Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục và đào tạo ở việt nam những vấn đề và giải pháp (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.61 KB, 27 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

PHÙNG THANH THỦY

THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG
GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO Ở VIỆT NAM:
NHỮNG VẤN ĐỀ VÀ GIẢI PHÁP
Chuyên ngành: CNDVBC&CNDVLS
Mã số: 62 22 03 02

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SỸ TRIẾT HỌC
Ngành: Triết học

HÀ NỘI - 2017


Công trình được hoàn thành tại: Trường Đại học Khoa học Xa
hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Dương Xuân Ngọc
PGS.TS. Nguyễn Viết Thông
Phản biện 1:…………………………
Phản biện 2:…………………………
Phản biện 3:…………………………

Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm Luận án Tiến sĩ cấp
cơ sở họp tại Trường Đại học Khoa học Xa hội và Nhân văn, Đại học
Quốc gia Hà Nội
Vào hồi:… giờ …. ngày…. tháng …. năm ….


Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Trung tâm Thông tin - Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nhiều năm qua ở Việt Nam, CBXH trong giáo dục được hiểu là
sự ngang bằng nhau về cơ hội học tập, mọi người đều được học tập,
phát huy khả năng học tập của mình.
Tuy nhiên, trong điều kiện KTTT, xa hội tất yếu có sự phân hoá giàu
nghèo, trong xa hội tồn tại các tầng lớp khác nhau. Đặc biệt từ khi
Nhà nước thực hiện xoá bỏ một phần bao cấp trong GDĐT thì một số
người tỏ ra băn khoăn lo ngại về vấn đề bảo đảm CBXH trong
GDĐT. Bởi, một số người có khả năng về kinh tế sẽ có cơ hội học tập
để nâng cao trình độ của bản thân. Ngược lại, một số người có nhu
cầu nâng cao trình độ học vấn, tay nghề nhưng không có khả năng về
kinh tế sẽ rất khó khăn để tham gia vào quá trình học tập. Vì vậy, có
một số quan điểm cho rằng chúng ta phải quay về thời kỳ bao cấp
toàn phần cho GDĐT mọi người mới thực sự có công bằng. Một số
quan điểm khác cho rằng chúng ta phải hy sinh tăng trưởng kinh tế,
hoặc điều tiết thu nhập để tạo mặt bằng chung của xa hội như nhau,
khi đó mọi người cùng có cơ hội ngang nhau trong học tâp, như vậy
mới có công bằng. Vậy, quan niệm đúng về CBXH trong GDĐT là
như thế nào? Làm gì và làm như thế nào để bảo đảm CBXH trong
GDĐT? Để góp phần trả lời cho câu hỏi này, NCS lựa chọn đề tài
“Vấn đề công bằng xa hội trong GDPT ở Việt Nam hiện nay” làm
Luận án tiến sĩ Triết học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1.Mục đích nghiên cứu của luận án

Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận về CBXH và thực hiện
CBXH trong giáo dục ở Việt Nam hiện nay, Luận án làm rõ thực
trạng và những vấn đề đặt ra trong việc thực hiện CBXH trong GDPT
ở Việt Nam hiện nay, từ đó đưa ra những phương hướng và giải pháp
cơ bản nhằm tạo cơ hội tiếp cận bình đẳng trong GDPT ở Việt Nam
hiện nay.
2.2.Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
1


- Phân tích làm rõ các vấn đề lý luận cơ bản về CBXH, CBXH trong
GDĐT và thực hiện CBXH trong GDPT ở Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá thực trạng và những vấn đề đặt ra trong việc
thực hiện CBXH trong GDPT ở Việt Nam hiện nay.
- Để xuất một số nguyên tắc và các nhóm giải pháp nhằm tiến tới
thực hiện CBXH trong GDPT ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.Đối tượng nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án là đánh giá vấn đề thực hiện
CBXH trong GDPT của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
3.2.Phạm vi nghiên cứu của luận án
Luận án nghiên cứu thực trạng thực hiện CBXH trong GDPT ở Việt
Nam hiện nay. Luận án tập trung nghiên cứu phân tích, đánh giá thực
trạng việc thực hiện CBXH trong GDPT từ khi triển khai KTTT, định
hướng xa hội chủ nghĩa đến nay trong đó tập trung nghiên cứu kết
quả thực hiện từ năm 2010 đến 2015.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận án thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của
Đảng Cộng sản Việt Nam về CBXH và CBXH trong giáo dục ở Việt

Nam; đồng thời luận án cũng kế thừa kết quả nghiên cứu có giá trị
của các công trình nghiên cứu khoa học khác có liên quan
- Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp luận cơ bản được sử dụng
để nghiên cứu trong Luận án này là phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử; nghiên cứu CBXH trong tiếp cận giáo dục
trong mối quan hệ biện chứng với các nhân tố khác (chính trị, kinh tế,
văn hóa, xa hội….).
5. Đóng góp mới của luận án
Đánh giá một cách khoa học thực trạng thực hiện CBXH trong GDPT
ở nước ta hiện nay; nêu ra một số phương hướng, giải pháp nhằm
thực hiện CBXH trong GDĐT nói chung cũng như trong GDPT ở
nước ta trong thời gian tới nhằm thực hiện Nghị quyết Ban Chấp
hành Trung ương khóa XI về ”Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục,
2


đào tạo Việt Nam” và tạo cơ hội tiếp cận về GDPT cho trẻ trong độ
tuổi.
6. Ý nghĩa khoa học của luận án
6.1.Ý nghĩa lý luận
Luận án góp phần hệ thống hóa, khái quát hóa, làm rõ một số vấn đề
về CBXH và CBXH trong giáo dục.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác giảng dạy và
nghiên cứu về CBXH, KTTT định hướng xa hội chủ nghĩa, về giáo
dục, quản lý giáo dục và về nguồn nhân lực...
Luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho các nhà hoạt
động thực tiễn trong việc xây dựng chính sách xa hội nói chung và
đặc biệt trong lĩnh vực GDĐT.
7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo,
luận án bao gồm 4 chương.
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Các công trình nghiên cứu lý luận về thực hiện CBXH trong
GDPT ở Việt Nam
1.1.1. Một số công trình nghiên cứu về CBXH và thực hiện CBXH
Ở Việt Nam đa có một số công trình khoa học có những đóng góp quan
trọng vào việc làm sáng tỏ nhiều phương diện cụ thể khác nhau của
CBXH đặc biệt là mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và CBXH như
những công trình sau:
- Tác giả Phạm Hảo (2000), Tăng trưởng kinh tế và CBXH - Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn ở một số tỉnh miền Trung, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, đa luận giải về mặt lý luận mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế với CBXH, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm thực
hiện tăng trưởng kinh tế và CBXH ở nước ta hiện nay.
- Tác giả Trịnh Quốc Tuấn, Đề tài khoa học cấp Bộ của Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2001) Kết hợp tăng trưởng kinh tế
với tiến bộ và CBXH trong tiến trình CNH, HĐH, phát triển KTTT
3


theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, từ cách tiếp cận chính
trị- xa hội, đề tài đa trình bày mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế
với phát triển theo định hướng XHCN ở Việt Nam, trong đó có mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và CBXH; mối quan hệ và những
tác động, thách thức của tiến bộ, CBXH đến tăng trưởng kinh tế. Từ
đó, đề tài khẳng định, Việt Nam muốn phát triển nhanh và bền vững
thì điểm mấu chốt phải giải quyết được vấn đề kết hợp tăng trưởng
kinh tế với tiến bộ, CBXH.

- Tác giả Nguyễn Minh Hoàn (2006) CBXH trong tiến bộ xã hội do
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, ngay ở lời mở đầu tác phẩm, tác giả
viết “Ngay từ những ngày đầu tiên bước vào xây dựng chủ nghĩa xa
hội, toàn Đảng, toàn dân ta đa khẳng định, một trong những mục tiêu
mà chúng ta phải phấn đấu đạt tới là xoá bỏ mọi áp bức, bóc lột, bất
công, thực hiện CBXH. Tác giả hy vọng, với kinh nghiệm của 20
năm đổi mới, chúng ta sẽ ngày càng tìm ra những giải pháp hữu hiệu
hơn để kết hợp được đồng thời việc thực hiện cả CBXH và trong
chừng mực nhất định bình đẳng xa hội, đáp ứng ngày càng tốt hơn
nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về GDPT liên quan đến đề tài luận án
- Báo cáo Phân tích tình hình trẻ em ở Việt Nam (năm 2010) là mốc
quan trọng trong quá trình nghiên cứu, ghi chép tài liệu, phân tích
và tìm hiểu về tình hình trẻ em Việt Nam
Phân tích này lấy cách tiếp cận dựa trên quyền con người, xem xét
tình hình trẻ em dựa trên quan điểm các nguyên tắc chính về quyền
con người như bình đẳng, không phân biệt đối xử và trách nhiệm
giải trình. Giá trị của cách tiếp cận này là ở chỗ phân tích các vấn
đề ở cấp độ sâu hơn, nguyên nhân việc các quyền không được đáp
ứng được tìm hiểu cặn kẽ, thấu đáo hơn. Do đó phân tích này là
đóng góp đáng chú ý cho việc hiểu tình hình trẻ em- nam và nữ,
nông thôn và thành thị, dân tộc Kinh và DTTS, trẻ em giàu và trẻ
em nghèo hiện nay ở Việt Nam.
Những phát hiện của báo cáo đa khẳng định những tiến bộ đáng kể
của Việt Nam trong việc đảm bảo các quyền cho trẻ em trong đó có
4


quyền được học tập. Đồng thời cũng chỉ ra những lĩnh vực mà ở đó
cần phải có nhiều tiến bộ hơn nữa, và tính cấp bách của nó. Những

lĩnh vực này bao gồm: giảm sự chênh lệch ngày càng gia tăng, thúc
đẩy giáo dục hòa nhập và bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn. Mặc dù tập trung vào những kết quả quan trọng đạt được cho
trẻ em, bản phân tích cũng nghiên cứu những chương trình chưa
được hoàn thành và những vấn đề mới này sinh từ quá trình chuyển
đổi kinh tế và xa hội chưa từng có tiền lệ ở Việt Nam.
Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở Châu Á và thứ hai trên thế giới phê
chuẩn Công ước về Quyền trẻ em. Đây là cam kết rất rõ ràng của
Việt Nam đối với trẻ em, và sau đó đa được thực hiện bằng sự đầu tư
và ưu tiên cho trẻ em trong những năm qua. Báo cáo phân tích đa
ghi nhận những thành tựu đó, và kêu gọi Việt Nam tiếp tục tiên
phong trong việc thực hiện quyền trẻ em ở Việt Nam. UNICEF, cùng
với tất cả các cơ quan UN, sẽ vẫn là đối tác kiên định trong nỗ lực
này.
Báo cáo chuyên khảo “Giáo dục ở Việt Nam: Phân tích các chỉ số
chủ yếu”, Tổng cục Thống kê, 2011.
Báo cáo này là một trong các chuyên khảo được phân tích dựa trên số
liệu của cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009, với
mục đích đưa ra một bức tranh khái quát về thực trạng giáo dục ở
Việt Nam và mối tương quan giữa giáo dục với biến động dân số.
Bên cạnh số liệu mẫu 15% của Tổng điều tra dân số và nhà ở năm
2009, báo cáo cũng sử dụng số liệu từ 2 cuộc Tổng điều tra trước, đó
là mẫu 5% của Tổng điều tra dân số năm 1989 và mẫu 3% của Tổng
điều tra dân số và nhà ở năm 1999. Báo cáo chuyên khảo này sử dụng
các kỹ thuật thống kê mô tả, phân tích các mối tương quan, trình bày
kết quả dưới dạng biểu, hình và bản đồ.
1.2. Các công trình nghiên cứu thực trạng và giải pháp thực hiện
CBXH trong GDPT ở Việt Nam
1.2.1. Các công trình nghiên cứu thực trạng và vấn đề đặt ra về thực
hiện CBXH trong GDPT ở Việt Nam

5


- Nguyễn Tiến Hùng (2011), Bản chất và định hướng chính sách đảm
bảo CBXH trong giáo dục, Báo cáo kết quả nghiên cứu cá nhân.
Báo cáo đa chỉ ra bản chất của đảm bảo CBXH trong giáo dục:
Một mặt, đảm bảo để tất cả người dân/HS với các điều kiện khác nhau
về giới tính, hoàn cảnh kinh tế - xa hội, dân tộc,chính trị... đều có thể
phát huy hết tiềm năng giáo dục của mình. Mặt khác, đảm bảo các
chuẩn giáo dục cơ bản tối thiểu cho tất cả người dân đều có thể biết
đọc, biết viết và tính toán...
- Đỗ Thị Bích Loan, CBXH trong giáo dục ở Việt Nam. Mục tiêu
hướng đến sự phát triển bền vững - Kỉ yếu Khoa học giáo dục Việt
Nam đổi mới và phát triển (tập 1).
Báo cáo đề cập đến việc thực hiện CBXH trong giáo dục được thể
hiện trong cơ hội tiếp cận giáo dục của các giới (nam và nữ), các
nhóm thu nhập, thành thị và nông thôn và các nhóm dân tộc. Báo cáo
đa khẳng định các thành tựu nổi bật về thực hiện CBXH trong giáo
dục ở Việt Nam
1.2.2. Các công trình nghiên cứu về giải pháp thực hiện CBXH trong
GDPT ở Việt Nam
- Nguyễn Danh Bình, Báo cáo chuyên đề: “Đảm bảo CBXH trong
giáo dục - Một yếu tố cơ bản đảm bảo nguyên tắc công bằng và tiến
bộ nhằm phát triển xã hội”, Đề tài khoa học xã hội 03.06, Hà Nội,
1998.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài: (1). Góp phần làm rõ khái niệm về
CBXH trong giáo dục trong điều kiện nền KTTT ở nước ta hiện nay.
(2). Xác định các căn cứ khoa học và thực tiễn của việc đề xuất các
giải pháp nhằm thực hiện CBXH trong giáo dục, chủ yếu là công
bằng giữa các vùng miền, xem xét hệ thống các giải pháp đa và đang

thực hiện, đề xuất các giải pháp nhằm thực hiện CBXH trong GDPT
của Việt Nam giai đoạn hiện nay.
- Thực hiện CBXH trong giáo dục ở các vùng dân tộc thiểu số của
nước ta hiện nay (Luận án TS của tác giả Phạm Văn Dũng)
Luận án đi sâu vào nghiên cứu, phân tích thực trạng thực hiện CBXH
trong giáo dục ở các vùng dân tộc thiểu số ở nước ta trong thời kỳ đổi
6


mới đất nước… Trên cơ sở phân tích thực trạng, luận án đa đề ra một
số giải pháp nhằm tực hiện CBXH trong giáo dục ở một số vùng dân
tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam
Bộ (đến năm 2009).
1.2.3. Một số công trình nghiên cứu về CBXH trong giáo dục của một số
học giả trên thế giới
- Irina Pervova, University of St. Petersburg với bài báo “A View on the
Current Situation in Russian Education” - “Thực trạng giáo dục Nga”.
Bài báo khẳng định giáo dục cung cấp cho các xa hội cần thiết cho sự
sống còn trong một xa hội. Đồng thời bài báo cũng phân tích, phản ánh
tình trạng hiện nay trong giáo dục Nga trong đó có một tương quan
mạnh mẽ với cuộc khủng hoảng kinh tế - xa hội. Tác giả cho rằng:
Trách nhiệm giáo dục tổ chức một phần của nhà nước và một phần của
các tổ chức xa hội khác, như một toàn thể, tất cả các chúng tạo thành hệ
thống giáo dục. Để cứu hệ thống giáo dục Nga từ một cuộc khủng
hoảng, Nhà nước phải có chính sách mạnh mẽ cho giáo dục và hệ thống
giáo dục để mọi công dân Nga có quyền và cơ hội được tiếp cận giáo
dục.
- Giáo sư A. Furlong, and F. Cartmel, (Press, Maidenhead, 2009, ISBN13:978-033522362-6) với công trình “Higher education and social
justice” Society for Research into Higher Education and Open University.
Trong cuốn sách, các tác giả đa nêu ra thực trạng nghiên cứu của các tác

giả trước đó đa chạm vào sự bất hòa giữa các tầng lớp lao động có liên
quan với việc đi phổ thông, các khía cạnh phi vật chất của CBXH cần
được khai thác sâu hơn. Đáng ngạc nhiên, với vai trò trung tâm của khái
niệm lập luận, cuốn sách đưa ra nội dung thảo luận về những gì xa hội đòi
hỏi phải công bằng trong giáo dục.
1.2.4. Một số chính sách về CBXH trong giáo dục của một số tổ chức, một
số nước trên thế giới
- Quan điểm của UNICEF: Theo một báo cáo của UNICEF, vào
tháng 12 năm 2006, nhân dịp kỉ niệm 60 năm ngày thành lập của tổ
chức này, việc loại bỏ sự phân biệt đối xử về giới và nâng cao vị thế
của phụ nữ sẽ tạo ra một sự tác động sâu sắc và tích cực đến sự sống
7


còn và phát triển của trẻ em. Theo báo cáo này, mặc dù trong những
thập kỉ gần đây đa có một số tiến bộ về vị thế của phụ nữ nhưng cuộc
sống của hàng triệu “trẻ em gái và phụ nữ vẫn bị đe dọa bởi sự phân
biệt đối xử, việc bị tước quyền và nghèo khổ. Hậu quả của sự phân
biệt đối xử là trẻ em gái ít có cơ hội được học hơn. Ở các nước đang
phát triển, gần như 1/100 trẻ em gái đi học ở trường tiểu học sẽ
không theo học được hết cấp”.
- Thụy Điển: Chế độ giáo dục của Thụy Điển quy định rõ, không
những tất cả mọi người đi học không mất tiển suốt đời mà luật phát
còn quy định đối với bậc phổ thông, nếu trong lớp có một học sinh
người nước ngoài, thì nhà trường phải bố trí bố trí một giáo viên biết
tiếng mẹ đẻ của em đó (đây là giáo viên kiêm nhiệm), mỗi tháng phải
lên lớp một số giờ nhất định bằng tiếng mẹ đẻ cho HS này.
- Trung Quốc: Chính sách CBXH của Trung Quốc được thể hiện trong
Luật giáo dục Trung quốc 1995: Nhà nước giúp đỡ về GV, tài chính...
để vùng DTTS thực hiện giáo dục bắt buộc. Nhà nước căn cứ vào đặc

điểm và nhu cầu của các DTTS để giúp đỡ các vùng DTTS phát triển
sự nghiệp giáo dục.
Để giúp cho đồng bào các DTTS tiếp cận với CBXH trong giáo dục,
Chính phủ Trung Quốc đa ban hành các chính sách miễn giảm học
phí và trợ cấp học bổng cho HS là người DTTS.
- Malaixia: Thực hiện CBXH trong giáo dục với tất cả các dân tộc. Nhà
nước tạo điều kiện thuận lợi cho các dân tộc khác nhau đều được học
tập. Giáo dục tiểu học là giáo dục miễn phí và bắt buộc cho mọi trẻ em ở
tất cả các nhóm dân tộc. Để xóa bỏ các rào cản về ngôn ngữ đối với HS
DTTS, Malaixia có 4 loại hình trường khác nhau cho phép dạy các ngôn
ngữ khác nhau.
- Campuchia: Thực hiện CBXH trong giáo dục đối với người DTTS
thông qua các chính sách học bổng. Với những hỗ trợ này, đa giúp
cho các hộ gia đình người DTTS ở Campuchia tháo gỡ được các khó
khăn về kinh tế khi họ không có khả năng tự trang trải về mặt tài
chính cho các khoản đóng góp. Nhà nước hỗ trợ học bổng cho HS
người DTTS ở 3 năm cuối (đến lớp 9) còn góp phần hạn chế tình
8


trạng bỏ học của HS DTTS ở những năm cuối. Các suất học bổng cấp
cho HS DTTS không cào đều mà được chia thành 3 loại dựa trên
khoảng cách đến trường và điều kiện tập tục văn hoá của huyện sở tại
của HS.
- Australia: Để tạo cơ hội cho HS dân tộc được tiếp cận giáo dục có
chất lượng và bình đẳng trong giáo dục, trong hai thập kỷ qua, chính
phủ Australia đa xây dựng chính sách hỗ trợ giáo dục dân tộc. Năm
1989, Chính phủ Australia thông qua Hội đồng giáo dục Australia
đưa ra Tuyên bố Hobart về việc đi học trong đó nêu các mục tiêu
quốc gia chung cần đạt được đối với việc đến trường cho trẻ ở

Australia. Chính sách giáo dục dành cho DTTS cũng đưa ra 21 mục
tiêu dài hạn với mục đích đạt được sự bình đẳng trong giáo dục đến
năm 2000.
1.3. Đánh giá những thành tựu cơ bản và những vấn đề đặt ra
trong luận án cần tiếp tục giải quyết
1.3.1. Đánh giá chung các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Một cách khách quan, liên quan đến đề tài, cho đến nay, có nhiều
công trình nghiên cứu đa công bố có giá trị tham khảo, tuy nhiên, còn
nhiều nội dung cần được tiếp tục nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện:
Chưa có một công trình nghiên cứu độc lập về CBXH trong GDPT với
tư cách là một chủ thể nghiên cứu dựa trên mối quan quan hệ biện chứng
với những điều kiện kinh tế xa hội, những nhân tố chủ quan, khách quan
tác động đến việc thực hiện CBXH trong lĩnh vực này.
1.3.2. Định hướng nghiên cứu của đề tài
Từ những công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án được
các nhà khoa học trong nước, nước ngoài và các tổ chức quốc tế đề cập
ở trên đa gợi mở cho tác giả luận án những vấn đề cần tiếp tục giải
quyết trong luận án.
- Về lý luận, vấn đề lý luận đặt ra trong luận án cần tiếp tục giải quyết
chính là làm rõ nội hàm của CBXH trong giáo dục và CBXH trong
GDPT, áp dụng trong điều kiện thực tiễn ở Việt Nam hiện nay.
- Về thực tiễn, khảo sát và đánh giá cụ thể vấn đề CBXH trong GDPT
ở Việt Nam hiện nay chưa được nghiên cứu. Do đó, khảo sát thực
9


trạng, chỉ ra những vấn đề bất cập, cấp bách cần giải quyết để thực
hiện CBXH trong GDPT ở Việt Nam hiện nay có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng, nhằm cung cấp cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất thực hiện
hệ thống chính sách đối với giáo dục và GDPT nói riêng một cách

thiết thực và hiệu quả.
- Về phương hướng và giải pháp, giải quyết nhiệm vụ đa đặt ra thông
qua việc xác định những phương hướng và nhóm những giải pháp cơ
bản nhằm thực hiện CBXH trong GDPT ở Việt Nam hiện nay.
- Những nhiệm vụ cụ thể: Những vấn đề đặt ra trên đây là mảng trống
mà tác giả phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu làm sáng tỏ trong đề tài
luận án.
Một là, làm rõ thêm khái niệm CBXH đưa ra quan điểm về CBXH
trong GDPT trong nền KTTT có sự quản lý của nhà nước ở nước ta
hiện nay.
Hai là, dựa trên những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin,
cần đưa ra các tiêu chí để đánh giá, đồng thời trên cơ sở những tiêu
chí đánh giá, luận án phân tích đưa ra những nguyên nhân của những
thành công cũng như hạn chế trong việc thực hiện CBXH trong
GDPT ở Việt Nam hiện nay.
Ba là, trên những phân tích lý luận và thực tiễn, cần nêu lên một số
phương hướng, giải pháp nhằm thực hiện CBXH trong GDPT ở nước
ta trong thời gian tới nhằm thực hiện Nghị quyết Ban Chấp hành
Trung ương khóa XI về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào
tạo Việt Nam” và tạo cơ hội tiếp cận về giáo dục cho mọi người.
CHƯƠNG II
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG BẰNG XÃ
HỘI TRONG GIÁO DỤC PHỔ THÔNG Ở VIỆT NAM
2.1. Quan niệm về CBXH và CBXH trong giáo dục
2.1.1. Quan niệm về CBXH
Công bằng xa hội là một khái niệm có tính lịch sử cụ thể, nó có nội
hàm khác nhau trong những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau.
Hiện nay, khái niệm CBXH được đề cập hết sức phong phú, dưới
nhiều góc độ tiếp cận khác nhau.
10



Trong Từ điển Bách khoa Việt Nam, CBXH được định nghĩa dưới
góc độ ý thức đạo đức, ý thức pháp quyền, chỉ điều chính đáng,
tương ứng với bản chất con người và quyền con người. Khác với khái
niệm thiện và ác dùng để đánh giá những hiện tượng riêng rẽ, khái
niệm công bằng nêu ra sự tương quan giữa một số hiện tượng theo
quan điểm phân phối phúc và họa, lợi và hại giữa người với người.
Công bằng đòi hỏi sự tương xứng giữa vai trò của cá nhân (những
giai cấp) với địa vị của họ; giữa hành vi với sự đền bù (lao động và
thù lao, công và tội, thưởng và phạt); giữa quyền lợi và nghĩa vụ [Hội
đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam
(1995), Từ điển Bách khoa Việt Nam, Trung tâm Từ điển Bách khoa
Việt Nam, Hà Nội, tr.580].
Căn cứ vào phương diện nghiên cứu, mục tiêu, nhiệm vụ của luận
án, tác giả cho rằng: CBXH là một phạm trù lịch sử, phản ánh sự
tương xứng giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa năng lực và cơ hội,
điều kiện phát triển, giữa tội phạm và sự trừng phạt của cá nhân
hay nhóm xã hội. CBXH thể hiện khát vọng của con người và là
mục tiêu, động lực của sự phát triển xã hội.
Với quan niệm trên, CBXH có những đặc trưng cơ bản sau:
- CBXH là một phạm trù lịch sử: CBXH là sản phẩm của đời sống xa
hội, nó phản ánh quan hệ giữa người với người xung quanh vấn đề
lợi ích. Vấn đề phân phối lợi ích trong mỗi chế độ xa hội luôn gắn
với một phương thức sản xuất nhất định, phụ thuộc vào trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất, của phân công lao động xa hội, và quan
trọng nhất là tính chất của các quan hệ sản xuất trong phương thức
sản xuất đó. Hơn nữa, không chỉ chịu sự tác động bởi điều kiện kinh
tế, quan niệm về CBXH còn chịu sự chi phối của các hình thái ý thức
xa hội như ý thức chính trị, đạo đức, văn hóa của xa hội trong từng

giai đoạn lịch sử nhất định. Do vậy CBXH luôn có tính lịch sử. Ở
mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, CBXH được nhìn nhận và giải quyết
khác nhau. Đánh giá về vấn đề này, Ăngghen viết: “Công bằng của
những người Hy Lạp và La Ma là sự công bằng của chế độ nô lệ. Công
bằng của giai cấp tư sản năm 1789 là những đòi hỏi phải xóa bỏ chế độ
11


phong kiến mà nó coi là bất công” [C.Mác - Ăngghen (1995) toàn
tập, tập 4, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr 327].
Không thể có một quan niệm, một chuẩn mực “bất di, bất dịch” về
CBXH chung cho mọi quốc gia, mọi thời đại, cũng như không thể áp
đặt những chuẩn mực về CBXH vượt quá những cơ sở, điều kiện khách
quan của lịch sử cho phép.
- CBXH vừa có tính giai cấp, vừa có tính xã hội. Mỗi giai cấp, nhóm
xa hội khác nhau sẽ có những quan niệm khác nhau về các chuẩn
mực CBXH cũng như cách thức thực hiện nó, bởi lẽ, suy cho cùng, địa
vị của từng giai cấp, nhóm xa hội trong sản xuất, phân phối và trao đổi
sẽ là nhân tố quyết định nhu cầu và lợi ích của họ và từ đó, chi phối quan
niệm về công bằng của chính họ. Nói khác đi, nhu cầu và lợi ích trong
mỗi giai đoạn lịch sử nhất định sẽ là cơ sở, tiêu chí để hình thành và
đánh giá quan niệm về CBXH của mỗi giai cấp.
Tuy nhiên, tính giai cấp của CBXH cũng quy định, trong xa hội quan
niệm công bằng của giai cấp thống trị sẽ luôn chi phối quan niệm công
bằng chung của toàn xa hội. Mặt khác, cũng không thể có CBXH chỉ
có lợi cho một giai cấp duy nhất mà lại được toàn thể xa hội chấp
nhận, vì rằng, tính giai cấp của CBXH chỉ có thể tồn tại trong tổng thể
và dung hòa với ý chí, lợi ích chung của toàn xa hội. Công bằng của
từng cá nhân, giai cấp và nhóm người vì thế, chưa phải là CBXH thực
sự, CBXH còn có tính xa hội, tức là công bằng chung, phổ biến của

toàn xa hội, đó là điều kiện, môi trường để tính giai cấp của khái niệm
này tồn tại và phát triển. Xa hội càng phát triển, nhu cầu và năng lực
thực thi CBXH của người lao động càng cao, càng đòi hỏi sự thống
nhất trong thuộc tính giai cấp và thuộc tính xa hội của CBXH.
- Về bản chất, CBXH được hiểu là sự tương xứng giữa cái mà cá
nhân (hay nhóm xã hội) làm cho tập thể, cho xã hội và cái mà họ
được hưởng từ tập thể, từ xã hội. Cái mà cá nhân làm cho tập thể,
cho xa hội có thể là điều tốt lành như lao động, vốn, chất xám, xương
máu, kinh nghiệm…, hoặc cũng có thể là điều xấu, có hại cho xa hội,
thí dụ, tội phạm; còn cái mà cá nhân được hưởng có thể là tiền công, phần
thưởng, danh vị, chức vụ, sự ghi công của xa hội…, cũng có thể là sự
12


trừng phạt bằng những hình thức khác nhau [Mai Xuân Hợi (2009)
“Những nhân tố quyết định tính định hướng xã hội chủ nghĩa của
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Kinh tế phát
triển, Số 2, tr.24].
- Về nội dung, CBXH có nội dung phong phú, tuy nhiên có thể khái
quát ở hai nội dung chính, đó là công bằng trong phân phối và công
bằng về cơ hội, điều kiện phát triển.
Trong xa hội, việc lựa chọn các hình thức phân phối khác nhau sẽ
quyết định tính chất và mức độ thực hiện CBXH khác nhau, điều này
phụ thuộc vào bản chất kinh tế, chính trị - xa hội cũng như điều kiện,
năng lực thực tế của các nước trong các giai đoạn lịch sử khác nhau.
Trong CNTB, quan hệ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất giữ vai
trò thống trị, nên hình thức phân phối chủ yếu là phân phối theo sở
hữu, điều này gây nên tình trạng bất công xa hội sâu sắc. Dưới
CNXH, như Mác đa chỉ ra, phân phối theo lao động là đặc trưng bản
chất và là hình thức thể hiện tất yếu về mặt kinh tế của chế độ công

hữu về tư liệu sản xuất. Nếu xóa bỏ phân phối theo lao động thì chế
độ công hữu về tư liệu sản xuất sẽ không được thực hiện, quyền bình
đẳng của người lao động đối với tư liệu sản xuất sẽ trở thành vô nghĩa,
CBXH sẽ không được thực hiện.
Nội dung thứ hai của CBXH, đó là công bằng về cơ hội, điều kiện
phát triển. Hiện nay, còn có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh vấn
đề này. Theo chúng tôi, công bằng về cơ hội, điều kiện phát triển
chính là việc tạo cho mọi người tiếp cận phù hợp các cơ hội, điều
kiện phát triển, thông qua đó, phát huy mọi năng lực của mình, cống
hiến tích cực, có hiệu quả; đồng thời, hưởng thụ một cách tương
xứng với kết quả của sự cống hiến đó. Cơ hội và điều kiện phát triển
trong xa hội hết sức phong phú và toàn diện, đó là các nguồn lực phát
triển như vốn, tài nguyên, khoa học kỹ thuật và công nghệ; các điều
kiện và các dịch vụ xa hội nói chung từ hạ tầng cơ sở (điện, nước
sạch, đường sá; các cơ sở khám, chữa bệnh và bảo vệ sức khỏe; các
cơ sở giáo dục, đào tạo, dạy nghề v.v.) đến thượng tầng kiến trúc
(như tham gia vào các cơ quan quyền lực nhà nước; thông hiểu về
13


pháp luật; học tập và trau dồi thông tin; sáng tác và hưởng thụ văn
học nghệ thuật, giao lưu văn hóa v.v.).
Như vậy, CBXH là mục tiêu phát triển của xa hội từ thấp tới cao, từ
chưa hoàn thiện đến hoàn thiện, mỗi bước phát triển của CBXH vừa
là thước đo, vừa là điều kiện của trình độ văn minh và tiến bộ xa hội.
2.1.2.Quan niệm về CBXH trong giáo dục ở Việt Nam
Theo quan điểm của Đảng và Nhà nước ta, thực hiện CBXH trong giáo
dục cho tất cả người dân Việt Nam với những nội dung cơ bản sau:
Một là, CBXH trong giáo dục là bảo đảm bình đẳng trong cơ hội tiếp
cận các hình thức giáo dục để học tập và nâng cao trình độ. Mọi

người dân trong xa hội, không phân biệt giai cấp, tầng lớp, tôn giáo,
dân tộc thiểu số hay dân tộc đa số, trình độ phát triển cao hay thấp, lạc
hậu hay văn minh đều được Nhà nước tạo cơ hội ngày càng tốt để học
tập và nâng cao trình độ. Tạo cơ hội để người dân có điều kiện học
tập, phát huy tài năng của bản thân để phục vụ bản thân và phục vụ sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Hai là, nền giáo dục Việt Nam được thống nhất nhà nước về QLGD
thông qua các chế tài pháp luật và Nhà nước Việt Nam thông qua các
chế tài đó để tạo cơ hội học tập thật sự công bằng cho tất cả mọi
người, hướng tới mục tiêu cao cả nhất là “học tập là quyền lợi của
mọi người”.
Ba là, CBXH trong giáo dục không phải là sự cào bằng, chia đều cho
tất cả mọi người, Nhà nước có chính sách đầu tư nhằm tạo ra cơ hội,
điều kiện như nhau trong tiếp cận các hình thức giáo dục đối với cư dân
các vùng miền, các dân tộc, các thành phần và giới tính khác nhau.
Thực hiện CBXH trong giáo dục phải căn cứ vào điều kiện tự nhiên,
kinh tế-xa hội, điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể để có chính sách cụ
thể phù hợp để phát triển giáo dục. Nhà nước có chính sách đầu tư, hỗ
trợ và ưu tiên đối với con em nông dân, gia đình có công với cách
mạng, đồng bào dân tộc thiểu số và đồng bào ở vùng sâu, vùng xa,
vùng khó khăn. Đồng thời cũng tạo điều kiện để các em có năng khiếu
phát triển khả năng của mình trong học tập và nâng cao trình độ của
bản thân và góp phần phát triển đất nước, xa hội.
14


2.2. Quan niệm về CBXH trong GDPT
2.2.1. Quan niệm về GDPT ở Việt Nam
Theo Luật giáo dục, GDPT bao gồm: a) Giáo dục tiểu học được thực
hiện trong năm năm học, từ lớp một đến lớp năm. Tuổi của HS vào

học lớp một là sáu tuổi; b) Giáo dục trung học cơ sở được thực hiện
trong bốn năm học, từ lớp sáu đến lớp chín. HS vào học lớp sáu phải
hoàn thành chương trình tiểu học, có tuổi là mười một tuổi; c) Giáo
dục trung học phổ thông được thực hiện trong ba năm học, từ lớp
mười đến lớp mười hai. HS vào học lớp mười phải có bằng tốt nghiệp
trung học cơ sở, có tuổi là mười lăm tuổi.
2.2.2 Quan niệm về GDPT ở Việt Nam
Biểu hiện quan trọng nhất của sự công bằng trong GDPT là đảm bảo
sự tiếp cận bình đẳng về cơ hội học tập ở bậc phổ thông cho mọi
người dân phù hợp với sự phát triển kinh tế xa hội, thể hiện ở việc
đảm bảo khả năng tiếp cận chuẩn tối thiểu về giáo dục cho tất cả mọi
người không phân biệt nhóm xa hội hay địa bàn sinh sống. Đồng thời
khuyến khích việc thực hiện các hoạt động giáo dục ở mức cao hơn
chuẩn cho các nhóm có điều kiện trong khuôn khổ quy định của pháp
luật. Công bằng trong giáo dục còn tạo ra những cơ hội như nhau cho
những người có khả năng ngang nhau để sự thành đạt trong giáo dục
chỉ phụ thuộc vào năng lực và sự phấn đấu của mỗi người. Như thế,
sự công bằng về cơ hội cho mọi người không làm cản trở sự phát triển
mà càng khuyến khích phát triển tài năng và chính sách sử dụng hiền
tài. Việc trợ giúp người nghèo có điều kiện tiếp cận các cơ hội học tập
cũng không làm cản trở những người giàu muốn đầu tư nhiều hơn cho
việc giáo dục con em họ.
2.3. Những nội dung cơ bản thực hiện CBXH trong GDPT ở Việt
Nam hiện nay
2.3.1. Vai trò của giáo dục đối với việc thực hiện CBXH
CBXH trong giáo dục là một nội dung quan trọng của chính sách giáo
dục. Phát triển giáo dục và thực hiện CBXH trong giáo dục - đào tạo
là cơ sở để nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, phát triển kinh tế - xa
hội và bảo tồn vốn văn hoá cho đồng bào các dân tộc. CBXH trong
15



giáo dục là việc đảm bảo cơ hội học tập, cơ hội đến trường cho tất cả
mọi người, từ miền xuôi đến miền ngược, từ trẻ em bình thường đến
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn hay thuộc diện chính sách
được Nhà nước và cộng đồng tạo điều kiện, hỗ trợ để học tập.
Việt Nam là một đất nước có nền kinh tế còn kém phát triển, vì vậy
giáo dục còn gặp không ít khó khăn trong việc thực hiện công bằng
trong tiếp cận giáo dục nói chung. Trong những năm gần đây, đời
sống vật chất và tinh thần của người Việt Nam đa có nhiều thay đổi.
Trình độ dân trí, trình độ học vấn của nhân dân từng bước được nâng
cao. Thế nhưng, so với trình độ dân trí và phát triển giáo dục giữa các
vùng trong cả nước thì khoảng cách chênh lệch còn rất lớn. Ở vùng
sâu, vùng xa, đời sống kinh tế, văn hoá, xa hội còn thấp, điều kiện học
tập thiếu thốn, trình độ dân trí còn nhiều hạn chế.
2.3.2 Nội dung cơ bản thực hiện CBXH trong GDPT ở Việt Nam hiện
nay
- Bảo đảm về cơ hội tiếp cận giáo dục ở bậc phổ thông: Ðảm bảo cơ
hội học tập, cơ hội ở bậc phổ thông cho tất cả mọi người, từ miền
xuôi đến miền ngược, từ trẻ em bình thường đến trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt khó khăn hay thuộc diện chính sách, được Nhà nước và cộng
đồng tạo điều kiện, hỗ trợ để học tập. Ðối với trẻ em trong độ tuổi đi
học bậc phổ cập, đi học phổ cập là bắt buộc và không phải đóng học
phí. Ðối với những người ngoài độ tuổi nhưng chưa đạt trình độ phổ
cập, cần có các hình thức giáo dục và biện pháp hỗ trợ thích hợp để
họ có thể đạt được trình độ phổ cập, tạo cơ hội cho họ có thể sau đó
học tập đạt các trình độ cao hơn mức phổ cập.
CHƯƠNG III
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC
THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG GIÁO DỤC PHỔ

THÔNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Thực trạng thực hiện CBXH trong GDPT ở Việt Nam hiện nay
3.1.1. Đánh giá chung
3.1.1.1. Thành tựu
- Về nhận thức
16


Nhận thức và sự quan tâm đối với GD tăng một phần nhờ các hoạt
động tuyên truyền, vận động về GD và bình đẳng giới. Đầu tư công
cho GD được nâng cao (có thể kể đến chương trình kiên cố hóa
trường lớp, nông thôn mới, ...), hạ tầng cơ sở ở nông thôn phát triển.
Nguyên nhân của những thành công là do sự cố gắng không ngừng của
ngành GD các cấp, các địa phương trong việc thực hiện các nghị định
của chính phủ về phổ cập GD, xóa mù chữ, về miễn, giảm học phí, hỗ
trợ chi phí học tập… Nỗ lực đưa trẻ đến trường hay đưa trường về với
HS đa đạt được những thành tựu đáng kể trong tiếp cận GD, trong đó
giúp cho các HS khó khăn nhận duy trì khả năng đến trường.
- Về thực tiễn
Tỷ lệ nhập học đúng độ tuổi có xu hướng gia tăng ở cả ba cấp học.
Khoảng cách giữa con số thực tế năm học 2014-2015 với các mục
tiêu Chiến lược đặt ra cho năm 2020 ở các cấp tiểu học, THCS lần
lượt là 1,31%; 4,11%. Tỷ lệ lưu ban và bỏ học có xu hướng giảm ở
các cấp học, nhưng có sự khác biệt giữa các vùng miền. Nhìn chung,
các vùng có điều kiện kinh tế kém phát triển hơn thì có tỷ lệ HS bỏ
học cao hơn. Trong cả nước, vùng Đồng bằng sông Hồng có tỷ lệ bỏ
học ở cả 03 cấp học thấp nhất, tỷ lệ này cao nhất ở vùng Đồng bằng
sông Cửu Long.
3.1.1.2. Hạn chế
- Về nhận thức

Do nhận thức về xa hội nói chung, nhận thức về pháp luật nói riêng
hạn chế, cho nên có những gia đình không muốn cho con đi học
nhiều, mà con lớn lên là dựng vợ gả chồng, vừa có thêm người làm,
vừa đỡ tốn kém về kinh tế. Đó cũng là một trong những nguyên nhân
của nạn tảo hôn và bất bình đẳng giới đối với học sinh vùng núi,
vùng khó khăn và vùng dân tộc thiểu số.
Thứ ba, tâm lí chung của nhiều gia đình ở vùng núi cao là sinh con,
nuôi con lớn để chủ yếu phụ giúp, gánh vác công việc nương rẫy
mang tính chất tập tục truyền thống.
- Về thực tiễn
17


Ở một số địa phương, cấp uỷ đảng, chính quyền các cấp chưa nhận thức
đầy đủ, toàn diện về tầm quan trọng và sự cần thiết của giáo dục, đào tạo
và dạy nghề đối với phát triển kinh tế - xa hội vùng DTTS, miền núi nên
chưa có sự chỉ đạo tập trung, quyết liệt để giải quyết một số vấn đề lớn
của giáo dục, đào tạo và dạy nghề ở địa phương.
Công tác quy hoạch mạng lưới, quy mô cơ sở giáo dục vùng DTTS,
miền núi còn một số bất cập. Có địa phương quy hoạch một cách ồ
ạt, việc dồn điểm trường, xóa điểm trường lẻ, thành lập trường
PTDTBT được thực hiện khi chưa đảm bảo các điều kiện về cơ sở
vật chất, đặc biệt là nơi ăn ở và các điều kiện sinh hoạt của học sinh
bán trú.
3.1.2. Về bảo đảm các điều kiện
3.1.2.1. Chi tiêu cho giáo dục
Từ 2013 đến nay, tỷ lệ tổng chi NSNN cho giáo dục đa đạt được mục
tiêu đề ra trong Chiến lược là 20%. Tuy nhiên, vốn đầu tư toàn xa hội
cho GD & ĐT giảm, vốn FDI khiêm tốn, hỗ trợ tài chính của các đối
tác quốc tế - đặc biệt là vốn ODA giảm khiến tổng số vốn đầu tư cho

giáo dục giảm mạnh trong những năm gần đây. Điều này đa làm sức ép
về nguồn lực đầu tư cho phát triển giáo dục Việt Nam tiếp tục tăng lên.
3.1.2.2. Quy mô và điều kiện trường lớp
Hệ thống mạng lưới trường lớp cơ bản đa đáp ứng nhu cầu học tập.
Tỷ lệ các trường đạt chuẩn quốc gia ở bậc THPT tăng liên tục tuy có
sự khác biệt giữa các vùng miền. Những vùng kinh tế - xa hội còn
gặp nhiều khó khăn như Tây Nguyên hay Đồng bằng sông Cửu Long
có tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia thấp hơn, tốc độ tăng số trường đạt
chuẩn chậm hơn so với các khu vực khác. Tỷ lệ trường đạt chuẩn và
phòng học kiên cố tăng mạnh trong 5 năm qua tại vùng trung du và
miền núi phía Bắc cho thấy kết quả của định hướng ưu tiêu đầu tư
cho các vùng khó khăn đề ra trong Chiến lược. Tỷ lệ phòng học kiên
cố tăng, số trường bán kiên cố và nhà tạm giảm. Tuy nhiên, vẫn còn
nhiều nơi phòng học xuống cấp, thiếu các phòng chức năng,… phần
lớn tập trung ở các vùng khó khăn do thiếu vốn. Một số mục tiêu như
phát triển trường phổ thông dân tộc bán trú, trường chuyên, xóa phòng
18


học tạm... vẫn chưa đạt yêu cầu. Tỷ lệ trường học 2 buổi/ngày ở tiểu
học và THCS tăng trong giai đoạn vừa qua nhưng vẫn còn nhiều
trường phải bố trí học 2 ca/ngày do thiếu cơ sở vật chất và đội ngũ
GV - cũng là thách thức khi triển khai các hoạt động dạy học toàn
diện trong những năm tới.
3.1.2.3. Đội ngũ giáo viên
Số lượng GV phổ thông ngày càng tăng trong phạm vi cả nước. Với
khoảng 900 nghìn GV phổ thông năm 2015, mục tiêu “có đủ GV
thực hiện giáo dục toàn diện theo chương trình GDPT, dạy học 2
buổi/ngày…” là khả thi căn cứ vào tỷ lệ GV/lớp. Tuy nhiên quy mô
GV ngày càng tăng, nhưng không đồng đều theo vùng miền và theo

môn học - là thách thức đặt ra khi thực hiện mục tiêu đảm bảo đầy đủ
đội ngũ GV ngoại ngữ, tư vấn học đường và hướng nghiệp, GV giáo
dục đặc biệt, GV âm nhạc… dẫn đến tình trạng HS không có cơ hội
được học tập các môn học đặc thù này.
Thực hiện mục tiêu chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục trong Chiến lược đề ra cho giai đoạn vừa qua, kết quả thống
kê cho thấy trình độ của đội ngũ GV thể hiện ở tỷ lệ đạt chuẩn và trên
chuẩn ngày càng tăng. Năm học 2014-2015, tỷ lệ GV cấp tiểu học
trên chuẩn đạt 84%, cấp THCS đạt 69,43% và cấp THPT đạt 12%.
Cơ bản GV các cấp đa đạt chuẩn, hầu như không còn GV chưa đạt
chuẩn. Tuy nhiên, cần phải quan tâm, tạo điều kiện học tập nâng cao
trình độ cho đội ngũ GV về đổi mới PPGD, phương pháp đánh giá
đáp ứng nhu cầu đổi mới toàn diện GD theo hướng dạy học phát triển
năng lực cho HS.
3.1.2.4. Việc đổi mới công tác quản lý
Công tác quản lý giáo dục các cấp và trong trường phổ thông đa có
những đổi mới tích cực, góp phần hiện thực hóa các quan điểm và
giải pháp thực hiện của Chiến lược. Tuy nhiên, việc đổi mới công tác
quản lý cũng còn một số mặt hạn chế:
1) Kế hoạch hàng năm/kế hoạch năm học đa được xây dựng, nhưng
chưa có kế hoạch cho PTGD trong trung và dài hạn. Các bản kế
hoạch chưa thể hiện được mục tiêu rõ ràng và chưa gắn kết lô gic với
19


ngân sách và kết nối với các giải pháp thực hiện. Hoạt động theo dõi,
đánh giá thực hiện kế hoạch chưa được quan tâm đúng mức.
2) Chức năng nhiệm vụ quản lý các cấp học được quy định rõ ràng
nên việc quản lý chuyên môn đối với nhà trường giữa các cấp quản lý
giáo dục ít có sự chồng chéo. Tuy nhiên, sự phối hợp giữa các ngành

các cấp trong PTGD nói chung và giữa các cơ sở giáo dục nói riêng
chưa chặt chẽ do hệ thống các văn bản pháp lý và các chính sách
chưa đồng bộ.
3) Nhà trường đa huy động được sự tham gia phối hợp và giám sát
của các bên liên quan trong việc xây dựng và thực hiện các kế hoạch
hoạt động, nhưng chủ yếu mới giới hạn ở việc tham gia xây dựng kế
hoạch thu/chi kinh phí đóng góp/huy động từ cộng đồng.
4) Các trường đa bắt đầu thực hiện cơ chế tự chủ về tài chính mặc dù
mức độ, phạm vi tự chủ còn hạn chế. Tự chủ về chuyên môn đa phát
huy tác dụng và được đội ngũ GV, cán bộ quản lý các nhà trường ủng
hộ, đánh giá tích cực về tính hiệu quả. Tuy nhiên, hầu hết các trường
đều chưa được tự chủ về nhân sự. Nghị định 16/2015/NĐ-CP đa bổ
sung một số điều giúp tăng cường tự chủ về nhân sự cho các cơ sở sự
nghiệp công lập, nhưng còn thiếu hướng dẫn cụ thể.
3.1.2.5. Hỗ trợ phát triển giáo dục đối với nhóm thiệt thòi
Trong giai đoạn 2010-2015, việc thực hiện các mục tiêu, giải pháp
chính sách đối với nhóm có hoàn cảnh khó khăn như trẻ em DTTS,
trẻ em khuyết tật, nghèo… cũng như các chính sách phát triển mạng
lưới trường lớp, phát triển đội ngũ cán bộ, GV ở các vùng khó khăn,
làm việc trong các cơ sở giáo dục đặc biệt được triển khai tích cực.
Điều này thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, ngành giáo
dục đối với việc thực hiện các mục tiêu về công bằng giáo dục cho
mọi người. Tuy nhiên, mạng lưới trường lớp còn chưa đầy đủ, năng
lực đội ngũ nhà giáo trong các lĩnh vực giáo dục đặc biệt còn hạn
chế, cùng với đó là việc nhận thức chưa đầy đủ của cộng đồng về
giáo dục hòa nhập, là những thách thức đối với ngành giáo dục trong
giai đoạn tiếp theo.
3.1.3. Về giáo dục phù hợp với đối tượng
20



3.1.3.1. Theo theo giới tính
Phân tích số liệu từ "Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ, thời điểm
1/4/2014" của Tổng cục Thống kê cho thấy chỉ số bình đẳng giới ở
cấp tiểu học là 1,00 (tỷ lệ đi học tiểu học của nhóm nữ trên tỷ lệ đi
học tiểu học của nhóm nam). Điều đó có nghĩa là phần lớn trẻ em
trong độ tuổi tiểu học đang đi học đúng tuổi (96,8%) và không có sự
chênh lệch về giới (nam: 96,7%; nữ: 96,8%). Tuy nhiên, tỷ lệ này ở
THCS là 1,02 và THPT là 1,14. Kết quả này cho thấy, trẻ em gái ở
tiểu học được đi học cân bằng với trẻ em trai, tuy nhiên, càng lên cấp
học cao hơn, đặc biệt ở cấp THPT thì tỷ lệ nữ đi học cao hơn so với
nam. Tỷ lệ chuyển cấp từ tiểu học lên THCS có sự khác biệt, trong
khi có 98,0% nam thì ở nữ chỉ có 93,4%.
3.1.3.2. Theo nhóm thu nhập
Qua kết quả khảo sát tỉ lệ đi học theo nhóm thu nhập cho thấy còn
tồn tại trong việc thực hiện CBXH trong giáo dục, cụ thể là:
- Tiếp cận không đồng đều tới dịch vụ giáo dục và sự khác nhau đáng
kể về các chỉ số kết quả. Phạm vi đối tượng dịch vụ giáo dục không
bao trùm hết bộ phận dân cư nghèo nhất. Các số liệu phân tích ở trên
cho thấy với tỷ lệ đi học đúng tuổi thì khoảng cách giữa người giàu
và người nghèo nhất hoặc không được rút ngắn hoặc còn giảm chậm.
- Khả năng trang trải các dịch vụ giáo dục của người nghèo còn thấp
và thực tế đang giảm xuống. Trong lĩnh vực giáo dục chi phí đi học
trực tiếp và gián tiếp càng làm tăng khoảng cách tiếp cận đặc biệt đối
với trung học cơ sở và cao hơn.
- Khả năng tiếp cận giáo dục của trẻ em nông thôn đang còn thấp hơn
nhiều so với trẻ em ở thành thị, đặc biệt là cấp học mầm non và
THPT. Hơn nữa khả năng tiếp cận dịch vụ giáo dục của trẻ em gái
vẫn còn thấp hơn so với trẻ em trai, đặc biệt là đối với khu vực nông
thôn và vùng sâu, vùng xa.

- Với việc thực hiện chính sách ngày học hai buổi ở cấp tiểu học đa
làm cho trẻ em nghèo bị thiệt thòi trong việc tiếp cận giáo dục có chất
lượng cao, vì số giờ dạy thêm không được trả từ kinh phí nhà nước mà
từ phần đóng góp của phụ huynh HS.
21


3.2.Một số hạn chế trong việc thực hiện công bằng trong GDĐT ở
Việt Nam hiện nay
3.2.1. Về địa lí tự nhiên của Việt Nam
3.2.2. Đời sống kinh tế của nhiều gia đình chưa ổn định
3.2.3. Do nhận thức của một bộ phận cha mẹ HS chưa nhận thức đầy
đủ về ích lợi của việc học tập
3.2.4. Do HS chưa xác định được động cơ học tập
3.2.5. Các vấn đề xã hội khác mới phát sinh
CHƯƠNG 4
MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN THỰC HIỆN
CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG GIÁO DỤC PHỔ THÔNG Ở
VIỆT NAM
4.1. Một số quan điểm
Một là, đảm bảo sự lanh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước trong
giáo dục là một tất yếu khách quan.
Hai là, Thực hiện CBXH trong GDPT phải tiến hành đồng bộ với
chính sách phát triển kinh tế - xa hội và gắn liền với việc
thực hiện xa hội hóa giáo dục
Ba là, thực hiện CBXH trong GDPT phải gắn liền với đổi mới đồng
bộ GDPT
Bốn là, CBXH trong GDPT không phải là sự cào bằng, chia đều cho tất
cả mọi người, Nhà nước có chính sách đầu tư nhằm tạo ra cơ hội, điều
kiện như nhau trong tiếp cận các hình thức GDPT đối với cư dân các

vùng miền, các dân tộc, các thành phần và giới tính khác nhau.
4.2. Các nhóm giải pháp chủ yếu
4.2.1. Nhóm giải pháp về nhận thức
Tăng cường tuyên truyền rộng rai và hiệu quả về quyền trẻ em, về lợi
ích của việc đến trường và việc cần thiết phải cho cả trẻ em nam và
nữ đến trường. Cần phổ biến các tấm gương, hình ảnh tích cực về
việc chuyên cần học tập và kết quả trong việc đưa gia đình ra khỏi cái
nghèo, thoát khỏi các truyền thống tập tục làm ảnh hưởng đến quyền
trẻ em như tảo hôn...
4.2.2. Nhóm giải pháp về tổ chức bộ máy
22


- Cơ cấu, hoàn thiện lại hệ thống giáo dục quốc dân
- Đa dạng hoá các loại hình giáo dục, học đi đôi với hành, giáo dục
nhà trường gắn liền với giáo dục gia đình, giáo dục xa hội, tạo nên
môi trường giáo dục lành mạnh ở mọi nơi, trong từng cộng đồng, tập
thể để thực hiện công bằng trong tiếp cận giáo dục
- Hoàn thiện chương trình giáo dục
Chuyển mô hình từ giáo dục chủ yếu là truyền thụ kiến thức, vị bằng
4.2.3. Nhóm giải pháp về cơ chế hành chính
- Ban hành các chính sách khuyến khích trẻ em gái và phụ nữ ở các
vùng DTTS đến trường. Hỗ trợ, tạo điều kiện để họ được tiếp tục học
ở các bậc học cao.
- Tiến hành rà sóat toàn bộ chương trình, sách giáo khoa mới dưới
lăng kính giới, để có những có những chỉnh sửa kịp thời, nhằm thay
đổi những định kiến giới. Ðồng thời tổ chức các khóa tập huấn nâng
cao nhận thức giới cho đội ngũ GV và các tác giả xây dựng chương
trình và viết sách giáo khoa.
- Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu giáo dục tách biệt giới và nâng cao

năng lực nghiên cứu định tính và định lượng cho cán bộ QLGD,
nhằm nhận diện kịp thời các vấn đề giới để có biện pháp khắc phục.
KẾT LUẬN
Trong những năm qua, công tác tăng cường khả năng tiếp cận GDPT
cho trẻ em đa đạt được những thành tựu và kết quả đáng ghi nhận. Đa
có một bước nhảy vọt về thu hẹp khoảng cách giữa các nhóm dân tộc,
giữa các vùng miền, giữa em trai và em gái, giáo dục cho trẻ em
nghèo tại tỉnh. Dần dần bắt kịp được với các khu vực khác có điều
kiện thuận lợi hơn.
Quy mô giáo dục được mở rộng; hệ thống trường lớp phát triển mạnh
từng bước đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân các dân tộc trong
tỉnh. Vấn đề CBXH trong giáo dục được quan tâm và tỉnh đa có những
chủ trương, chính sách thiết thực, cụ thể nhằm giải quyết vấn đề
CBXH trong giáo dục nói chung, những người nghèo và đối tượng
chính sách nói riêng. Việc thực hiện các chủ trương, chính sách đó đa
23


×