Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

tha hóa xã hội Mác Lênin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.27 KB, 10 trang )

ĐỀ BÀI :Phân tích hiện tượng tha hóa của con người, vấn đề giải
phóng con người trong triết học Mác-Lê Nin

Lời mở đầu
Khi nghiên cứu sự hình thành, phát triển con người trong quá trình lịch sử,
triết học Mác đã khẳng định bên cạnh mặt chủ đạo của con người là sang tạo còn
có hiện tượng tha hóa con người. Triết học Mác nói chung, triết học Mác- Lê Nin
nói riêng đã chia bản chất của con người, sự tha hóa của con người từ đó là vấn đề
giải phóng con người, từ giải phóng những con người cụ thể sẽ tiến đến giải phóng
nhân loại. Để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này, sau đây em xin trình bày đề tài: “Phân
tích hiện tượng tha hóa của con người, vấn đề giải phóng con người trong triết học
Mác-Lê Nin”.
I.Hiện tượng tha hóa con người trong triết học Mác - Lênin
1.Khái niệm tha hóa con người
Phạm trù “tha hoá” là đã được nhiều nhà triết học nghiên cứu và lý giải một
cách có hệ thống như Hê-ghen hay Phoi-ơ-bắc. Kế thừa tinh thần của các nhà triết
học tiền bối, C.Mác cũng đã đưa ra quan điểm của mình về tha hóa con người trên
cơ sở phân tích tha hóa trong quan hệ nền tảng giữa con người với con người, giữa
con người với sản xuất vật chất, giữa con người với hoạt động kinh tế. Theo đó,
tha hóa là khái niệm nói lên quá trình mà trong đó những sản phẩm do con người
tạo ra (sản phẩm lao động, đồng tiền, các quan hệ xã hội…) cũng như những thuộc
tính hoặc năng lực nào đó của con người trong những điều kiện lịch sử nhất định,
lại biến thành những thứ độc lập với con người và chi phối lại con người. Theo
C.Mác: “Tha hóa là quá trình con người tự đánh mất “những năng lực bản chất
người” của mình, trở thành một thực thể khác”1. Như vậy, tha hóa trước hết là một
quá trình xã hội, trong đó, hoạt động của con người và nhữn sản phẩm của nó biến
thành lực lượng đối lập, thù địch và chống lại con người.
1 C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.20. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.687.


2.Nguồn gốc và nguyên nhân của sự tha hóa


Bàn về vấn đề con người, triết học C.Mác chỉ ra rằng xã hội tư bản chủ nghĩa
đã làm cho lao động bị tha hóa. Xuất phát từ tình cảnh sống và lao động của giai
cấp công nhân, trên cơ sở tiếp thu có phê phán các học thuyết triết học trước đó về
con người, về sự tha hóa nói chung, C.Mác đã nêu lên quan niệm duy vật về sự tha
hóa. Đó là lao động bị tha hóa, đồng thời, ông đã chỉ ra con đường giải phóng lao
động khỏi sự tha hóa. C.Mác bắt đầu xây dựng lý luận của mình bằng cách sử dụng
khái niệm “tha hóa”, cắt nghĩa tình trạng tha hóa của con người và vạch ra con
đường khắc phục sự tha hóa. Nhưng khác với Phoi-ơ -bách, Mác tìm nguyên nhân
dẫn đến sự tha hóa bản chất con người từ “lao động bị tha hóa”. Điều đó biểu hiện:
-

Sản phẩm do lao động của người lao động tạo ra trở thành cái đối lập, chi

-

phối cuộc sống của con người.
Có tình trạng đó bởi vì bản thân hoạt động lao động đã không còn là biểu hiện
bản chất sáng tạo mà trở thành lao động cưỡng bức, do đó, trong lao động của

-

mình con người không tự khẳng định mình mà lại phủ định mình.
Trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, ngay cả sức lao động, cái năng lực bản
chất của con người cũng đã thuộc về người khác.
Có thể thấy, “lao động tha hóa” làm cho con người tha hóa khỏi con người,

mỗi cá thể trở thành xa lạ với cá thể khác trong đời sống tính loài và đời sống cá
nhân xa lạ với nhau. Nếu lao động, với tư cách là niềm kiêu hãnh của con người,
thì trong xã hội có giai cấp nói chung và xã hội tư bản chủ nghĩa nói riêng, nó đã bị
tha hóa. Lao động bị tha hóa làm cho sản phẩm do người lao động tạo ra trở thành

cái xa lạ, đối lập, chi phối cuộc sống của họ; Sở dĩ, có tình trạng đó vì bản thân
hoạt động lao động đã không còn biểu hiện bản chất sáng tạo của con người, không
mang lại hạnh phúc cho người lao động mà đã trở thành lao động cưỡng bức, lao
động phủ định bản chất con người; lao động bị tha hóa làm cho con người tha hóa
khỏi con người, quan hệ giữa người với người cũng bị tha hóa, đời sống có tính
loài và đời sống cá nhân cũng xa lạ với nhau.
Nguồn gốc của sự tha hóa là do sự phát triển của phân công lao động xã hội
và sự xuất hiện của chế độ tư hữu. Triết học Mác đã chỉ ra những dấu hiệu đặc


trưng của sự tha hóa từ các phương diện: sự tha hóa của điều kiện lao động và kết
quả của sự lao động, sự tha hóa của thiết chế chính trị - xã hội và tư tưởng 2. Mặt
khác, tha hóa còn là quá trình con người tự tước bỏ năng lực sáng tạo của mình, trở
nên thụ động trước thế giới khách quan, do chính những tiện ích xã hội con người
sáng tạo nên chiều hư con người. Chế độ tư hữu từ chỗ là kết quả của sự tha hóa
của lao động lại trở thành nguyên nhân cho sự tồn tại và phát triển trong chế độ sở
hữu tư nhân mà chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ ngĩa là hình thức cao nhất.
Như vậy, sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa với chế độ tư
bản về chế độ sản xuất đã tập trung những tư liệu sản xuất cơ bản của chủ nghĩa xã
hội vào tay một số nhà tư bản, một số tập đoàn tư bản làm tuyệt đại đa số người lao
động trở nên vô sản. Nhu cầu sinh tồn đã buộc những con người không có tư liệu
sản xuất tự nguyện một cách cưỡng bức đến với các nhà tư sản và họ làm thêm cho
nhà tư bản. Và do quá trình người bóc lột người, quá trình lao động bị tha hóa đã
diễn ra. Phân công lao động có tính chất đối kháng trong chủ nghĩa tư bản, làm cho
con người bị lệ thuộc, bị nô dịch bởi điều kiện lao động và trở thành những con
người bị phát triển phiến diện. Sự phát triển của xã hội đã khiến con người không
tự kiểm soát được hoạt động của chính mình.
3.Các hình thức tha hóa của con người
Theo Các Mác, con người có ba hình thức tha hóa sau:
+


Tha hóa tôn giáo và tha hóa chính trị - xã hội:
Tha hóa tôn giáo là biểu hiện của tha hóa ý thức tư tưởng, thể hiện ở chỗ con

người đang làm mình nghèo đi, đang tước bỏ những đặc điểm riêng của mình để
phản chiếu chúng vào trí tuệ mình. Sản phẩm đó mang hình thức của một tín
ngưỡng xã hội, nó tự “tri hóa” sự tồn tại của nó đối với chính kẻ sáng tạo ra nó,
biểu hiện ra với con người như một thế lực xa lạ, nhiểu lúc đối nghịch và thống trị
con người.
+
Tha hóa chính trị - xã hội:
Sự tha hoá xã hội - chính trị biểu hiện tập trung nhất là ở sự tha hoá nhà
nước. Nhà nước, với tư cách là một bộ máy cưỡng chế có khả năng thống trị và
2 C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.9 - 10


kiểm soát mọi cá nhân “nổi loạn”, và càng ngày càng là hiện thực của bộ máy tha
hoá cai quản những sự vật không tách rời khỏi sự cai trị con người. Cuộc đấu tranh
của Mác và Ăng Ghen chống sự tha hoá trong chủ nghĩa tư bản gắn liền với quan
điểm về việc xoá bỏ nhà nước tư sản- xoá bỏ sự thống trị chính trị, đồng thời gắn
liền vớisự “tiêu vong” của nhà nước trong chủ nghĩa xã hội. Quan niệm của C.Mác
về sự tha hoá này xuất phát từ chính quan niệm của ông về sự “rạn nứt” nội tại diễn
ra trong con người xuất hiện trong hai vai trò, nhưng dưới một hình thức duy nhất
và như nhau.
Tha hoá lao động:
Tha hóa lao động là biểu hiện tập trung của tha hoá kinh tế. Chính tha hoá
kinh tế là cơ sở của tha hoá xã hôi-chính trị, chính nó quy định sự tha hoá ý thức tư
tưởng. Trong tha hoá kinh tế Mác tập trung lý giải nhân tố cơ bản nhất của nó là
lao động. Mác đưa ra quan niệm của mình về tha hoá lao động trên những bình
diện sau:

+

Sự tha hoá của người công nhân đối với sản phẩm lao động của mình: Sự tha

hoá thể hiện ở chỗ, người công nhân quan hệ với sản phẩm lao động của mình như
một vật xa lạ. Sản phẩm lao động đứng đối lập với lao động như một tồn tại xa lạ,
như một lực lượng không phụ thuộc vào người sản xuất. Bên cạnh đó, sự tha hoá
biểu hiện ở sự thống trị của sản phẩm lao động đối với người sản xuất. Từ chỗ là
chủ thể của sản phẩm lao động, con người trở thành phụ thuộc vào sản phẩm, phục
tùng các quy luật riêng của nó, thậm chí uy hiếp sự tồn tại của con người.
+

Sự tha hoá của người công nhân biểu hiện trong hành vi lao động của mình.

Khi lao động không còn là nhu cầu mà trở thành một lực lượng xa lạ, đối lập và
gánh nặng cho con người, nó chỉ còn là phương tiện để thoả mãn nhu cầu tồn tại
thể xác của con người. Vì vậy lao động của người công nhân trở thành lao động
cưỡng bức, và bản thân người lao động cũng né tránh lao động. Người lao động chỉ
cảm thấy tự do khi ở ngoài quá trình lao động. Lao động tha hoá còn biểu hiện ở
chỗ lao động đó không thuộc về bản thân người lao động mà thuộc về người khác.


Vì vậy hoạt động lao động của người lao động là hoạt động tự đánh mất bản thân
mình. Đó là quá trình tự tha hoá.3
+

Tha hoá bản chất con người và tha hoá con người với con người
Lao động bị tha hoá dẫn tới giới tự nhiên chỉ còn là phương tiện để duy trì

sự tồn tại thân xác cuả con người. Lao động bị tha hoá làm cho lao động trở thành

đối lập với giới tự nhiên, lao động không còn là hoạt động cải tạo tự nhiên, chiếm
lĩnh tự nhiên phục vụ cho đời sống con người, từ đó con người mất cơ hội hoàn
thiện chính bản thân mình. Lao động tha hoá loại bỏ những hoạt động tinh thần
khác nhau ra khỏi đời sống con người. Như vậy lao động tha hoá đã biến cái thế
hơn của con người so với con vật thành cái tiêu cực đối với con người.
+
Kết quả trực tiếp của việc con người bị tha hoá với sản phẩm lao động của
mình, với hoạt động sinh sống của mình, là sự tha hoá của con người với con
người. Như vậy chính lao động bị tha hoá dẫn đến tha hoá bản chất con người, biến
cái vốn có của con người thành cái bị tách khỏi con người, đứng đối lập với con
người như một cái xa lạ. Đồng thời sự tha hoá lao động cũng dẫn tới tha hoá của
mỗi người với người khác.
Tha hóa của con người để lại hậu quả vô cùng nghiêm trọng đối với tiến
trình phát triển của lịch sử loài người. Nó làm kìm hãm và cản trở sự sáng tạo và
phát triển nhận thức của con người, khiến con người tự đánh mất “những năng lực
bản chất người” của mình, trở thành một thực thể khác xa lạ, thấp kém. Hoạt động
của con người và những sản phẩm của nó biến thành lực lượng đối lập, thù địch và
chống lại con người, con người xa lạ với con người, gây ra sự hỗn loạn và biến đổi
trong mọi mặt của đời sống.4
4. Khắc phục sự tha hóa
Khắc phục sự tha hóa là một quá trình lâu dài mà trước hết là phải gắn liền
với việc xóa bỏ chế độ tư hữu. Triết học Mác- Lê Nin chính là lý luận triết học về
khắc phục sự tha hóa của con người, trước hết là lý luận giải phóng con người khỏi
3 V.I.Lênin. Toàn tập, t.4. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr.232.
4 Hoàng Đình Phu. Khoa học và công nghệ với các giá trị văn hoá. Nxb Khoa học - kỹ thuật, Hà Nội, 1998, tr.119.


mọi sự áp bức, bóc lột. Giải phóng con người là xóa bỏ người bóc lột người, xóa
bỏ tha hóa để con người trở về với chính mình, phát triển bản tính chân chính của
mình. Cách mạng vô sản là điều kiện của sự khác phục tha hóa và phát triển con

người.
II. Vấn đề giải phóng con người trong triết học Mác Lênin
Tiền đề nghiên cứu triết học của Mác và Ăngghen là xuất phát từ con người
hiện thưc – sống và hoạt động thực tiễn. Logic lý luận của Mác và Ăngghen là đưa
thực tiễn vào triết học, có quan niệm đúng đắn về thực tiễn và vai trò của thực tiễn
đối với đời sống xã hội, từ đó, giải đáp được những bí ẩn, bế tắc của mọi lý luận
triết học cũ. Nguyên lý đầu tiên của chủ nghĩa duy vật lịch sử là sản xuất vật chất,
đây là cơ sở, nền tảng của sự tồn tại và phát triển đời sống xã hội. Tiền đề mọi lịch
sử xã hội là con người hiện thực, con người thực tiễn, trước hết là thực tiễn lao
động sản xuất. Sản xuất vật chất là phương thức cơ bản biểu hiện bản chất con
người và lối sống xã hội.
1. Nội dung vấn đề giải phóng con người trong triết học Mác - Lênin
Triết học Mác-Lênin không phải là triết học đầu tiên đề cập đến vấn đề giải
phóng con người. Lịch sử đã ghi nhận nhiều học thuyết, nhiều quan điểm về giải
phóng con người song do điều kiện lịch sử, do sự ràng buộc về giai cấp, do cách
hiểu về con người, nguồn gốc và bản chất con người, v.v. khác nhau nên xác định
giải phóng con người là giải phóng đối tượng nào?, giải phóng bằng cách nào?,
giải phóng như thế nào? v.v. cũng rất khác nhau.5
Triết học Mác-Lênin xác định:Bất kỳ sự giải phóng nào cũng bao hàm ở chỗ
là nó trả thế giới con người, những quan hệ của con người về với bản thân con
người,là giải phóng người lao động thoát khỏi lao động bị tha hoá.
Đối với phương thức và lực lượng giải phóng con người, triết họcMác-Lênin
khẳng định:Giải phóng con người là xoá bỏ tha hoá, xoá bỏ người bóc lột người để
con người trở về với chính mình, phát triển bản tính chân chính của mình. Song
5 Nguyễn Duy Quý. Nhận thức thế giới vi mô. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1999, tr.14.


con người bẩm sinh đã là sinh vật có tính xã hội thì do đó con người chỉ có thể phát
triển bản tính chân chính của mình trong xã hội. Việc giải phóng con người phải
được thực hiện trong xã hội loài người.

Nguyên nhân sản sinh ra tha hoá là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuấtnên xoá
bỏ một cách tích cực chế độ tư hữu với tính cách là sự khẳng định sinh hoạt của
con người là sự xoá bỏ một cách tích cực mọi sự tha hoá.Điều này cũng có nghĩa là
lực lượng thực hiện nó chính là những người bị tước đoạt tư liệu sản xuất – những
người vô sản. Sức mạnh giải phóng của họ không phải là sức mạnh của những cá
nhân đơn độc mà như C.Mác chỉ rõ, chỉ khi nào họ nhận thức được và tổ chức
được “những lực lượng của bản thân” thành những lực lượng xã hội – cũng chính
là thành những lực lượng chính trị – thì giải phóng con người mới thực hiện được.
Giải phóng xã hội khỏi sở hữu tư nhân, khỏi sự nô dịch trở thành hình thức chính
trị của sự giải phóng giai cấp vô sản, song ở đây không chỉ là sự giải phóng cho họ
vì sự giải phóng của họ bao hàm sự giải phóng toàn thể nhân loại.
Lênin nhận định: Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm
sáng rõ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là người thực hiện sứ mệnh giải
phóng con người.
Mục tiêu cuối cùng của giai cấp công nhân, của cách mạng xã hội chủ nghĩa
là giải phóng con người, giải phóng xã hội. Chủ nghĩa xã hội không chỉ dừng lại ở
ý thức, ở khẩu hiệu giải phóng con người mà từng bước thực hiện việc giải phóng
con người trên thực tế, biến con người từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc
của tự do, tạo nên một thể liên hiệp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi con người
là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người. Sự tự do đem lại cho con
người quyền được lao động, được phân phối công bằng của cải vật chất và tinh
thần, được tham gia vào các công việc xã hội, được phát triển và vận dụng các
năng lực của mình với tư cách sự thực hiện những nhu cầu cơ bản, quyền được
nghỉ ngơi. Tự do cá nhân trong chủ nghĩa xã hội không chỉ biểu hiện trong các
quyền cá nhân được hưởng mà còn được biểu hiện trong nghĩa vụ, trách nhiệm cá


nhân. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới là giải pháp tối ưu cho các vấn đề xã hội liên
quan tới sự phát triển xã hội và con người.
2. Ý nghĩa của việc giải phóng con người

Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con
người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài của giới
hữu sinh. Song, điều quan trọng hơn cả là: con người luôn luôn là chủ thể của lịch
sử - xã hội. C.Mác đã khẳng định “ Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con
người là sản phẩm của những hoàn cảnh và giáo dục... cái học thuyết ấy quên rằng
chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần
phải được giáo dục”. Trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên, Ph.Ăngghen cũng
cho rằng : “ thú vật cũng có một lịch sử phát triển dần dần của chúng cho tới trạng
thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và trong
chừng mực mà chúng tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà
chúng không hề biết và không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người
càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại
càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu”.
Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác
động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát
triển của lịch sử xã hội. Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự
nhiên. Con người thì trái lại, thông qua hoạt động thực tiễn của mình để làm phong
phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình.
Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình.
Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của
chính bản thân con người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn
tại của con người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội.
Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con người thông qua hoạt động vật
chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu
và nhu cầu do con người đặt ra . Không có hoạt động của con người thì cũng


không tồn tại quy luật xã hội, và do đó, không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã
hội loài người .6
Không có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai đoạn

phát triển nhất định của xã hội. Do vậy, bản chất con người trong mối quan hệ với
điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động, biến đổi cũng không phải thay đổi cho
phù hợp. Bản chất con người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ thống
mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người. Mặc dù là “tổng hoà các quan
hệ xã hội”, con người có vai trò tích cực trong tiến trình lịch sử với tư cách là chủ
thể sáng tạo. Thông qua đó, bản chất con người cũng vận động biến đổi cho phù
hợp. Có thể nói rằng, mỗi sự vận động và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương
ứng ( mặc dù không trùng khắp) với sự vận động và biến đổi của bản chất con
người.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm
cho hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính là toàn
bộ môi trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh hướng phát
triển nhằm đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo
dục. Thông qua đó, con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích cực và tác động
trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: hoạt động thực tiễn, quan hệ
ứng xử, hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ và năng lực tư duy,
các quy luật nhận thức hướng con người tới hoạt động vật chất. Đó là biện chứng
của mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch
sử xã hội loài người. Và đó cũng là lý do tại sao vấn đề phát triển con người cần
được phát triển, nghiên cứu kế thừa từ những cái đã có và hoàn thiện hơn nữa.

6 Hoàng Đình Phu. Khoa học và công nghệ với các giá trị văn hoá. Nxb Khoa học - kỹ thuật, Hà Nội, 1998, tr.112


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.3. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.9.
2. C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.9 - 10.
3. V.I.Lênin. Toàn tập, t.29. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr.207.
4. Xem: V.I.Lênin. Sđd., t.18, tr.117.
5. Xem: V.I.Cúpxốp. Vai trò của triết học trong nhận thức khoa học, 1976 (Đỗ Bá

dịch). Học viện Chính trị Quân sự, tài liệu số TL - 5653, tr.6.
6. V.I.Lênin. Toàn tập, t.18. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.147.
7. Đ.P.Goócki. Phép biện chứng của sự nhận thức khoa học. Tư liệu dịch, ký hiệu
T1138 (người dịch Đỗ Thiên Kính, hiệu đính Tô Duy Hợp), Phòng Thông tin và
Tư liệu, Viện Triết học, tr.15.
8. C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.20. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994,
tr.687.
9. Nguyễn Duy Quý. Nhận thức thế giới vi mô. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,
1999, tr.14.
10. C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.12.
11. V.I.Lênin. Toàn tập, t.4. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr.232.
12. Hoàng Đình Phu. Khoa học và công nghệ với các giá trị văn hoá. Nxb Khoa
học - kỹ thuật, Hà Nội, 1998, tr.119.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×