Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

TIỂU LUẬN TÍNH CÁCH MẠNG và KHOA học TRONG lý LUẬN GIÁ TRỊ LAO ĐỘNG của các mác ý NGHĨA TRONG xây DỰNG và PHÁT TRIỂN nền KINH tế THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG xã hội CHỦ NGHĨA ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.32 KB, 33 trang )

1
MỞ ĐẦU

Lý luận giá trị - lao động luôn là vấn đề trung tâm của khoa học kinh tế
chính trị trong lịch sử. Quan niệm như thế nào về vấn đề giá trị - lao động là tiêu
chí quan trọng để xác định tính khoa học của một tư tưởng hay học thuyết kinh
tế. Có một sự thật hiển nhiên rằng, trong lịch sử các học thuyết kinh tế, các nhà
kinh tế chính trị học, dù bằng cách này hay cách khác, đã luôn cố gắng tìm cách
để đi luận giải về nó. Tuy nhiên không có một trường phái nào giải thích một
cách khoa học cho đến khi học thuyết về giá trị - lao động của C.Mác ra đời.
Được xây dựng trên cơ sở kế thừa có phê phán những tư tưởng kinh tế của nhân
loại, mà trực tiếp là kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh, lý luận giá trị - lao động
có một vị trí, vai trò hết sức quan trọng, là cơ sở nền tảng của toàn bộ học thuyết
kinh tế của C.Mác. Nó là cánh cửa đầu tiên phải vượt qua để đi tới những vấn đề
lý luận kinh tế chính trị khác đồng thời là cơ sở, phương pháp luận, chìa khóa
cho việc phân tích, giải quyết những hiện tượng kinh tế - xã hội cả về lý luận
cũng như hiện thực.
Trên cơ sở lý luận giá trị - lao động, C.Mác đã xây dựng thành công lý
luận giá trị thặng dư, giải thích một cách khoa học bản chất bóc lột của chủ
nghĩa tư bản cũng như sự diệt vong tất yếu của nó và thay vào đó là sự ra đời
của một phương thức sản xuất mới cao hơn: phương thức sản xuất cộng sản chủ
nghĩa. Đó là một trong những phát kiến vĩ đại, là một cuộc cách mạng trong
kinh tế chính trị học, đưa kinh tế chính trị học lên một tầm cao mới. Theo đó, lý luận
giá trị - lao động của Mác không những chỉ có ý nghĩa khoa học thuần túy mà nó còn
có ý nghĩa lịch sử to lớn và ý nghĩa thời đại sâu sắc. Lịch sử đã có nhiều đổi thay kể
từ khi học thuyết giá trị - lao động của C.Mác ra đời nhưng cho đến ngày nay nó vẫn
còn nguyên giá trị, là cơ sở để vận dụng vào xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường của nhiều quốc gia trên thế giới; đặc biệt cần phải được vận dụng sáng tạo
trong thực tiễn xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam hiện nay.
Với ý nghĩa đó, bài thu hoạch đề cập tóm lược sự phát triển lý luận giá trị - lao


động trong lịch sử tư tưởng kinh tế trước C.Mác đồng thời làm rõ tính cách mạng - khoa
học trong học thuyết giá trị - lao động của C.Mác, trên cơ sở đó vận dụng vào thực tiễn


2
quá trình xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện
nay. Bài thu hoạch được cấu trúc thành ba điểm nhỏ:
1. Sự phát triển lý luận giá trị - lao động trong lịch sử tư tưởng kinh tế trước
C.Mác
2. Tính cách mạng - khoa học trong lý luận giá trị - lao động của C.Mác
3. Vận dụng lý luận giá trị - lao động của C.Mác trong xây dựng và phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Bài thu hoạch mới chỉ là phác thảo nhận thức, quan điểm của tác giả về những vấn
đề được đề cập trong nội dung. Do thời gian cũng như khả năng, nhận thức người viết có
mặt hạn chế cho nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót, khuyết điểm. Vì vậy, tác
giả rất mong nhận được sự cảm thông cùng những ý kiến đóng góp chân thành của các
nhà khoa học, các thầy trong khoa chuyên ngành và đồng nghiệp để những nhận
thức về nội dung trong bài thu hoạch thêm sáng, rõ hơn.


3
NỘI DUNG
1. Sự phát triển lý luận giá trị - lao động trong lịch sử tư tưởng kinh tế trước
C.Mác
1.1. Quan niệm về giá trị - lao động trong thời kỳ cổ đại, trung đại
Tư tưởng về giá trị - lao động không phải đến giai đoạn tồn tại của kinh tế chính trị
tư sản cổ điển mới xuất hiện mà manh nha của nó đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử.
Ngay từ thời cổ đại, từ khi chế độ công xã nguyên thủy tan rã, chế độ chiếm hữu nô lệ ra
đời đã xuất hiện các tư tưởng kinh tế về những phạm trù như phân công lao động, giá trị
trao đổi, vai trò tiền tệ, cung- cầu…Tuy nhiên những phạm trù này còn đơn giản, mang

tính chất ước lượng chứ không biết các quy luật chi phối chúng. Tiêu biểu là các đại biểu
như Xenophon (430- 345 TCN), Platon (427- 347 TCN), Arixtôt (384- 322 TCN)…
Xenophon, trong quan điểm về giá trị - lao động, ông coi giá trị là một cái gì đó có
ích cho con người và con người biết sử dụng được lợi ích đó. Ví dụ: cái sáo có giá trị đối
với người biết thổi và không có giá trị đối với người không biết thổi. Ông đã thấy được
vai trò của tiền trong nền kinh tế. Theo ông, vàng bạc là tiền có nhu cầu không giới hạn,
việc tích trữ được nhiều vàng bạc làm người ta giàu có. Từ đó, ông khuyên cách sử dụng
nô lệ tốt nhất là dùng họ vào việc khai thác vàng bạc. Hơn nữa, vàng bạc không chỉ là
phương tiện thuận lợi cho trao đổi mà còn làm cho chủ nó giàu có lên. Vì vậy, C.Mác cho
rằng, theo Xenophon, tiền không chỉ là phương tiện lưu thông mà còn có chức năng tư
bản. Xenophon cũng đã thấy được mối liên hệ giữa giá cả hàng hóa với cung- cầu về nó.
Từ đó, ông khuyên chủ nô nên mua nô lệ theo nhóm nhỏ để không làm tăng cầu nô lệ,
hoặc mở mang sản xuất một cách thận trọng để không làm tăng cung hàng hóa nhanh.
Platon, đã giải thích mối liên hệ giữa phân công lao động, thương mại và tiền tệ
với vai trò nổi bật của các thương gia. C.Mác đã đánh giá cao ý tưởng này của Platon và
gọi đó là sự nổi bật thiên tài so với thời đại. Khi nghiên cứu về tiền tệ, ông chỉ ra tiền tệ
với hai thuộc tính quy đinh là thước đo giá trị và kí hiệu giá trị.
Arixtôt, đã có tư tưởng manh nha về lý luận giá - trị lao động, theo ông: “của cải
thực tế” (của cải tự nhiên) là toàn bộ các giá trị sử dụng. Ông cho rằng, tất cả hoạt động
gắn liền với việc tạo ra giá trị sử dụng là hoạt động kinh tế. Mặc dù cách tiếp cận còn
mang tính trực cảm nhưng ông là người đầu tiên phân tích giá trị trao đổi thông qua
phương trình “5 cái giường = 1 ngôi nhà”. Khi đánh giá về ông, C.Mác cho rằng: thiên tài


4
của Arixtôt là ở chỗ, trong lúc thể hiện giá trị của hàng hoá ông đã khám phá ra quan hệ
ngang giá, có nghĩa là đang bước theo con đường dẫn đến lý luận giá trị lao động.
Thời kỳ Trung cổ, bắt đầu từ cuối thế kỷ thứ IV, đầu thế kỷ thứ V, tồn tại đến cuối
thế kỷ XV. Đây là thời kỳ chế độ chiếm hữu nô lệ bị tan rã, chế độ phong kiến xuất hiện.
Trong thời kỳ này tiêu biểu có tư tưởng của Ibihandul (1332- 1406) người Arập và Saint

Augustin (1354- 1430). Những tư tưởng kinh tế trong thời kỳ này đã bị khoác trên mình
cái áo thần học, bảo vệ cho sự tồn tại của kinh tế tự nhiên, ít chú ý đến những vấn đề cơ
bản của nền sản xuất hàng hoá như giá trị, tiền tệ. Họ lên án hoạt động thương mại và cho
vay nặng lãi, họ coi tiền chỉ đơn thuần là đơn vị đo lường, chỉ có giá trị danh nghĩa. Họ
chưa hiểu gì về giá trị - lao động. Trong xã hội trung đại ở phương Tây, sản xuất hang hóa
không phát triển thậm trí bị bỏ rơi, nên quan niệm của họ về giá trị rất mờ nhạt, nó chỉ
được đề cập đến thông qua những quan điểm rất hời hợt về tiền tệ - cái hình thái đã tách
rời khỏi nội dung của giá trị. Tiền tệ lúc đó chỉ làm một chức năng duy nhất: phương tiện
mua. Nó được sử dụng vào việc giao dịch to lớn giữa các tập đoàn phong kiến mỗi khi
cần thiết như cống nộp, mua chuộc…
1.2. Lý luận giá trị - lao động trong các học thuyết kinh tế từ cuối thế kỷ XV đến
cuối thế kỷ XIX
Từ cuối thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XIX chứng kiến một giai đoạn phát triển mới
của lịch sử văn minh cuả nhân loại. Bằng cuộc cách mạng Đại công nghiệp cơ khí ở
phương Tây, giai cấp tư sản đã đánh đổ hoàn toàn gốc rễ của chế độ phong kiến mà người
ta vẫn thường nói là “đêm trường trung cổ” vốn tồn tại hơn mười thế kỷ. Và thay thế vào
đó là sự hiện diện của một phương thức sản xuất mới: phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa với hai giai cấp cơ bản đối lập nhau là giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.
Sự thay thế của máy móc với nhiều kiểu quan hệ sản xuất mới đã giúp cho nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển vượt bậc, chưa từng có trong lịch sử. Trên cơ sở sự
phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, các tư tưởng kinh tế cũng phát triển mạnh mẽ.
Từ chỗ nó chỉ là những tư tưởng rời rạc đến nay đã trở thành hệ thống, thành lý thuyết,
các tư tưởng, học thuyết phản ánh những lợi ích khác nhau của các giai cấp khác nhau.
Trong giai đoạn tan giã của chế độ phong kiến, tích lũy nguyên thủy tư bản những tư
tưởng về lý luận giá trị - lao động đầu tiên phải kể đến là hai trường phái: trường phái
trọng thương Anh và trường phái trọng nông Pháp (từ khoảng giữa thế kỷ XV đến nửa
đầu thế kỷ XVIII).


5

1.2.1. Lý luận giá trị - lao động của trường phái trọng thương Anh
Trường phái trọng thương, là hệ thống tư tưởng kinh tế đầu tiên của giai cấp tư
sản, ra đời vào khoảng giữa thế kỷ XV, phát triển tới giữa thế kỷ XVII. Đây là thời kỳ
phương thức sản xuất phong kiến tan rã, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mới ra
đời, gắn liền với đó là quá trình tích lũy nguyên thủy của tư bản, tước đoạt nền sản xuất
nhỏ, tích lũy tiền tệ… tạo điều kiện cho sự ra đời chủ nghĩa tư bản.
Khác với những tư tưởng kinh tế trước đó, học thuyết trọng thương không còn là
các tư tưởng kinh tế giải giác mà nó đã trở thành một hệ thống tư tưởng kinh tế, một học
thuyết kinh tế, chính sách kinh tế của tầng lớp thương nhân trong giai cấp tư sản. Họ đánh
giá cao vai trò của tiền tệ (vàng, bạc), đây chính là tư tưởng xuất phát. Họ cho rằng tiền là
nội dung căn bản của của cải, là tài sản thật sự, là tiêu chuẩn của sự giàu có của một quốc
gia. Nếu như trước đây người ta coi tư liệu sinh hoạt là của cải, sự giàu hay nghèo được
đánh giá bằng sự sung túc hay ít ỏi về tư liệu sinh hoạt; thì chủ nghĩa trọng thương lại cho
rằng: tiêu chuẩn của sự giàu có không phải là hàng hóa mà là tiền, hàng hóa chỉ là phương
tiện để tăng thêm khối lượng tiền mà thôi, sự giầu có tích lũy dưới hình thái tiền tệ là sự
giàu có vĩnh hằng. Do vậy, mục đích chủ yếu trong các chính sách kinh tế của một quốc
gia là phải tăng được khối lượng tiền tệ. Để tích lũy được tiền tệ thì phải thông qua hoạt
động thương mại, dưới sự bảo hộ của nhà nước phong kiến. Khối lượng tiền tệ chỉ có thể
ra tăng bằng con đường ngoại thương, trong hoạt động ngoại thương phải thực hiện chính
sách xuất siêu. Họ cho rằng: nội thương là hệ thống ống dẫn, ngoại thương là máy bơm,
muốn tăng của cải phải có ngoại thương dẫn của cải qua nội thương.
Giai đoạn đầu họ không coi trọng lưu thông hàng hóa mà coi trọng lưu thông tiền
tệ nên họ đề nghị nhà nước cấm xuất khẩu tiền tệ, lập hàng rào thuế quan cấm nhập khẩu
hàng hóa, nhất là hàng xa xỉ phẩm nhằm mục đích giữ khối lượng tiền tệ không bị hao
hụt. Giai đoạn sau họ mới coi trọng lưu thông hàng hóa bởi vì họ thấy rằng: lưu thông tiền
tệ được quy định bởi lưu thông hàng hóa, việc điều tiết lưu thông hàng hóa dẫn đến điều
tiết lưu thông tiền tệ để thu được khối lượng tiền lớn hơn. Những người trọng thương cho
rằng những hoạt động nào mà không dẫn đến tích lũy tiền tệ là những hoạt động tiêu cực
không có lợi, theo họ nông nghiệp không làm tăng thêm và cũng không làm tiêu hao của
cải, hoạt động công nghiệp không thể là nguồn gốc của của cải (trừ công nghiệp khai thác

vàng, bạc). Theo họ, chỉ có hoạt động ngoại thương mới là nguồn gốc thật sự của của cải,
lợi nhuận được tạo ra trong lĩnh vực lưu thông, là kết quả trao đổi không ngang giá, mua ít


6
bán nhiều (H1 - T - H2 trong đó H1>H2) và mua rẻ bán đắt (T1 - H - T2 trong đó T1>T2).
Như vậy, dưới góc độ lý luân giá trị - lao động chủ nghĩa trọng thương đã
khêu gợi ra vấn đề giá trị thặng dư (lợi nhuận), họ đã đưa ra quan điểm tái đầu tư lợi
nhuận để phát triển kinh tế dân tộc… nhưng đứng trên lĩnh vực lưu thông để giải
quyết. Do điều kiện lịch sử nên hạn chế lớn nhất của trường phái trọng thương là coi
trọng thương nghiệp, coi lĩnh vực lưu thông, trao đổi là đối tượng nghiên cứu,
phương pháp nghiên cứu của họ chỉ dừng lại ở việc mô tả bề ngoài. Vì vậy lý luận
giá trị của họ chưa rõ ràng, tính lý luận chưa cao, thiếu khoa học, phản ánh ngây thơ
thần bí nền sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa. Họ chưa hiểu gì về giá trị, họ chỉ
thấy hình thức cao nhất của giá trị là tiền, chưa đi sâu tìm hiểu cơ sở của sự trao đổi
hàng hóa là gì. Mặc dù họ đã thấy lưu thông hàng hóa quy định lưu thông tiền tệ
nhưng lại không biết sản xuất quyết định lưu thông hàng hóa và tiền tệ. Từ đó họ cho
rằng: trong lưu thông tiền đẻ ra tiền. Trong một chừng mực nhất định họ cũng hiểu
tiền là tư bản nhưng không hiểu bản chất của tiền, tiền chỉ có chức năng phương tiện
cất trữ, phương tiện lưu thông, thước đo giá trị (thước đo của sự giàu có). Họ chưa
hiểu gì về quy luật lưu thông tiền tệ, càng không biết gì về quy luật giá trị, họ cho
rằng lợi nhuận có được là kết quả trao đổi không ngang giá mua rẻ bán đắt và mua ít
bán nhiều.
1.2.2. Lý luận giá trị - lao động của trường phái trọng nông Pháp
Trường phái trọng nông, xuất hiện cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII khi
trường phái trọng thương bị phá sản. Đại biểu xuất sắc nhất của trường phái trọng
nông là Francais Quesnay, một trong những công lao to lớn của ông là đã đặt ra một
cách khoa học vấn đề để nghiên cứu là sản phẩm thuần túy (giá trị thặng dư), mặc dù
ông chưa giải quyết được triệt để vấn đề này. Mác viết: việc làm này vào giữa thế kỷ
XVIII trong thời kỳ ấu trĩ của chủ nghĩa tư bản là một tư tưởng hết sức thiên tài, rõ

ràng là thiên tài nhất trong các tư tưởng kinh tế cho đến ngày nay. Đây là học thuyết
trung tâm và là biểu hiện độc đáo nhất về các tư tưởng kinh tế của trường phái trọng
nông, nó đã phản ánh một giai đoạn phát triển mới về lý luận giá trị lao động.
Đứng trên lập trường duy vật siêu hình để giải thích các hiện tượng kinh tế, F.
Quesnay cho rằng: sản phẩm thuần túy là sản phẩm của đất đai dôi ra còn lại sau khi
trừ đi những chi phí lao động và những chi phí cần thiết khác cho việc thực hiện
canh tác ruộng đất. Như vậy, sản phẩm thuần túy theo ông sẽ bằng tổng sản phẩm trừ


7
đi chi phí sản xuất và chỉ nông nghiệp mới tạo ra sản phẩm thuần túy. Sở dĩ, chỉ
trong sản xuất nông nghiệp mới tạo ra sản phẩm thuần túy vì hai nguyên tắc khác
nhau hình thành giá trị tương ứng trong công nghiệp và trong nông nghiệp. Trong
công nghiệp thì giá trị hàng hóa bằng tổng chi phí sản xuất (gồm chi phí về nguyên
liệu, tiền lương công nhân, tiền lương của nhà tư bản, chi phí bổ sung của tư bản
thương nghiệp)- đó là chi phí thuần túy. Còn trong nông nghiệp, giá trị hàng hóa
bằng tổng chi phí sản xuất (chi phí thuần túy) cộng với sản phẩm thuần túy. Bởi vì,
do công nghiệp chỉ là quá trình kết hợp giản đơn các chất cũ, không có sự tăng lên về
chất nên không tạo ra sản phẩm thuần túy. Ngược lại, trong nông nghiệp nhờ có tác
động của tự nhiên nên có sự phát triển về chất, tạo ra chất mới, tạo ra sản phẩm thuần
túy.
Như vậy, so với trường phái trọng thương, trường phái trọng nông đã chuyển
đối tượng nghiên cứu nguồn gốc của của cải từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản
xuất trực tiếp, do đó đã đặt cơ sở cho việc phân tích nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Đây là bước tiến quan trọng về phương pháp luận, họ đã thấy được mối quan hệ giữa
sản xuất và lưu thông, cho sản xuất quyết định lưu thông. Nếu như trường phái trọng
thương cho rằng lợi nhuận (của cải) có được từ lưu thông do mua ít bán nhiều, mua
rẻ bán đắt thì trường phái trọng nông khẳng định: của cải thực sự được sinh ra từ lĩnh
vực sản xuất trực tiếp (từ sản xuất nông nghiệp), theo họ sản phẩm ròng do lao động
của những người làm ruộng tạo ra và của cải được di chuyển trong lưu thông, họ đã

phân chia đời sống kinh tế xã hội thành hai lĩnh vực sản xuất và lưu thông của cải.
Họ cũng cho rằng: sản phẩm ròng là thu nhập của xã hội (không phải chỉ là thu nhập
của chủ đất theo như quan niệm của W.Petty), điều đó chứng tỏ sản phẩm ròng
không những là thu nhập của chủ đất mà còn là thu nghập của xã hội. Như vậy, sản
phẩm ròng đã phản ánh quan hệ bản chất nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Họ đã thấy được mối quan hệ lao động sản xuất và sản phẩm thuần túy (giá trị
thặng dư). Lao động sản xuất trong nông nghiệp là lao động tạo ra sản phẩm thuần
túy và sản phẩm của người lao động sản xuất được chia thành hai phần: một phần để
trả công cho người lao động, phần còn lại cấu thành sản phẩm dòng (phần thứ nhất
tăng lên thì phần thứ hai giảm xuống và ngược lại).
Mặc dù họ giải thích nguồn gốc sản phẩm thuần túy theo tinh thần tự nhiên
chủ nghĩa (đất đai là nguồn gốc của sản phẩm thuần túy), nhưng hạt nhân hợp lý ở


8
đó là : họ coi sản phẩm thuần túy là sản phẩm lao động của những người công nhân
làm thuê, bộ phận này đã trở thành nguồn thu nhập của giai cấp tư sản và địa chủ.
Tuy vậy, bên cạnh những giá trị khoa học trên, lý luận giá trị - lao động của trường
phái trọng nông cũng vẫn chưa vượt qua được điều kiện lịch sử, còn những hạn chế
thậm trí còn tụt lùi một bước so với trường phái trọng thương.
Họ đã không tìm thấy được nguồn gốc đích thực cũng như các hình thức biểu
hiện của giá trị thặng dư. Họ đã chỉ ra rằng sản phẩm thuần túy được tạo ra trong sản
xuất chứ không phải trong lưu thông nhưng lại cho rằng sản phẩm đó do đất đai sinh
ra và là tặng vật của tự nhiên, họ không thấy được đó là sản phẩm của công nhân
trong nông nghiệp tạo ra. Họ không vạch ra các hình thức biểu hiện của giá trị thặng
dư như lợi nhuận, lợi tức, địa tô.
Họ cho rằng chỉ có lao động trong nông nghiệp mới là ngành lao động duy
nhất tạo ra giá trị thặng dư, còn trong công nghiệp và thương nghiệp không tạo ra giá
trị thặng dư. Quan điểm này có sự tụt lùi một bước so với trường phái trọng thương.
Bởi vì, nếu như trường phái trọng thương đã nắm được bản chất của cải của xã hội

và đã xem xét của cải của xã hội theo quan điểm giá trị; thì trường phái trọng nông
tầm thường hóa khái niệm của cải, không thấy được tính chất hai mặt của của cải là
mặt hiện vật và mặt giá trị. Họ không hiểu thực thể giá trị (c+v+m) và không thấy
được việc hình thành giá trị là do lao động tạo ra, nên họ giải thích sản phẩm thuần
túy là một tặng vật của tự nhiên, từ đó gán cho giai cấp địa chủ và tư sản chức năng
kinh tế to lớn mà trong khi chính họ lại là kẻ ăn bám.
Như vậy, lý luận giá trị - lao động trong thời kỳ tan giã chế độ phong kiến,
tích lũy nguyên thủy của tư bản mới chỉ có những nét chấm phá ban đầu, vẫn chưa
có thành tựu có ý nghĩa to lớn về giá trị khoa học. Tuy nhiên những vấn đề lý luận
mà họ đưa ra cũng có một giá trị nhất định để sau này các nhà kinh tế tư sản cổ điển
như W.Petty, A.Smith, D.Ricardo…tiếp tục kế thừa và phát triển lên một tầm cao
mới, khắc phục những hạn chế mà họ để lại.
1.2.3. Lý luận giá trị - lao động trong học thuyết kinh tế tư sản cổ điển
Kinh tế chính trị học tư sản cổ điển là một trường phái đặc biệt có vai trò
và ảnh hưởng to lớn đối với sự phát triển tư tưởng kinh tế chung của nhân loại.
Nó xuất hiện từ thế kỷ XVII, trong thời kỳ phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa đã hình thành và phát triển mạnh mẽ ở phương Tây, đặc biệt là nước Anh


9
và nước Pháp. Trường phái này phát triển trong thời kỳ dài, trải qua nhiều giai
đoạn, đạt tới đỉnh cao rực rỡ vào thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX và sau đó dần
dần xa rời những nguyên tắc truyền thống trước khi chấm dứt sự thống trị tuyệt
đối của mình vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Đặc biệt nổi bật trong hoàn cảnh lịch sử cho sự ra đời của kinh tế học cổ
điển là sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản trong lĩnh vực sản xuất, tỏ rõ
ưu thế tất yếu của nó so với lĩnh vực lưu thông vốn là lĩnh vực chiếm ưu thế
trong thời kỳ phát triển của tư tưởng trọng thương trước đó. Phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa đang trên đà phát triển, chưa bộc lộ rõ những mâu thuẫn
của bản thân nó là một cơ sở thực tiễn để các đại biểu của trường phái cổ điển

tập trung nguyên cứu các quy lụât phát triển của chủ nghĩa tư bản, cổ vũ và đề
cao ưu thế của phương thức này.
Lý luận giá trị - lao động kinh tế chính trị tư sản cổ điển ra đời trên cơ sở là
một dòng chảy liên tục có sự đan xen, kế thừa những tư tưởng trước đó. Các nhà
kinh tế học tư sản cổ điển đã có công lao to lớn trong việc nghiên cứu lý luận giá trị
lao động.
Lý luận giá trị - lao động của W.Petty (1623-1687): nhà kinh tế học người
Anh. Ông đã có những cống hiến nhất định trong lịch sử tư tưởng kinh tế, có nhiều
vấn đề lý luận đã vượt ra khỏi khuân khổ của chủ nghĩa trọng thương. Theo C.Mác,
ông là người mở đầu lịch sử trường phái cổ điển Anh, người sáng lập ra khoa học
kinh tế chính trị tư sản với tư cách là một khoa học. Ông đã tiếp cận phương pháp
nghiên cứu mới với quy luật kinh tế khách quan để giải quyết những hiện tượng kinh
tế, tuy nhiên phương pháp của ông mang tính hai mặt chưa triệt để, với thế giới quan
duy vật tự phát.
Ông đã có công lao lớn trong việc nêu ra nguyên lý giá trị lao động “giá trị là
do lao động tạo ra” tức đã coi lao động là cơ sở của giá trị, chính điều này ông đã trở
thành cha đẻ của kinh tế chính trị. Ông đã vạch ra nguồn gốc giá trị hàng hoá. Coi
lao động sản xuất hàng hoá giữ vai trò chủ yếu trong việc tạo ra giá trị, tạo ra của cải
vật chất. Trong tác phẩm “Bàn về thuế khoá và lệ phí” ông đã đưa ra ba phạm trù về
giá cả hàng hoá đó là: giá cả tự nhiên, giá cả nhân tạo và giá cả chính trị. Theo ông
giá cả tự nhiên (tức giá trị) do lao động của người sản xuất hàng hoá tạo ra. Lượng
của giá cả tự nhiên tỷ lệ nghịch với năng suất lao động khai thác ra bạc. Ông xác


10
định giá trị hàng hoá là do số lượng hao phí lao động tạo ra. Đây chính là cơ sở để
sau này C.Mác phân tích làm rõ chất và lượng giá trị. Nếu như giá cả tự nhiên là giá
trị hàng hoá, thì giá cả nhân tạo là giá cả thị trường của hàng hoá, nó thay đổi phụ
thuộc vào giá cả tự nhiên và quan hệ cung cầu trên thị trường. Ông cho rằng giá cả
chính trị là loại đặc biệt của giá cả tự nhiên. Nó cũng là chi phí lao động để sản xuất

ra hàng hoá, nhưng trong điều kiện chính trị không thuận lợi. Vì vậy, chi phí lao
động trong giá cả chính trị thường cao hơn so với chi phí lao động trong giá cả tự
nhiên. Mặc dù, bị chi phối bởi lập trường giai cấp, điều kiện hoàn cảnh lịch sử chính
trị lúc bấy giờ, nhưng việc ông phân biệt giá cả tự nhiên với giá cả chính trị là một
bước tiến lớn đến nay còn nguyên giá trị.
W.Petty đặt vấn đề nghiên cứu lao động giản đơn và lao động phức tạp, so
sánh lao động trong thời gian dài, lấy năng suất lao động trung bình trong nhiều năm
để loại trừ tình trạng ngẫu nhiên. Tuy nhiên, ông chưa làm rõ được.
Ông cho rằng tiền không phải lúc nào cũng là tiêu chuẩn của sự giàu có mà
tiền chỉ là 1% của sự giàu có, nếu đánh giá tiền quá cao sẽ là sai lầm. Nguồn gốc
giàu có không phải trong lưu thông mà giàu có được đem lại trong sản xuất. Ông đã
nhìn thấy hình thái nổi bật nhất của giá trị là tiền. Ông nghiên cứu hai loại tiền là
vàng và bạc. Giá trị của chúng dựa trên cơ sở lao động khai thác ra chúng quyết định.
Ông phê phán chế độ song bản vị lấy vàng và bạc làm đơn vị tiền tệ, ủng hộ chế độ
đơn bản vị (giống nhận xét của Mác). Ông là người đầu tiên đưa ra quy luật lưu thông
tiền tệ, ông cho rằng số lượng tiền cần thiết cho lưu thông được xác định trên cơ sở số
lượng hàng hoá và tốc độ chu chuyển của tiền tệ, chỉ ra ảnh hưởng của thời gian thanh
toán với số lượng tiền tệ cần thiết trong lưu thông. Ông chống lại tư tưởng tích luỹ tiền
của chủ nghĩa trọng thương.
Từ những công lao trên, có thể khẳng định W.Petty là người đầu tiên trong lịch
sử đặt nền móng cho nghiên cứu lý luận giá trị - lao động. Ông đã đúng khi cho rằng
chất của giá trị là lao động, năng xuất lao động có ảnh hưởng đến lượng giá trị và giá
cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị. Ông cũng đã đặt ra vấn đề nghiên cứu là lao động
giản đơn và lao động phức tạp, đặt ra các quy luật kinh tế.
Tuy nhiên lý thuyết giá trị lao động của ông vẫn còn những hạn chế bởi ảnh
hưởng những tư tưởng của chủ nghĩa trọng thương. Ông chỉ thừa nhận lao động khai
thác bạc là nguồn gốc của giá trị, còn giá trị các hàng hoá khác chỉ được xác định nhờ


11

quá trình trao đổi với bạc. Ông chưa phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản
xuất hàng hóa, chưa biết các bộ phận cấu thành giá trị hàng hóa, chưa hiểu lượng giá
trị hàng hóa là gì. Ông đã có luận điểm nổi tiếng: “lao động là cha còn đất đai là mẹ
của mọi của cải”. Về phương diện của cải vật chất, đó là công lao to lớn của ông.
Nhưng ông lại xa rời tư tưởng giá trị lao động khi kết luận lao động và đất đai là cơ sở
giá cả tự nhiên của mọi vật phẩm.
Lý luận giá trị - lao động của A.Smith (1723-1790): người Anh; ông là nhà tư
tưởng tiên tiến của giai cấp tư sản, là nhà kinh tế học tổng hợp của công trường thủ
công. Thế giới quan của ông cơ bản là duy vật, nhưng chủ nghĩa duy vật của ông là tự
phát, máy móc, còn xa lạ với phép biện chứng. Phương pháp luận - một phương pháp
hai mặt mâu thuẫn, trộn lẫn các phần tử khoa học và tầm thường. Một mặt đi sâu vào
mối liên hệ bên trong của chế độ tư bản chủ nghĩa; mặt khác lại chỉ là mô tả, liệt kê.
Hai mặt đó không những chúng sống yên ổn bên nhau mà còn xoắn xuýt lấy nhau,
thường xuyên mâu thuẫn với nhau. Vì vậy, hệ thống lý luận giá trị - lao động của ông
vừa khoa học, vừa tầm thường.
So với W.Petty, lý thuyết giá trị - lao động của A.Smith có bước tiến vượt bậc,
đã trở thành hệ thống, thông qua những phân tích về sự khác nhau giữa giá trị và giá trị
trao đổi, giá trị và giá trị sử dụng. Trước hết, ông đã chỉ ra lao động sản xuất ở tất cả
các ngành công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp đều tạo ra giá trị. Ông cho rằng
giá trị của hàng hóa là do hao phí lao động quyết định và khẳng định lao động là thước
đo cuối cùng của giá trị, là thực thể của giá trị. Trong khi W.Petty lại cho rằng chỉ có
lao động khai thác ra bạc mới tạo ra giá trị, còn giá trị của các hàng hoá khác nhờ
thông qua trao đổi với hàng hoá bạc mà được xác định.
Công lao lớn của ông là đã phân biệt rõ ràng sự khác nhau giữa giá trị sử dụng
và giá trị trao đổi. Ông phê phán lý thuyết tính ích lợi quyết định của Turrgot và chứng
minh giá trị sử dụng không quyết định giá trị trao đổi,vì có những vật mà giá trị sử
dụng rất lớn nhưng không có giá trị trao đổi .
Khi phân tích giá trị hàng hoá ông cho rằng: giá trị được biểu hiện ở giá trị trao
đổi của hàng hoá trong quan hệ số lượng với hàng hoá khác; trong nền sản xuất hàng
hoá phát triển thì nó được biểu hiện ở tiền, từ đó chỉ ra thước đo thực tế của hàng hóa

là lao động và tiền tệ, lượng giá trị hàng hoá là do hao phí lao động trung bình cần thiết
quyết định. Lao động giản đơn và lao động phức tạp có ảnh hưởng khác nhau đến


12
lượng giá trị hàng hoá. Trong cùng một thời gian, lao động chuyên môn, phức tạp sẽ
tạo ra một lượng giá trị nhiều hơn lao động không có chuyên môn hay lao động giản
đơn (mặc dù ông chưa biết đó là lao động cá biệt hay lao động xã hội, chưa biết lao
động giản đơn và lao động phức tạp là gì, chưa biết sự tác động đó ra sao). Ông phân
biệt được giá cả tự nhiên và giá cả thị trường, trong đó giá cả tự nhiên là nội dung bên
trong (giá trị), có tính khách quan, nó thay đổi cùng tỷ xuất tự nhiên cấu thành giá trị.
Còn giá cả thị trường là giá bán thực tế của hàng hóa trên thị trường, về bản chất là
biểu hiện bằng tiền của giá trị. Giá cả thị trường phụ thuộc vào giá cả tự nhiên ngoài ra
còn phụ thuộc nhiều yếu tố khác như: cung cầu, các chính sách của chính phủ và các
loại độc quyền.
Ông đã chú ý xác định lượng giá trị và đã đề cập đến các yếu tố cấu thành giá
trị (v+m), cũng như các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị (bao gồm năng xuất lao
động, cường độ lao động, tính chất lao động mặc dù chưa đề cập sâu). Trong định
nghĩa thứ nhất về giá trị là: do hao phí lao động để sản xuất ra hàng hoá quyết định. Từ
đó cho rằng lao động là thước đo thực thể của giá trị. Với định nghĩa này, ông là người
đứng vững trên cơ sở lý luận giá trị - lao động. Ông cho rằng tiền chỉ là phương tiện
của trao đổi hàng hoá, là thước đo bề ngoài, là môi giới. C.Mác đánh giá cao công lao
của ông khi hiểu tiền là một loại hàng hoá.
Tuy nhiên, lý luận giá trị - lao động của A.Smith còn nhiều hạn chế. Do
phương pháp luận của ông mang tính hai mặt (như đã đề cập). Vì vậy, trong phân
tích lý luận giá trị lao động, ông đã nhầm lẫn giữa lao động sống và lao động quá
khứ, sức lao động và lao động. Từ đó kết luận sai lầm rằng: giá trị của hàng hóa bằng
số lượng lao động mà người ta có thể mua được bằng hàng hóa đó. Như vây, giá trị
của hàng hóa do các nguồn thu nhập hợp thành là sai, tức là quy luật giá trị chỉ đúng
trong nền sản xuất hàng hóa trước chủ nghĩa tư bản, còn trong nền sản xuất hàng hóa

tư bản chủ nghĩa thì không vì: ông cho rằng giá trị của hàng hóa do thu nhập tạo lên
do đó tiền công là thước đo lý tưởng của giá trị. Trên thực tế, nếu lấy tiền công làm
thước đo giá trị của các hàng hoá là sai lầm lớn. Ông đã xem thường tư bản bất biến
(c) trong cấu thành giá trị hàng hoá, tầm thường hoá chi phí sản xuất vì vậy ông đã
gạt bỏ yếu tố (c), trong cấu thành giá trị chỉ có (v+m). Lẫn lộn giữa cấu thành giá trị
và phân phối giá trị. Rõ ràng, việc phân phối giá trị không ảnh hưởng gì đến cấu
thành giá trị. Ông chưa thấy được mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị trao đổi.
Chưa biết bản chất và các chức năng của tiền. Từ đó dẫn đến sai lầm trong định


13
nghĩa thứ hai: giá trị là do lao động mà người ta có thể mua được bằng hàng hoá này
quyết định. Chính từ định nghĩa đó mà ông suy ra giá trị do lao động tạo ra chỉ đúng
trong nền kinh tế hàng hoá giản đơn. Còn trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, giá trị
do các nguồn thu nhập tạo thành, nó bằng tiền lương, lợi nhuận và địa tô, (thiếu c).
Ông coi (m) là nguồn gốc của những thu nhập đầu tiên là đúng vì là phân phối lần
đầu, nhưng ông lại cho rằng đồng thời (m) là nguồn gốc của mọi trao đổi, điều này
lại sai vì thiếu (c). C.Mác cho rằng đây là tín điều của A.Smith, chính tín điều này mà
không thể tái sản xuất mở rộng, thậm chí cả tái sản xuất giản đơn. (thụt lùi hơn cả F.
Quesnay, tư tưởng này của ông lại xa rời lý thuyết giá trị lao động, vấn đề này sau
được D.Ricardo khắc phục).
Lý luận giá trị - lao động của D.Ricardo (1772-1823): nhà kinh tế học người
Anh. D.Ricardo sống trong thời kỳ đại công nghiệp cơ khí. Lúc này xã hội có sự
phân hóa giai cấp rõ ràng, máy móc phát triển mạnh, thất nghiệp diễn ra sâu sắc…
Ông đứng trên lập trường giai cấp tư sản để bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản. Ông
lấy học thuyết giá trị làm điểm trung tâm nghiên cứu và là vũ khí để đấu tranh trống
giai cấp địa chủ, quý tộc phong kiến. D.Ricardo có thế giới quan máy móc, siêu hình
với phương pháp luận chứa đựng hai mặt mâu thuẫn khoa học và tầm thường; nhưng
ông hơn A.Smith ở chỗ là sử dụng thành công phương pháp trừu tượng hóa khoa học
và đứng trên lý luận giá trị để phân tích các hiện tượng kinh tế.

Hệ thống lý luận giá trị - lao động chiếm vị trí trung tâm trong tư tưởng kinh
tế của ông. Trong lý luận giá trị - lao động cũng như các lý thuyết khác, D. Ricardo
dựa vào lý thuyết của A.Smith; kế thừa và phát triển tư tưởng của A.Smith. Ông
công nhận hàng hoá có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị trao đổi. Ông cho
rằng, giá trị sử dụng cần thiết cho giá trị trao đổi nhưng không phải là thước đo cho
giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi mà D.Ricardo nói ở đây chính là giá trị (Sau này
C.Mác nói giá trị sử dụng trong nền kinh tế hàng hóa là vật mang giá trị trao đổi, giá
trị trao đổi không phải bằng giá trị sử dụng). Ông đã phân biệt rứt khoát giá trị và giá
trị sử dụng, bác bỏ lý thuyết giá trị sử dụng quyết định giá trị hàng hoá. Tính hữu ích
của hàng hóa không phải là thước đo giá trị trao đổi mặc dù nó rất cần thiết. Theo
ông, sở dĩ hàng hoá hữu ích có giá trị trao đổi là do hai nguyên nhân: tính khan hiếm
và lượng lao động cần thiết để sản xuất ra chúng.


14
D.Ricardo đã soát xét lại toàn bộ lý luận giá trị của A.Smith và gạt bỏ những
mâu thuẫn trong lý luận giá trị của ông. Trong hai định nghĩa về giá trị của A.Smith,
D.Ricardo chỉ ra định nghĩa “giá trị do lao động hao phí quyết định” là đúng. Còn
định nghĩa “giá trị lao động mà người ta có thể mua được bằng hàng hoá này quyết
định” là không đúng. Bởi vì, lao động không thể mua lao động được và trên cơ sở đó
ông khẳng định giá trị do lao động quyết định không chỉ đúng trong nền sản xuất
hàng hoá giản đơn mà ngay cả trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Trong cơ cấu giá trị hàng hoá phải bao gồm ba bộ phận là (c+ v + m) chứ
không thể loại (c) ra khỏi giá trị sản phẩm như A.Smith (Mặc dù ông không phát hiện
ra c). Ông nhận thức được lượng giá trị hàng hoá không phải quyết định bởi hao phí
lao động cá biệt mà do hao phí lao động đồng nhất của con người (hao phí lao động xã
hội) quyết định bởi năng suất lao động xã hội.
Ông có ý định phân tích lao động giản đơn và lao động phức tạp, quy lao động
phức tạp thành lao động giản đơn trung bình. Ông cho rằng lao động xã hội quyết định
lượng giá trị của hàng hoá và chứng minh dự đoán thiên tài của W.Petty: “giá trị của

hàng hoá giảm khi năng suất lao động tăng lên”.
D.Ricardo đã định nghĩa giá trị hàng hóa đúng đắn: giá trị hàng hóa là do số lao
động tương đối cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó quyết định chứ không phải khoản
tiền thưởng lớn hay nhỏ trả cho lao động quyết định. Cũng như A.Smith, ông đã phân
biệt rõ ràng hai thuộc tính của hàng hóa và nhấn mạnh: giá trị sử dụng không quyết
định giá trị và không phải là thước đo của giá trị, nó là điều kiện cần thiết cho giá trị
trao đổi. Giá trị trao đổi của hàng hóa được quyết định bởi số lượng lao động chứa
đựng trong hàng hóa đó. Số lượng giá trị trao đổi tỷ lệ thuận với hao phí lao động để
sản xuất ra hàng hóa đó, giá trị sử dụng không tăng cùng giá trị trao đổi. Ông đã phân
biệt rõ ràng giá trị trao đổi và giá trị, giá trị trao đổi là hình thức biểu hiên chung nhất
của giá trị. Ông cho rằng, giá cả của hàng hóa là giá trị trao đổi của nó được biểu hiện
bằng tiền, còn giá trị của nó được đo bằng số lượng lao động hao phí để sản xuất ra
hàng hóa đó. Ông đã biết cấu tạo giá trị của hàng hóa (c+v+m), tuy nhiên ông chưa
biết c2 ông chỉ biết c1 cũng như quá trình chuyển hóa (c) vào sản phẩm như thế nào,
nhưng so với A.Smith thì đó là một bước tiến dài.
Ông đã chứng minh một cách sâu sắc rằng năng xuất lao động tăng, tổng giá
trị sản phẩm tăng, giá trị trên một đơn vị hàng hóa giảm, ông đã chỉ ra rằng sự tăng


15
lên của của cải đi kèm với giá trị của nó giảm và đã phê phán khi A.Smith cho rằng
chỉ lao động trông nông nghiệp mới có năng xuất cao hơn các ngành khác do tự
nhiên giúp đỡ. Ông đã phân biệt được giá cả tự nhiên và giá cả thị trường và tiến gần
đến lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất. Ông cho rằng giá cả tự nhiên (c+v+m)
do thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó quyết định (nhưng
sai ở chỗ: thời gian lao động xã hội cần thiết trong điều kiên xấu nhất quy định). Ông
đã đúng khi cho rằng giá cả thị trường bị chi phối bởi cung cầu, cạnh tranh và các
yếu tố độc quyền khác, ông đã chứng minh những yếu tố đó chỉ ảnh hưởng đến giá
trị trao đổi của hàng hóa còn giá trị của hàng hóa vẫn do lao động quyết định.
Tuy nhiên, trong lý luận giá trị lao động của ông vẫn còn nhiều hạn chế do điều

kiện lịch sử và do ông không phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng
hóa, chìa khóa để luận giải đưa lý luận giá trị - lao động trở thành khoa học hoàn
chỉnh. Ông không thấy được nguồn gốc và sự thống nhất biện chứng giữa giá trị và giá
trị sử dụng, không thấy được mâu thuẫn cơ bản trong nền sản xuất hàng hóa giản đơn.
Ông đã mắc sai lầm khi cho rằng hao phí lao động cần thiết lại được quy định bởi điều
kiện sản xuất xấu nhất quyết định, chứ không phải trung bình. Nó trái với A.Smith vì
A.Smith cho là trong điều kiện tốt nhất quyết định. C.Mác nhận xét đối với ruộng đất
là một tiến bộ còn các hàng hoá khác lại là sai lầm (vừa tiến, vừa lùi). Ông cũng sai
lầm khi cho rằng hàng hóa khan hiếm thì giá trị của hàng hóa do hai nhân tố lao động
và độ khan hiếm của hàng hóa tạo thành. Bởi vì, giá cả hàng hóa cao hay thấp do các
yếu tố của thị trường quy định chứ không tạo ra giá trị của hàng hóa. Ông đã lẫn lộn
giữa giá cả sản xuất và giá trị hàng hóa. (c+v+m khác với c+v+p bình quân). Chu
chuyển tư bản và sự lên xuống của tiền lương cũng ảnh hưởng đến giá trị là sai, vì giá
trị của hàng hóa không phụ thuộc vào các yếu tố đó. Ông chưa thấy được c 2 và sự
chuyển hóa c1 vào sản phẩm như thế nào. Ông chưa phân biệt được giá trị của hàng
hoá với giá cả sản xuất, mặc dù ông đã nhìn thấy xu hướng bình quân hoá tỷ xuất lợi
nhuận. Ông coi giá trị là một phạm trù vĩnh viễn và chưa thoát khỏi giáo điều của
A.Smith, khi cho rằng giá trị hàng hoá bằng các thu nhập (V + P + R) vì ông cho
rằng giá trị hàng hoá chính là sự phân giải thành các thu nhập. Ông đã tiến gần đến
phân biệt lao động cụ thể và lao động trừu tượng nhưng không phát hiện ra. C.Mác
nhận xét: ông đã biết lao động tạo ra giá trị là một loại lao động mà người ta không
kể đến hình thức cụ thể (chính là lao động trừu tượng). Chưa chỉ ra giá trị là biểu
hiện quan hệ xã hội của những người sản xuất hàng hóa. Cũng chưa nghiên cứu mặt


16
lượng và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa. Chưa nghiên cứu có
hệ thống các hình thái giá trị nên không biết nguồn gốc, bản chất của tiền.
Như vậy, dù có nhiều đóng góp cho khoa học kinh tế chính trị về lý luận
kinh tế nói chung và lý luận giá trị lao động nói riêng; song, trường phải kinh tế

học cổ điển có những hạn chế nhất định. Đó là tính chất hai mặt trong phương
phát luận nghiên cứu. Họ cổ vũ một cách mạnh mẽ cho tự do kinh tế của thị
trường và tuyệt đối hóa vai trò tự điều tiết của thị trường, những người cổ điển
cũng chưa có thái độ khách quan và thực tế đối với việc xem xét vai trò kinh tế
của nhà nước - điều mà chính thực tế phát triển của chủ nghĩa tư bản cũng không
thể phủ nhận được. Trong khi cống hiến cho lý luận kinh tế học nhiều thành tựu
xuất sắc, các nhà kinh tế học cổ điển cũng để lại nhiều quan điểm tầm thường
mà những người kế thừa họ biến thành trào lưu tầm thường hoá và làm giảm giá
trị của học thuyết cổ điển nói chung.
1.2.4. Lý luận giá trị - lao động trong học thuyết kinh tế tư sản tầm thường
C.Mác là người đầu tiên phân biệt kinh tế chính trị tư sản thành kinh tế chính trị tư
sản cổ điển và kinh tế chính trị tư sản tầm thường. Vào những năm 30 của thế kỷ XIX
kinh tế chính trị tư sản rẽ sang một hướng khác. Các đại biểu kế tục của kinh tế chính trị
tư sản không duy trì và phát triển nội dung vốn có của các đại biểu kinh tế chính trị tư sản
cổ điển, mà họ lấy việc biện hộ cho chủ nghĩa tư bản làm mục đích. Đến đây C.Mác nhận
định: đó là sự “tầm thường hóa kinh tế chính trị tư sản cổ điển”. Từ đây kinh tế chính trị tư
sản cổ điển nhường chỗ cho kinh tế chính trị tư sản tầm thường. Các đại biểu tiêu biểu
cho giai đoạn này là: T.R. Malthus (1766- 1834), J.B. Say (1766- 1832).
T.R. Malthus: ông là một mục sư người Anh. Theo T.R. Malthus, số lượng lao
động có thể mua được bằng một hàng hóa là do chi phí để sản xuất hang hóa đó quyết
định. Chi phí đó bao gồm lượng lao động (sống và vật hóa) đã chi phí để sản xuất ra hang
hóa cộng với lợi nhuận của tư bản ứng trước. Như vậy, T.R. Malthus đã phủ nhận vai trò
của lao động là nguồn gốc tạo ra giá trị, coi lợi nhuận là yếu tố cấu thành khác của giá trị.
J.B. Say: người Pháp. Ông có “thuyết về tính hữu dụng” đối lập với lý luận giá trị
lao động của D. Ricacđô. Theo J.B. Say, sản xuất tạo ra tính hữu dụng (giá trị sử dụng)
còn tính hữu dụng lại truyền lại giá trị cho các vật- “ Giá trị là thước đo tính hữu dụng”.
Như vậy, ông đã không phân biệt được giá trị sử dụng và giá trị, coi giá trị sử dụng và giá
trị là một, do đó đã che đậy cái bản chất đặc thù xã hội của giá trị. J.B. Say cho rằng giá trị



17
của vật càng cao thì tính hữu dụng càng lớn, của cải càng nhiều thì giá trị càng lớn. Mặt
khác, J.B. Say lại cho rằng giá trị của hàng hóa chỉ được xác định trong trao đổi trên thị
trường. Nó được quyết định bởi quan hệ cung cầu. Như vậy, quan niệm của ông về giá trị
hàng hóa là tùy tiện, không xác định được.
Tóm lại, học thuyết kinh tế tầm thường đã đoạn tuyệt với phương pháp luận khoa
học của kinh tế chính trị tư sản cổ điển. Họ áp dụng phương pháp nghiên cứu hời hợt bên
ngoài các hiện tượng và quá trình kinh tế. Xuất phát từ mục đích chủ quan là biện hộ cho
chủ nghĩa tư bản, cho nên các đại biểu kinh tế chính trị tư sản tầm thường đã không thể
tìm kiếm, xây dựng lý luận về giá trị lao động thực sự khoa học.
1.2.5. Lý luận giá trị - lao động trong học thuyết kinh tế tiểu tư sản
Kinh tế chính trị học tiểu tư sản là một khuynh hướng phát triển của tư tưởng kinh
tế trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản. Nó hình thành trong thời kỳ mà chủ nghĩa tư bản bắt
đầu phát triển mạnh mẽ. Trào lưu này bắt đầu xuất hiện ở nước Pháp, vào lúc sắp nổ ra
cuộc cách mạng tư sản vĩ đại. Di sản lý luận quan trọng nhất của trường phái này thể hiện
ở hai vấn đề: là sự phê phán chủ nghĩa tư bản theo quan điểm tiểu tư sản và dự kiến cải
tạo nền sản xuất tua bản theo mô hình sản xuất nhỏ và chế độ kinh tế hàng hóa nhỏ trước
chủ nghĩa tư bản. Các đại biêu tiêu biểu là: Sismondi (1773- 1842), Proudhon (18091865)…
Sismondi, nhà kinh tế học người Pháp gốc Thụy Sỹ, đã kế tục lý luận giá trị
lao động của A.Smith, thừa nhận lao động là nguồn gốc của mọi của cải và xác định
cấu thành giá trị gồm tiền công, lợi nhuận và địa tô; coi tiền tệ là hàng hoá, là sản
phẩm của lao động và là thước đo giá trị. Đồng thời dùng lý thuyết giá trị lao động
để giải quyết các vấn đề kinh tế. Đã phân biệt rõ hai thuộc tính giá trị và giá trị trao
đổi có mâu thuẫn.
Proudhon, người Pháp. Ông đưa ra lý thuyết “giá trị tổng hợp” hay “giá trị
cấu thành”. Proudhon cho rằng đó là phát hiện mới, sự phát triển tiếp tục lý thuyết giá trị,
là hòn đá tảng trong hệ thống lý thuyết kinh tế cuả của ông. Theo ông, giá trị là một phạm
trù trừu tượng, vĩnh viễn. Nó bao gồm hai tư tưởng là tư tưởng giá trị sử dụng và giá trị
trao đổi. Hai tư tưởng này đối lập nhau thể hiện hai xu hướng là sự dư thừa và sự khan
hiếm. Giá trị sử dụng thể hiện sự dư thừa, giá trị trao đổi thể hiện sự khan hiếm. Điều đó

tạo nên sự khó khăn khi trao đổi trên thị trường. Để khắc phục ông đưa ra lý thuyết về giá
trị cấu thành. Theo ông, giá trị cấu thành được tạo ra trong sản xuất và được thị trường


18
chấp nhận. Chỉ có sản phẩm nào được thị trường chấp nhận mới là giá trị cấu thành. Từ
đó ông cho rằng, việc sản xuất theo giá trị cấu thành sẽ giải quyết các mâu thuẫn của sản
xuất hàng hóa.
Đánh giá chung: các nhà kinh tế chính trị trước C.Mác, đặc biệt là các nhà kinh
tế chính trị tư sản cổ điển Anh đã có những đóng góp to lớn cho sự ra đời, phát triển lý
luận giá trị - lao động. Tuy nhiên lý luận giá trị - lao động của họ còn có những hạn chế,
tầm thường và bế tắc. Chỉ đến C.Mác, trên cơ sở kế thừa có chọn lọc cùng với sự thiên
tài của mình đã phát triển có tính chất là bước ngoặt cách mạng trong vấn đề này.
2. Tính cách mạng – khoa học trong lý luận giá trị - lao động của
C.Mác
Chủ nghĩa Mác nói chung và kinh tế chính trị học Mác xít nói riêng ra đời
vào đầu thập niên 40 của thế kỷ XIX. Đây là thời kỳ chủ nghĩa tư bản bộc lộ rõ
bản chất và giai đoạn phát triển mạnh mẽ, mâu thuẫn trong lòng chủ nghĩa tư
bản trở nên gay gắt. Mâu thuẫn giai cấp giữa công nhân và tư sản ngày một lên
cao. Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chuyển từ tự phác sang tự giác, từ
kinh tế sang chính trị do đó đòi hỏi cần có một thứ vũ khí tư tưởng cho giai cấp
vô sản và chủ nghĩa Mác ra đời trên nhu cầu thực tiễn đó. Những tư tưởng cơ
bản, quan trọng, là hạt nhân, mang tính cách mạng - khoa học của kinh tế chính
trị học Mác xít được thể hiện tập trung trong bộ “Tư bản” của C.Mác, gồm có 4
quyển. Trong đó lý luận giá trị- lao động được ông trình bày một cách sâu sắc
trong quyển I: Quá trình sản xuất của tư bản. Quyển I bộ “Tư bản” ra đời được
đánh giá như là “tiến sét nổ ra giữa bầu trời quang đãng của chủ nghĩa tư bản”.
Nhờ nó mà người ta đã biết được toàn bộ bí mật của xã hội tư bản, đồng thời là
căn cứ để biến chủ nghĩa xã hội từ không tưởng thành khoa học. Đó là một công
lao to lớn của C.Mác trong lịch sử kinh tế chính trị. Trong quyển I, Mác đã có

nhiều phát minh khoa học mới: lý luận về giá trị- lao động, giá trị thặng dư, tích
lũy tư bản; trong đó lý luận giá trị- lao động được coi là cơ sở để nghiên cứu các
lý luận khác, do đó làm cho học thuyết kinh tế của C.Mác mang tính nhất quán,
logic và khoa học.
Cuộc cách mạng trong học thuyết về giá trị - lao động C.Mác được thực
hiện khi: ông là người đầu tiên đã phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản
xuất hàng hoá (đó là: lao động cụ thể và lao động trừu tượng). Đây là bước tiến vô


19
cùng quan trọng, có ý nghĩa là chìa khóa để luận giải sâu sắc các vấn đề lý luận
giá trị - lao động, tạo bước ngoặt cách mạng trong khoa học kinh tế chính trị.
Phát kiến vĩ đại đó giúp C.Mác hình thành hàng loạt phạm trù kinh tế chính trị
học. Trong quyển I bộ “Tư bản”, C.Mác đã viết: "Tôi là người đầu tiên nêu rõ
tính chất 2 mặt ấy của lao động biểu hiện trong hàng hóa, vì khoa kinh tế chính
trị xoay xung quanh điểm này, nên ở đây chúng ta bàn thật chi tiết hơn nữa".
Như vậy theo C.Mác, đây là điểm xuất phát mà khoa kinh tế chính trị xoay
quanh, nghĩa là với phát hiện này đã đem lại cơ sở khoa học cho các lý luận kinh
tế khác. Nhờ đó, C.Mác đã hoàn thiện lý luận giá trị lao - động mà các nhà kinh
tế học trước ông không ai giải quyết được triệt để.
Quay lại lịch sử, các nhà kinh tế chính trị cổ điển trước C.Mác họ đã phát hiện
lao động tạo ra giá trị. Song lao động nào tạo ra giá trị thì họ lại không chỉ ra được vì
họ không phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá, không biết
được vì sao hàng hóa có hai thuộc tính, không thể luận giải một cách khoa học các
hiện tượng kinh tế đang diễn ra, càng không thể luận giải khoa học lý luận giá trị.
Nhờ sự phát hiện này, C.Mác đã giải thích được một cách khoa học nhiều hiện tượng
phức tạp trong nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa. Trong bức thư gửi cho
Ph.Ăngghen ngày 24 tháng 8 năm 1867, C.Mác đã khẳng định: tính chất hai mặt của
lao động vừa được biểu hiện trong giá trị sử dụng, vừa được biểu hiện trong giá trị
trao đổi, toàn bộ nhận thức đều dựa trên cơ sở này.

Tính khoa học - cách mạng còn được tiếp tục thể hiện: trên cơ sở luận giải
sâu sắc lao động cụ thể, lao động trừu tượng (khái niệm, đặc điểm, mối quan hệ
giữa lao động cụ thể và lao động trừu tượng). C.Mác đã giải quyết được triệt để
vấn đề thực thể của giá trị là lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa
kết tinh trong hàng hóa.
Từ đó, C.Mác đã trả lời được câu hỏi tại sao hàng hóa có hai thuộc tính và
khẳng định rằng hàng hóa là sự thống nhất biện chứng của hai thuộc tính là giá
trị và giá trị sử dụng và chỉ rõ: mâu thuẫn giữa tính chất tư nhân và tính chất xã
hội, cũng như mâu thuẫn cơ bản trong nền sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa.
Trên cơ sở đó, C.Mác đã trình bày một cách khoa học các phạm trù như: thời gian
lao động xã hội cần thiết, chất và lượng giá trị của hàng hóa. Khi nghiên cứu mặt
lượng của giá trị C.Mác chỉ ra rằng lượng của giá trị được đo bằng thời gian lao


20
động xã hội cần thiết, rằng lượng giá trị của một hàng hóa tỷ lệ thuận với số
lượng lao động thể hiện trong hàng hóa đó và thay đổi theo tỷ lệ nghịch với sức
sản xuất của lao động đó.
Theo chuỗi liên kết, ông tiếp tục phát hiện ra hàng hóa sức lao động, từ đó giải
quyết triệt để vấn đề giá trị thặng dư (nguồn gốc, bản chất, các hình thức biểu hiện và
chỉ rõ cơ cấu chuyển hóa giá trị thặng dư thành lợi nhuận bình quân, giá trị hàng hóa
thành giá cả sản xuất trong điều kiện tự do cạnh tranh, cũng như quyết khoa học các
vấn đề lợi nhuận, lợi tức và địa tô…). C.Mác đã phân tích khoa học các vấn đề về
tích lũy tư bản trong điều kiện nâng cao cấu tạo hữu cơ tư bản từ đó dẫn đến nạn
nhân khẩu thừa tương đối làm bần cùng hóa giai cấp vô sản, thúc đẩy mâu thuẫn cơ
bản của chủ nghĩa tư bản ngày càng sâu sắc. Phân chia tư bản thành thành tư bản bất
biến và tư bản khả biến; luận giải sâu sắc tư bản cố định và tư bản lưu động chỉ rõ vai
trò của từng yếu tố, trình bày khoa học vấn đề tái sản xuất… Điều mà các nhà kinh tế
trước đó chưa ai có thể làm được như tác giả đã trình bày ở trên tại điểm 1.
C.Mác nghiên cứu sự phát triển của các hình thái giá trị, một công việc mà

khoa kinh tế chính trị tư sản chưa hề làm bao giờ, từ đó tìm hiểu nguồn gốc và
bản chất của tiền tệ, khám phá được bí mật của tiền tệ. Tiền tệ là điều bí ẩn mà
hang nghìn năm người ta chưa phát hiện ra, mặc dù các nhà kinh tế trước C.Mác
nghiên cứu rất sớm, nhưng nhìn chung họ chưa hiểu được vì sao vàng đóng vai
trò tiền tệ, nên đã đưa tới sự sùng bái tiền tệ. Chính C.Mác là người đầu tiên
vạch rõ nguồn gốc, bản chất, chức năng và quy luật lưu thông tiền tệ, khẳng định bản
chất tiền công là giá cả của hàng hóa sức lao động chứ không phải là giá cả lao động.
C.Mác khẳng định: tiền tệ ra đời là kết quả phát triển lâu dài của sản xuất hàng
hóa, tiền tệ là một hàng hóa đặc biệt dùng làm vật ngang giá chung, nó trực tiếp
thể hiện lao động xã hội, biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa.
Cuối cùng, trong học thuyết giá trị - lao động C.Mác đã nghiên cứu tỉ mỉ và hoàn
chỉnh qui luật giá trị, nêu và phân tích yêu cầu cùng cơ chế hoạt động của nó
trong các giai đoạn phát triển khác nhau của sản xuất hàng hóa. Đây chính là các
vấn đề mà các nhà kinh tế trước C.Mác không thể luận giải một cách khoa học hoặc
đã có ý phân tích nhưng chưa đầy đủ.
Tóm lại, với thiên tài của mình, C.Mác đã phát hiện ra tính chất hai mặt của
lao động sản xuất hàng hóa - là một phát minh khoa học có tính thời đại, C.Mác đã


21
làm một cuộc cách mạng trong lĩnh vực kinh tế chính trị học nói chung và trong lý
luận giá trị - lao động nói riêng. Những luận điểm cơ bản trên đây trong lý luận
giá trị - lao động của C.Mác vẫn giữ nguyên giá trị trong nền kinh tế thị trường
hiện đại. Hơn nữa, chúng còn cung cấp cơ sở lý luận để phân tích và giải quyết
những vấn đề cơ bản nhất trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
3. Vận dụng lý luận giá trị - lao động của C.Mác trong xây dựng và phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Hệ thống lý luận giá trị - lao động của C.Mác không những chỉ có ý nghĩa
về mặt khoa học mà còn có ý nghĩa lịch sử và thời đại sâu sắc. Cho đến ngày

nay nó vẫn còn nguyên giá trị cả về lý luận và thực tiễn. Việt Nam đang đẩy
mạnh việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, nắm vững lý luận giá trị - lao động là một việc rất cần thiết để hiểu và
vận dụng trong hoạt động thực tiễn của kinh tế thị trường. Bởi vậy việc vận
dụng sáng tạo lý luận giá trị - lao động của C.Mác đang là đòi hỏi của thực tiễn.
Có thể nói rằng, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đây là
thành quả to lớn và quan trọng trong nghiên cứu lý luận của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Là sự vận dụng sáng tạo lý luận giá trị - lao động của C.Mác trong
thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế mới mẻ chưa từng có trong lịch sử
nhân loại. Tư duy lý luận và nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là một quá trình lâu dài, thường xuyên và qua nhiều bước với mục
tiêu không thay đổi là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội mà ở đó mọi quá
trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng đều được thực hiện thông qua thị
trường. Vì thế nó không chỉ là “công nghệ”, là “phương tiện” để phát triển kinh
tế - xã hội, mà còn là những quan hệ kinh tế - xã hội, nó không chỉ gồm lực
lượng sản xuất, mà còn cả một hệ thống quan hệ sản xuất. Kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế
thị trường, vừa chịu sự chi phối của các nhân tố định hướng xã hội chủ nghĩa.
Vì thế kinh tế thị trường ở nước ta vừa có những đặc trưng chung, phổ biến của
mọi nền kinh tế thị trường, vừa có những đặc trưng mang tính đặc thù- định


22
hướng xã hội chủ nghĩa. Bởi vậy việc vận dụng lý luận giá trị - lao động của
C.Mác trong điều kiện hiện nay đòi hỏi phải có tư duy sáng tạo. Tuy nhiên,
không phải lúc nào chúng ta cũng vận dụng tốt lý luận giá trị - lao động của
C.Mác trong thực tiễn quá trình tổ chức xây dựng, quản lý nền kinh tế của đất
nước.

Trước đổi mới quan niệm của chúng ta còn chủ quan duy ý chí, không nhận
thức đúng các quy luật kinh tế khách quan, coi kinh tế hàng hoá là sản phẩm riêng có
của chủ nghĩa tư bản. Chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình kế hoạch
hoá tập trung, quan liêu bao cấp, mệnh lệnh hành chính, thực hiện ngăn sông, cấm
chợ dẫn đến hiện tượng thừa thiếu giả tạo, kinh tế bị khủng hoảng, đời sống nhân
dân gặp nhiều khó khăn. Trong thời gian dài với cơ chế kế hoạch hóa tập trung
quan liêu bao cấp, toàn bộ quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng đã
có một hệ thống chỉ tiêu cụ thể được ấn định từ trên xuống, từ trung ương đến
tận các cơ sở, theo các địa chỉ có sẵn...Chính vì lẽ đó, việc thay đổi mẫu mã mặt
hàng, tìm hiểu thị hiếu khách hàng, tìm hiểu thị trường tiêu thụ, các quy luật
cung- cầu, quy luật cạnh tranh...chưa được đặt ra. Các khoản chi phí tiếp tục
quá trình sản xuất trong lĩnh vực lưu thông, chi phí lưu thông thuần túy càng
ngày càng được giảm một cách tối đa, vì nó trở thành thừa, trở thành không cần
thiết. Có một thời chúng ta đã sai lầm, khi lấy gạo làm mặt bằng giá. Thực chất
là kéo năng suất lao động của tất cả các ngành về ngang bằng với ngành sản xuất
nông nghiệp. Nếu xác định lượng giá trị hàng hóa, lượng thời gian lao động xã
hội cần thiết như vậy; chẳng những chúng ta hiểu sai về lý luận giá trị - lao động
của C.Mác, mà còn không thấy được những biểu hiện mới trong điều kiện hiện
nay.
Từ thực tiễn đòi hỏi đó, trên cơ sở đổi mới tư duy, nhận thức đúng đắn các
quy luật kinh tế khách quan và vận dụng lý luận gí trị - lao động của C.Mác, Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: kinh tế hàng
hoá không phải là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản, nó ra đời, tồn tại gắn liền
với quá trình phân công lao động xã hội và còn tồn tại những hình thức sở hữu khác
nhau về tư liệu sản xuất. Vì vậy, trước chủ nghĩa tư bản, trong chủ nghĩa tư bản và
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại sản xuất hàng hóa là một tất yếu
khách quan, là hợp quy luật. Từ nhận thức đó, đại hội xác định: phát triển nền kinh tế


23

hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn chứng minh sau 25 năm công cuộc đổi mới ở Việt Nam đã đạt
được những thành tựu rất quan trọng. Các quy luật kinh tế khách quan được tôn
trọng, trong đó quy luật giá trị đã thể hiện rõ vai trò to lớn trong nền kinh tế thị
trường dần dần tiếp cận đến kinh tế thị trường hiện đại. Do vậy, nhịp độ kinh tế
tăng trưởng khá: về tốc độ tăng trưởng, trong những năm khởi đầu công cuộc
đổi mới (1986-1991) tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng trưởng tương đối
chậm. Nhưng khi quá trình đổi mới diễn ra rộng khắp và đi vào thực chất thì tốc
độ tăng trưởng GDP luôn đạt mức cao và ổn định kéo dài, mặc dù có lúc bị giảm
sút do dự báo chủ quan và ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng
của các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu. Đất nước không
những thoát khỏi khủng hoảng mà đời sống các tầng lớp nhân dân được nâng
cao rõ rệt, chính trị xã hội ổn định, quốc phòng an ninh được giữ vững, lòng tin
của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố tăng cường, vị thế của
Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng lên, quan hệ kinh tế quốc tế
ngày càng mở rộng…
Thành tựu đổi mới trong nước kết hợp với thực hiện chính sách mở cửa,
tích vực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đã mở ra không gian phát triển
mới cho nền kinh tế Việt Nam và mang lại cho Việt Nam một vị thế quốc tế mới.
Từ một quốc gia bị phong toả, cấm vận; từ một nền kinh tế kém phát triển và
“đóng cửa”, sau hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đã vươn mạnh ra thế giới. Đến
nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với gần 170 nước và vùng lãnh thổ; mở
rộng quan hệ kinh tế thương mại với 221 quốc gia và vùng lãnh thổ. Ngoài ra,
Việt Nam còn là thành viên chính thức của nhiều tổ chức kinh tế quốc tế và khu
vực, và điều đáng nói nhất là năm 2007 Việt Nam đã trở thành thành viên chính
thức thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Phúc lợi xã hội và đời
sống vật chất, tinh thần của người dân cũng được cải thiện rõ rệt. Theo đánh giá
của Liên hiệp quốc, Việt Nam về đích trước 10 năm với mục tiêu xoá đói giảm

nghèo trong thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ.


24
Đánh giá về thành công của quá trình đổi mới, Đại hội lần thứ X của
Đảng đã khẳng định: “Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của
Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Nhận thức về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn;
hệ thống quan điểm lý luận và công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ
bản”. Tuy nhiên, nhiều nội dung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu xây dựng và phát
triển đất nước trong thời kỳ mới. Những khó thách thức còn nhiều đang cản trở con
đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là việc vận dụng các quy luật kinh tế khách
quan, việc hoạch định các thể chế chính sách phát triển nền kinh tế thị trường...
Trước những khó khăn, thách thức ấy đòi hỏi Đảng ta phải không ngừng tự đổi mới,
tự chỉnh đốn để ngang tầm với nhiệm vụ, trong đó trọng tâm là đổi mới về tư duy
kinh tế. Đại hội X, Đảng khẳng định: “Tư duy của Đảng trên một số lĩnh vực chậm
đổi mới; một số vấn đề ở tầm quan điểm, chủ trương lớn chậm làm rõ nên chưa đạt
được sự thống nhất cao về nhận thức và thiếu dứt khoát trong hoạch định chính sách,
chỉ đạo điều hành. Sự chỉ đạo tổ chức thực hiện chưa tốt, nhất là trong ba lĩnh vực:
xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tạo bước
chuyển mạnh về phát triển nguồn nhân lực; đổi mới tổ chức và phương thức hoạt
động của hệ thống chính trị”1.
Từ những nhận định, đánh giá khách quan đó Đảng đã có đường lối, chủ
trường chính sách phát triển kinh tế phù hợp. Đại hội X, Đảng xác định các loại thị
trường: thị trường hàng hoá và dịch vụ, thị trường tài chính, thị trường bất động sản,
thị trường sức lao động, thị trường khoa học và công nghệ… Đây là một bước mới
trong nhận thức của Đảng về phát triển một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Đảng xác định cần phân biệt chức năng quản lý vĩ mô của nhà nước và quyền

tự chủ sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Đại hội X Đảng chỉ rõ: Nhà nước
cần tập trung làm tốt các chức năng “Định hướng sự phát triển bằng các chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch và cơ chế, chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của
thị trường. Đổi mới căn bản công tác quy hoạch, kế hoạch phù hợp yêu cầu xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế…
1
2

Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2006, Tr.15-16.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2006, Tr. 78-79.


25
Tác động đến thị trường chủ yếu thông qua cơ chế, chính sách và các công cụ kinh
tế… Thực hiện quản lý nhà nước bằng hệ thống pháp luật, giảm tối đa sự can thiệp
hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp. Tách chức năng quản lý
hành chính của nhà nước khỏi chức năng quản lý kinh doanh của doanh nghiệp”2.
Nghị quyết trung ương VI khoá X của Đảng tiếp tục khẳng định: Tiền lương
phải được coi là giá cả sức lao động, được hình thành theo quy luật thị trường, dựa
trên cung cầu về sức lao động, chất lượng, cường độ lao động và mức độ cạnh tranh
việc làm. Như vậy, sức lao động được Đảng thừa nhận là hàng hoá. Đến đây, hàng
hoá sức lao động cũng như các hàng hoá khác. Cùng với thị trường sức lao động các
thị trường khác cũng dần đi vào hoạt động theo đúng quy luật phát triển của một nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đó là những quan điểm, nhận định, đánh giá của Đảng khi nhận thức về
những vấn đề cơ bản của lý luận giá trị - lao động của C.Mác. Về mặt thực tiễn,
trong điều kiện ở nước ta hiện nay đang chuyển sang kinh tế hàng hóa, kinh tế
thị trường nhiều người cho rằng lý luận giá trị - lao động của C.Mác là không
còn ý nghĩa, nhiều trường phái kinh tế học đưa ra các lý thuyết kinh tế nhằm
chống lại học thuyết của C.Mác, phủ định giá trị do lao động tạo ra. Có thể

khẳng định rằng: dù lịch sử có nhiều biến động, nhiều nhân tố, điều kiện để sản
xuất ra hàng hóa cũng có nhiều thay đổi khác trước nhưng phạm trù lượng giá trị
hàng hóa là lượng lao động kết tinh; là "thời gian lao động xã hội cần thiết" mà
C.Mác đã phân tích trước đây, hiện nay vẫn đúng và hết sức cần thiết. Đương
nhiên, phạm trù này, cần phải được phát triển, cần được hiểu rộng hơn trong
điều kiện mới, không chỉ đặt trong phạm vi của một ngành, một lĩnh vực, một
nước mà đặt trong phạm vi quốc tế; không chỉ sản xuất cho riêng mình mà phải
gắn với nhu cầu quốc tế hóa đời sống và quốc tế hóa sản xuất; không chỉ thu hẹp
trong phạm vi của mỗi nước, từng khu vực, mà phải đặt trong cơ cấu kinh tế mở,
vấn đề toàn cầu, lý thuyết lợi thế so sánh, đặt trong quan hệ của quy luật cạnh
tranh, trong hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội, trong tăng trưởng kinh tế...
Vận dụng học thuyết giá trị - lao động của C.Mác trong kinh tế thị trường
ở Việt Nam hiện nay: vấn đề quan trọng đặt ra vẫn phải đi từ cách tiếp cận về
tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa mà C.Mác đã đưa ra. Hơn nữa
phải gắn liền giữa sản xuất và lưu thông; giữa sản xuất và tiêu dùng, phải tiếp


×