Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

KTCT thời cơ và thách thức đối với việt nam khi hội nhập kinh tế quốc tế tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.27 KB, 35 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Trong mấy thập kỷ gần đây, nhất là từ thập kỷ 80, Thế giới có nhiều
biến đổi đáng kể trên tất cả các mặt chính trị , kinh tế, xã hội. Nhân loại đang
bước vào giai đoạn sôi động của Cách mạng công nghệ, một cuộc Cách mạng
mà sự tác động của nó làm biến đổi sâu sắc trên tất cả các mặt của lực lượng
sản xuất, quan hệ sản xuất, chính trị, xã hội ở hầu hết các nước trên Thế giới.
Sự sụp đổ của mô hình CNXH Liên Xô và Đông Âu đã dẫn đến sự điều chỉnh
về mặt chiến lược và sách lược kinh tế, nhất là kinh tế đối ngoại, không chỉ ở
các nước XHCN mà còn ở các nước đang phát triển và các nước có nền kinh
tế phát triển. Sự xuất hiện tính chỉnh thể, tính nhân loại, tính toàn cầu trong
mối quan hệ với tính giai cấp và đấu tranh giai cấp, theo đó phương pháp giải
quyết những vấn đề kinh tế và công nghệ đều có liên quan đến kinh tế đối
ngoại của các quốc gia. Mặc dù chiến tranh cục bộ, nội chiến sắc tộc vẫn có
thể xảy ra nhưng sẽ không kéo dài. Bầu không khí Thế giới vẫn đi theo xu
hướng là chuyển từ đối đầu , từ chiến tranh sang đối thoại, hoà bình. Có thể
nói, trong thời đại ngày nay, kinh tế có một vai trò quan trọng ,có ý nghĩa
quyết định không chỉ đối với nền kinh tế Thế giới mà còn trên tất cả các mặt
chính trị ,xã hội. Do đó, để tồn tại và phát triển, dù ở mức độ này hay mức độ
khác,các quốc gia đều đã và đang mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế - đó là một
trong những vấn đề thời sự đối với hầu hết các nước, đó còn là xu thế chung
của thời đại ngày nay.Là một thành viên của cộng đồng quốc tế, Việt Nam
không thể không tham gia vào tiến trình hội nhập đó của Thế giới, với không
ít những khó khăn và thách thức. Đó chính là lý do của bài viết này.Bài viết
không thể tránh khỏi những thiếu sót,em mong thầy thông cảm và giúp đỡ em
hoàn thành bài. Em xin chân thành cảm ơn thầy.

1


PHẦN NỘI DUNG
I_Cơ sở lý luận:


1_Toàn cầu hoá kinh tế là gì?
1.1_Tính tất yếu của toàn cầu hoá:
Xu thế quốc tế hoá ngày nay diễn ra trên tất cả các mặt của đời
sống xã hội mà điển hình là trên lĩnh vực kinh tế. Toàn cầu hoá kinh tế có ý
nghĩa quan trọng trong việc ổn định chính trị và xã hội của từng nước nói
riêng và của toàn thế giới nói chung. Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế tất
yếu mà tính khách quan và phổ biến của nó bắt nguồn từ yêu cầu của quy luật
về sự phân công và hợp tác quốc tế giữa các nước, từ sự phân công tài nguyên
thiên nhiên và sự phát triển không đều về công nghiệp giữa các nước dẫn đến
yêu cầu việc sử dụng sao cho có hiệu quả về lợi thế so sánh để nhanh chóng
rút ngẵn khoảng cách lạc hậu giữa các nước có nền kinh tế phát triển và kém
phát triển. Mở rộng quan hệ đối ngoại còn bắt nguồn từ sản xuất và đời sống
ngày nay đã mang tính quốc tế hóa. Đặc biệt sự tác động mạnh mẽ của cuộc
Cách mạng Khoa học - Công nghệ đã làm cho lực lượng sản xuất vượt ra
khỏi khuôn khổ quốc gia, thông qua các công cụ thông tin hiện đại, những
thành tựu khoa học và chuyển giao công nghệ được thực hiện với tốc độ
nhanh giữa các nước.
Xu thế quốc tế hoá hay xu thế toàn cầu hoá kinh tế xuất phát từ một
số cơ sở khách quan sau:
Thứ nhất, đó là sự phát triển cao của lực lượng sản xuất và sự tác
động của cuộc Cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại.
Chúng ta biết rằng, trong xã hội phong kiến do lực lượng sản xuất
và giao thông kém phát triển cho nên sản xuất và trao đổi chỉ được thực hiện
trong một phạm vi quy mô nhỏ. Tính tự cung tự cấp là đặc trưng chủ yếu của
phương thức sản xuất phong kiến. Tuy vậy, trong thời đại phong kiến cũng đã

2


có thông thương vượt biên giới quốc gia nhưng chưa tạo ra những quan hệ

phụ thuộc trong phát triển, chưa có thị trường thế giới theo nghĩa hiện đại.
Khi nghiên cứu Chủ nghĩa tư bản, Mac và Anghen đã cho rằng, do sự phát
triển của lức lượng sản xuất đã dẫn đến sự phân công lao động sản xuất quốc
tế, làm cho quá trình sản xuất và tiêu thụ mang tính quốc tế, gẵn bó phụ thuộc
vào nhau. Mac và Anghen viết: “ Đại công nghiệp đã tạo ra thị trường Thế
giới thay cho tình trạng cô lập trước kia của các địa phương và dân tộc vẫn tự
cung, tự cấp, ta thấy phát triển những quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ
biến giữa các dân tộc. Như vậy, quốc tế hóa nói chung và hợp tác kinh tế quốc
tế nói riêng có cơ sở chính từ sự phát triển của sản xuất, nó ra đời gắn liền với
sự hình thành của thị trường quốc tế. Trong những thế kỉ trước, chính do lực
lượng sản xuất phát triển đã làm cho thương mại và đầu tư có tính quốc tế,
kéo theo đó là quá trình di dân, lao động và giao dịch tài chính phát triển
mạnh mẽ vượt biên giới quốc gia.
Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, gắn liền với sự phát triển của
phong trào giải phóng dân tộc là hiện tượng khoa học_ kỹ thuật phát triển
mạnh mẽ và ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Các phát kiến
về khoa học nhanh chóng được áp dụng vào sản xuất đã thúc đẩy phân công
lao động phát triển lên một bước mới. Trên thực tế quan hệ giữa khoa học,
công nghệ và sản xuất ngày càng gắn bó chặt chẽ với nhau. Trong thế kỉ XIX,
thời gian đưa phát minh khoa học vào ứng dụng trong sản xuất phải mất từ
60- 70 năm, trong thập niên 90 khoảng 3- 5 năm. Dự báo những năm sau năm
2000 chỉ còn dưới 1 năm. Do sự tác động của các thành tựu khoa học và sự
xoá bỏ của hệ thống thuộc địa và phụ thuộc, sản xuất có sự phát triển mạnh
mẽ dựa trên sự phân công lao động quốc tế mới đã làm gia tăng đáng kể các
hoạt động kinh tế quốc tế, thúc đẩy gia tăng xu thế quốc tế hoá các hoạt động
kinh tế.
Dưới sự tác động của khoa học- công nghệ, các ngành kinh tế
truyền thống dần dần nhường bước cho các ngành đại diện cho tiến bộ khoa
3



học- kỹ thuật. Sự tăng trưởng của nền kinh tế từ dựa chủ yếu vào nguyên vật
liệu và lao động đang chuyển sang dựa chủ yếu vào tri thức. Tri thức trở thành
động lực chính của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Thực tiễn phát triển
của nền kinh tế thế giới đang cho thấy bước chuyển, bước quá độ từ nền kinh
tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Hiện nay, ở các quốc gia Bắc Mỹ và
một số quốc gia phát triển Tây Âu các lĩnh vực kinh tế tri thức đã chiếm
khoảng 45- 50% GDP. Trong các nước OECD kinh tế tri thức chiếm gần 50%
GDP. Sự phát triển của lĩnh vực kinh tế tri thức dựa trên các công nghệ có
hàm lượng khoa học- kỹ thuật cao, nhất là công nghệ thông tin đã mở ra điều
kiện thuận lợi cho sự đẩy mạnh xu thế toàn cầu hóa. Với các công nghệ mới
làm tăng tốc độ giao dịch kinh doanh, rút ngắn khoảng cách về không gian và
thời gian. Các công việc giao dịch hiện nay phần nhiều được thực hiện qua
mạng với các máy vi tính xách tay. Hệ thống mạng Internet quốc tế hình
thành cho phép con người có thể biết được hầu như mọi diễn biến của đời
sống kinh tế- xã hội trên thế giới trong giây lát. Và chính điều nay sẽ góp
phần nâng cao trình độ dân trí, tạo điều kiện cho dân chủ, phát triển, thúc đẩy
nhu cầu mở cửa, giao lưu hội nhập.
Tóm lại, cuộc Cách mạng khoa học- công nghệ đã làm cho phân
công lao động và chuyên môn hoá sản xuất diễn ra trên phạm vi thế giới ngày
càng sâu sắc, làm phá vớ hàng rào ngăn cách địa giới trong giao dịch của con
người trên tất cả các mặt giữa các quốc gia. Các quốc gia dù muốn hay không
đều chịu tác động của quá trình toàn cầu hóa và đương nhiên để tồn tại, phát
triển trong điều kiện ngày nay không thể không tham gia quá trình toàn cầu
hóa, tức phải hội nhập quốc tế. Hiện nay, hợp tác và cạnh tranh là hai mặt của
nền kinh tế thế giới, các quốc gia phát triển trong mối liên hệ phụ thuộc lẫn
nhau, phải vừa hợp tác, vừa cạnh tranh để cùng tồn tại và phát triển.
Thứ hai là sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường, gắn liền
với sự hình thành các thị trường liên quốc gia mà đóng vai trò quan trọng là
các công ty độc quyền đa quốc gia ( TNC).

4


Ngày nay, khi kinh tế thị trường càng phát triển thì nhu cầu về thị
trường, nguyên liệu càng trở nên quan trọng. Kinh tế thị trường càng phát
triển thì có nghĩa phân công lao động càng sâu sắc, vì vậy, các thị trường càng
gắn bó phụ thuộc chặt chẽ vào nhau. Đồng thời kinh tế thị trường còn mở ra
điều kiện cho sự phát triển mạnh mẽ của sức sản xuất, đẩy mạnh quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, thúc đẩy sự phân
công lao động. Sự phát triển mạnh mẽ của Anh trong thế kỉ XIX và XX cũng
gắn liền với sự phát triển của kinh tế thị trường, của sự bành trướng thế lực
kinh tế ra ngoài, tạo ra sự liên hệ, ràng buộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế.
Kinh tế thị trường phát triển đã mở ra điều kiện cho sự gia tăng xu thế quốc tế
hoá thể hiện trên hai khía cạnh chính. Thứ nhất, kinh tế thị trường mở ra cơ
sở, điều kiện cho sự phát triển của lực lượng sản xuất làm cho quy mô sản
xuất không bó hẹp trong phạm vi của từng quốc gia mà trong tầm quốc tế như
vậy cũng có nghĩa là thúc đẩy quá trình phân công lao động quốc tế, gắn các
quốc gia vào trong sự ràng buộc của sản xuất và tiêu thụ. Thứ hai, kinh tế thị
trường phát triển ở các quốc gia đưa lại cơ chế thống nhất cho xử lý các mối
quan hệ kinh tế, đó là cơ chế thị trường. Với sự cùng tồn tại cơ chế thị trường
trong các nền kinh tế, có nghĩa rằng cùng tồn tại cơ chế, phương thức phân bổ
các nguồn lực từ sức lao động đến tư liệu sản xuất. Điều này rõ ràng là có ý
nghĩa cho thúc đẩy, mở rộng đầu tư, giao dịch thương mại và tiếp nhận nguồn
lao động … Có thể nói, ngày nay nền kinh tế Thế giới thống nhất ở cơ chế
vận hành: cơ chế thị trường- đây chính là cơ sở cho sự gia tăng của xu thế
toàn cầu hoá kinh tế.
Kinh tế thị trường càng phát triển thì sự giao thoa, xâm nhập lẫn
nhau giữa các nền kinh tế càng gia tăng. Hiện nay, đóng vai trò kinh tế chính
của Thế giới, góp phần không nhỏ vào nền kinh tế Thế giới, vào xu thế toàn
cầu hoá kinh tế, không thể không kể đến vai trò của các công ty độc quyền đa

quốc gia. Chính sự độc quyền của các công ty này đã thúc đẩy giao lưu buôn
bán trên thị trường, làm tăng cường sự liên kết và ràng buộc lẫn nhau giữa các
5


quốc gia. Các công ty độc quyền đa quốc gia có quy mô ngày càng lớn, ngày
càng khẳng định vai trò quan trọng của mình trong nền kinh tế Thế giới. Hiện
nay, trên Thế giới có 60.000 công ty độc quyền đa quốc gia, chi phối hầu hết
nền kinh tế Thế giới, nhưng vẫn trên cơ sở bình đẳng về quyền lợi.
Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường không chỉ ở sự
mở rộng qui mô về không gian, về sự xâm nhập, ràng buộc lẫn nhau giữa các
thị trường mà còn thể hiện ở sự phát triển theo chiều sâu, đó là sự bùng nổ
phát triển của thị trường tài chính gắn liền với sự xuất hiện của một loạt công
cụ mới trong thanh toán giao dịch. Các thị trường tài chính đan xen chặt chẽ
đến mức lãi suất cho vay và giá chứng khoán cũng ràng buộc lẫn nhau và
lượng vốn tư nhân luân chuyển trên thị trường tài chính lớn hơn tài nguyên
của nhiều nước. Thị trường sản phẩm hàng hoá cũng gia tăng mạnh mẽ, thể
hiện ở quy mô chưa từng có của khối lượng giao dịch thương mại và ở sự
phát triển của các dạng mới như thương mại dịch vụ và điện tử.
Như vậy, có thể thấy sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường
chính là cơ sở, là điều kiện cho quá trình quốc tế hoá. Nhìn chung các quốc
gia trên Thế giới ngày nay đều dựa trên cơ chế thị trường, sử dụng các
phương tiện và công cụ của kinh tế thị trường trong hoạt động kinh doanh,
đưa lại một không gian rộng lớn, không gian toàn cầu cho các hoạt động sản
xuất và lưu chuyển các yếu tố của chính quá trình sản xuất ấy.
Thứ ba, là sự gia tăng của các vấn đề toàn cầu trong bối cảnh Thế
giới kết thúc chiến tranh lạnh, bước vào thời kì hoà bình, hợp tác và phát
triển.
Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, Thế giới hình thành trật tự đối
đầu giữa hai cực, giữa hai hình thái kinh tế- xã hội. Quan hệ giao lưu kinh tế

giữa hai hình thức rất hạn chế. Sự cách trở này là nhân tố ảnh hưởng lớn đến
xu thế toàn cầu hoá. Trong suốt mấy thập kỉ chạy đua vũ trang, nhất là vũ
trang hạt nhân đã dẫn tới hình thành những kho vũ khí huỷ diệt khổng lồ đe
dọa sự tồn vong của cả nhân loại. Do việc chạy đua vũ trang đòi hỏi phải khai
6


thác các nguồn lực ở mức độ tối đa có thể nhằm dành ưu thế trong cạnh tranh.
Hơn nữa, quá trình công nghiệp hoá sau chiến tranh Thế giới thứ hai diễn ra
theo mô thức khai thác tài nguyên thiên nhiên phục vụ nhu cầu công nghiệp
hoá mà không chú ý đến tái tạo tài nguyên, lập lại hệ thống cân bằng sinh
thái, đã làm nảy sinh hàng loạt vấn đề có tính toàn cầu tác động tiêu cực tới
cuộc sống con người. Đó là sự ô nhiễm môi trường, sự gia tăng hiệu ứng nhà
kính, sự phá huỷ tầng ôzôn, dịch bệnh, thiếu nguồn nước. Theo số liệu thống
kê năm 1996 có tới 40% dân số Thế giới tại 80 quốc gia có khả năng chết do
thiếu nước, uống nước bẩn- là nguồn gốc gây ra 80% các loại bệnh tại các
quốc gia đang phát triển.
Không những thế, sự phát triển của nền kinh tế Thế giới trong
những thế kỉ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai dưới tác động của các quy luật
thị trường cũng đã đẩy đến tình trạng phân hoá giàu nghèo một cách sâu sắc.
Đây cũng là vấn đề lớn có tính toàn cầu mà để giải quyết nó cần có sự phối
hợp cố gắng của tất cả các quốc gia giàu cũng như nghèo. Trong quá trình
cạnh tranh, phát triển kinh tế, các vấn đề môi trường về thương mại và đầu tư
cũng bùng nổ, sự khan hiếm nguyên liệu cũng gia tăng, tất cả đều liên quan
đến sự phát triển, tồn vong không chỉ của một hoặc vài quốc gia mà của toàn
thể cộng đồng nhân loại.
Nhìn chung, các vấn đề toàn cầu đều có quan hệ nhân quả với nhau,
cho nên phải có quan điểm tổng thể khi giải quyết và đòi hỏi phải có sự nỗ lực
của mọi quốc gia. Các vấn đề toàn cầu là liên quan đến mọi quốc gia, nó tác
động trên phạm vi Thế giới. Vì lợi ích của nhân loại cũng như của chính mỗi

quốc gia, đòi hỏi phải có liên kết sức mạnh của cả cộng đồng. Bản thân mỗi
quốc gia, cho dù có tiềm lực mạnh đế đâu cũng không thể giải quyết nổi vấn
đề liên quan đến toàn Thế giới. Đây chính là cơ sở khách quan quy định, thúc
đẩy những cố gắng phối hợp liên kết sức mạnh, là cơ sở cho việc tiến tới
thống nhất những quy trình, quy phạm chung cho quá trình phát triển kinh tế.
Đây chính là cơ sở quan trọng cho sự ra đời của xu thế toàn cầu hoá mà gốc rễ
7


để giải quyết mọi vấn đề vẫn là trên lĩnh vực kinh tế. Do đó các quốc gia cần
thiết phải hội nhập kinh tế quốc tế.
Như vậy, toàn cầu hoá kinh tế là một quá trình phát triển kinh tế sâu
rộng của các nước trên Thế giới vượt khỏi biên giới quốc gia, hướng tới
phạm vi toàn cầu, là một quá trình mà mọi cơ hội và nguyện vọng của mọi
người thuộc các chủng tộc và các dân tộc khác nhau, các giá trị văn hoá
không giống nhau, kinh tế- xã hội khác nhau, phải tìm ra những điểm chung
giữa những nét đặc thù, tìm ra một cơ chế mới trong các mối quan hệ kinh tếxã hội để cùng tồn tại và phát triển.
1.2_ Những tác động của toàn cầu hoá kinh tế:
Nhìn một cách toàn cục, toàn cầu hoá mà cụ thể hơn là toàn cầu hoá
kinh tế đã và đang có những đóng góp to lớn cho sự phát triển của kinh tế Thế
giới. Thực chất của những tác động đó được biểu hiện trên một số phương
diện sau:
Thứ nhất, toàn cầu hoá kinh tế thúc đẩy rất nhanh, mạnh sự phát
triển và xã hội hoá lực lượng sản xuất, đưa tốc độ tăng trưởng kinh tế lên mức
cao ( vào nửa đầu thế kỉ XX, GDP của Thế giới tăng 2,7 lần, đến nửa cuối
tăng 5,2 lần). Toàn cầu hoá kinh tế là sản phẩm của cuộc Cách mạng khoa
học- công nghệ, của sự phân công lao động xã hội và xã hội hoá lực lượng sản
xuất trên phạm vi toàn Thế giới nhưng chính quá trình toàn cầu hoá kinh tế đó
lại tác động ngược lại, góp phần thúc đẩy những tiến bộ khoa học- kĩ thuật,
phát triển lực lượng sản xuất, phát triển nền kinh tế Thế giới. Đồng thời, toàn

cầu hoá kinh tế góp phần làm chuyển biến cơ cấu kinh tế Thế giới, đặc biệt
làm tăng mạnh tỷ trọng hàng chế tác ( chiếm 21,4%) và các dịch vụ (62,4%)
trong cơ cấu kinh tế Thế giới.
Thứ hai, dưới tác động của toàn cầu hoá, các thị trường Thế giới
từng bước được thống nhất và ngày càng phát triển. Với xu thế đó, nó sẽ tạo
nên một sự loại bỏ các rào cản và có một sự điều chỉnh trong quy tắc vận
hành. Trước hết, khi thị trường Thế giới thống nhất và phát triển thì các rào
8


cản thương mại sẽ từng bước bị loại bỏ, một trong những thành công của
phương diện này là sự ra đời của tổ chức thương mại Thế giới (WTO) ngày 11-1995 và tiếp theo là việc giảm thuế quan giữa các thành viên của WTO
xuống mức bình quân là 3% đối với các nước phát triển và dưới 15% đối với
các nước đang phát triển. Đồng thời, do giá thành vận tải thương mại quốc tế
liên tục hạ, hiện nay chỉ còn 2% giá trị hàng hoá, trong khi tỷ lệ xuất khẩu vẫn
không ngừng tăng, năm 1998 là 24,3% và dự tính đến 2005 sẽ đạt 28%.
Thương mại phát triển khiến thị trường Thế giới thống nhất hơn, xu thế thống
nhất lại đòi hỏi loại bỏ các hàng rào thương mại.
Không chỉ trên lĩnh vực thương mại mà cả trên lĩnh vực sản xuất và
thị trường tiền tệ cũng ngày càng thống nhất. Đến cuối năm 1993, tổng đầu tư
trực tiếp vào các ngành đạt hơn 2 tỷ USD, gấp 210 lần năm 1953, đầu tư nước
ngoài của thị trường tiền tệ là 1.776 tỷ USD, gấp 150 lần năm 1953. Đến cuối
những năm 90, hai số liệu này phát triển lên tới 4000 tỷ và hơn 48.000 tỷ
USD, xu thế tăng trưởng rất rõ rệt. Đồng thời tỷ trọng dịch vụ ở nước ngoài
trên dịch vụ các chủ thể kinh tế hữu quan cũng đang gia tăng nhanh chóng, hệ
thống phân công sản xuất cùng ngành nghề mang tính toàn cầu đang hình
thành. Mạng lưới sản xuất mang tính toàn cầu sẽ thực hiện “kết nối” Thế giới.
Thứ ba, toàn cầu hoá kinh tế thúc đẩy quá trình nhất thể hoá kinh tế
khu vực tăng nhanh chóng, trao đổi kinh tế giữa các khu vực ngày càng quan
trọng, tăng thêm sự phụ thuộc và tác động lẫn nhau giữa các nền kinh tế và

các khu vực kinh tế. Theo thống kê của Liên hiệp quốc trong những năm 60
có khoảng 19 tổ chức nhất thể hoá kinh tế khu vực, những năm 70 có 28 tổ
chức, những năm 80 con số này là 32 và những năm 90 đã lên tới gần 60 tổ
chức với hơn 160 nước tham gia dưới các loại hình và mức độ khác nhau. Sự
gia tăng các tổ chức nhất thể hóa kinh tế góp phần thúc đẩy nhanh quá trình
toàn cầu hoá kinh tế, việc giao lưu trao đổi các hoạt động kinh tế để kiếm lợi
ích kinh tế giữa các nền kinh tế, các khu vực kinh tế ngày một gia tăng, làm
cho nền kinh tế mỗi quốc gia , khu vực trở thành một bộ phận của kinh tế Thế
9


giới, hình thành một cục diện kinh tế Thế giới mới. Một cục diện trong đó các
thành viên tồn tại trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau, cùng nhau
phát triển.
Thứ tư, với sự gia tăng của quá trình toàn cầu hóa kinh tế, hàng rào
phi thuế quan sẽ thịnh hành hơn. Trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế, mỗi
nền kinh tế đều phải tính toán chiến lược để đảm bảo an toàn kinh tế, chính
trị, xã hội và an ninh quốc gia, vì thế hàng rào phi thuế quan sẽ là công cụ
được ưa chuộng hơn cả. Hiện nay, đã có hơn 1000 loại hàng rào phi quan
thuế. Song dự đoán của các chuyên gia kinh tế, loại hình hàng rào phi quan
thuế sẽ còn phát triển mạnh trong thập kỉ tới, mà chủ yếu tập trung trên các
phương diện như: hàng rào bảo vệ môi trường, hàng rào thông tin, hàng rào
công nghệ thương mại …
Thứ năm, toàn cầu hóa sé làm gia tăng tỷ trọng các loại hình đầu tư
vào lĩnh vực dịch vụ. Đầu những năm 90, có khoảng 50,17% vốn đầu tư nước
ngoài của các nước phát triển dành cho các ngành dịch vụ, tỷ trọng đó của các
nước đang phát triển cũng là 29,5%. Sở dĩ như vậy vì các ngành công nghiệp
hiện nay phần lớn đã ở tình trạng bão hoà, ít không gian mới, trong khi đó các
ngành dịch vụ được xây dựng trên nền tảng vốn doanh nghiệp, chu kì kinh
doanh ngắn, kết quả nhanh nên các nhà đầu tư thích bỏ vốn vào lĩnh vực này.

Trong hội nghị tổ chức thương mại Thế giới, thương mại dịch vụ là một trong
ba đề tài lớn, điều đó đủ thấy xu thế phát triển của nó, vì vậy, xu hướng đầu tư
vào ngành dịch vụ sẽ có thể tăng khá nhanh trong những thập kỉ tới.
Qua đó, ta thấy được những tác động của quá trình toàn cầu hoá
kinh tế đối với nền kinh tế Thế giới. Nó có nguồn gốc từ sự phát triển của lực
lượng sản xuất, của nền kinh tế nhưng nó lại tạo điều kiện tiếp theo cho sự
phát triển ngày càng cao của nền kinh tế Thế giới. Tuy nhiên, quá trình toàn
cầu hóa này không chỉ tác động đối với Thế giới trên lĩnh vực kinh tế mà còn
cả trên lĩnh vực ở những mặt nhất định. Một thế giới hoà bình, hợp tác sẽ có
một nền kinh tế phát triển cao và ổn định.
10


2_ Tính tất yếu phải hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam:
Trong những điều kiên phát triển mới của lực lượng sản xuất, của
phân công lao động xã hội, của cơ chế kinh tế thị trường… quá trình toàn cầu
hóa kinh tế là một tất yếu khách quan, nó có tác động đối với hầu hết các
nước trên Thế giới dù ở mức độ này hay mức độ khác. Hội nhập kinh tế quốc
tế được xem như một trong những yếu tố quan trọng để tạo động lực phát
triển cho từng quốc gia, khu vực và của cộng đồng quốc tế. Kể cả những nước
có nền kinh tế mạnh như Mỹ, Nga, Nhật, Trung Quốc cho đến những nước
đang phát triển đều đang cố gắng tìm kiếm các giải pháp để tiếp cận, hội nhập
kinh tế theo hướng toàn cầu hoá. Tuy nhiên, trong xu thế toàn cầu hóa như
hiện nay, các nước giàu luôn có những lợi thế về lực lượng vật chất và kinh
nghiệm quản lí. Còn các nước nghèo có nền kinh tế yếu kém dễ bị thua thiệt,
thường phải trả giá đắt trong quá trình hội nhập. Là một trong những nước
nghèo trên Thế giới, sau mấy chục năm liên tiếp bị chiến tranh tàn phá, Việt
Nam bắt đầu bước vào thực tiễn chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung
sang cơ chế kinh tế thị trường, trong điều kiện tự nhiên và xã hội có nhiều thử
thách khắc nghiệt. Từ một nền kinh tế tự túc, tự cấp nghèo nàn, lạc hậu, bắt

đầu mở cửa, tiếp xúc trực diện với một thị trường rộng lớn- nơi có nhiều quan
hệ kinh tế quốc tế cạnh tranh khốc liệt, đang có nhiều quốc gia, tập đoàn kinh
tế tư bản giàu mạnh luôn gây sức ép, muốn thao túng cả nền kinh tế, tài chính
Thế giới. Song, đứng trước xu thế phát triển tất yếu, là một bộ phận của cộng
đồng quốc tế, Việt Nam cũng như nhiều quốc gia không thể khước từ hội
nhập.
Đó không chỉ là xu thế tất yếu mà đó còn là thời cơ thuận lợi cho
nước ta tiến lên chủ nghiã xã hội, cải thiện đời sông kinh tế, chính trị, văn
hóa, tinh thần. Việc mở rộng quan hệ quốc tế với nước ngoài, chúng ta sẽ thu
hút được vốn, khoa học- công nghệ hiện đại để thực hiện sự nghiệp công
nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước. Là một nước vừa đi lên từ nền kinh tế lạc
hậu, yếu kém, mà yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa- đó là
11


một nguồn vốn lớn và một trình độ khoa học- công nghệ hiện đại. Do đó, hợp
tác với nước ngoài là cách lựa chọn đúng nhất để đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước, đưa nước ta tiến tới trở thành một nước
công nghiệp vào năm 2020 theo chủ trương của Đảng. Đồng thời, thông qua
hoạt động kinh tế đối ngoại, chúng ta có thể thay đổi cơ cấu tổng sản phẩm xã
hội, đa dạng các loại hình ngành nghề, đáp ứng đầy đủ nhu cầu ngày càng lớn
của nhân dân, đẩy mạnh xuất khẩu, chứng tỏ vị thế của nước ta trên trường
quốc tế. Quá trình hợp tác quốc tế còn góp phần ổn định chính trị - xã hội. Về
mặt chính trị, xu thế hoà bình đang là xu thế chung của toàn nhân loại ngày
nay. Một Thế giới hoà bình sẽ tạo điều kiện thuận lợi về mặt chính trị cho các
quốc gia trong cộng đồng quốc tế, tập trung mọi nguồn lực cho phát triển kinh
tế. Về mặt xã hội, một ảnh hưởng lớn đối với quá trình phát triển kinh tế nước
ta là lực lượng lao động. Nước ta là một nước nông nghiệp, đông dân, lực
lượng lao động đông mà chưa được sử dụng hết. Quá trình hợp tác quốc tế đã
tạo ra ngành nghề mới, thu hút lực lượng lao động, hạn chế nạn thất nghiệp.

Từ đó hạn chế được rất nhiều tệ nạn xã hội, ổn định tình hình chính trị trong
nước.
Như vậy có thể nói, Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là
tất yếu cho phát triển đất nước.
3_ Thời cơ và thách thức đối với Việt Nam khi hội nhập kinh tế
quốc tế.
3.1_ Những thời cơ:
Việt Nam tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là một tất
yếu khách quan, là đòi hỏi của chính bản thân nền kinh tế. Khi tham gia vào
tiến trình hội nhập này, nước ta đã tận dụng được khá nhiều những thuận lợi
cho phát triển kinh tế -xã hội:
Hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần mở rộng thị trường xuât, nhập
khẩu của Việt Nam. Quan hệ bạn hàng được mở rộng. Thị trường là vấn đề
quan trọng hàng đầu đối với mọi nền kinh tế thị trường. Một cường quốc hàng
12


đầu như Mỹ với tổng GDP hiện khoảng 9000 tỷ đôla vẫn cần có thị trường
bên ngoài, năm 1999 Mỹ đã xuất khẩu khoảng hơn 900 tỷ đôla và nhập khẩu
tới 1200 tỷ đôla. Nước đông dân nhất Thế giới như Trung Quốc cũng xem thị
trường nước ngoài là nhu cầu sống còn và hiện nay Trung Quốc đã đạt tới kim
ngạch xuất nhập khẩu khoảng trên 320 tỷ đôla. Những nước có tầm quan
trọng hơn đối với sự phát triển. Việt Nam là một nước như thế. Khi Việt Nam
tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, hàng rào bảo hộ mậu dịch của
các nước ngày càng giảm, quan hệ buôn bán với các quốc gia ngày càng mở
rộng. Các hiệp định thương mại song phương, đa phương sẽ cho phép thị
trường nước ta được khai thông với tất cả các đối tác. Chẳng hạn, nếu Việt
Nam thực hiện đúng các cam kết của AFTA thì đến năm 2006, thị trường các
hàng công nghiệp chế biến của Việt Nam sẽ được khai thông với tất cả các
nước ASEAN. Nếu Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO, thì

sau khoảng 5-10 năm, thị trường hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam sẽ được
khai thông với 134 nước thành viên WTO. Đây là một cơ hội rất lớn đối với
nước ta khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế.
Việc hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần tăng thu hút đầu tư
nước ngoài, viện trợ chính thức tăng và giải quyết vấn đề nợ quốc tế. Đồng
thời tạo điều kiện cho ta tiếp thu những thành tựu khoa học - công nghệ tiên
tiến của các nước.Hiện nay, ở các nước phát triển, có những nguồn vốn không
sinh lợi, những công nghệ mới không được áp dụng, những công nghệ cũ
không có chỗ sử dụng đang xuất hiện ngày càng nhiều. Trước những năm 90,
do chính sách đóng cửa bảo hộ chặt chẽ của các nước đang phát triển nên các
dòng vốn và công nghệ này chỉ giao lưu chủ yếu giữa các nước phát triển với
nhau. Từ sau năm 1990 khi chiến tranh lạnh kết thúc, nhiều nước đang phát
triển đã chuyển sang cơ chế mở cửa, do vậy các dòng vốn và công nghệ này
đã ngày càng chảy vào các nước đang phát triển ngày càng nhiều hơn. Đây là
một thời cơ lớn cho các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam,vì các
nước đang phát triển là những thị trường mới mở, có sức lao động nhưng tiền
13


lương thấp, có tài nguyên thiên nhiên…nên có thể sử dụng những nguồn vốn
và công nghệ đó hiệu quả hơn. Hội nhập kinh tế quốc tế cũng giải quyết vấn
đề nợ của Việt Nam. Trong những năm qua, nhờ phát triển tốt các mối quan
hệ đối ngoại song phương và đa phương, các khoản nợ nước ngoài cũ của Việt
Nam về cơ bản đã được giải quyết thông qua câu lạc bộ Paris, London và
đàm phán song phương. Điều đó góp phần ổn định cán cân thu chi ngân sách,
tập trung nguồn lực cho các chương trình phát triển kinh tế -xã hội trong
nước.
Một vấn đề đặt ra đối với các nước đang phát triển cũng như đối với
Việt Nam hiện nay là vấn đề về nguồn nhân lực. Hội nhập kinh tế quốc tế
không chỉ có vai trò quan trọng trong việc giải quyết nạn thất nghiệp mà còn

góp phần không nhỏ vào công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trong
nhiều lĩnh vực. Các nước phát triển vốn có nguồn lao động kĩ thuật được đào
tạo, có tay nghề cao, nhiều cán bộ quản lý và kỹ thuật cao cấp, có nhiều học
giả tài năng trong nhiều lĩnh vực…nhưng lại thiếu những lao động giản đơn
với mức lương thấp. Ngược lại, ở các nước đang phát triển lại thừa lao động
giản đơn, nhưng rất thiếu lao động có kĩ năng. Nhờ có toàn cầu hoá phát triển,
các nguồn nhân lực này có điều kiện di chuyển, trao đổi cho nhau, giúp nhau
tạo ra các lợi thế so sánh. Dòng lao động giản đơn, các học sinh di chuyển từ
các nước đang phát triển sang các nước phát triển. Dòng lao động lành nghề
có trí tuệ di chuyển từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển. Các
công ty của các nước phát triển cũng có thể lập nhà máy sử dụng lao động tại
các nước kém phát triển, rồi bán hàng hoá về nước…Toàn cầu hoá sẽ tạo ra
những cơ hội to lớn cho việc đào tạo và sử dụng nhân lực có hiệu quả hơn với
những hình thức rất đa dạng: làm gia công lắp ráp chế biến xuất khẩu, trực
tiếp xuất khẩu lao động, nhận thầu các công trình xây dựng ở nước ngoài, cử
đi học dài, ngắn hạn; đi nghiên cứu khảo sát, mời chuyên gia nước ngoài giúp
nghiên cứu giảng dạy… Đây là một thời cơ to lớn để các nước có thể sử dụng
nguồn lực trên phạm vi quốc tế một cách có hiệu quả. Việt Nam cần biết tận
14


dụng thời cơ này để từng bước nâng cao hiệu quả, chất lượng lao động, đưa
lực lượng lao động nước ta thành những người được đào tạo có tay nghề,
đóng góp ngày càng tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá
đất nước.
3.2_ Những thách thức:
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, cơ hội luôn đi liền với khó
khăn và thách thức. Do trình độ phát triển kinh tế còn thấp, hiệu quả và khả
năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam, nhất là các ngành sản xuất và kinh
doanh dịch vụ còn yếu, tham gia hội nhập vào nền kinh tế Thế giới là phải

đương đầu với cạnh tranh gay gắt, với những đối thủ mạnh hơn ta nhiều lần cả
trong thị trường nội địa lẫn Thế giới. Đó là những khó khăn và thách thức rất
lớn đối với nền kinh tế Việt Nam. Bên cạnh đó, Việt Nam tham gia hội nhập
kinh tế quốc tế trong điều kiện các cơ chế của nền kinh tế thị trường đang
trong quá trình hình thành ở nước ta. Hệ thống luật pháp của ta đang trong
quá trình hoàn thiện. Nhiều chính sách,luật lệ liên quan đến mở cửa thị trường
và điều tiết quan hệ kinh tế đối ngoại còn thiếu hoặc chưa phù hợp với thông
lệ quốc tế. Ngoài ra, Việt Nam tham gia hội nhập kinh tế khu vực và Thế giới
chậm hơn nhiều nước trong khu vực và trên Thế giới. Trong khi xu hướng
nhiều nước muốn đẩy nhanh quá trình tự do hoá thương mại và đầu tư quốc tế
vơí quy mô sâu, rộng hơn thì Việt Nam lại rất cần đủ để chuyển dịch cơ cấu
kinh tế trong nước. Đây thực sự là một mâu thuẫn cần được xử lý trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế.Bên cạnh đó, kiến thức và sự hiểu biết của ta về
sự hội nhập kinh tế quốc tế cũng như các vấn đề liên quan còn nhiều han chế,
bất cập .
Một thách thức mà nhiều người lo ngại hiện nay là, do tham gia vào các
tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực, nước ta phải giảm dần thuế quan và dỡ bỏ
hàng rào phi thuế quan, thì hàng hoá nước ngoài sẽ ào ạt đổ vào nước ta, chèn
ép nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh trong nước, kéo theo hệ quả xấu về việc
làm, thu nhập và đời sống của người lao động. Với lo ngại đó, nhiều doanh
15


nghiệp, nhất là doanh nghiệp trung bình và yếu kém thường đòi hỏi Nhà nước
thi hành chính sách bảo hộ càng lâu càng tốt. Tuy nhiên, nếu đứng từ góc độ
lợi ích toàn cục và lâu dài của quốc gia mà xem xét, thì Nhà nước không thể
và không nên đáp ứng đòi hỏi nêu trên của các doanh nghiệp đó được. Bởi lẽ,
thứ nhất, Việt Nam có nghĩa vụ thực hiện các cam kết về tự do hoá thương
mại vào các mốc 2006 và 2010 khi đã tham gia AFTA và APEC, cũng như các
cam kết khác khi được kết nạp vào WTO. Thứ hai, việc thi hành chính sách

bảo hộ mậu dịch luôn là “ con dao 2 lưỡi “. Một chính sách bảo hộ có chọn
lọc, có điều kiện, có thời gian thì sẽ kích thích các nhà sản xuất trong nước
khẩn trương đổi mới, tích cực vươn lên để có sức cạnh tranh mạnh hơn.Trái
lại, một chính sách bảo hộ quá mức thì rất có thể trở thành “gạo ông đập lưng
ông”, gây thiệt hại cả về kinh tế và xã hội.
Một thách thức rất nhạy cảm và hệ trọng được đặt ra đối với nước
ta là phải làm sao giữ được độc lập, tự chủ trong tiến trình mở cửa và hội
nhập kinh tế quốc tế. Không ít ý kiến cho rằng, nước ta với điểm xuất phát
thấp, nếu chúng ta mở rộng quan hệ với các nước, đặc biệt là các cường quốc
tư bản phát triển có lợi thế hơn hẳn về nhiều mặt, thì nước ta khó tránh khỏi
sẽ bị lệ thuộc vào kinh tế, và từ chỗ lệ thuộc kinh tế mà có thể đi đến chỗ
không giữ vững được độc lập, tự chủ nữa. Tuy nhiên, nếu cứ quan niệm độc
lập, tự chủ theo kiểu tự cấp tự túc, xây dựng cơ cấu kinh tế hoàn chỉnh, hướng
nội, không phù hợp với xu thế chung của thời đại và không có hiệu quả thì sẽ
đẩy đất nước vào tình trạng chậm phát triển.Và một khi tình trạng chậm phát
triển về kinh tế không được khắc phục thì sẽ làm xói mòn lòng tin của nhân
dân, làm nảy sinh nhiều vấn đề nan giải, tạo ra nguy cơ từ bên trong đối với
trật tự, an toàn xã hội và điều đó rốt cuộc khiến cho chúng ta khó giữ vững
được con đường phát triển đã lựa chọn là kết hợp độc lập dân tộc với chủ
nghĩa xã hội vì mục tiên dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Trái lại, việc mở rộng hợp tác quốc tế hai bên cùng có lợi giữa nước ta
với các nước, các tổ chức quốc tế thì sẽ tạo nên một hình thái tương tuỳ, đan
16


xen lợi ích với nhau, do đó mà chúng ta có thêm thế và lực để giữ vững độc
lập, tự chủ của đất nước. Đặc biệt, trong khi thực hiện phương châm “đa
phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại”, chúng ta sẽ thuc đẩy
việc hình thành một hệ thống chằng chịt các mối quan hệ quốc tế để hạn chế
và đẩy lùi âm mưu và hành động của một số thế lực nào đó định buộc chúng

ta phải lệ thuộc thái quá vào họ.
Một thách thức nữa không kém phần quan trọng được đặt ra đối với
chúng ta trong tiến trình mở cửa và hội nhập quốc tế là làm sao giữ gìn được
bản sắc văn hoá dân tộc, đảm bảo cho sự phát triển hài hoà và lành mạnh của
đất nước. Đây không chỉ là nỗi lo riêng của chúng ta mà còn là nỗi lo chung
của nhiều nước khác trên Thế giới. Bởi lẽ, thông qua các siêu lộ thông tin với
mạng Internet, xu thế toàn cầu hoá và tiến trình hội nhập quốc tế, một mặt, tạo
điều kiện thuận lợi chưa từng có để các dân tộc, các cộng đồng người ở mọi
chân trời góc biển có thể nhanh chóng trao đổi với nhau về hàng hoá, dịch vụ,
kiến thức, phát minh, sáng chế, dự kiến…qua đó góp phần thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, phát triển khoa học và công nghệ, mở mang sự hiểu biết về
các nền văn hoá của nhau. Mặt khac, quá trình trên cũng làm nảy sinh mối
nguy cơ ghê gớm về sự đồng nhất hoá các hệ thống giá trị và tiêu chuẩn, đe
dọa làm suy kiệt khả năng sáng tạo của nền văn hoá, nhân tố hết sức quan
trọng đối với sự tồn tại lâu dài của cả nhân loại. Nhưng không có phải vì thế
mà chúng ta lui về chính sách đóng cửa, khước từ giao lưu, trao đổi, đối thoại
với bên ngoài. Trái lại, chúng ta phải trên cơ sở giữ gìn và phát huy những giá
trị ưu tú của văn hoá dân tộc, đi đôi với tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân
loại, để văn hoá Việt Nam ngày càng phát huy vai trò vừa là mục tiêu vừa là
động lực và hệ điều tiết của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế còn đặt ra nhiều những thách
thức khác nữa mà chúng ta không thể bỏ qua. Các lực lượng phản động đa
dạng trong cũng như ngoài nước đang tìm cách xâm nhập và phá hoại nước
ta. Do vậy mà Nhà nước ta phải nâng cao cảnh giác, phòng ngừa, đối phó với
17


các thế lực phản động này. Bên cạnh đó, chiều hướng toàn cầu hoá về chính
trị, xã hội an ninh, văn hoá…lại đang diễn ra với một nhịp độ chậm chạp. Đây
cũng chính là cơ hội cho các lực lượng phản động tận dụng để chống phá

chúng ta.
Do đó, nhận thức đầy đủ về những cơ hội và thách thức trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng như vai trò và tầm quan trọng của nó trong
chiến lược phát triển kinh tế đất nước là điều có ý nghĩa quan trọng.
II_Cơ sở thực tiễn:
1_ Bối cảnh quốc tế và khu vực trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay.
Toàn cầu hoá và khu vực hoá đã trở thành một trong những xu thế
phát triển của quan hệ quốc tế hiện đại. Xu thế này phát triển mạnh mẽ trong
những năm qua và sẽ tiếp tục phát triển trong thế kỷ tới. Qúa trình này được
thể hiện rất rõ trong sự gia tăng rất nhanh của trao đổi quốc tế về thương mại,
dịch vụ, tài chính và các yếu tố sản xuất cũng như sự hình thành các khu vực
thương mại tự do và các khối liên kết trên Thế giới. Các tổ chức như Liên
minh Châu Âu (EU), khối mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), WTO, APEC,
ASEAN ngày càng trở nên quen thuộc với các nước trên Thế giới.
Về mặt thương mại, trao đổi buôn bán trên thị trường Thế giới ngày
càng tăng, đây là một trong những chỉ số thể hiện rõ nhất về toàn cầu hoá. Từ
sau chiến tranh Thế giới thứ II đến nay, giá trị trao đổi buôn bán trên toàn cầu
đã tăng 12 lần. Giá trị hàng hoá và dịch vụ trao đổi trên thị trường quốc tế
tăng từ 11% tổng sản phẩm toàn Thế giới năm 1971 lên 27% năm 1993, tăng
16,2 lần từ 400 tỷ đôla Mỹ lên 6700 tỷ năm 1994. Trong 10 năm qua, tốc độ
tăng trưởng của thương mại hàng hoá và dịch vụ luôn gấp 2 lần tốc độ tăng
trưởng của GDP Thế giới và thương mại dịch vụ luôn tăng nhanh hơn thương
mại hàng hoá. Dịch vụ ngày càng chiếm phần quan trọng trong nền kinh tế
của các nước, đặc biệt là các nước phát triển và trong thương mại quốc tế.
Năm 1982, tổng giá trị thương mại dịch vụ Thế giới đạt 500 tỷ đôla, năm

18


1992 đạt 1000 tỷ, năm 1998 đạt khoảng 1300 tỷ (xấp xỉ 20% tổng giá trị

thương mại Thế giới).
Về tài chính, số lượng vốn trên thị trường chứng khoán Thế giới đã
tăng gấp 3 lần trong 10 năm qua, từ 4,7 ngàn tỷ lên 15,2 ngàn tỷ đôla. Về đầu
tư trực tiếp nước ngoài (FDI), xu hướng chung trên Thế giới trong những năm
qua vẫn tiếp tục tăng: Năm 1997, ước đạt khoảng 400 tỷ đôla, trong đó
khoảng 2/3 là hướng vào các nước tư bản phát triển. Do ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á năm 1997,trong những năm gần đây,
luồng FDI vào các nước đang phát triển có xu hướng giảm sút: Năm 1997 là
111 tỷ đôla, năm 1999 giảm xuống chỉ còn khoảng 100 tỷ đôla.
Quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá còn được thể hiện qua sự
hình thành và củng cố các tổ chức kinh tế, thương mại toàn cầu và hơn 40 tổ
chức liên kết khu vực đã ra đời, trong đó đáng chú ý là WTO,hiện với 132
thành viên, đã chiếm hơn 90 % tổng giá trị thương mại quốc tế; APEC với 21
thành viên, chiếm tới 56% GDP và 46% thương mại Thế giới, các liên kết khu
vực như liên minh Châu Âu (EU), ASEAN/AFTA, Khu vực thương mại tự do
Bắc Mỹ (NAFTA) và nhiểu tam giác phát triển khác.
2_ Tình hình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam:
2.1_ Hiện trạng nền kinh tế Việt Nam:
Sau nhiều năm dài chiến tranh, nền kinh tế nước ta bị tàn phá nặng
nề.Tuy nhiên, khi chiến tranh đã kết thúc thì nước ta lại chưa có những bước
đi đúng đắn để khắc phục, nền kinh tế bao cấp kéo dài mấy chục năm đã đẩy
nước ta vào tình trạng đã khó khăn lại càng khó khăn hơn. Việt Nam bước vào
hội nhập kinh tế với một thực trạng kinh tế còn nghèo nàn lạc hậu. Đứng
trước sự phát triển vượt bậc của Thế giới về kinh tế và khoa học công nghệ,
Việt Nam vẫn là một trong những nước nghèo nhất Thế giới. GDP bình quân
đầu người còn thấp,chưa thoát khỏi ranh giới nghèo khổ. Máy móc thiết bị
công nghệ thuộc tất cả các ngành, các lĩnh vực trong nền kinh tế còn thấp hơn
so với mức trung bình của Thế giới từ 1 đến 3 lần thế hệ công nghệ, làm ảnh
19



hưởng đến chất lượng, giá thành sản phẩm, sức cạnh tranh của hàng hoá nước
ta trên thị trường quốc tế. Bên cạnh đó, nước ta là nước có lực lượng lao động
dồi dào nhưng chất lượng lao động còn thấp, lại chưa được sử dụng triệt để.
Trước tình hình đó, hội nhập kinh tế quốc tế là hết sức cần thiết đối với nước
ta. Cùng với quá trình hội nhập, nước ta sẽ thu hút được vốn và công nghệ
tiên tiến của các nước, đồng thời giải quyết được nạn thất nghiệp, đưa nước ta
thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu.
2.2_ Nhận thức của Đảng về vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế:
Việt Nam đã trải qua một thời gian dài chiến tranh, dưới ách đô hộ
của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đất nước bị tàn phá nặng nề, trình độ sản
xuất thấp kém. Nhận thức được sự cần thiết phải đưa đất nước thoát khỏi
nghèo nàn, lạc hậu và cùng với xu thế chung của thời đại, Đại hội VI của
Đảng (12/1986) đã chủ trương: Việt Nam phải tham gia ngày càng rộng rãi
vào sự phân công lao động quốc tế, tích cực phát triển quan hệ kinh tế và
khoa học- kỹ thuật với các nước, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài
trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi. Tiếp tục, Đại hội VII của Đảng Cộng
sản Việt Nam năm 1991 đã xác định đường lối đối ngoại “độc lập, tự chủ, đa
dạng hoá, đa phương hoá”, “Việt Nam sẵn sàng là bạn của tất cả các nước
trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Đại hội
VIII (1996) xác định nhiêm vụ “mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động
tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực,củng cố và nâng cao vị thế của nước
ta trên trường quốc tế”. Vì thế, chúng ta đã mạnh dạn “tích cực, chủ động
tham gia cộng đồng các diễn đàn thương mại, các định chế quốc tế một cách
có chọn lọc và bước đi thích hợp”. Tiếp theo, Nghị quyết Trung ương 4 khoá
VIII (12/1997) đề ra nhiệm vụ “giữ vững độc lập, tự chủ đi đôi với tranh thủ
tối đa nguồn lực bên ngoài, xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu
vực và Thế giới”.
Thực hiện các đường lối, chủ trương của Đảng, hơn 10 năm qua,
chúng ta đã có những bước đi ban đầu tương đối bài bản trong quá trình từng

20


bước hội nhập kinh tế Thế giới. Nếu như cuối những năm 80, kinh tế Việt
Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, tiếp đến Liên Xô và các
nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ (1991), trong điều kiện bị bao vây,
“cấm vận” ngặt nghèo, tưởng như khó đứng vững, nhưng với quyết tâm “đổi
mới”, “mở cửa”, từng bước hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, chúng ta đã
đạt được những thành tích ban đầu đáng khích lệ.
Tiếp tục củng cố và phát huy thành tựu đó, gần đây nhất, tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IX (4/2001) của Đảng ,Đảng ta lại một lần nữa
nhấn mạnh đến tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong sự nghiệp công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước: “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu
vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác hợp tác
quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi
ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc,bảo vệ môi
trường”. Kể từ khi nước ta bắt đầu mở cửa hội nhập với Thế giới cho đến nay,
chung ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, đóng góp tích cực vào sự
nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, đưa nước ta trở thành một
nước công nghiệp vào năm 2010, theo chủ trương của Đảng và Nhà nước ta.
2.3_ Thực trạng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam:
a) Quá trình hội nhập:
Sau khi nối lại quan hệ tín dụng với IMF và WB, từ năm 1993
Việt Nam đã liên tiếp được các tổ chức tài chính quốc tế (IMF, WB, ADB…),
các tổ chức viện trợ phát triển (ODA) của Liên hiệp quốc và nhiều tổ chức
khác, thường xuyên viện trợ cho chúng ta mỗi năm khoảng trên dưới 1 triệu
đôla để thanh toán các khoản tín dụng ngắn hạn, đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng; giải quyết những vấn đề bức xúc, khó khăn về đời sống xã hội… tạo
những điều kiện cần thiết cho nhiều ngành kinh tế phát triển. Đến nay, chúng
ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với 166 quốc gia trên Thế giới,

ký kết các hiệp định thương mại với hơn 60 nước. Hơn 70 nước và vùng lãnh
thổ đầu tư trực tiếp vào Việt Nam, gần 3000 dự án được cấp phép với hơn 40
21


tỷ đôla vốn đăng ký. Số vốn thực hiện gần 20 tỷ đôla chiêm hơn 1/3 tổng vốn
đầu tư toàn xã hội; tạo được hơn 34,7% giá trị sản lượng công nghiệp và 13%
trong GDP, 1/4 nguồn thu ngân sách.
Từ ngày 25/7/ 1995 ta đã trở thành thành viên chính thức của
ASEAN và từ ngày 1/1/1996 bắt đầu thi hành nghĩa vụ thành viên ASEAN
bằng cách chính thức tham gia vào Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA)
và hiệp định về thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung của ASEAN
(AFTA/CEPT).Tham gia vào ASEAN, ta đã trở thành thành viên của một tổ
chức khu vực gồm 10 nước thành viên có diện tích 4,5 triệu km2 với dân số
khoảng 500 triệu người, với tổng sản phẩm quốc gia khoảng 737 tỷ đôla và
tổng buôn bán thương mại khoảng 720 tỷ đôla. Bằng việc tham gia vào
AFTA/CEPT, Việt Nam sẽ phải tuân thủ và thực hiện đầy đủ các quy định, các
cam kết cơ bản và bắt buộc của hiệp định nhưng vẫn phải tìm cách vận dụng
phù hợp các quy định có tính linh hoạt của hiệp định để vừa bảo hộ một cách
hợp lý, đồng thời nâng dần khả năng sản xuất cũng như cạnh tranh của các
ngành sản xuất trong nước nhằm giảm tối đa những bất lợi của ta khi thực
hiện các bước tham gia vào AFTA/CEPT.
Ngày 15/6/1996 ta đã gửi đơn xin gia nhập diễn đàn hợp tác kinh tế
Châu á Thái Bình Dương (APEC) và tháng 11/1998 đã trở thành thành viên
chính thức của tổ chức này, một tổ chức hiện có 21 thành viên, trong đó bao
gồm cả các nền kinh tế phát triển, đang phát triển và chuyển đổi (từ nền kinh
tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường). Mục tiêu của APEC cũng là phát
triển bền vững thông qua các chương trình thúc đẩy mở cửa và thuận lợi hoá
thương mại đầu tư, hợp tác kinh tế kỹ thuật theo nguyên tắc bình đẳng, cùng
có lợi, tự nguyện, công khai và không phân biệt đối xử giữa các nước thành

viên cũng như các đối tác không phải là thành viên. Các cam kết mang tính tự
nguyện nhưng việc thực hiện là bắt buộc, các vấn đề chính trị, tuy được quan
tâm nhưng thường được bàn không chính thức.

22


Tiếp đó, tháng 3/1996, ta đã tham gia với tư cách thành viên sáng
lập diễn đàn hợp tác á - Âu (ASEM). ASEM là cơ chế hợp tác liên khu vực
Âu - á, thành lập năm 1996, hiên có 26 thành viên, gồm 15 nước Châu Âu, 10
nước Châu á và Uỷ ban Châu Âu. ASEM dự tính tập trung vào thúc đẩy hợp
tác và mở cửa về kinh tế - thương mại với những nguyên tắc tương tự như
APEC. Ta đã tham gia ASEM tích cực ngay từ buổi đầu với các mục tiêu ưu
tiên là xúc tiến mở rộng thị trường thuương mại, đầu tư, hợp tác kinh tế, khoa
học kỹ thuật trên cơ sở cùng có lợi.
Tháng 12/1994, Việt Nam đã gửi đơn xin gia nhập hiệp định chung
về thương mại và thuế quan (GATT), tiền thân của tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO) và năm 1995 chính thức đề nghị gia nhập WTO. WTO là tổ chức
thương mại quốc tế mang tính toàn cầu có mục đích cơ bản là: thương lượng
để thiết lập các luật lệ chung bảo đảm thông thoáng cho thương mại cũng như
các lĩnh vực hợp tác kinh tế quốc tế khác, và một môi trường kinh doanh có
thể dự đoán được; theo dõi việc thực hiện cam kết của các nước thành viên,
bảo đảm tính công khai về chế độ thương mại và các luật lệ khác về hợp tác
quốc tế . WTO cho phép có sự phân biệt đối xử giữa các nước thành viên và
không phải là thành viên. Việc thực hiện các cam kết mang tính ràng buộc
pháp lý và nếu vi phạm có thể bị trả đũa. Các thành viên kém phát triển nhất,
đang phát triển và kinh tế chuyển đổi được hưởng một số ưu đãi nhưng mức
độ và thời gian hưởng ưu đãi trong từng lĩnh vực tuỳ thuộc vào kết quả đàm
phán của từng nước với WTO. Cho đến nay, ta đã tiến hành nhiều phiên họp
với nhóm công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO, tập trung vào việc minh

bạch hoá chính sách của Việt Nam về các lĩnh vực thương mại hàng hoá,
thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ và đầu tư. Trong thời gian qua, một số
thành viên WTO như EU, Mỹ, Uruguay, úc, Thụy Sĩ … đã bắt đầu gửi đề
nghị về đàm phán mở cửa cho Việt Nam. Hiện nay, ta đang nghiên cứu các đề
nghị này để xây dựng bản chao ban đầu, đồng thời tiếp tục quá trình xây dựng
và điều chỉnh hệ thống chính sách của mình cho phù hợp với quy định của
23


WTO. Tháng 8/2000 vừa qua, nước ta đã ký hiệp định thương mại với Hoa
Kỳ, sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho việc nước ta gia nhập WTO.
Việc Việt Nam gia nhập vào các tổ chức kinh tế Thế giới và Khu
vực, tiến hành đàm phán với các nước trên Thế giới, đã mở ra nhiều điều kiện
thuận lợi cho nước ta trong thương mại quốc tế, tranh thủ tận dụng các nguồn
lực trong nước cũng như ngoài nước để phát triển kinh tế - xã hội.
b) Một số kết quả đã đạt được:
Sau hơn 10 năm tiến hành quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, cùng
với sự cố gắng của toàn Đảng, toàn dân ta, nước ta đã đạt được một số kết quả
bước đầu đáng khích lệ.
Mở rộng các mối quan hệ kinh tế song phương, đa phương với
nhiều nơi trên toàn Thế giới đã góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội nước ta trong thập niên cuối của thế kỷ XX. Nếu như
trước những năm 90, tốc độ tăng GDP bình quân nước ta chỉ đạt khoảng 2 3%/năm thì ở thập niên cuối của thế kỷ XX (1991 -2000), mức tăng bình quân
GDP đạt 6 - 8%/năm. Sau 10 năm, tổng sản phẩm xã hội (GDP) tăng thêm 18
tỷ đôla, thu nhập bình quân đầu người tăng gấp 2 lần. Nhiều mặt hoạt động
sản xuất và đời sống xã hội đã có những bước phát triển tương đối nhanh.
Nhìn về tương lai, nếu chúng ta thực hiện đầy đủ các cam kết của AFTA, tức
là giảm thuế nhập khẩu đối với hàng hoá của các nước thành viên xuống từ
0% đến 5% vào năm 2006, thì lúc đó các hàng hoá của Việt Nam cũng có thể
tiêu thụ khắp thị trường các nước ASEAN với dân số trên 500 triệu người và

GDP trên 7 tỷ USD. Nếu sau một số năm nữa, Việt Nam đựoc nhập WTO, thì
đương nhiên đựoc hưởng quyền ưu đãi tối huệ quốc trong quan hệ thương mại
với khoảng 150 nước thành viên của WTO (hiện nay đã có 134 nước thành
viên ), nhờ vậy hàng hoá nước ta xuất khẩu vào các nước đó sẽ dễ dàng hơn.
Từ năm 2010 hàng rào thuế quan của các nước phát triển thuộc APEC (hiện
có 21 thành viên chiếm 60% GDP và 45% thưong mại thế giới) sẽ bãi bỏ,
nước ta cũng có thể mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá sang các nước này.
24


Đối với các nước EU cũng vậy tiềm năng mở rộng thị trường tiêu thụ hàng
hoá Việt Nam tại các nước đó là rất lớn. Dĩ nhiên nước ta có bán được nhiều
hàng hoá ra bên ngoài hay không còn phụ thuộc vào chất lượng, giá cả, mẫu
mã … tóm lại là sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam ra sao.
Riêng tốc độ tăng xuất nhập khẩu hàng năm thường cao gấp 2 - 3
lần tốc độ tăng GDP. Nếu năm 1991, thị trường Liên Xô và các nước Đông
Âu bị cắt giảm đột ngột, kim ngạch xuất khẩu Việt Nam giảm 15,1% thì ngay
sau đó, từ 1992 đến 1995 đã vươn lên giữ mức tăng 25 - 30%/năm. Năm 1998
không tăng do khủng hoảng kinh tế châu á, nhưng năm 1999 tiếp tục vươn
lên, kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 11,5 tỷ đôla, gấp hơn 5 lần năm 1991. Từ
chỗ là nước chỉ nhập hàng viện trợ và xuất hàng trả nợ mỗi năm vài trăm triệu
đôla, đến nay chúng ta đã có nhiều mặt hàng xuất khẩu đạt trên 1 tỷ đôla/năm
như: dầu thô, hàng dệt may, giày dép. Một số hàng nông sản Việt Nam đã và
đang vươn lên thứ hạng cao ở thị trường thương mại Thế giới: gạo đứng thứ
2, hạt điều, cà phê đứng ở vị trí thứ 3 và thứ 4. Thuỷ sản chế biến và 200 mặt
hàng tiêu dùng Việt Nam xuất khẩu đang tiếp tục tăng, chiếm lĩnh nhiều nơi
trên thị trường quốc tế; kể cả các thị trường tiêu thụ khó tính như Nhật Bản,
Tây Âu, Bắc Mỹ.
Trong giai đoạn đầu, tốc độ tăng trưởng và hội nhập kinh tế của
Việt Nam có nhiều tiến bộ nhưng trên thực tế vẫn chưa cho phép chúng ta thật

sự lạc quan. Bởi vì, so với nhiều nước trong khu vực, giá trị kim ngạch xuất
khẩu tính bằng đôla bình quân đầu người ở nước ta vẫn còn thấp. Năm 1997,
Việt Nam chỉ đạt 149 đôla/người trong khi đó Inđônêxia là 316, Philipin: 545,
Thái Lan: 1087, Malaixia: 4222, Singapo:52.484. Tài liệu về chỉ liệu chỉ số
phát triển của ngân hàng Thế giới (WB) năm 1999 cho biết: tốc độ tăng GDP
tính theo đầu người của Việt Nam năm 1997 so với năm 1991 chỉ tăng 1,60 và
1,44 lần trong khi đó ở Thái Lan:1,85 và 1,73; Philipin: 1,91 và 1,62;
Inđônêxia:1,99 và 1,80; Malaixia: 2,14 và 1,18; Trung Quốc: 2,48 và 2,32;
Singapo: 2,58 và 2,44. Trong tổng lượng hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam,
25


×