009). Theo
truyền thống, các công ty phải tập trung các chiến lược của họ cho hoạt động kinh
doanh và lợi nhuận (ví dụ như sự khác biệt, sự đa dạng, tập trung và toàn cầu hóa
v.v…). Tuy nhiên, gần đây nhu cầu mở rộng các hoạt động của tổ chức vào các hoạt
động xã hội đã trở nên cấp thiết và đóng vai trò quan trọng trong tư duy chiến lược



1


của tổ chức. Các học giả cho rằng những hoạt động như vậy chính là các hoạt động
trách nhiệm xã hội (Carroll 1979; Margolis và Walsh 2001). Cụ thể hơn, trách nhiệm
xã hội là việc công ty/doanh nghiệp sẽ tự nguyện tích hợp các vấn đề về xã hội và môi
trường vào hoạt động kinh doanh của họ và tương tác với các bên liên quan (Djalil,
2003). Hay hiểu rộng hơn, khái niệm này hàm ý rằng trách nhiệm xã hội trở thành một
phần không thể thiếu trong chiến lược đầu tư, chiến lược kinh doanh cốt lõi, công cụ
quản lý, cũng như các hoạt động của tổ chức - nghĩa là trách nhiệm không phải là chi
phí mà là một sự đầu tư đối với tổ chức kinh doanh (Kusuma Dilaga, 2010). Trách
nhiệm xã hội là sự khẳng định rằng tổ chức không chỉ hoạt động vì lợi ích của các cổ
đông, mà còn vì lợi ích của các bên liên quan khác cụ thể là người lao động, cộng
đồng địa phương, chính phủ, tổ chức phi chính phủ (NGOs), người tiêu dùng và môi
trường.
Việt Nam, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) đã được truyền bá vào
nước ta thông qua hoạt động của các công ty đa quốc gia đầu tư nước ngoài. Các công
ty này thường đưa ra các chương trình khuyến cáo ứng xử về văn hoá kinh doanh đem
áp dụng vào các địa bàn đầu tư. Ví dụ như “Chương trình tôi yêu Việt Nam” của công
ty Honda - Vietnam; “Chương trình giáo dục vệ sinh cá nhân” cho các trẻ em của
công ty Unilever; “Chương trình đào tạo tin học Topic 64” của Microsoft, Qualcomm
và HP; “Chương trình hỗ trợ dị tật tim bẩm sinh” và “Chương trình ủng hộ nạn nhân
vụ sập cầu Cần Thơ” của Vinacapitat, Samsung; “Chương trình khôi phục thị lực cho
trẻ em nghèo” của Western Union;… Kết quả, những năm qua đã có một số tổ chức
kinh tế chủ động thực hiện trách nhiệm xã hội và nhờ đó mà thương hiệu của họ càng
được xã hội biết đến (Mai Linh, Tân Tạo, Duy Lợi, Ngân hàng Á Châu - ACB,
Sacombank, Kinh Đô,…).
Như vậy, khái niệm trách nhiệm xã hội không hề mới; đã có rất nhiều công
trình nghiên cứu về trách nhiệm xã hội cũng như nhiều công ty nước ngoài từ lâu đã

thực hiện trách nhiệm xã hội một cách nghiêm túc và bài bản. Tuy nhiên, việc thực
hiện trách nhiệm xã hội phụ thuộc vào điều kiện phát triển của mỗi quốc gia, nhất là
các nước phát triển phương Tây như Hoa Kỳ (USA) và Vương quốc Anh (UK)
(Chambers và cộng sự, 2003). Các điều kiện cụ thể đã được thảo luận bởi nhiều nhà
nghiên cứu và họ đã xác định là có khoảng cách giữa các nước phát triển và các nước
đang phát triển (Chambers và cộng sự, 2003; Matten và Moon 2004; Chapple và

2


Moon 2005; Visser 2008). Các nhà nghiên cứu như Edmondson và Carroll (1999),
Burton và cộng sự (2000) và Khan (2005), cho rằng trách nhiệm xã hội bị ảnh hưởng
bởi các mô hình văn hóa và phong tục truyền thống khác nhau nên có thể khó áp dụng
ở các nước đang phát triển.
Mặt khác, có một số lượng lớn các nghiên cứu về trách nhiệm xã hội được thực
hiện khi sử dụng các khía cạnh trách nhiệm xã hội khác nhau, các quốc gia khác nhau
và thị trường khác nhau (Guthrie và Parker, 1989; Deegan và Gordon, 1996;
Mathews, 1997; O’Dwyer, 2001; Deegan và cộng sự, 2002; Murphy và Abeysekera,
2008; Clarklon và cộng sự, 2011). Cũng như một số lượng lớn nghiên cứu khác tiến
hành điều tra mối quan hệ thực nghiệm giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính
công ty (Corporate financial performance – CFP) (Griffin và Mahon, 1997;
McWilliam và Siegel, 2000; Chen và Wang, 2011). Tuy nhiên, kết quả của các nghiên
cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính thường
mâu thuẫn và hỗn hợp. Cụ thể, một số nghiên cứu cho thấy mối tương quan dương
giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính (Waddock và Graves, 1997; Van de
velde và cộng sự, 2005; Petrer và Mullen, 2009; Choi và cộng sự, 2010; Kwanbo,
2011; Michelon, 2011; Oeyono và cộng sự, 2011; Stephanus và cộng sự, 2014; Sarah
và cộng sự, 2015; Yusuf và Maryam, 2015; Strouhal và cộng sự, 2015; Amran, 2015;
Wan và Muhammad, 2016); trong khi một số nghiên cứu khác phát hiện ra mối tương
quan âm (Mittal và cộng sự, 2008; Crisostomo và cộng sự, 2100); hay cũng có một số

nghiên cứu không tìm thấy bất kỳ mối quan hệ nào giữa trách nhiệm xã hội và hiệu
quả tài chính (Preston và O’Bannon, 1997; McWilliam và Siegel, 2000; Moneva và
Ortas; 2008; Kimbro và Melendy, 2010).
Phần còn lại được phân bổ như sau: mục 1.2, bối cảnh; mục 1.3, câu hỏi nghiên
cứu; mục 1.4, mục tiêu nghiên cứu; mục 1.5, đối tượng và phạm vi nghiên cứu; mục
1.6, phương pháp nghiên cứu; mục 1.7, ý nghĩa của nghiên cứu; mục 1.8, bố cục của
nghiên cứu.
1.2. Bối cảnh
Vào cuối những năm 1980, trách nhiệm xã hội đã thu hút được sự chú ý trên
toàn thế giới và một số học giả đã xác định rằng các công ty có trách nhiệm xã hội
được hưởng một số lợi ích. Những lợi ích đó bao gồm các yếu tố như lợi nhuận - việc
đạt được một lợi thế cạnh tranh (Smith 1994; Porter và Kramer, 2002); tạo ra một hình

3


ảnh tích cực về công ty (Smith và Stodghill, 1994); thu hút và giữ chân những nhân
viên giỏi nhất (Turban và Greening, 1997); và nâng cao lòng trung thành của khách
hàng (Brown và Dacin, 1997). Tuy nhiên, một số học giả đã thừa nhận rằng các sáng
kiến trách nhiệm xã hội có thể tạo ra chi phí bổ sung (Agarwal, 2008; Sharma và
Talwar, 2005) và các công ty có thể gặp một số bất lợi về kinh tế từ việc thực hiện
trách nhiệm xã hội (Ullmann, 1985; Turban và Greening, 1997).
Sang thế kỷ 21, tầm quan trọng của trách nhiệm xã hội ở các nước đang phát
triển bắt đầu được thảo luận bởi nhiều học giả. Một nghiên cứu về các công ty Châu Á
(Belal, 2001) lập luận, các nước đang phát triển đã quan tâm đến các mối nguy hiểm
tiềm năng do đầu tư nước ngoài mang lại, phát triển công nghiệp cho thấy những tác
động xấu đến môi trường và tệ nạn xã hội. Trong nghiên cứu của Rais và
Goedegebuure (2009), Chappel và Moon (2003) về các nước đang phát triển đã nhấn
mạnh, toàn cầu hóa đã khuyến khích trách nhiệm xã hội ở các nước đang phát triển
nói chung và cấu trúc lại hệ thống doanh nghiệp quốc gia, chính trị, tài chính, giáo dục

và văn hóa trách nhiệm xã hội trong các công ty đa quốc gia nói riêng. Hơn nữa, các
nước đang phát triển thường có các vấn đề về xã hội và môi trường như quyền con
người, ô nhiễm môi trường và các vấn đề lao động. Tuy nhiên, người dân ở các nước
đang phát triển cho rằng các công ty đa quốc gia (MNCs) có thể giải quyết những vấn
đề này khi tham gia vào các sáng kiến trách nhiệm xã hội theo sự phát triển bền vững
và hợp tác với xã hội (Ite, 2004). Các tổ chức kinh doanh luôn suy nghĩ làm thế nào để
tăng hiệu quả tài chính của họ. Nếu họ tham gia vào các hoạt động trách nhiệm xã hội,
họ có thể giải quyết các vấn đề xã hội và môi trường (Henderson, 2001). Bởi vì những
vấn đề trên thường phổ biến cho các nước đang phát triển, các nhà nghiên cứu cũng đề
xuất những biện pháp để khắc phục những vấn đề chung này bằng việc thực hiện trách
nhiệm xã hội. Tất nhiên, những vấn đề nêu trên có liên quan trực tiếp đến Việt Nam,
một quốc gia đang phát triển. Vì vậy, nghiên cứu này trước hết sẽ xác định việc thực
hành trách nhiệm xã hội và xác định lợi ích của trách nhiệm xã hội thông qua kiểm tra
các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính của các công ty niêm
yết Việt Nam.
Đồng thời các nhà nghiên cứu tại các nước đang phát triển hiện nay cũng đang
bắt đầu xem xét các khái niệm trách nhiệm xã hội ở mức độ sâu hơn. Đặc biệt quan
tâm liệu việc thực hiện trách nhiệm xã hội đạt đến mức độ nào (Dober và Halme,

4


2009), các khái niệm phổ biến của phương Tây về trách nhiệm xã hội có thể thực hiện
được ở các nước đang phát triển (Jamali, 2007), và liệu trách nhiệm xã hội có mang
đến lợi ích kinh doanh cao (Dutta và Durgamohan, 2008). Mặc dù các bên liên quan
khác nhau đã buộc các tổ chức ở các nước đang phát triển thực hiện trách nhiệm xã
hội, nhưng có vẻ như rất nhiều tổ chức kinh doanh không có đủ kiến thức để hiện thực
hóa trách nhiệm xã hội (Fernando, 2007). Hơn nữa, không có quy tắc nào về trách
nhiệm xã hội được chấp nhận ở các nước đang phát triển để thực thi yêu cầu các bên
liên quan (Chambers và cộng sự, 2003; Blowfield, 2004; Chapple và Moon, 2005;

Thorpe và Prakash-Mani, 2006; Visser, 2008). Các học giả khác lại cho rằng sự thiếu
hiểu biết về các lợi ích của trách nhiệm xã hội đã cản trở việc thực hiện trách nhiệm
xã hội (Fernando, 2007; Agarwal, 2008). Do đó, các bên liên quan và các tổ chức có ít
thông tin về khả năng áp dụng các khía cạnh trách nhiệm xã hội ở các nước đang phát
triển. Hơn nữa, các thông tin đến từ các tổ chức quốc tế như UN Global Compact và
Global Reporting Initiative (GRI) đã hỗ trợ cho sự phát triển của nhiều kế hoạch thực
hiện trách nhiệm xã hội.
Tuy nhiên, các nghiên cứu về các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu
quả tài chính là quan trọng bởi vì nếu nó được phát hiện là có mối quan hệ cùng chiều,
thì điều này sẽ hỗ trợ cho các tranh luận “win – win”. Quả nhiên, các tài liệu đã cho
thấy các kết quả trái ngược nhau bởi vì nhiều nghiên cứu bị mắc phải lỗi mô hình
thông số sai lệch và/hoặc dữ liệu hạn chế (Elsayed và Paton, 2005). Elsayed và Paton
(2005) đã xác định một khoảng trống lớn trong các tài liệu - rất ít nghiên cứu có kiểm
soát đối với công ty không đồng nhất hoặc xem xét hiệu ứng động trong mối quan hệ
giữa hiệu quả môi trường – xã hội và hiệu quả tài chính".
Việt Nam là một đất nước có lịch sử lâu dài với niên đại hơn 4000 năm. Phần
đông người dân theo đạo Phật và họ tin rằng họ có trách nhiệm lẫn nhau và điều này là
rất quan trọng trong sự phát triển cuộc sống của họ. Trách nhiệm này sau đó được mở
rộng đến kinh doanh. Do đó, thuật ngữ "Trách nhiệm xã hội" không phải là mới đối
với người dân Việt Nam nói chung và các tổ chức nói riêng. Tuy nhiên, khái niệm
trách nhiệm xã hội (CSR) là mới đối với các tổ chức kinh doanh, các nhà đầu tư, với
người tiêu dùng và toàn xã hội nói chung. Nhất là, sau khi Việt Nam trở thành thành
viên thứ 150 của WTO vào năm 2007, việc thực hiện trách nhiệm xã hội đối với các tổ
chức kinh doanh trở nên đặc biệt quan trọng. Nhưng việc thực hiện trách nhiệm xã hội

5


ở Việt Nam lại còn tương đối khó khăn. Điều này do nguyên nhân bởi chính bản thân
các tổ chức cũng chưa có hiểu biết đúng đắn về trách nhiệm xã hội (CSR).

Ngoài ra, nếu xem xét tổng thể các tổ chức kinh tế thì Việt Nam có hơn 90%
doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa (Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009
của Chính phủ) nên sự am hiểu và đầu tư cho việc thực hành trách nhiệm xã hội còn
rất nhiều khoảng trống. Mặt khác, cách hiểu phổ biến của phần lớn các tổ chức kinh tế
là đồng nhất giữa thực hiện trách nhiệm xã hội với làm từ thiện hay thực hiện trách
nhiệm xã hội là không bắt buộc, khi nào có điều kiện thì làm. Thậm chí có nhiều nhà
quản lý trong các tổ chức còn coi trách nhiệm xã hội là hoạt động PR, khuếch trương
tên tuổi của mình nhằm che dấu hiệu quả kinh tế thực tế. Điều đó đi ngược hoàn toàn
với tinh thần của trách nhiệm xã hội. Đồng thời, việc thiếu nguồn nhân lực, tài chính
và kỹ thuật của các tổ chức kinh doanh cũng ảnh hưởng đến việc thực hiện các phát
kiến trách nhiệm xã hội.
Mặc dù vậy, một số tổ chức kinh doanh tại Việt Nam đã thực hiện một loạt các
hoạt động trách nhiệm xã hội và nhiều báo cáo sáng kiến trách nhiệm xã hội của họ
được công bố trên các websites công ty, báo cáo bền vững và các báo cáo thường
niên. Bởi vì, các tổ chức đều nhận thức và quan tâm đến sự ảnh hưởng trong các hoạt
động của họ đối với môi trường, cộng đồng, người lao động và các bên liên quan
khác. Cũng như rất nhiều các tổ chức Việt Nam đã nhận thấy được những lợi ích tích
cực liên quan đến các hoạt động trách nhiệm xã hội. Tuy nhiên, các tổ chức vẫn phải
đối mặt với những thách thức to lớn trong việc thực hành các hoạt động trách nhiệm
xã hội và mức độ hiểu biết về trách nhiệm xã hội vẫn còn rất thấp. Do đó, các nghiên
cứu tập trung vào việc xác định các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả
tài chính của các công ty niêm yết Việt Nam là một nhiệm vụ khó khăn, bởi vì không
có bằng chứng bắt buộc cho dù trách nhiệm xã hội đã được thực hiện ở Việt Nam.
Dựa vào những lập luận trên trong các nghiên cứu về trách nhiệm xã hội ở Việt
Nam, đã cho tác giả thấy được sự cần thiết mở rộng các nghiên cứu trước đây về trách
nhiệm xã hội, về mối quan hệ thực nghiệm giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài
chính đối với các công ty niêm yết trên thị trường vốn Việt Nam. Đó chính là lý do tác
giả lựa chọn chủ đề về “Trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính: bằng chứng từ
các công ty niêm yết Việt Nam” làm đối tượng nghiên cứu chính cho nghiên cứu này.
1.3. Câu hỏi nghiên cứu


6


Như thảo luận trong bối cảnh nghiên cứu, sự hiểu biết về trách nhiệm xã hội ở
Việt Nam là chưa cao. Mặc dù, một số công ty đã áp dụng và phát triển các khía cạnh
trách nhiệm xã hội để báo cáo các hoạt động trách nhiệm xã hội của họ trên cơ sở tự
nguyện nhưng lại có tương đối ít các công ty niêm yết đã thực hiện việc công bố trách
nhiệm xã hội trong báo cáo thường niên, báo cáo bền vững và websites có nội dung
bền vững. Do đó, những cuộc điều tra xa hơn về việc mở rộng các nghiên cứu trước
về trách nhiệm xã hội cần được thực hiện.
Các câu hỏi nghiên cứu chính trong nghiên cứu này bao gồm:
(1) Có mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và các phương diện (khía cạnh)
trách nhiệm xã hội với hiệu quả tài chính trong các công ty công ty niêm yết Việt Nam
hay không?
(2) Có mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và rủi ro công ty trong các công ty
công ty niêm yết Việt Nam hay không?
(3) Các công ty niêm yết có công bố trách nhiệm xã hội luôn có hiệu quả tài
chính tốt hơn các công ty niêm yết khác không công bố trách nhiệm xã hội đúng
không?
1.4. Mục tiêu nghiên cứu
Để giải quyết sự thiếu rõ ràng về mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu
quả tài chính, cũng như những tranh luận về khả năng áp dụng trách nhiệm xã hội vào
các nước đang phát triển như Việt Nam.
- Mục tiêu chung của nghiên cứu này: kiểm tra các mối quan hệ giữa trách
nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, và rủi ro công ty bằng việc áp dụng phương pháp
phân tích nội dung để phát triển chỉ số trách nhiệm xã hội (CSR) trên cơ sở đó, kiểm
tra mức độ thực hành CSR cho các công ty niêm yết Việt Nam và đo lường các mối
quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính.
- Mục tiêu cụ thể:

(1) Tính toán và đo lường chỉ số trách nhiệm xã hội sau đó sử dụng chỉ số CSR
này kiểm tra các mối quan hệ giữa chỉ số trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, và
rủi ro công ty.
(2) Kiểm tra mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và các khía cạnh trách nhiệm
xã hội với hiệu quả tài chính của các công ty niêm yết Việt Nam.
(3) Kiểm tra mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và rủi ro công ty.

7


(4) Xem xét hiệu quả tài chính giữa các công ty niêm yết có công bố trách
nhiệm xã hội so với các công ty niêm yết khác không công bố trách nhiệm xã hội.
1.5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.5.1. Đối tượng nghiên cứu: trách nhiệm xã hội, hiệu quả tài chính, rủi ro công
ty và các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, và rủi ro công ty.
1.5.2. Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu này được thực hiện dựa vào các công ty niêm yết trên thị trường
chứng khoán Việt Nam (chia thành hai nhóm gồm các công ty niêm yết có công bố
CSR và nhóm các công ty niêm yết không công bố CSR) giai đoạn 2012 – 2016, để
hoàn thành hai kiểm tra thực nghiệm. Một là, khảo sát việc thực hành trách nhiệm xã
hội của các công ty niêm yết; hai là, kiểm tra các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội
và hiệu quả tài chính, và rủi ro công ty đồng thời so sánh hiệu quả tài chính giữa các
công ty niêm yết có công bố trách nhiệm xã hội và các công ty niêm yết không công
bố trách nhiệm xã hội.
Trong phần kiểm tra thực nghiệm đầu tiên được chia thành hai bước: một là,
dựa trên phân tích nội dung báo cáo thường niên, báo cáo bền vững và các websites có
nội dung bền vững của các công ty niêm yết để phát triển chỉ số trách nhiệm xã hội
bao gồm bốn phương diện (khía cạnh): trách nhiệm với môi trường, với người lao
động, với cộng đồng và với sản phẩm/khách hàng. Sau đó dùng chỉ số CSR được phát
triển để kiểm tra mức độ thực hành trách nhiệm xã hội và đo lường các mối quan hệ

giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, và rủi ro công ty; hai là, xác định các
biến đại diện cho hiệu quả tài chính, các biến kiểm soát và thu thập dữ liệu cho các
biến này.
Trong phần kiểm tra thực nghiệm thứ hai sử dụng mô hình kinh tế lượng và các
kiểm tra kỹ thuật để kiểm tra các mối quan hệ trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài
chính, và rủi ro công ty, so sánh hiệu quả tài chính giữa các công ty niêm yết có công
bố CSR và các công ty niêm yết không công bố CSR.
1.6. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp sử dụng trong nghiên cứu này được dựa trên các tài liệu hiện nay
về trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính. Các thành phần chính của phương pháp
được sử dụng như sau:

8


Một là, phát triển khung nghiên cứu; thiết kế mẫu nghiên cứu và thu thập dữ
liệu cho nghiên cứu.
Hai là, sử dụng phương pháp phân tích nội dung để phát triển chỉ số trách
nhiệm xã hội phù hợp với bối cảnh Việt Nam, và để đo lường việc thực hành trách
nhiệm xã hội của các công ty niêm yết bằng cách thu thập dữ liệu thứ cấp từ báo cáo
thường niên, báo cáo bền vững và websites của các công ty niêm yết có công bố thông
tin trách nhiệm xã hội. Đồng thời, xác định các biến đo lường đại diện cho hiệu quả tài
chính, rủi ro công ty và thu thập dữ liệu cho biến hiệu quả tài chính và rủi ro công ty
từ báo cáo tài chính của các công ty niêm yết.
Ba là, xây dựng mô hình hồi quy cụ thể để đo lường các mối quan hệ giữa
trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính và rủi ro công ty trong nghiên cứu.
Bốn là, sử dụng các mô hình kinh tế lượng (Pooled OLS, FEM, REM) và các
kiểm tra kỹ thuật phù hợp để kiểm tra các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và
hiệu quả tài chính, và rủi ro công ty trong nghiên cứu.
Cuối cùng, các kết quả từ phân tích thực nghiệm sẽ được giải thích và được

phân tích. Các kết quả ban đầu từ nghiên cứu được so sánh với kết quả từ các nghiên
cứu khác để giải thích mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu.
1.7. Ý nghĩa của nghiên cứu
Các nghiên cứu hiện nay đã có những đóng góp thiết thực đáng kể cho lĩnh vực
trách nhiệm xã hội vì nó chứa các hiệu quả kinh tế cũng như hỗ trợ việc áp dụng các
chiến lược và chính sách trách nhiệm xã hội thích hợp. Hiệu quả kinh tế đạt được từ
các kết quả phân tích hồi quy, và các chiến lược và chính sách trách nhiệm xã hội đã
được xác định từ sự phát triển của các chỉ số trách nhiệm xã hội. Phần lớn các nghiên
cứu hiện có về mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính đã tập trung
vào quan điểm của các nước phương Tây (Mỹ, Anh và Úc). Các tài liệu đã nhấn mạnh
rằng một khung nghiên cứu trách nhiệm xã hội thích hợp là một yếu tố quan trọng
trong việc đảm bảo các chính sách và nguyên tắc trách nhiệm xã hội ở các nước đang
phát triển (Rathnasiri, 2003; Fernando, 2008; Moon, 2002). Hiện nay các nhà nghiên
cứu về trách nhiệm xã hội như McWilliams và cộng sự (2006), Rodríguez và cộng sự
(2006) đã chỉ trích các nghiên cứu về trách nhiệm xã hội là những lời tuyên bố kém vì
không có định nghĩa được chấp nhận, thiếu vận hành và thước đo được chấp nhận.

9


Nghiên cứu này cố gắng khắc phục những vấn đề trên bằng cách phát triển
khung nghiên cứu trách nhiệm xã hội phù hợp với bối cảnh ở Việt Nam. Ngoài ra,
khung nghiên cứu trách nhiệm xã hội có thể được sử dụng như là một công cụ để tiếp
tục các nghiên cứu trách nhiệm xã hội và ra quyết định đối với các nhà nghiên cứu
trong tương lai. Hơn nữa, quá trình phát triển khung nghiên cứu trách nhiệm xã hội có
thể hữu ích cho việc quản lý cũng như các bên liên quan để giúp họ hiểu được các
khái niệm trách nhiệm xã hội (Carroll, 2004; Maon và cộng sự, 2009).
Mặt khác, như đã đề cập nhiệm vụ khó khăn nhất cho các nghiên cứu trách
nhiệm xã hội là đo lường hiệu quả trách nhiệm xã hội. Wood (2010), có một số nghiên
cứu trách nhiệm xã hội đã sử dụng nhiều thước đo trách nhiệm xã hội khác nhau

nhưng các nghiên cứu này không thể được phân thành các nguyên tắc, quy trình hoặc
kết quả. Điều này có nghĩa việc lượng hóa khái niệm trách nhiệm xã hội là rất quan
trọng vì nó sẽ giúp các nhà nghiên cứu đo lường được các mối quan hệ giữa trách
nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, và cho phép sự minh bạch giữa nhà quản lý và các
bên liên quan. Abbott (1979) nêu hai vấn đề chính về đo lường trách nhiệm xã hội cho
các nghiên cứu trong lĩnh vực trách nhiệm xã hội: (i) việc thiếu các dữ liệu định lượng
các hoạt động xã hội và (ii) khó khăn của các phương pháp được sử dụng bởi các học
giả để nhận ra những hiệu ứng đầy đủ của xã hội. Bởi vì, sử dụng các con số định
lượng có thể nhận ra hiệu quả trách nhiệm xã hội của công ty. Kết quả là, nhà quản lý
có thể đưa ra quyết định mà những quyết định này sẽ làm giảm xung đột giữa các tổ
chức và nhân viên, cộng đồng và khách hàng của mình. Do vậy, việc lượng hóa trách
nhiệm xã hội thông qua việc phát triển chỉ số trách nhiệm xã hội của nghiên cứu này
sẽ bổ sung đáng kể cho các tài liệu về trách nhiệm xã hội hiện nay trong bối cảnh Việt
Nam.
Cuối cùng, như đã nêu, mục tiêu chính của nghiên cứu này là kiểm tra các mối
quan hệ tổng thể giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, và rủi ro công ty khi
mà có tương đối hạn chế các nghiên cứu thực nghiệm tương tự được thực hiện trước
đó ở Việt Nam. Điều này sẽ hỗ trợ và khuyến khích các công ty tăng cường đầu tư cho
các hoạt động trách nhiệm xã hội và làm nền tảng cho các nghiên cứu tương lai về các
mối quan hệ này. Như vậy, nghiên cứu này đã có đóng góp tốt đối với thực hành trách
nhiệm xã hội của các công ty niêm yết trong bối cảnh Việt Nam.
1.8. Bố cục nghiên cứu

10


Nghiên cứu này bao gồm năm chương. Các chương này giới thiệu về các chủ
đề và cung cấp kiến thức nền tảng cho nghiên cứu. Nó bao gồm một thiết kế cho các
mục tiêu và phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu.
Chương 2: Thảo luận về các lý thuyết và các tài liệu thực nghiệm liên quan

đến trách nhiệm xã hội, hiệu quả tài chính, rủi ro công ty và các mối quan hệ giữa
trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính và rủi ro công ty. Chương này bắt đầu với
việc thảo luận về khái niệm trách nhiệm xã hội, các lý thuyết chính liên quan trách
nhiệm xã hội, lý do tại sao phải đầu tư cho trách nhiệm xã hội và lợi ích của trách
nhiệm xã hội mang lại cho các tổ chức. Sau đó tổng quan các vấn đề về mối quan hệ
thực nghiệm giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính ở các nước phát triển, các
nước đang phát triển và Việt Nam. Tiếp theo, xem xét mối quan hệ giữa trách nhiệm
xã hội và rủi ro công ty. Kế tiếp xem xét hiệu quả tài chính giữa công ty có công bố
trách nhiệm xã hội và công ty không công bố trách nhiệm xã hội. Cuối cùng, xác định
“gaps” trong nghiên cứu. Từ những nền tảng lý luận này, hình thành giả thuyết nghiên
cứu và khung nghiên cứu chung để sử dụng trong nghiên cứu án này.
Chương 3: Thảo luận về dữ liệu và phương pháp nghiên cứu. Đầu tiên, giải
thích khung nghiên cứu và mô tả việc phát triển khung nghiên cứu để hiểu được
những ảnh hưởng của các biến lên hiệu quả tài chính. Tiếp theo liên quan đến lựa
chọn mẫu nghiên cứu, việc lựa chọn và đo lường các biến, xây dựng mô hình hồi quy
để kiểm tra các mối quan hệ, và lựa chon các mô hình kinh tế lượng và các kiểm tra
kỹ thuật sử dụng trong nghiên cứu.
Chương 4: Giải thích các kết quả nghiên cứu chính của nghiên cứu. Chương
này thảo luận các kỹ thuật phân tích được đề cập trọng trong Chương 3 dựa trên các
giả thuyết nghiên cứu trong Chương 2 thông qua ba bước để đạt mục tiêu nghiên cứu:
(i) sử dụng phân tích nội dung, (ii) thống kê mô tả, (iii) hệ số tương quan, (iv) giải
thích kết quả phân tích hồi quy về các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu
quả tài chính và rủi ro công ty.
Chương 5: Kết luận. Cụ thể, Chương này đưa ra một vài kiến nghị, hàm ý
chính sách, những hạn chế và đề xuất cho các hướng nghiên cứu tương lai.

11


CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT

2.1. Giới thiệu
Chương 2 giới thiệu các lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm liên quan đến
trách nhiệm xã hội và các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội với hiệu quả tài chính
và rủi ro. Thứ nhất, nội dung bao gồm định nghĩa về trách nhiệm xã hội, hiệu quả tài
chính và rủi ro công ty. Thứ hai, các lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm về mối quan
hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, về mối quan hệ giữa trách nhiệm xã
hội và rủi ro công ty để có một sự hiểu biết sợ bộ về các mối quan hệ này trong thực
tế.
Nhiều nghiên cứu đã hướng đến việc xác định các cơ chế của trách nhiệm xã
hội và làm thế nào trách nhiệm xã hội liên quan đến việc làm tăng lợi thế cạnh tranh.
Ví dụ, các nhà nghiên cứu đã cố gắng xác định các tác động của trách nhiệm xã hội
lên các bên liên quan khác nhau, chẳng hạn như nhân viên, khách hàng và xã hội. Một
số nghiên cứu đã điều tra làm thế nào các hoạt động trách nhiệm xã hội của công ty
ảnh hưởng đến lợi nhuận của nó (Waddock và Graves, 1997; Luo và Bhattacharya,
2006) đã lập luận rằng trách nhiệm xã hội làm tăng doanh thu và giảm chi phí (Cruz
và Wakolbinger, 2008; Maloni và Brown, 2006). Các nhà nghiên cứu khác (Ruf và
cộng sự, 2001; Griffin và Mahon, 1997) đã chỉ ra rằng việc cải thiện trách nhiệm xã
hội sẽ dẫn đến hiệu quả tài chính cao hơn, cho dù hiệu quả này là do giảm chi phí hoặc
tăng doanh thu. Friedman (1970), trách nhiệm chính của công ty là tối đa hóa sự giàu
có của cổ đông. Garriga và Melé (2004), tối đa hóa giá trị của cổ đông phù hợp với sự
thỏa mãn lợi ích nhất định của những người trong tổ chức và họ cũng nói rằng các
công ty nhận được nhiều lợi ích qua việc đầu tư vào các nhu cầu xã hội và "việc đầu
tư vào các hoạt động từ thiện có thể là cách duy nhất để cải thiện lợi thế cạnh tranh
của một công ty". Ngoài ra, từ quan điểm của lý thuyết các bên liên quan, trách nhiệm
xã hội có thể được đánh giá trong điều kiện của một công ty đáp ứng nhu cầu của
nhiều bên liên quan. Ruf và cộng sự (2001) cho rằng đã có nhiều cách tiếp cận khác
nhau để "thỏa mãn yêu cầu các bên liên quan, đi từ giảm thiểu chi phí đến tối đa hóa
xã hội. Bằng cách đầu tư có chiến lược vào nhu cầu các bên liên quan, công ty đạt
được lợi thế cạnh tranh bằng việc phát triển thêm các kỹ năng bổ sung mà đối thủ
cạnh tranh gần như không thể bắt chước".


12


Các phần tiếp theo được trình bày như sau. Mục 2.2, trách nhiệm xã hội doanh
nghiệp (CSR). Mục 2.3, hiệu quả tài chính công ty (CFP). Mục 2.4, các quan điểm lý
thuyết về trách nhiệm xã hội. Mục 2.5, các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ
giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính. Mục 2.6, mối quan hệ giữa trách nhiệm
xã hội và rủi ro công ty. Mục 2.7, xác định khoảng trống nghiên cứu. Mục 2.8, giả
thuyết nghiên cứu. Cuối cùng, phần tóm tắt Chương 2.
2.2. Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (Corporate social responsibility CSR)
2.2.1. Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (CSR)
2.2.1.1. Định nghĩa
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về trách nhiệm xã hội. Mỗi doanh nghiệp, tổ
chức, chính phủ nhìn nhận CSR dưới những góc độ riêng và quan điểm riêng, phụ
thuộc vào điều kiện, đặc điểm và trình độ phát triển của mình. Keith Davis (1973) đưa
ra một khái niệm khá rộng: “CSR là sự quan tâm và phản ứng của doanh nghiệp với
các vấn đề vượt ra ngoài việc thỏa mãn những yêu cầu pháp lý, kinh tế, công nghệ”.
Trong khi đó, Caroll (1999) cho rằng trách nhiệm xã hội còn có phạm vi lớn hơn “là
tất cả các vấn đề kinh tế, pháp lý, đạo đức và những lĩnh vực khác mà xã hội trông đợi
trong mỗi thời điểm nhất định”.
Theo Matten và Moon (2004): “CSR là một khái niệm bao gồm nhiều khái
niệm khác như đạo đức kinh doanh, doanh nghiệp làm từ thiện, công dân doanh
nghiệp, tính bền vững và trách nhiệm môi trường. Đó là khái niệm động và luôn được
thử thách trong từng bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội đặc thù”.
Theo Ủy ban Kinh tế Thế giới về phát triển bền vững: “Trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp là sự cam kết của doanh nghiệp nhằm đóng góp cho phát triển kinh tế
bền vững thông qua những hoạt động nhằm nâng cao chất lượng đời sống của người
lao động và các thành viên gia đình họ, cho cộng đồng và cho toàn xã hội theo cách có
lợi cho cả doanh nghiệp cũng như sự phát triển chung của xã hội”.

Như vậy, khái niệm trách nhiệm xã hội theo thời gian đã mở rộng đối tượng
ảnh hưởng của mình ra nhiều doanh nghiệp và tổ chức liên quan. Các doanh nghiệp đó
phải quan tâm tới việc các hoạt động của mình có ảnh hưởng như thế nào tới các vấn
đề xã hội xung quanh như với cộng đồng (quyền con người, các vấn đề về lao
động…), bảo vệ môi trường… Tuy nhiên, sau rất nhiều định nghĩa về trách nhiệm xã

13


hội thì khái niệm của Ủy ban Kinh tế Thế giới về phát triển bền vững cho thấy rõ hơn
bản chất của trách nhiệm xã hội. Do đó, nghiên cứu thống nhất với khái niệm của Ủy
ban Kinh tế Thế giới về phát triển bền vững.
2.2.1.2. Các cách tiếp cận trách nhiệm xã hội
Mặc dù hiện nay trách nhiệm xã hội là một vấn đề tương đối phổ biến. Song,
trên thực tế, còn có nhiều cách tiếp cận khác nhau về nội dung và phạm vi của trách
nhiệm xã hội, dưới đây là một số cách tiếp cận phổ biến:
Tiếp cận theo mô hình “Kim tự tháp” của A. Carroll (1999)
Mô hình này có tính toàn diện và được sử dụng rộng rãi nhất. Mô hình “Kim tự
tháp” của A. Carroll thể hiện rõ nhất và bao quát nhất các lĩnh vực quan tâm của trách
nhiệm xã hội.

Hình 2.1: Mô hình “kim tự tháp trách nhiệm xã hội (Nguồn: Carroll Archie, 1999)
Theo mô hình trên, trách nhiệm xã hội bao gồm trách nhiệm kinh tế, trách
nhiệm pháp lý, trách nhiệm đạo đức và trách nhiệm từ thiện. Ranh giới giữa các tầng
trong “Kim tự tháp” là không rõ ràng, tác động lẫn nhau. Việc tuân thủ quy định pháp
luật chắc chắn đưa đến các chi phí kinh tế cho tổ chức. Và quy tắc đạo đức xã hội
ngoài luật luôn mở rộng (theo trình độ phát triển của xã hội), tạo áp lực lên hệ thống
pháp luật, bắt buộc các nhà làm luật phải luôn bám sát thực tiễn xã hội.
Bên cạnh đó, một số tác giả cho rằng: trách nhiệm xã hội có thể tiếp cận ở
nhiều góc độ khác nhau và bao trùm nhiều khía cạnh. Ngoài cách tiếp cận theo mô

hình “Kim tự tháp” của A. Carroll, các tổ chức có thể tiếp cận theo các bên liên quan.
Tiếp cận theo các bên liên quan
Các bên liên quan, ảnh hưởng và hưởng lợi của việc thực thi trách nhiệm xã hội
có thể bao gồm: Cổ đông/chủ sở hữu doanh nghiệp, người lao động, đối tác, khách
hàng, cộng đồng và các đối tượng khác như cơ quan quản lý, các hiệp hội hay các tổ
chức phi lợi nhuận hay các tổ chức quốc tế (Matten và Moon, 2005).

14


Theo hình 2, trách nhiệm xã hội đồng nghĩa với việc doanh nghiệp tổ chức hoạt
động kinh doanh có trách nhiệm đối với người lao động, có trách nhiệm bảo vệ môi
trường, trách nhiệm đóng góp cho lợi ích cộng đồng, trách nhiệm đối với khách hàng,
nhà cung ứng.

Hình 2.2: Các đối tượng tác động của trách nhiệm xã hội
Các nội dung thực thi trách nhiệm xã hội và các mức độ quan tâm của các bên
liên quan đến việc thực thi trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp được tóm tắt trong
bảng sau.
Bảng 2.1: Mức độ quan tâm của các bên liên quan đối với trách nhiệm xã hội
Chủ sở

Khách

Người lao

Cộng

Cơ quan


hữu

hàng

động

đồng

quản lý

Trách nhiệm_ kinh tế

1

4

2

3

5

Trách nhiệm_ pháp lý

3

2

1


4

5

Trách nhiệm_ đạo đức

4

1

2

3

5

Trách nhiệm_ từ thiện

3

4

2

1

5

Nội dung


Các số từ 1 đến 5 chỉ thứ tự quan tâm của từng bên liên quan đến các nội dung trách
nhiệm xã hội. (Nguồn: Carroll và Buchholtz, 2003)
Như vậy, qua bảng trên có thể thấy rằng tùy thuộc vào mục tiêu của từng đối
tượng cụ thể mà các khía cạnh trách nhiệm xã hội sẽ được nhận thức theo từng mức
độ khác nhau. Đối với chủ sở hữu công ty, họ luôn xem trách nhiệm kinh tế là mực
tiêu quan tâm hàng đầu đối với họ vì lợi ích của cổ đông và chính bản thân công ty.
Trong khi khách hàng luôn đặt vấn đề đạo đức của công ty vào sản phẩm họ sản xuất
và cung cấp trên thị trường là mối quan tâm chính, thì người lao động lại xem trách
nhiệm thực thi pháp luật của công ty đối với họ lại là vấn đề thiết yếu để bảo vệ quyền

15


và lợi ích của chính bản thân cũng như gia đình của họ. Đối với cộng đồng, luôn đề
cao các hoạt động tham gia từ thiện của các công ty, doanh nghiệp thông qua các hoạt
động như bảo vệ môi trường, đóng góp, ủng hộ, tài trợ, quyên góp, giúp đỡ các đối
tượng gặp khó khăn, thiên tai.v.v… là vấn đề quan trọng bởi vì ngoài trách nhiệm với
cơ quan chủ quản thông qua việc đóng thuế thì các công ty, doanh nghiệp cũng cần có
trách nhiệm với cộng đồng xung quanh nơi họ đặt cơ sở hạ tằng để thực hiện các hoat
động sản xuất kinh doanh. Cuối cùng, các cơ quan chủ quản, họ xem cả bốn trách
nhiệm trên đều quan trọng và thiết yếu mà bất kỳ một công ty, một doanh nghiệp hay
một bên liên quan nào cũng cần có để đảm bảo lợi ích chung cho toàn xã hội.
Tiếp cận chuỗi giá trị
Theo cách tiếp cận này, Michael Porter và Kramer (2006) và các nhà nghiên
cứu đã xây dựng chiến lược thực hiện trách nhiệm xã hội gắn liền với những yêu cầu
thực thi trách nhiệm xã hội bắt buộc và tự nguyện. Nó có thể trở thành một bộ phận
trong chiến lược của tổ chức nếu tổ chức thực sự quan tâm, hiểu được vai trò của trách
nhiệm xã hội trong thực hiện các mục tiêu của mình.
Bảng 2.2: Cách tiếp cận chuỗi giá trị
Chuỗi giá trị

Các vấn đề liên quan đến trách nhiệm xã hội
Các hoạt động hỗ trợ
Cơ sở hạ tầng (các mối quan hệ Thực hành các báo cáo tài chính trung thực; Đảm
về tài chính, kế hoạch, đầu tư)
bảo sự minh bạch hóa; Thúc đẩy thay đổi chính
sách;…
Quản trị nguồn nhân lực (tuyển Đào tạo và tập huấn công việc cho người lao động;
dụng, đào tạo, hệ thống đãi Đảm bảo điều kiện làm việc an toàn; Đánh giá đúng
ngộ,...)
sự đa dạng và phân biệt hóa; Quan tâm chăm sóc
sức khỏe và các lợi ích khác; Có chế độ đãi ngộ đối
với người lao động; Có chế độ khi người lao động
nghỉ việc,;…
Phát triển công nghệ (thiết kế Duy trì các mối quan hệ với các cơ sở đào tạo;
sản phẩm, thiết kế quy trình, Nghiên cứu về các giá trị đạo đức; Sản xuất các
nghiên cứu vật tư, nghiên cứu sản phẩm an toàn cho người tiêu dùng; Sử dụng các
thị trường,…)
nguồn nguyên liệu bền vững; Sử dụng các nguồn
nguyên liệu và sản xuất các sản phẩm tái chế.
Mua sắm (vật tư , máy móc, Mua sắm và thực hiện chuỗi cung ứng sạch (tránh
dịch vụ ngoài)
các vấn đề liên quan đến hành vi bất minh trong
mua bán, sử dụng các lao động trẻ em,…); Sử dụng
các nguồn nguyên liệu đặc biệt (lông thú,..); Tối đa

16


hóa nguồn lực tự nhiên
Tác nghiệp trực tiếp

Logistic mua (nhập kho nguyên
liệu và quản lý kho, cơ sở dữ
liệu, dịch vụ,...)
Vận hành (tạo sản phẩm, dịch
vụ…)

Ảnh hưởng của việc vận chuyển (hiệu ứng nhà kính,
tắc nghẽn đường…)

Bức xạ và chất thải; Ảnh hưởng đến sinh thái và đa
dạng sinh học; Sử dụng năng lượng và nước sạch;
Điều kiện an toàn trong lao động và quan hệ với
người lao động; Nguồn vật liệu nguy hiểm
Logistic bán (nhận đơn hàng, Đóng gói rác thải; Các ảnh hưởng của vận chuyển
phân phối sản phẩm, dịch vụ)
Marketing và bán (bán, khuyến Các hoạt động marketing và quảng cáo (đảm bảo
mại, quảng cáo, …)
quảng cáo trung thực, chú ý các hoạt động quảng
cáo cho trẻ em,…); Chính sách giá (không lũng loạn
giá, quan tâm đến chính sách giá đối với người
nghèo,…); Thông tin trung thực cho người tiêu
dùng;…
Dịch vụ sau khi bán (hỗ trợ Loại bỏ sản phẩm cũ; Đảm bảo việc thay thế và vận
khách hàng; giải quyết các phàn hành cho khách hàng (dầu máy ô tô, mực in…);
nàn của khách; sửa chữa, thay Đảm bảo sự an toàn thông tin của khách hàng
thế, …)
Giá trị gia tăng
(Nguồn: Porter và Kramer, 2006)
2.2.2. Đo lường trách nhiệm xã hội (CSR)
Các tài liệu trách nhiệm xã hội cho thấy có nhiều thách thức trong việc đo

lường hiệu quả xã hội của công ty (Graves và Waddock, 1994). Trong thực tế, do các
định nghĩa khác nhau về trách nhiệm xã hội nên thiếu sự đồng thuận trong cách đo
trách nhiệm xã hội. Abbott và Monsen (1979) nói rằng có hai khó khăn cơ bản trong
việc đo lường trách nhiệm xã hội liên quan đến mục đích nghiên cứu. Việc đầu tiên
trong số này là việc thiếu thông tin định lượng về các hoạt động xã hội. Để khắc phục
điều này, họ cho rằng đối với mục đích nghiên cứu các hoạt động trách nhiệm xã hội
phải được đo và được báo cáo thống nhất thông qua phân tích thống kê bởi một số
lượng lớn các công ty. Khó khăn thứ hai là phát triển một phương pháp phù hợp để đo
lường toàn bộ tác động của các hoạt động xã hội của công ty lên phạm vi xã hội rộng
lớn hơn.
Nhiều học giả đã đo trách nhiệm xã hội theo những cách khác nhau. Griffin và
Mahon (1997) nghiên cứu mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính

17


khi sử dụng một thước đo duy nhất của hiệu quả xã hội - ô nhiễm môi trường. Ví dụ
khác về các thước đo khác nhau của trách nhiệm xã hội bao gồm sử dụng xếp hạng tài
chính và các chỉ số được phát triển như: KLD Kinder, Lydenberg, Domini và Co
(Waddock và Graves 1997), trong đó điều tra một loạt các nguồn và sử dụng các tiêu
chí định lượng để xác định các giá trị phù hợp; Vigeo của Châu Âu (Vermeir và cộng
sự, 2005); cơ sở dữ liệu đầu tư xã hội Canada (Canadian Social Investment Database CSID) (Mahoney và Roberts 2007); bộ dữ liệu doanh nghiệp Monitor CSP cho các
công ty Úc (Kristoffersen và cộng sự, 2005); Toxics Release Inventory (TRI), trong
đó chỉ tập trung vào một vài ngành công nghiệp; công dân doanh nghiệp tốt (Best
Corporate Citizens). Gần đây, STRING Consultants đã phát triển một chỉ số CSR cho
các công ty Sri Lanka (Anthonisz, 2011). Saleh và cộng sự (2008) giải thích rằng
những đánh giá được "dựa trên tỷ trọng bằng nhau của bảy tiêu chí. Bảy tiêu chí bao
gồm lợi nhuận trung bình của cổ đông trong ba năm và điểm trung bình trên sáu thước
đo hiệu quả xã hội được báo cáo bởi một công ty nghiên cứu đầu tư xã hội đáng tin
cậy" (Murphy và Poist 2002, trang 6).

Hiện nay, nhiều hệ thống đo lường trách nhiệm xã hội được sử dụng bởi các
nhà nghiên cứu. Các hệ thống đo lường được biết như là các chỉ số chủ quan. Các chỉ
số đầu tiên là khảo sát của sinh viên kinh doanh (Heinz, 1976), giảng viên kinh doanh
(Moskowitz, 1972) hoặc thậm chí các bảng xếp hạng tài sản (McGuire và cộng sự,
1988). Các nghiên cứu khác đã sử dụng công cụ điều tra buộc phải lựa chọn (Aupperle
và cộng sự, 1985; Aupperle, 1991), chỉ số uy tín của công ty (McGuire và cộng sự,
1988.) và phân tích nội dung của văn bản (Wolfe, 1991) như các công cụ đo lường
trong nghiên cứu trách nhiệm xã hội. Ngoài ra, một số chỉ số trách nhiệm xã hội khác
nhau cũng có sẵn (Hopkins 2005) chẳng hạn như các chỉ số cộng đồng doanh nghiệp
(Business in the Community - BITC), chỉ số FTSE4Good, chỉ số Bền vững Dow Jones
(Dow Jones Sustainability Index - DJSI), đạo đức kinh doanh 100, xếp hạng trách
nhiệm (AA), báo cáo Sáng kiến toàn cầu (GRI) và chỉ số KLD (Graves và Waddock,
1994). Thật không may, các phép đo trách nhiệm xã hội sử dụng thông thường không
thể áp dụng trực tiếp vào các nghiên cứu của các nước đang phát triển (Hopkins,
2005) bởi vì các thước đo này dựa trên các công ty của các nước phát triển (Fortune
500 công ty) và các tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội quốc tế (Pháp luật Lao động Quốc
tế).

18


Do đó, các nhà nghiên cứu ở các nước đang phát triển thường sử dụng dữ liệu
thứ cấp để đo hiệu quả trách nhiệm xã hội từ các cuộc điều tra khác nhau. Theo
Ghauri và Gronhaug, (2005) - "Dữ liệu thứ cấp là hữu ích không chỉ để tìm thông tin
để giải quyết vấn đề nghiên cứu mà còn để hiểu rõ hơn và giải thích vấn đề nghiên
cứu của chúng tôi". Ngược lại với các xếp hạng tài chính, dữ liệu thứ cấp cung cấp
một cách tiếp cận bổ sung cho trách nhiệm xã hội vì chúng đều được dựa trên các hoạt
động thực tế của công ty mà không có sự đánh giá từ các cơ quan khác. Do đó, thước
đo phổ biến nhất đối với trách nhiệm xã hội sẽ là chỉ số trách nhiệm xã hội, được trích
xuất từ các dữ liệu thứ cấp. Vì vậy, nghiên cứu này sử dụng dữ liệu thứ cấp để định

lượng chỉ số trách nhiệm xã hội bằng cách sử dụng báo cáo thường niên và báo cáo
bền vững thông qua phương pháp phân tích nội dung.
2.2.3. Tại sao phải đầu tư cho trách nhiệm xã hội (CSR)?
Khái niệm trách nhiệm xã hội đang phát triển liên tục do sự tương tác với
những ảnh hưởng bên trong và bên ngoài. Silberhorn và Warren (2007) cho rằng khái
niệm trách nhiệm xã hội phát triển để đáp ứng với sự tương tác giữa các giá trị tổ chức
và ảnh hưởng bên ngoài. Các giá trị quan trọng của một tổ chức có thể được mô tả như
là tài nguyên, văn hóa và cấu trúc của nó (Wheelen và Hunger, 2002).
Một số nghiên cứu đã đề xuất rằng mặc dù các yếu tố bên trong đã được thảo
luận ở trên, các tổ chức chủ yếu phản ứng đối với trách nhiệm xã hội từ áp lực bên
ngoài chứ không phải bên trong để xác định trách nhiệm xã hội (L'Etang, 1994;
Vogel, 2005). Ví dụ, trong môi trường xã hội và kinh doanh hiện tại, có một nhu cầu
ngày càng tăng của công chúng đối với các nhà lãnh đạo của tổ chức bao gồm các vấn
đề xã hội như là một phần trong chiến lược của họ (Lantos, 2001). Các nhà quản lý
thường xuyên phải chịu áp lực từ các bên liên quan khác nhau trong việc phân bổ
nguồn lực tài chính cho các hoạt động trách nhiệm xã hội. Các áp lực đến từ các bên
liên quan như: người lao động, người tiêu dùng, cộng đồng và các nhóm môi trường
(McWilliams và Siegel 2001) được thảo luận dưới đây:
2.2.3.1. Áp lực từ người lao động
Những áp lực từ các nhân viên được thảo luận bởi Musah (2008) bao gồm sự
nhìn nhận ngày càng tăng của công chúng về các quyền lợi nhất định của nhân viên tại
nơi làm việc, không phân biệt đối xử trong tuyển dụng, sa thải và thăng cấp. Matten
và Moon (2008) cho rằng trách nhiệm xã hội đã giải quyết rõ ràng các vấn đề như tiền

19


lương công bằng, giờ và điều kiện làm việc, chăm sóc sức khỏe, dự phòng và bảo vệ
chống lại sa thải bất công. Các ví dụ quan trọng khác về áp lực từ người lao động
được xem như là chỉ số uy tín của trách nhiệm xã hội (KLD). Các khía cạnh bao gồm

các vấn đề tại nơi làm việc và “nhân viên là quan hệ lao động”, quyền lợi nhân viên và
nhân viên tham gia. KLD sử dụng các vấn đề về người lao động cho mục đích đo
lường trách nhiệm xã hội (Graves và Waddock, 1994; Sharfman, 1996; Turban và
Greening, 1997).
Các nước phát triển như Anh và Đức có nhiều mối quan tâm về sức khỏe của
người lao động, an ninh xã hội và sự đóng góp vào dịch vụ y tế quốc gia của họ thông
qua thuế (Matten và Moon, 2008). Phân tích của Aguilera và cộng sự (2007) cho thấy
nhận thức về trách nhiệm xã hội định hình thái độ và hành vi của nhân viên đối với
công ty và nhấn mạnh rằng làm thế nào nhân viên có thể thúc đẩy các công ty tham
gia vào các sáng kiến trách nhiệm xã hội. Trên thực tế, sự công bằng trong nhận thức
ở bất kỳ môi trường làm việc nào đều có một tác động lên phúc lợi của nhân viên (sự
hài lòng trong công việc, căng thẳng và cảm xúc) cộng với sự cân nhắc của tổ chức
như sự vắng mặt và cam kết của nhân viên (Colquitt, 2001). Trên thực tế, khi một tổ
chức tạo một môi trường làm việc không thiên vị, nhân viên rất vui và rất chăm chỉ.
Khi người lao động hạnh phúc thì không khó để thuyết phục họ tham gia làm
tình nguyện viên cho các hoạt động trách nhiệm xã hội của công ty - gọi là nhân viên
tình nguyện. Trung tâm công dân doanh nghiệp tại Đại học Boston (1999) kết luận
rằng nhân viên tình nguyện cung cấp nhiều lợi ích theo ba cách (1) cho các công ty,
(2) cho người lao động và (3) là cộng đồng. Theo Hahn (2003) những lợi ích của hoạt
động tình nguyện “cải thiện mối quan hệ với cộng đồng xung quanh, cải thiện hình
ảnh công cộng, xây dựng một lực lượng lao động gắn kết và năng động, làm tăng hiệu
quả và năng suất lao động, giúp thiết lập và nâng cao uy tín hoặc thương hiệu của
công ty trong các thị trường mới hoặc hiện tại”.
Ở đây điều quan trọng để thảo luận về sự cần thiết của các tổ chức thực hiện
phương pháp trách nhiệm xã hội để tránh đình công hoặc tỷ lệ lao động có thu nhập
cao, cải thiện quan hệ với người lao động và duy trì các thị trường tiêu dùng của các tổ
chức. Collier và Esteban (2007) trong lời giải thích của họ về vai trò của trách nhiệm
xã hội trong việc nâng cao động lực và cam kết của người lao động, cho rằng "việc
cung cấp hiệu quả của các sáng kiến trách nhiệm xã hội và môi trường của công ty


20


phụ thuộc vào phản ứng của nhân viên. Đối với nhân viên để thỏa mãn yêu cầu trách
nhiệm xã hội, họ phải có động lực và cam kết khắc phục những thách thức và đạt được
các mục tiêu của hành vi trách nhiệm công ty”.
2.2.3.2. Áp lực từ người tiêu dùng/khách hàng
Tương tự, áp lực từ người tiêu dùng/khách hàng bao gồm kỳ vọng rằng công ty
sẽ sản xuất các sản phẩm an toàn và cung cấp thông tin cho người tiêu dùng nhiều hơn
(Musah, 2008). Các tổ chức cần phải nhận thức được những nhu cầu của người tiêu
dùng và hành động vì các nhu cầu của họ như một phần trong chiến lược kinh doanh
của mình; ví dụ, các dịch vụ sau khi bán hàng, và các dịch vụ bảo vệ khách hàng.
Nói chung, khách hàng yêu cầu một khoảng thời gian bảo hành cho sản phẩm
mà họ mua, các dịch vụ gia tăng giá trị và khả năng trả lại bất kỳ sản phẩm đã được
mua, nếu nó không đáp ứng được kỳ vọng của họ (Maignan và cộng sự, 2005). Nếu tổ
chức không xem xét nhu cầu của khách hàng, nó sẽ mất thị phần. Do đó, áp lực từ
khách hàng ảnh hưởng đến rủi ro thị trường của tổ chức. Các tài liệu học thuật và quản
lý đã ít cung cấp hướng dẫn để giúp các nhà tiếp thị tích hợp các sáng kiến khác nhau
vào một chương trình quan trọng có thể bao gồm một loạt các trách nhiệm của công
ty. Ví dụ, người ta cho rằng đáp ứng nhu cầu của khách hàng và động viên người lao
động để thỏa mãn sự kỳ vọng của công ty (George, 2003). Nghiên cứu các bên liên
quan cho thấy việc đối xử với khách hàng và nhân viên có ảnh hưởng nhiều lên hiệu
quả tài chính (Berman và cộng sự, 1999). Vì vậy, cách tốt hơn để cải thiện việc đối xử
với khách hàng là áp dụng trách nhiệm xã hội như một chiến lược tiếp thị (Maignan và
cộng sự, 2005).
Smith và Langford (2009) đã chỉ ra rằng "kinh doanh có thể mang lại lợi ích
trách nhiệm xã hội, đặc biệt là lợi ích thương mại do tác động của trách nhiệm xã hội
lên hành vi và thái độ của người tiêu dùng" (p.100). Bhattacharya và Sen (2004) kết
luận rằng người tiêu dùng sẵn sàng trả nhiều tiền hơn cho các sản phẩm của các tổ
chức có trách nhiệm xã hội. Tuy nhiên, nếu công ty bỏ qua nhu cầu tiêu dùng của họ,

hoạt động tẩy chay có thể dẫn đến kết quả xấu và trở thành một vấn đề lớn. Đây là
một trong những biểu hiện của áp lực từ người tiêu dùng. Smith (2003) cho rằng thông
điệp tẩy chay sản phẩm có liên quan đến những phản ứng tiêu cực lớn trên thị trường
chứng khoán. Smith (2003) giải thích rằng "tẩy chay có thể là một ví dụ rõ ràng nhất

21


của một hiện tượng lớn hơn về hành vi tiêu dùng chịu ảnh hưởng bởi nhận thức trách
nhiệm xã hội sai lầm của tổ chức".
2.2.3.3. Áp lực từ cộng đồng
Ngoài việc sản xuất hàng hóa và dịch vụ, xã hội hy vọng rằng các tổ chức sẽ
cung cấp sự an toàn, cải thiện đời sống, việc làm, cơ sở hạ tầng và bảo vệ môi trường
mà không ảnh hưởng đến hoạt động và lợi ích văn hóa (Agarwal, 2008). Sự mong đợi
của xã hội đối với việc cải thiện đời sống bao gồm sự phát triển của giáo dục, y tế, tôn
giáo, chính trị và công nghệ hiện đại. Idemudia và Ite (2006) nói rằng các công ty thực
hành trách nhiệm xã hội chủ yếu nhắm đến mục tiêu xóa đói giảm nghèo, công tác
phòng chống vi phạm quyền con người và bảo vệ môi trường. Những kỳ vọng này
khác nhau đối với từng nền văn hóa. Mong đợi của xã hội và mong đợi của tổ chức
khá khác nhau. Sự không phù hợp này đặt áp lực lên các tổ chức, vì nếu những mong
đợi của người tiêu dùng không được thỏa mãn, cộng đồng có thể cấm sản phẩm của
công ty và thực thi nhiều chế tài. Tuy nhiên, Idemudia và Ite (2006) nói rằng ngay cả
khi các công ty tham gia vào các hoạt động trách nhiệm xã hội tốt như đầu tư cho hoạt
động từ thiện và xã hội, phân bổ thêm nguồn vốn cho phát triển cộng đồng, người dân
vẫn tham gia vào các cuộc xung đột với các tổ chức. Newell (2005) đã chứng minh
bằng trường hợp của các ngành công nghiệp khai thác mỏ, lý do các cuộc xung đột là
thiếu sự đại diện của cộng đồng trong việc thiết lập các quy tắc và quy định.
2.2.3.4. Áp lực từ môi trường
Hoạt động của các công ty gây ô nhiễm môi trường và thậm chí gây ra các cuộc
khủng hoảng. Các nhà nghiên cứu khác (Brown và cộng sự, 1989; Clark, 1989; Pryde,

1992) thảo luận về các thiệt hại môi trường như sự suy giảm ozone do CFC, sự nóng
lên toàn cầu gây ra bởi ô nhiễm công nghiệp trong khí quyển, mưa axit, ô nhiễm
không khí đô thị, chất thải độc hại và hạt nhân, sự tuyệt chủng các nguồn tài nguyên
thiên nhiên và suy giảm đa dạng sinh học (Shrivastava, 1995). Đồng thời, các tổ chức
sử dụng các tài nguyên thiên nhiên đang suy giảm như dầu, nước và khí đốt trong quá
trình sản xuất của họ. Shrivastava (1995) cho rằng việc duy trì một môi trường sạch sẽ
là một trách nhiệm lớn đối với các tổ chức.
2.2.4. Lợi ích khi thực hiện trách nhiệm xã hội (CSR)
Các công ty cần xác định chi phí và lợi ích của trách nhiệm xã hội. Các công ty
đầu tư vốn chủ sở hữu của chúng vào các hoạt động trách nhiệm xã hội, kỳ vọng tối đa

22


hóa lợi nhuận và tối thiểu hóa rủi ro. Tsoutsoura (2004) đã nhấn mạnh điều này và nói
rằng: “trách nhiệm xã hội là đạt được những lợi ích cốt yếu để có được sự bền vững”.
Sự phát triển của khái niệm trách nhiệm xã hội sẽ được thảo luận từ những quan điểm
kinh tế và xã hội. Có một số lợi ích hữu hình và vô hình từ trách nhiệm xã hội đã được
xác định bởi các nhà nghiên cứu (Jenkins, 2006; Grayson và Hodges, 2004; Greening
và Turban, 2000; Orlitzky và cộng sự, 2003). Ngoài ra, các nhà nghiên cứu cho rằng
động lực của nhân viên, và cải thiện hình ảnh công ty có thể là những lợi ích nổi bật
của trách nhiệm xã hội đem lại.
Nhiều lợi ích của trách nhiệm xã hội đã được xác định. Một là, hình ảnh thương
hiệu và uy tín của các công ty thực hiện các hoạt động trách nhiệm xã hội thì cao hơn
so với các công ty không thực hiện trách nhiệm xã hội, hay các công ty thiếu trách
nhiệm xã hội (Jenkins, 2006). Tsoutsoura (2004), một số khía cạnh trách nhiệm xã hội
có thể làm giảm chi phí điều hành của một công ty. Hai là, các công ty có trách nhiệm
xã hội sẽ có ít các rủi ro liên quan đến các sự kiện tiêu cực hiếm có hơn. Kết quả là,
Turban và Greening (1997) cho rằng sự cam kết mạnh mẽ về việc thực hiện trách
nhiệm xã hội làm tăng khả năng thu hút và giữ chân người giỏi cho công ty. Ba là,

thực hành trách nhiệm xã hội dẫn đến tăng năng suất và giảm tỷ lệ lỗi (Tsoutsoura,
2004). Vì vậy, những lợi ích này được kết hợp với sự hài lòng của các bên liên quan.
Ví dụ, hiệu quả tăng năng suất từ việc cải thiện điều kiện làm việc và thực hành lao
động (Tsoutsoura, 2004). Hình ảnh thương hiệu và uy tín là một lợi thế cho các tổ
chức, cho phép các tổ chức tăng vốn và thu hút và giữ chân đối tác kinh doanh của họ.
Một lợi thế nữa của việc thực hành trách nhiệm xã hội là thu hút và giữ được nhân
viên, do đó chi phí tuyển dụng, đào tạo và phát triển của các công ty giảm.
Những lợi ích này đã được xác định trong nhiều nghiên cứu, và đã được sử
dụng trong việc phát triển các khái niệm trách nhiệm xã hội. Các nghiên cứu đã chứng
minh lợi thế của việc cải thiện trách nhiệm xã hội.
Những lợi ích đã được nhấn mạnh bởi nhiều nhà nghiên cứu như làm tăng giá
trị thị trường (Aupperle và cộng sự, 1985; McWilliams và Siegel, 2000), làm giảm rủi
ro (Moore, 2001), động lực thúc đẩy nhân viên (Turban và Greening, 1997), và làm
tăng lòng trung thành của nhân viên và nâng cao uy tín của công ty (Maignan và cộng
sự, 1999).
2.3. Hiệu quả tài chính công ty (Coporate financial performance - CFP)

23


2.3.1. Định nghĩa
Trong chiến lược kinh doanh và quản lý ngày nay, người ta tin rằng hiệu quả
tài chính là một trong những khái niệm quan trọng nhất. Hơn nữa, hiệu quả tài chính
là mục tiêu mà tất cả các công ty phải cải thiện để tồn tại hay để thỏa mãn các bên liên
quan của nó. Mặc dù có một số lượng lớn các tài liệu và nghiên cứu xem xét hiệu quả
tài chính như là biến phụ thuộc chính, nhưng những định nghĩa chính xác và phổ biến
của hiệu quả tài chính vẫn không tồn tại (Richard và cộng sự, 2009). Các nghiên cứu
liên quan đến hiệu quả tài chính cho kết quả khác nhau do thiếu sự đồng thuận, do
cách đo lường khác nhau về hiệu quả tài chính của công ty. Do đó, Glick và cộng sự
(2005) cho rằng các nhà nghiên cứu có xu hướng sử dụng chỉ có một hoặc một số chỉ

số để đại diện cho hiệu quả tài chính.
Trên thực tế, hiệu quả công ty là một khái niệm phức tạp với cấu trúc đa chiều.
Venkatraman và Ramanujam (1987) phân loại hiệu quả công ty thành ba khía cạnh
khác nhau: hiệu quả tài chính, hiệu quả kinh doanh và hiệu quả tổ chức. Hiệu quả tài
chính của một công ty có thể được đánh giá bởi một số chỉ tiêu dựa trên kế toán hoặc
tài chính của công ty đó. Các chỉ số này có xu hướng đo lường lợi nhuận công ty bằng
cách quan sát tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của công ty. Một số biến đại
diện cơ bản cho hiệu quả tài chính có thể là ROA (lợi nhuận trên tài sản), ROE (lợi
nhuận trên vốn chủ sở hữu), và ROS (lợi nhuận trên doanh thu). Ngoài ra, hiệu quả
kinh doanh giữ một vị trí cơ bản trong nghiên cứu quản lý và thực tiễn. Nó có thể
được coi là biện pháp dựa trên thị trường bao gồm cả hiệu quả tài chính và hiệu quả
hoạt động. Một số chỉ số có thể được sử dụng để đo lường hiệu quả kinh doanh: tăng
trưởng doanh thu, thị phần, phát triển sản phẩm, v.v… Hiệu quả tổ chức là một khía
cạnh khác của hiệu quả công ty đại diện cho hiệu quả hoạt động kinh doanh công ty để
đạt được mục tiêu của công ty. Các công ty luôn cố gắng để đạt được hiệu quả công ty
thông qua lãnh đạo, cơ cấu, chất lượng, sự hài lòng của nhân viên công ty, v.v…
2.3.2. Đo lường hiệu quả tài chính
Việc đo lường hiệu quả tài chính rất phổ biến trong các nghiên cứu trách nhiệm
xã hội; tuy nhiên, có rất ít sự đồng thuận về các công cụ đo lường được áp dụng. Các
nghiên cứu trước đây cho rằng hiệu quả công ty có thể được đo lường bằng một trong
hai thước đo là dựa vào kế toán và/hoặc dựa trên thị trường:

24


Dựa vào kế toán: sử dụng các chỉ số kế toán như ROA, ROE hoặc phân tích
tình hình tài chính của doanh nghiệp/công ty (Ruf và cộng sự, 2001; Elsayed và Paton
2005). Các chỉ số này có thể phản ánh hoạt động của công ty ở một góc độ tổng thể
nhưng không quan sát các đặc tính đa quốc gia của quá trình sản xuất của doanh
nghiệp/công ty. Một số thước đo dựa vào kế toán đã được sử dụng để đánh giá hiệu

quả tài chính bao gồm ROE, ROS và ROA (Cochran và Wood, 1984; Aupperle và
cộng sự, 1985; Waddock và Graves, 1997; Stanwick và Stanwick, 1998; Tsoutsoura,
2004). Simpson và Kohers (2002) sử dụng ROA và tổn thất cho vay, Berman và cộng
sự (1999) chỉ áp dụng ROA. Lý do sử dụng ba biến trên để đo hiệu quả tài chính là
những dữ liệu này ít có khả năng bị ngụy tạo, và cũng là các thước đo được sử dụng
rộng rãi nhất cho hiệu quả tài chính (Yoshikawa và Phan, 2003). Nhưng sự hạn chế cố
hữu của các thước đo dựa vào kế toán là chúng chỉ nắm bắt các dữ liệu lịch sử của
hiệu quả tài chính. Thứ hai, các dữ liệu có thể bị sai lệch bởi nhận thức quản lý và thủ
tục kế toán khác nhau được sử dụng bởi các công ty khác nhau (Branch, 1983;
McGuire và cộng sự, 1986.).
Dựa trên thị trường, một số nghiên cứu đã sử dụng các thước đo thị trường
(Vance 1975; Alexander và Buchholz 1978). Bởi vì thước đo hiệu quả tài chính dựa
trên thị trường tránh được một số những hạn chế về kế toán vì nó cho thấy các yếu tố
tương lai và tập trung vào các hiệu quả thị trường (McGuire và cộng sự 1986). Những
thước đo này ít liên quan đến thủ tục kế toán và là chỉ số của các nhà đầu tư lựa chọn
để đánh giá khả năng của một công ty tạo ra lợi nhuận trong tương lai. Ví dụ, Ullmann
(1985) cho rằng việc sử dụng các thước đo dựa trên thị trường cho thấy việc đánh giá
hiệu quả tài chính của nhà đầu tư là một thước đo hiệu quả phù hợp (McGuire và cộng
sự, 1988; Tsoutsoura, 2004). Song, việc sử dụng cổ phiếu như là các thước đo dựa
trên thị trường của hiệu quả tài chính cũng có những hạn chế.
Ngoài ra, một số nghiên cứu đã sử dụng cả dữ liệu liệu kế toán và dữ liệu thị
trường (Han và Suk, 1998; Saleh và cộng sự, 2008) với ba biến như ROA, suất sinh
lợi trên thị trường chứng khoán và Tobin's q. Hơn nữa, Han và Suk (1998) sử dụng lợi
nhuận cổ phiếu như là biến phụ thuộc để đo lường hiệu quả tài chính. Orlitzky và cộng
sự (2003) lập luận rằng cả hai chỉ số kế toán và thị trường có thể được áp dụng để đo
hiệu quả tài chính của doanh nghiệp/công ty.

25



×