Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

vận DỤNG lý LUẬN về THỜI kỳ QUÁ độ của lê NIN TRONG tác PHẨM KINH tế và CHÍNH TRỊ TRONG THỜI đại CHUYÊN CHÍNH vô sản vào PHÁT TRIỂN nền KINH tế HÀNG hóa NHIỀU THÀNH PHẦN ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.81 KB, 18 trang )

MỞ ĐẦU
Nhân dịp kỷ niệm 2 năm thành lập chính quyền Xô Viết (ngày 7-111917, ngày 7-11-1919), V.I.Lênin có ý định viết một cuốn sách nhỏ, tiếp tục
những tư tưởng của tác phẩm “Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô
Viết” đã viết trước đây. Trong cuốn sách nhỏ này, V.I.Lênin muốn tổng kết
những kinh nghiệm của Nhà nước Xô Viết đầu tiên trên thế giới trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ yếu ở hai lĩnh vực kinh tế và chính trị
trong thời đại chuyên chính vô sản và những vấn đề xung quanh thời kỳ quá
độ. Nhưng do nguy cơ xâm lược của các nước đế quốc và nội chiến cách
mạng, nước Nga Xô Viết phải dốc toàn lực để chống thù trong, giặc ngoài, bảo
vệ nhà nước non trẻ. Vì vậy, ý định viết cuốn sách nhỏ của V.I.Lênin cũng
không thực hiện được. Do bận nhiều việc, V.I.Lênin chỉ viết bài báo trình bày
những tư tưởng chủ yếu nhất của cuốn sách chưa kịp viết có tính chất đặt vấn
đề để đảng viên thảo luận. Ngày 30 tháng 10 năm 1919, bài báo được viết
xong và đăng ở Báo Sự thật số 250 ngày 7-11-1919 lấy tên là: Kinh tế và chính
trị trong thời đại chuyên chính vô sản.
Tác phẩm được viết trong hoàn cảnh nước Nga sau hai năm ra đời và
tồn tại của chính quyền Xô Viết. Đây là một trong những thời kỳ khó khăn và
nghiêm trọng nhất đối với nhà nước Xô Viết non trẻ.
Tác phẩm Kinh tế và chính trị trong thời đại chuyên chính vô sản của
V.I.Lênin gồm lời mở đầu và 5 phần, trình bày những vấn đề chủ yếu nhất về lý
luận và thực tiễn của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhằm vũ trang cho quần
chúng và cán bộ đảng viên hiểu thực chất thời kỳ quá độ và các nhiệm vụ đặt ra
cho đất nước, hiểu được đường lối chính sách của Đảng Cộng sản và chính quyền
Xô Viết. Trên cơ sở đó định hướng tư tưởng, củng cố lòng tin của quần chúng đối
với Đảng và chính quyền Xô Viết trong cuộc đấu tranh bảo vệ thành quả cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, thông qua đó bảo vệ và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác về vấn đề đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ, về lý luận xây dựng
chủ nghĩa xã hội hiện thực; phê phán các quan điểm của bọn cơ hội, xét lại xuyên
tạc chủ nghĩa Mác.
Đối với nước ta hiện nay, đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Vì vậy,
1




việc vận dụng sáng tạo lý luận của V.I.Lênin về thời kỳ quá độ, đặc biệt là những
luận điểm của Người về đặc điểm kinh tế của thời kỳ quá độ, vào xây dựng và
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là một vấn đề rất quan trọng,
góp phần đưa nước ta sớm trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại
và tiến nhanh, tiến vững chắc lên CNXH.
Với ý nghĩa đó, tác giả chọn vấn đề “Sự vận dụng lý luận về thời kỳ quá
độ của V.I.Lênin trong tác phẩm “Kinh tế và chính trị trong thời đại chuyên
chính vô sản” vào phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta
hiện nay” để làm nội dung thu hoạch tác phẩm “Kinh tế và chính trị trong thời
đại chuyên chính vô sản” của V.I.Lênin.

2


NỘI DUNG
1. Một số vấn đề lý luận của V.I.Lênin về thời kỳ quá độ
1.1. Lý luận của V.I.Lênin về tính tất yếu, đặc trưng cơ bản của thời
kỳ quá độ
C.Mác là người đầu tiên trình bày tư tưởng về thời kỳ quá độ trong tác
phẩm Phê phán cương lĩnh Gôta. C.Mác đã dự báo những nét cơ bản nhất của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản.
Kế thừa những tư tưởng của C.Mác, V.I.Lênin đã nghiên cứu toàn diện
thời kỳ quá độ với tính cách là một thời đại lịch sử mở đầu hình thái kinh tế
cộng sản chủ nghĩa được thể hiện trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”.
Còn trong tác phẩm này, V.I.Lênin tiếp tục nghiên cứu thời kỳ quá độ trên cơ
sở tổng kết kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước Xô viết.
- Về tính tất yếu lịch sử của thời kỳ quá độ
Thời kỳ quá độ là một thời kỳ lịch sử chuyển biến từ hình thái kinh tế

-xã hội cũ lên hình thái kinh tế-xã hội mới, tiến bộ.
V.I.Lênin chỉ rõ: “Về lý luận, không thể nghi ngờ gì được rằng giữa chủ
nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản có một thời kỳ quá độ nhất định. Thời kỳ
đó không thể không bao gồm những đặc điểm hoặc đặc trưng của cả hai kết
cấu kinh tế xã hội ấy”.
Về thực tiễn: “Không riêng gì đối với một người mácxít, mà cả đối với
bất cứ một người trí thức nào đã hiểu theo cách này hay cách khác thuyết tiến
hóa, thì tính tất yếu của cả một thời đại lịch sử mang những đặc điểm ấy của
một thời kỳ quá độ, tự nó cũng đã là hiển nhiên rồi”1.
Như vậy, cả về lý luận và thực tiễn khẳng định thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là tất yếu với mọi nước và là quy luật tiến hoá của lịch sử.
- Đặc trưng cơ bản của thời kỳ quá độ
Thời kỳ quá độ là thời kỳ còn tồn tại 2 kết cấu kinh tế - xã hội: chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Trước đây, trong tác phẩm: "Bệnh ấu trĩ tả
khuynh...", V.I.Lênin cũng chỉ rõ “thời kỳ quá độ bao gồm cả những thành
phần, bộ phận, mảnh của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội” và vấn đề mấu
1 . V.I.Lênin, Toàn tập, tập 39, Nxb. Tiến Bộ, M, 1979, tr. 309,310.

3


chốt chính là ở chỗ đó để xem xét, phân tích kết cấu kinh tế giai cấp thời kỳ
quá độ.
Thời kỳ quá độ là thời kỳ của đấu tranh giai cấp “giữa chủ nghĩa tư bản
đang giãy chết và chủ nghĩa cộng sản đang phát sinh, hay nói một cách khác,
giữa chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt hẳn và chủ nghĩa
cộng sản đã phát sinh những vẫn còn rất non yếu”. Đó là thời kỳ chuyển hoá
về so sánh lực lượng có lợi cho giai cấp vô sản, là thời kỳ cái mới là chủ nghĩa
xã hội ra đời phát triển, nhưng còn non yếu. Do đó, cần chống tư tưởng cơ hội,
điều hoà hai lực lượng, chống tư tưởng hoà bình, cải lương; khẳng định đấu

tranh giai cấp là tất yếu và khẳng định vai trò lãnh đạo xã hội thuộc về giai cấp
vô sản - giai cấp tiêu biểu cho chiều hướng tiến bộ của lịch sử. V.I.Lênin cũng
đã phê phán những người phái dân chủ tiểu tư sản, trong đó có những đại biểu
của Quốc tế II như: Mác Đônan, Giăng Lôngghe, Phriđrich Átlơ, Causky, v.v...
Họ không thừa nhận thời kỳ quá độ và cho rằng, chủ nghĩa tư bản tự nhiên tiến
lên chủ nghĩa cộng sản; phủ nhận tính tất yếu thời kỳ quá độ, qua đó phủ nhận
đấu tranh giai cấp. Họ giả danh chủ nghĩa xã hội, nhưng chính họ là đại biểu
của phái dân chủ tư sản.
Việc xác định đúng thời kỳ quá độ có ý nghĩa rất lớn đối với các Đảng
Cộng sản trong việc đề ra đường lối chiến lược, sách lược trong thời kỳ quá
độ; phân biệt được những người cộng sản chân chính với những người cải
lương, cơ hội, xét lại...
1.2. Lý luận của V.I.Lênin về đặc điểm kinh tế chính trị của thời kỳ
quá độ
Đặc điểm phổ biến của các nước đi lên chủ nghĩa xã hội là tồn tại nhiều
thành phần, nhiều lực lượng và hình thức kinh tế. V.I.Lênin cho rằng, “ở nước
Nga, những lực lượng cơ bản, những hình thức cơ bản của nền kinh tế giống
như bất cứ nước tư bản nào khác quá độ lên chủ nghĩa cộng sản. Các hình thức
cơ bản là: chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư sản, tiểu sản xuất hàng hóa. Các lực
lượng cơ bản là: giai cấp tư sản, giai cấp tiểu tư sản (nhất là nông dân), giai
cấp vô sản”.
Tính đặc thù nền kinh tế nước Nga ở thời kỳ quá độ “là một nước tiểu tư
sản và rất lạc hậu, … tất nhiên phải có những đặc điểm khác với những nước
4


tiên tiến”. Đặc điểm khác đó chính là tồn tại trên phạm vi rộng lớn kinh tế tiểu
sản xuất hàng hoá và kinh tế nông dân gia trưởng. Trong tác phẩm "bệnh ấu trĩ
tả khuynh và tính tiểu tư sản” V.I.Lênin chỉ ra ở nước Nga có 5 thành phần
kinh tế: kinh tế xã hội chủ nghĩa, kinh tế chủ nghĩa tư bản nhà nước, kinh tế tư

bản tư nhân, kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ, kinh tế nông dân gia trưởng.
Các thành phần khác nhau của kết cấu kinh tế - xã hội đó đều xen kẽ
với nhau, đấu tranh với nhau phản ánh tính chất của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. V.I.Lênin cũng chỉ rõ, danh từ quá độ vận dụng vào kinh tế là
trong chế độ hiện nay có những thành phần, bộ phận, những mảnh của cả chủ
nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội. Nhưng điểm then chốt của vấn đề lại chính
ở chỗ phải suy nghĩ xem các thành phần, kết cấu kinh tế-xã hội khác nhau hiện
có ở Nga.
Ở nước Nga tồn tại 5 thành phần vừa phản ánh đặc điểm chung của các
nước đi lên chủ nghĩa xã hội vừa mang tính đặc thù do tình trạng kinh tế lạc
hậu của một nước tiểu nông. Tỷ trọng các thành phần kinh tế cũng do đặc thù
mỗi nước quy định. Thực tiễn lịch sử các nước đi lên chủ nghĩa xã hội đã
chứng minh điều đó.
Từ kết cấu kinh tế đó, V.I.Lênin khẳng định đấu tranh giai cấp trên lĩnh
vực kinh tế ở Nga là “cuộc đấu tranh của những bước đầu của lao động liên
hiệp theo nguyên tắc cộng sản chủ nghĩa - trên phạm vi quốc gia rộng lớn chống lại nền tiểu sản xuất hàng hóa và chủ nghĩa tư bản đang được duy trì và
phục hồi trên cơ sở nền tiểu sản xuất” 2. Lao động được tổ chức theo nguyên
tắc cộng sản chủ nghĩa được xác lập là do, một là quyền tư hữu tư liệu sản xuất
đã bị thủ tiêu thông qua tịch thu, quốc hữu hoá các cơ sở kinh tế, ruộng đất của
tư bản và địa chủ. Hai là, chính quyền nhà nước vô sản đã tổ chức và xác lập
được các xí nghiệp quốc doanh, các nông trường quốc doanh, và các hình thức
hợp tác xã tiểu nông; tổ chức phân phối được lao động cho các ngành kinh tế,
cho các xí nghiệp của nhà nước, phân phối được sản phẩm tiêu dùng cho người
lao động.
Tuy vậy, những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa cộng sản được xác lập mới
2 . Sđ d, tr 311.

5



chỉ là bước đầu, vì theo V.I.Lênin “tất cả những điều kiện ấy ở nước Nga chỉ
mới thực hiện được có một phần, chỉ mới ở giai đoạn đầu”.
V.I.Lênin đặc biệt chú ý tính đặc thù của nước Nga là nền tiểu sản xuất
hàng hoá, đây là một cơ sở vô cùng rộng lớn, rất sâu, rất chắc để chủ nghĩa tư
bản duy trì, phục hồi và đấu tranh chống chủ nghĩa cộng sản. Điều này đặt ra
nhiệm vụ mới cho Nhà nước chuyên chính vô sản trong việc tổ chức xây dựng
nền kinh tế theo hướng xã hội chủ nghĩa, đấu tranh chống tính tự phát tư bản
chủ nghĩa, nhất là chống buôn lậu và đầu cơ lúa mì.
V.I.Lênin đã dẫn ra những số liệu thống kê thực tế mà Bộ Dân uỷ lương
thực đã báo cáo về việc thu mua và phân phối lúa mì cho người lao động. Qua
đó khẳng định: “Đứng về phương diện sự thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản đối
với chủ nghĩa tư bản mà nói thì những con số ấy biểu hiện rõ rệt là tình hình
của chúng ta đang được cải thiện từ từ và liên tục… và có một điều không thể
chối cãi được là, sự thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản đối với chủ nghĩa tư bản
là điều được bảo đảm”3.
2. Sự vận dụng của Đảng ta trong phát triển kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần
2.1. Sự cần thiết phải phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần ở nước ta
Chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần được Đảng
ta đề ra lần đầu tiên tại Đại hội VI. Có thể nói, đây là một chủ trương hoàn
toàn đúng đắn của Đảng, bởi lẽ phát triển kinh tế nhiều thành phần lúc này
được coi là một tất yếu:
Thời kỳ trước đổi mới, nước ta tồn tại nhiều loại trình độ lực lượng sản
xuất khác nhau. Để đáp ứng yêu cầu của quy luật quan hệ sản xuất phải phù
hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì đòi hỏi phải
có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế.
Trước thời kỳ đổi mới, nền kinh tế ở nước ta là nền kinh tế tập trung,
bao cấp. Kinh tế tập trung, bao cấp được đặc trưng bằng việc nhà nước quản lý
nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ thống chỉ tiêu

pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới; các doanh nghiệp làm ăn lỗ thì
3 . Sđ d, tr 313.

6


nhà nước bù, lãi thì nhà nước thu; các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu
vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu
trách nhiệm về vật chất và pháp lý đối với các quyết định của mình; quan hệ
hàng hóa - tiền tệ bị coi nhẹ, mà thay vào đó là hình thức quan hệ hiện vật là chủ
yếu. Nhà nước quản lý kinh tế thông qua chế độ “cấp phát - giao nộp”; bộ máy
quản lý cồng kềnh nhiều cấp trung gian hoạt đông kém hiệu quả sinh ra quan
liệu phong cách cửa quyền nhưng lại được hưởng quyền lợi cao hơn người lao
động... Chế độ bao cấp đã trở thành vật cản lớn trên con đường phát triển của
nước ta kéo nước ta, kinh tế khủng hoảng, trì trệ. Lúc này, một tình thế đặt ra
cho đất nước thời bấy giờ là “đổi mới hay là chết”? Đổi mới kinh tế mà nội
dung là phát triển kinh tế nhiều thành phần là sự lựa chọn tất yếu lúc này.
Nước ta có lực lượng lao động dồi dào (Năm 2014 ước tính 53 triệu
người), cần cù, thông minh nhưng số người chưa có việc làm còn nhiều, vừa
lãng phí sức lao động, vừa gây những khó khăn lớn về kinh tế. Trong khi khả
năng thu hút lao động của khu vực kinh tế nhà nước không nhiều thì việc tận
dụng, khai thác tiềm năng của các thành phần kinh tế khác là một giải pháp
quan trọng để tăng thêm việc làm cho người lao động.
Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần nhằm tạo ra sự cạnh tranh
lành mạnh giữa các tổ chức kinh tế thuộc các thành phần kinh tế khác nhau.
2.2. Chủ trương của Đảng về phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần ở nước ta
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn và đầy đủ về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt
Nam (tháng 12-1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm

thực hiện có hiệu quả công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội đưa ra
những quan niệm mới về con đường, phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội,
đặc biệt là quan niệm về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá
độ; về cơ cấu kinh tế, thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hóa
và thị trường, phê phán triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, và khẳng
định chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh. Đại hội chủ trương phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần với những hình thức kinh doanh phù hợp; coi trọng
việc kết hợp lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội; chăm lo toàn diện và phát huy
7


nhân tố con người, có nhận thức mới về chính sách xã hội. Đại hội VI được là
một cột mốc đánh dấu bước chuyển quan trọng trong nhận thức của Đảng
Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam.
Hội nghị Trung ương 6 (tháng 3-1989), khóa VI, phát triển thêm một
bước, đưa ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều
thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội, coi “chính sách kinh tế nhiều thành phần
có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa
xã hội”.
Đến Đại hội VII (tháng 6-1991), Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục nói
rõ hơn chủ trương này và khẳng định đây là chủ trương chiến lược, là con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng khẳng định: Phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Đại hội VIII của Đảng nêu 5 thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước, kinh tế
hợp tác, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân.
Đại hội IX của Đảng xác định, ở nước ta hiện nay, cần phát triển 6 thành
phần kinh tế, tức là ngoài 5 thành phần kinh tế nêu trên, có thêm thành phần

kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và nhấn mạnh các thành phần kinh tế đó đều là
bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế
nhà nước cùng với kinh tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền
kinh tế quốc dân. Có thể nói đây là quá trình đổi mới tư duy kinh tế của Đảng có
tầm quan trọng đặc biệt, nó tạo điều kiện cho mọi cá nhân, đơn vị, tập thể khai
thác phát huy mọi tiềm năng, nội lực, tạo ra một tổng hợp lực thật sự cho việc
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tại Đại hội X (năm 2006), Đảng ta xác định cơ cấu nền kinh tế nước ta
gồm năm thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân,
kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Điểm mới ở đây là
đã gộp kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân thành thành phần kinh tế tư
nhân, đồng thời khẳng định đảng viên được phép làm kinh tế tư nhân. Văn
8


kiện Đại hội X cũng khẳng định các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu
thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, các
thành phần kinh tế bình đẳng với nhau. Điều này có tác dụng tích cực tạo sự
yên tâm phát triển sản xuất kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp trong các
thành phần kinh tế phi nhà nước.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn đổi mới, Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã
có những khái quát mới về lý luận: “Phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế,
hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối.”4
Lần đầu tiên trong Văn kiện, Đảng ta nêu đa dạng hóa các hình thức sở
hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp. Đây là một bước phát
triển mới trong nhận thức lý luận của Đảng về nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội chúng ta ngày càng nhận thức rõ

hơn mối quan hệ giữa chế độ sở hữu, hình thức sở hữu và loại hình kinh
doanh. Mỗi chế độ sở hữu trong thực tiễn có thể có nhiều hình thức sở hữu mà
ở đó sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất và biểu hiện ra là các loại hình kinh doanh có hiệu quả cao góp vào
quá trình tăng trưởng kinh tế. Sự phát triển đa dạng của các hình thức sở hữu là
do sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất càng đa dạng, trình
độ xã hội càng phát triển, quan hệ sản xuất càng mở rộng thì tính đa dạng
trong quan hệ sở hữu cũng ngày càng tăng lên.
Vì vậy, Văn kiện Đại hội XI của Đảng chỉ nhấn mạnh: Phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh, còn số lượng các hình
thức sử hữu, các thành phần kinh tế và theo đó là bao nhiêu loại hình doanh
nghiệp là do nhu cầu khách quan của sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực
lượng sản xuất quyết định. Đây là một bước tiến nhằm tạo một không gian mở
cho quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất hoạt
động, để có thể tránh giáo điều chủ quan.

4 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.73
9


Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã đưa ra khái quát mới về mặt lý luận:
“Tiếp tục thể chế hóa quan điểm của Đảng về phát triển đa dạng các hình thức
sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp; bảo hộ các quyền
và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu tài sản thuộc các hình thức sở hữu, các loại
hình doanh nghiệp trong nền kinh tế; xây dựng, hoàn thiện luật pháp về sở hữu
đối với các loại tài sản mới như sở hữu trí tuệ, cổ phiếu, trái phiếu, tài nguyên
nước..., quy định rõ quyền, trách nhiệm của các chủ sở hữu đối với xã hội”.5
“Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở
thành một trong những động lực của nền kinh tế. Phát triển mạnh các loại hình

kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành, lĩnh vực kinh tế theo quy hoạch và quy
định của pháp luật. Tạo điều kiện hình thành một số tập đoàn kinh tế tư nhân
và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước” 6, “Các thành phần kinh
tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh
tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh
lành mạnh”7.
Có thể có ý kiến còn băn khoăn về cách tiếp cận nêu trên của Văn kiện
Đại hội XI của Đảng so với lý luận của V.I. Lê-nin về các thành phần kinh tế
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chúng ta biết rằng, nhận thức về
thành phần kinh tế của V.I. Lê-nin cũng rất uyển chuyển, linh hoạt phù hợp với
các giai đoạn phát triển khác nhau: Giai đoạn áp dụng chính sách cộng sản thời
chiến, thành phần kinh tế được nhấn mạnh trên cơ sở quan hệ sở hữu nhất
định, nhưng khi chính sách kinh tế mới (NEP) ra đời, thành phần kinh tế lại
được nhấn mạnh đến các hình thức kinh tế.
Như vậy, ở các giai đoạn khác nhau thì nhận thức về thành phần kinh tế
cũng có sự thay đổi, đó là quá trình khách quan phù hợp với quy luật nhận
thức. Vì vậy, quá trình đổi mới tư duy, đổi mới nhận thức về các thành phần
kinh tế ở nước ta qua các kỳ đại hội của Đảng là hoàn toàn phù hợp với
nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và phù hợp với
thực tiễn Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, thời kỳ đang phát
triển cả về chiều rộng và chiều sâu.
5 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.206
6 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.209
7 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.73

10


Sự phát triển không đồng đều của lực lượng sản xuất, tính kế thừa trong
phát triển, cũng như đặc điểm cụ thể của đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên

chủ nghĩa xã hội, v.v. quy định sự tồn tại đa dạng, đan xen của các hình thức sở
hữu và tương ứng với đó là sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần ở nước
ta hiện nay. Trong cơ cấu nền kinh tế đó, kinh tế nhà nước được Đảng xác định
là thành phần đóng vai trò chủ đạo, các thành phần kinh tế khác góp phần quan
trọng trong việc huy động mọi tiềm năng, nguồn lực vào sản xuất, kinh doanh,
phát triển lực lượng sản xuất. Trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện
nay, có những thành phần kinh tế đã thể hiện tốt vai trò của mình, song cũng có
những thành phần kinh tế còn bộc lộ những hạn chế, yếu kém.
Về kinh tế nhà nước, thành phần kinh tế này lấy sở hữu công cộng về
tư liệu sản xuất là cơ sở kinh tế. Kinh tế nhà nước không chỉ bao gồm các
doanh nghiệp nhà nước, mà còn bao gồm các tài sản, công cụ kinh tế quan
trọng thuộc sở hữu nhà nước, v.v.. Đảng ta xác định rõ: Kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo, v.v.. Vai trò đó được thể hiện cụ thể: Doanh nghiệp nhà nước
giữ vị trí then chốt ở những ngành, lĩnh vực kinh tế và địa bàn quan trọng của
đất nước, các doanh nghiệp nhà nước đi đầu trong tiến bộ khoa học công nghệ;
kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng và công cụ để nhà nước thực
hiện chức năng điều tiết, quản lý vĩ mô nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ
nghĩa; kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc của nền kinh tế quốc dân. Mặc dù có vai trò chủ đạo nhưng kinh tế nhà
nước lại bộc lộ nhiều yếu kém: Vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước luôn
chiếm tỷ lệ cao (trên dưới một nửa) trong tổng đầu tư xã hội nhưng tỷ lệ đóng
góp vào GDP không cân xứng chỉ ở mức 37-39% và tạo công ăn việc làm cho
khoảng 4,4% của tổng số lao động. Suốt hàng chục năm khu vực kinh tế nội
địa, mà có lẽ chủ yếu là khu vực kinh tế nhà nước, luôn nhập siêu ở mức cao,
khu vực đầu tư nước ngoài lại xuất siêu, nói cách khác các doanh nghiệp nhà
nước đã tiêu dùng và đầu tư hơn mức nó tạo ra rất nhiều trong thời gian dài. Sự
kém hiệu quả của khu vực kinh tế nhà nước là một trong những nguyên nhân
chính gây bất ổn kinh tế vĩ mô, tăng lạm phát. Thực trạng trên đòi hỏi cần phải
cơ cấu lại thành phần kinh tế nhà nước, từ đó làm tốt hơn vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế quốc dân.

11


Cùng với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể được coi là một thành phần
kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Thành phần kinh tế này tồn tại và phát triển dựa
trên hình thức sở hữu tập thể và sở hữu của các thành viên. Sự phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đòi hỏi phát triển mạnh mẽ và vững
chắc thành phần kinh tế này, bởi như V.I.Lênin đã nhấn mạnh, đó là mô hình
dễ tiếp thu nhất của những người nông dân để tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa. Rút bài học kinh nghiệm sâu sắc từ phong trào tập thể hoá trước đổi mới
và thực tế những năm đổi mới vừa qua, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến
việc phát triển thành phần kinh tế này, chủ trương xây dựng các hợp tác xã
kiểu mới phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất và nhu cầu của các chủ
thể sản xuất. Những năm qua, mặc dù được xác định là cùng với kinh tế nhà
nước ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân, song
sự phát triển của kinh tế tập thể còn nhiều hạn chế: hoạt động chưa có hiệu
quả, cơ sở vật chất - kỹ thuật còn lạc hậu, tỷ trọng GDP liên tục giảm. Do vậy,
để kinh tế tập thể cùng với kinh tế nhà nước thật sự trở thành nền tảng của nền
kinh tế quốc dân, chúng ta cần có những biện pháp tích cực để kinh tế tập thể
phát triển từng bước, vững chắc.
Kinh tế tư nhân bao gồm cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân. Nhìn
chung, sau gần 30 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã có bước phát triển mạnh mẽ
và đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Trong những
năm gần đây, kinh tế dân doanh phát triển khá nhanh, hoạt động có hiệu quả
trên nhiều lĩnh vực. Trong kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể, tiểu chủ dựa trên
hình thức tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, có vai trò quan trọng trong nhiều
ngành nghề ở cả thành thị và nông thôn, có khả năng huy động vốn và lao
động. Đóng góp của kinh tế cá thể, tiểu chủ trong lĩnh vực nông nghiệp khá
lớn, tỷ trọng GDP khá cao nhưng lại đang giảm liên tục. Sự giảm sút này
không đáng lo ngại, thậm chí là một dấu hiệu tích cực, phản ánh sự di chuyển

khá mạnh mẽ của nó vào các bộ phận, các thành phần kinh tế có trình độ cao
hơn; thực chất, là sự thu hẹp cách thức sản xuất nhỏ lẻ để tiến lên những hình
thức sản xuất tiến bộ hơn. Đây là một xu thế tất yếu, do sự phát triển của nền
kinh tế thị trường và quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang diễn ra một
cách mạnh mẽ buộc những thành viên của kinh tế cá thể, tiểu chủ phải thay
12


đổi, di chuyển vào các bộ phận, các thành phần kinh tế khác để bảo đảm lợi
ích, do đó làm tăng sức cạnh tranh và cơ hội để phát triển khoa học và công
nghệ, nâng cao năng lực sản xuất. Đối với kinh tế tư bản tư nhân, đây là bộ
phận kinh tế dựa trên hình thức sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản
xuất. Trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, bộ phận kinh tế này đã
đóng góp tích cực vào việc phát triển ực lượng sản xuất, huy động vốn, tạo
việc làm cho người lao động, v.v.. Từ khi Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật
Công ty ra đời (21/12/1990), các doanh nghiệp tư nhân đã thực sự đi vào hoạt
động với đầy đủ tư cách pháp nhân, kinh tế tư bản tư nhân đã có sự phát triển
đáng kể, phát huy có hiệu quả khả năng huy động vốn và tạo việc làm mới cho
người lao động; đóng góp của nó cũng ngày càng tăng. Tuy nhiên, do mới hình
thành, nên tỷ trọng cơ cấu GDP của nó chưa cao. Đối với thành phần kinh tế
này, Đảng ta chủ trương khuyến khích phát triển rộng rãi trong những ngành
nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm; tạo môi trường kinh
doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để nó phát triển trên những định hướng
ưu tiên của Nhà nước, v.v..
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một thành phần kinh tế mới nảy
sinh trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Năm 1987, khi Luật
Đầu tư trực tiếp nước ngoài được ban hành thì kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài mới thực sự có bước phát triển nhanh chóng. Hiện nay, đã có hàng ngàn
công ty nước ngoài có dự án đầu tư ở Việt Nam. Tính từ năm 1988 đến năm
2003, nước ta đã thu hút được trên 40 tỷ USD đầu tư trực tiếp nước ngoài và

đã thực hiện được hơn 20 tỷ USD. Năm 2005, các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài đóng góp khoảng 15,9% GDP, năm 2007 khoảng 17%. Từ khi
chúng ta gia nhập WTO, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đổ vào
Việt Nam tăng đột biến, năm 2014 là gần 22 tỷ USD.
Tuy nhiên, sự phát triển của thành phần kinh tế này đã và đang nảy sinh
một vấn đề - đó là sự lệ thuộc vào nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Giả định
rằng, vì lý do nào đó, chẳng hạn lạm phát, các nhà đầu tư nước ngoài đồng loạt
rút một số lượng lớn nguồn vốn đầu tư thì tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam
sẽ thế nào? Hoặc là tỷ trọng GDP của thành phần kinh tế này ngày càng lớn
đến mức ngang bằng hoặc vượt kinh tế nhà nước thì liệu kinh tế nhà nước có
13


thể duy trì được vai trò chủ đạo của mình không? Nhà nước có thể kiểm soát
được thành phần kinh tế này hay không? Rõ ràng, sự phát triển của thành phần
kinh tế này đem lại những lợi ích kinh tế - xã hội rất lớn, đồng thời cũng tiềm
ẩn những nguy cơ ảnh hưởng trực tiếp đến định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam. Một biện pháp cần đặt ra lúc này là chúng ta phải phát triển mạnh mẽ
kinh tế nhà nước để tạo nên sức mạnh thực sự của nền kinh tế quốc dân; mặt
khác, phải có biện pháp phát triển thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
một cách phù hợp.
Như vậy, cùng với quá trình tổng kết kinh nghiệm và phát triển sáng tạo
lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã
bước đầu tìm ra những biện pháp, bước đi mang tính quy luật của quá trình đi
lên chủ nghĩa xã hội. Một trong những biện pháp đó, xét về mặt kinh tế, là phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần. Để nền kinh tế nhiều thành phần phát triển
theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, một mặt, chúng ta phải tạo môi trường
phát triển thuận lợi, đảm bảo tính độc lập, tự chủ của các thành phần kinh tế,
trong đó kinh tế nhà nước phải thực sự đóng vai trò chủ đạo; mặt khác, chúng ta
phải tăng cường vai trò của Đảng và Nhà nước trong lãnh đạo, quản lý kinh tế.

3. Một số giải pháp để phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần ở nước ta hiện nay
Để khắc phục những khó khăn, phát huy những thuận lợi, tiếp tục thúc
đẩy phát triển các thành phần kinh tế, phát huy các nguồn lực xây dựng nền kinh
tế quốc dân vững mạnh trước, cần thiết phải đặt ra những giải pháp cụ thể sau:
Một là, Nhận thức đúng về sự cần thiết tồn tại nhiều thành phần kinh tế
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Phải thực sự giải phóng tư
tưởng cho các chủ thể các thành phần kinh tế, tạo “sân chơi” bình đẳng, lành
mạnh cho các thành phần kinh tế. Khắc phục tâm lý mặc cảm, kỳ thị, sợ chệch
hướng xã hội chủ nghĩa, mất độc lập chủ quyền, đi theo hướng tư bản chủ
nghĩa… Từ đó ngại ngùng, không dám cho các thành phần kinh tế phát triển
với mọi năng lực của nó. Thực tế chúng ta có Đảng vững mạnh; có Nhà nước
với hệ thống pháp luật và các cấp quản lý chặt chẽ; ý thức độc lập tự chủ của
nhân dân rất cao nên không dễ gì chệch hướng con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội khiến ta phải băn khoăn, lo ngại không dám chấp nhận nó. Phải coi đây là
14


hình thức quá độ cần thiết, tạo sức mạnh vật chất cho nền tảng kinh tế của chủ
nghĩa xã hội.
Hai là, Hoàn thiện hệ thống pháp luật để định hướng, điều chỉnh, quản
lý kinh tế vĩ mô đối với các thành phần kinh tế bằng pháp luật; xây dựng hệ
thống cơ chế, chính sách, thích hợp, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế
bình đẳng, tự chủ, tự do phát triển lâu dài. Đổi mới nội dung, phương thức
quản lý của Nhà nước sao cho đúng, hiệu quả, thực sự “chặt” mà không gò ép,
cứng nhắc; “thoáng” mà không “buông”. Trong quan hệ kinh tế đối ngoại,
chúng ta có cơ chế “thoáng” song vẫn giữ được độc lập tự chủ của đất nước để
tăng tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài giúp ta phát triển nhanh,
mạnh, vững chắc ở một số ngành, lĩnh vực, địa bàn trọng tâm trọng điểm như
một số nước đã làm.

Ba là, Thực hiện công khai, công bằng, dân chủ trong chính sách đầu tư,
quản lý, thuế, tài chính v.v.. đối với các thành phần kinh tế. Xóa bỏ triệt để cơ
chế “xin - cho”; ngăn chặn hữu hiệu xu hướng quay lại bao cấp trong một số
ngành, lĩnh vực, thành phần kinh tế. Khắc phục mọi biểu hiện đặc quyền đặc
lợi, ban phát, chạy chọt, tham nhũng, hối lộ v.v.. trong các khâu của quá trình
vận hành nền kinh tế nhiều thành phần gắn với thị trường.
Bốn là, Chăm lo đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ các loại cho các
thành phần kinh tế. Tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ hiện
đại vào quá trình sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế. Mở rộng
thông tin và tăng khả năng lãnh đạo của Đảng và định hướng của Nhà nước
đối với các thành phần kinh tế để bảo đảm sản xuất, kinh doanh đúng hướng
đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế. Đảng và Nhà nước tạo điều
kiện cho các chủ thể các thành phần kinh tế tiếp cận với thị trường khu vực và
quốc tế, giúp cho việc chủ động hội nhập với nền kinh tế thế giới, tăng sức
cạnh tranh, tiếp thu được những tiến bộ khoa học – công nghệ và kinh nghiệm
quản lý tiến bộ của thế giới.
Năm là, Coi trọng bảo vệ môi trường trong sản xuất, kinh doanh của các
thành phần kinh tế nhằm bảo đảm phát triển ổn định, bền vững. Kiên quyết
phát hiện, ngăn chặn kịp thời những vi phạm làm ô nhiễm môi trường gây tổn
15


thất cho sản xuất, kinh doanh và gây tác hại ảnh hưởng đến sức khỏe con
người.
Sáu là, Thực hiện nghiêm việc xử phạt những chủ thể kinh tế, các đơn vị
kinh tế sản xuất, kinh doanh hàng kém phẩm chất, làm hàng giả, gian lận trong
sản xuất, kinh doanh để tạo nên nền kinh tế lành mạnh, bền vững, khắc phục
những biểu hiện sai trái, tiêu cực của các thành phần kinh tế có thể xảy ra gây
nên những biến động về kinh tế - xã hội của đất nước.


KẾT LUẬN
Như vậy, qua tác phẩm Kinh tế và chính trị trong thời đại chuyên chính
vô sản, V.I.Lênin đã nêu ra những tư tưởng rất cơ bản về thời kỳ quá độ, về
đấu tranh giai cấp, về chuyên chính vô sản và dân chủ vô sản; phân tích tình
16


hình thực trạng kinh tế - xã hội, cơ cấu giai cấp và cuộc đấu tranh giai cấp
trong thời đại chuyên chính vô sản ở nước Nga. Trên cơ sở đó, trang bị cho
giai cấp vô sản, nhân dân lao động vũ khí lý luận để nhận thức rõ tính chất gay
go phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp những năm đầu của thời kỳ quá độ,
những vấn đề nóng hổi, cấp bách phải giải quyết.
Những vấn đề lý luận, thực tiễn về kinh tế và chính trị trong tác phẩm
còn giúp Đảng Cộng sản và Nhà nước Xô Viết có cơ sở để đề ra đường lối
chính sách trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Củng cố lòng
tin của cán bộ đảng viên, quần chúng và Hồng quân vào sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản trong công cuộc chống thù trong giặc ngoài, củng cố chính quyền Xô
Viết non trẻ.
Những tư tưởng trong tác phẩm còn góp phần bảo vệ và phát triển lý
luận chủ nghĩa Mác về đặc điểm kinh tế, cơ cấu giai cấp và đấu tranh giai cấp
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở một nước mà chủ nghĩa tư bản
chưa phát triển. Đấu tranh, vạch trần những tư tưởng của chủ nghĩa cơ hội, xét
lại của một số đại biểu trong Quốc tế II, đồng thời còn có ý nghĩa rất lớn trong
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội xét lại, cải lương ngày nay.
Đối với các nước đang trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, những
tư tưởng của tác phẩm vẫn giữ nguyên giá trị cả về lý luận và thực tiễn, nhất là
các vấn đề về đặc điểm kinh tế, giai cấp, đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ,
nội dung mới, hình thức mới của đấu tranh giai cấp và vai trò của nhà nước
chuyên chính vô sản, vấn đề củng cố tăng cường chuyên chính vô sản.
Tác phẩm này còn có ý nghĩa to lớn về lý luận và thực tiễn đối với quá

trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nó trang bị thế giới quan,
phương pháp luận khoa học cho Đảng và Nhà nước ta trong phân tích đánh giá
thực trạng kinh tế giai cấp trong thời kỳ quá độ ở một nước còn lạc hậu đi lên
chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở đó đề ra đường lối, chính sách đúng đắn. Là một
tác phẩm ngắn nhưng có nội dung phong phú, có ý nghĩa thiết thực và vẫn còn
giá trị thời sự nóng hổi đối với cách mạng Việt Nam, nhất là vấn đề cải tạo nền
sản xuất nhỏ, vấn đề nông dân, nông thôn và liên minh giai cấp, vấn đề củng
cố nhà nước chuyên chính vô sản và sự lãnh đạo của Đảng trong tình hình mới
hiện nay, đặc biệt là vấn đề phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
17


trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
Để chuyển biến nhận thức từ giai đoạn phân chia các thành phần kinh tế
thành hai loại: kinh tế xã hội chủ nghĩa và phi xã hội chủ nghĩa (trước đổi mới),
đến thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần (trong đổi mới), và thừa nhận tất cả
các thành phần kinh tế đều là những bộ phận cấu thành của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình lâu dài, phải trải qua hơn
15 năm đổi mới (đến Đại hội IX năm 2001). Ngày nay, từ kết quả gần 30 năm
đổi mới chúng ta lại có một bước tiến quan trọng trong quá trình nhận thức bằng
việc khẳng định vai trò của các thành phần kinh tế qua sự đóng góp đối với sự
tăng trưởng và hiệu quả kinh tế mang lại cho nền kinh tế quốc dân.
Vì thế, trong Văn kiện Đại hội XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Các
thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan
trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp
tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập
thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh
tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Các hình thức sở hữu hỗn

hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát
triển. Các yếu tố thị trường được tạo lập đồng bộ, các loại thị trường từng bước
được xây dựng, phát triển, vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa
bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa”8.
Như vậy, trên cơ sở vận dụng sáng tạo lý luận của V.I.Lênin, từ thực tiễn
đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng ta đã có những đóng góp
quan trọng về mặt lý luận về những đặc trưng kinh tế của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, từ đó xác định một cách chính xác cơ cấu thành phần kinh tế
trong nền kinh tế quốc dân, phù hợp với tình hình thực tế đất nước trong từng
thời kỳ nhất định.

8 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.73-74

18



×