Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật ung thư biểu mô tế bào thận giai đoạn I,II,III

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.75 MB, 91 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

ĐỖ TẤT CƯỜNG

Đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật ung thư biểu
mô tế bào thận giai đoạn I,II,III

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP BÁC SỸ NỘI TRÚ

HÀ NỘI - 2014


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

ĐỖ TẤT CƯỜNG

Đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật ung thư biểu
mô tế bào thận giai đoạn I,II,III


Chuyờn ngành : Ung thư
Mó số
: 62.72.23.01

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP BÁC SỸ NỘI TRÚ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. Lê Văn Quảng

HÀ NỘI - 2014


3

ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư biểu mô tế bào thận là bệnh lý tăng sinh ác tính của tế bào thận,
chiếm khoảng 90% các khối u của thận và chiếm từ 2-3% tổng số ung thư ở người
lớn [1]. Trên thế giới, năm 2012 có hơn 214.000 ca ung thư thận mới mắc, số bệnh
nhân tử vong khoảng 90.000 trường hợp [2]. Ở Mỹ năm 2010, ước tính có 61.000
bệnh nhân mới mắc và khoảng 13.000 trường hợp tử vong do ung thư biểu mô tế
bào thận. Bệnh thường gặp ở tuổi từ 40 đến 70 với tỷ lệ nam/ nữ là 2:1. Tỷ lệ mắc
bệnh khác nhau trên thế giới, tỷ lệ cao ở Bắc Mỹ, các nước vùng Scandinavia và
Trung Mỹ. Ung thư biểu mô tế bào thận ngày càng có xu hướng gia tăng, theo
những số liệu gần đây tại Hoa Kỳ (1997- 2007) tỷ lệ mắc ung thư biểu mô tế bào
thận tăng khoảng 2,6% mỗi năm [3],[4].
Triệu chứng của ung thư thận khá nghèo nàn, bệnh thường phát hiện khi đã ở
giai đoạn không còn sớm với triệu chứng đái máu, đau vùng thắt lưng và sờ thấy
khối ở vùng thắt lưng. Việc chẩn đoán ung thư thận bằng các phương pháp cận lâm
sàng như siêu âm, chụp cắt lớp vi tính, cộng hưởng từ có độ nhạy và độ đặc hiệu
khá cao. Chẩn đoán mô bệnh học trước điều trị bằng sinh thiết kim dưới hướng dẫn

của siêu âm hoặc CT cho kết quả với độ nhạy và độ đặc hiệu cao giúp đưa ra chỉ
định điều trị.
Về mô bệnh học, ung thư biểu mô tế bào thận chủ yếu gặp là ung thư biểu mô
tế bào sáng chiếm 85%, ung thư nhú thận, ung thư tế bào thận kỵ màu và các loại
khác hiếm gặp [1],[4].
Điều trị ung thư biểu mô tế bào thận hiện nay chủ yếu bằng phẫu thuật triệt
căn đối với giai đoạn tại chỗ hoặc cắt thận bán phần với các khối u kích thước
nhỏ hơn 4 cm chưa có xâm lấn lớp mỡ quanh thận và di căn hạch. Với ung thư
giai đoạn muộn, điều trị toàn thân là chủ yếu với miễn dịch, hóa chất và điều trị


4

đích có hoặc không có cắt thận kèm theo với mục đích chống chảy máu, chống
đau cũng được áp dụng [5].
Ung thư biểu mô tế bào thận giai đoạn tại chỗ có tiên lượng tốt, khả năng chữa
khỏi cao bằng phẫu thuật đem lại cơ hội sống cho bệnh nhân. Tỷ lệ sống thêm 5
năm tính chung cho các bệnh nhân ung thư thận cũng tăng gấp đôi trong vòng 40
năm. Đặc biệt, đối với ung thư thận giai đoạn khu trú tại chỗ tỷ lệ sống thêm 5 năm
đã tăng từ 88,4% những năm 1992-1995 lên 91,1% trong những năm 2002-2008
[3]. Tuy nhiên, khoảng 20-30% bệnh nhân tái phát sau phẫu thuật triệt căn trong 3
năm đầu [1],[4]. Trên thế giới, đã có nhiều công trình nghiên cứu về ung thư biểu
mô tế bào thận ở các giai đoạn khác nhau. Tại Việt Nam, các nghiên cứu về ung thư
thận chủ yếu đề cập đến đặc điểm lâm sàng, mô bệnh học, các phương pháp chẩn
đoán hình ảnh của ung thư biểu mô tế bào thận nhưng các nghiên cứu về sống thêm
mới chỉ có một số ít các công trình. Đối với các bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào
thận giai đoạn I,II,III; gần đây chưa có nghiên cứu nào đề cập đến sống thêm sau
điều trị phẫu thuật, đặc biệt là ở Bệnh viện K và Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Do
đó, chúng tôi thực hiện đề tài: “Đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật ung thư
biểu mô tế bào thận giai đoạn I, II, III” với hai mục tiêu sau:

1. Mô tả một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của ung thư biểu mô tế bào
thận giai đoạn I, II, III.
2. Đánh giá kết quả phẫu thuật ung thư biểu mô tế bào thận giai đoạn I, II, III.


5

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Giải phẫu học
1.1.1. Hình thể, kích thước và vị trí
Có hai thận hình hạt đậu nằm hai bên cột sống sau phúc mạc ở hố sườn thắt
lưng, dọc theo bờ ngoài cơ đái chậu và theo hướng nghiêng chếch vào giữa. Thận
nằm ngang mức các đốt sống D12, L1-L3, thận phải thấp hơn thận trái một khoảng
bằng bề ngang của một xương sườn [6].
Thận ở người lớn cao trung bình 10 cm, rộng 5cm và dày 2,5cm, nặng 120-140g.
Nhu mô thận được bọc sát bởi một màng xơ dai gọi là bao xơ. Bọc quanh bao
xơ là một bao mỡ hay bao mỡ quanh thận. Một lớp mô liên kết sợi bọc quanh bao
mỡ của thận và tuyến thượng thận gọi là mạc thận. Mạc thận gồm hai lá trước và
sau. Giữa lá sau của mạc thận và thành lưng có một lớp mỡ nữa gọi là khối mỡ cạnh
thận, trong khối mỡ này có chứa thần kinh chậu hạ vị và chậu bẹn [7],[8],[9],[10].
Nhu mô thận có hai vùng là vùng tủy và vùng vỏ thận. Tủy thận do các tháp
thận tạo nên, mỗi tháp thận có đáy hướng ra ngoài và đỉnh hướng vào xoang thận
tạo thành các nhú thận. Vỏ thận gồm các cột thận là phần nhu mô thận nằm giữa các
tháp thận và các tiểu thùy vỏ là phần nhu mô thận đi từ đáy tháp thận cho đến vùng
bao xơ [6].
1.1.2. Liên quan
Xương sườn XII bắt chéo ngang qua mặt sau thận, chia mặt này thành hai
phần liên quan: phần ngực nằm trên xương sườn XII và phần thắt lưng nằm dưới
xương sườn XII. Phần ngực liên quan qua cơ hoành với ngách sườn hoành của

màng phổi và phổi, các xương sườn XI và XII. Phần thắt lưng liên quan qua lớp mỡ
cạnh thận với cơ thắt lưng, cơ vuông thắt lưng và cơ ngang bụng.
 Thận phải: dính với vùng trần của gan và tuyến thượng thận phải ở trên, góc
đại tràng phải ở dưới và phần xuống tá tràng ở trong. Phần còn lại có phúc mạc phủ
và ngăn cách với gan bởi ngách gan – thận.


6
 Thận trái: rễ mạc treo đại tràng ngang vắt qua mặt trước thận trái và chia thận
trái thành hai phần: phần trên liên quan với lách, tụy, dạ dày và tuyến thượng thận trái,
phần dưới liên quan với góc đại tràng trái, đại tràng xuống và các quai ruột non.
1.1.3. Mạch máu và bạch huyết
 Động mạch thận: tách ra từ động mạch chủ bụng, thường có một ĐM chia
cho mỗi thận nhưng có trường hợp có 2-3 ĐM cho mỗi thận. Mỗi ĐM thận chia làm
2 thân ĐM trước và sau bể thận khi đến gần rốn thận. Nhánh trước bể thận chia làm
3 hoặc 4 nhánh vào nhu mô thận, nhánh sau bể thận đi về phía rốn thận để cấp máu
cho mặt sau thận.
 Tĩnh mạch thận: các TM thận chạy cùng ĐM nhưng số lượng nhiều hơn.
Ở xoang thận các TM xếp thành 3 lớp: TM trước bể thận, TM sau bể thận, TM giữa
các đài thận. Ba lớp TM họp thành TM thận đổ vào tĩnh mạch chủ dưới.
 Bạch huyết: có sự khác nhau giữa thận phải và thận trái
 Thận phải: chia làm 2 nhóm bạch huyết:
 Nhóm bạch huyết sau: đi từ sau rốn thận và các mạch máu đến phía sau bên
TMCD nối với các hạch giữa ĐMC và TMCD từ L1 –L3. Hệ bạch huyết sau đi lên
qua trụ cơ hoành bên phải đổ vào ống ngực.
 Nhóm bạch huyết trước: đi từ trước rốn thận và các mạch máu vòng qua bờ
trên bó mạch ra sau nhập vào hệ bạch huyết sau.
Như vậy các hạch bạch huyết thận phải nằm ở bên phải của ĐMC bao gồm
các hạch ở phía ngoài, trước và sau TMCD.
 Thận trái: gồm 2 nhóm hạch trước và sau mạch máu cuống thận.

 Nhóm hạch trước: ở trước TM thận chia thành 2 nhóm trên và dưới chạy dọc
theo ĐMC có thể liên kết với các hạch phía sau.
 Nhóm hạch sau: đi từ rốn thận sau các mạch máu thận phân chia ở trụ trái cơ
hoành thành nhóm trên và dưới, nhóm trên đi lên nối với các hạch phía trước trụ cơ


7

hoành, nhóm dưới đổ vào các hạch bên trái ĐMC giữa các bó mạch thận và cực
dưới của thận.
Như vậy, đường bạch huyết thận trái gồm các hạch ở bên trái, cạch ĐMC từ
đốt sống D12 tới giới hạn của ĐM mạc treo tràng dưới. Các đường bạch huyết ở
trước và sau ĐMC cũng có thể tiếp nối với các hạch giữa ĐMC và TMCD.

Hình 1.1. Ảnh giải phẫu và liên quan của thận [11]
1.2. Dịch tễ học, nguyên nhân và yếu tố nguy cơ của UTBMTB thận.
1.2.1. Dịch tễ học
UTBMTB thận chiếm 2-3% trong tổng số các ung thư ở người lớn và chiếm
80-85% các khối u ác tính ở thận [1],[4],[12],[13],[14],[15].
Tuổi thường gặp từ 40-70. Tỷ lệ mắc bệnh ở nam so với nữ là 2:1 [1],[4]. Tỷ
lệ thay đổi tùy từng vùng địa lý, tỷ lệ mắc bệnh cao ở Bắc Mỹ, Trung Âu và các
nước Scandinavia như Iceland, Phần Lan [4],[12],[16]. Tỷ lệ UTBMTB thận ở Mỹ
đã tăng lên theo thời gian. Từ năm 1975 đến năm 1995, tỷ lệ mắc trên 100.000


8

người-năm tăng 2.3%, 3.1%, 3.9% và 4.3 % mỗi năm đối với người da trắng, phụ
nữ da trắng, người da đen, và phụ nữ da đen. Trong năm 2010, ước tính 61.000
người sẽ được chẩn đoán và khoảng 13.000 người sẽ chết vì UTBMTB thận tại Hoa

Kỳ (US); trên toàn thế giới, ước tính có khoảng 270.000 trường hợp tử vong và
116.000 vào năm 2008. Tỷ lệ rất khác nhau giữa các vùng với tỷ lệ cao nhất quan
sát thấy ở Bắc Âu và Bắc Mỹ. Mặc dù tỷ lệ này là thấp hơn ở châu Phi, người da
trắng và người da đen xuất hiện bị ảnh hưởng như nhau ở Hoa Kỳ [4].
Tỷ lệ sống sau 5 năm của bệnh nhân ung thư thận tính chung cho tất cả các
giai đoạn đã tăng gấp đôi trong 50 năm qua, từ 34% trong 1954, 62% vào năm 1996
và 69% vào năm 2002 [4].
1.2.2. Các yếu tố nguy cơ
Các yếu tố có liên hệ đến sự phát triển của UTBMTB thận bao gồm:
 Hút thuốc lá
Theo các nghiên cứu thuần tập với cỡ mẫu đủ lớn cho thấy mối liên hệ giữa liều
– đáp ứng, hút thuốc càng nhiều thì nguy cơ phát triển UTBMTB thận càng cao.
Nguy cơ tăng từ 30% - 100% đối với nhưng người hút thuốc [12]. Khoảng 27-37%
UTBMTB thận ở nam giới và 10 - 24% ở nữ giới có liên quan đến hút thuốc [14].
 Béo phì
Các nghiên cứu đã cho thấy có mối liên hệ giữa tăng trọng lượng cơ thể và
UTBMTB thận. Nguy cơ càng cao khi mức độ béo phì càng lớn. Một nghiên cứu
bệnh chứng cho thấy khoảng 20% UTBMTB thận có liên quan tới việc thừa trọng
lượng. Cơ chế của béo phì lên UTBMTB thận còn chưa rõ ràng, béo phì có thể ảnh
hưởng đến bệnh bởi sự tăng mức độ các estrogen nội sinh, phức hợp này có thể thúc
đẩy các Carcinoma ở chuột bạch [12],[14],[17].
 Tăng huyết áp
Các nghiên cứu cũng đã cho thấy có sự liên quan của tăng huyết áp với vai
trò như một tác nhân gây UTBMTB thận. Một nghiên cứu thuần tập ở Thụy Điển
cho thấy mối liên quan theo kiểu liều - đáp ứng giữa tăng huyết áp và UTBMTB
thận. Cơ chế ảnh hưởng còn chưa được rõ ràng nhưng cũng có thể do sự tăng tạo


9


mạch máu và các yếu tố phát triển khác ở những bệnh nhân tăng huyết áp và nó
đóng vai trò như một tác nhân sinh ung thư [14],[18].
 Thuốc
Các thuốc lợi tiểu có liên hệ với UTBMTB thận, nguy cơ thay đổi từ 30300% với quan hệ liều- đáp ứng được xác định trong các nghiên cứu [14]. Các
thuốc điều trị tăng huyết áp và các thuốc giảm đau như Phenacetin, Acetaminophen
cũng có quan hệ với UTBMTB thận trong một số nghiên cứu, tuy nhiên điều này
cũng đang được làm sáng tỏ [12],[13],[14],[15].
 Bệnh thận có trước
Quan sát ở những bệnh nhân chạy thận nhân tạo và ghép thận thấy có sự gia
tăng tần xuất UTBMTB thận. Nguy cơ cao của UTBMTB thận có liên hệ với các
bệnh lý thận như sỏi, nang, nhiễm trùng…. trong một số nghiên cứu, tuy nhiên điều
này vẫn chưa chắc chắn [12],[14]. UTBMTB thận gặp ở những bệnh nhân suy thận
mạn chạy thận nhân tạo chu kỳ làm phát triển nhiều nang, có khoảng 35 - 47% bệnh
nhân chạy thận kéo dài làm phát triển bệnh ly nang thận mắc phải và khoảng 5,8%
phát triển thành UTBMTB thận [14].
 Nghề nghiệp
UTBMTB thận nó chung không phải là một bệnh nghề nghiệp nhưng có
nhiều báo cáo nói về nguy cơ cao đối với một số ngành nghề. Các công nhân trong
các xưởng đóng tàu và xe lửa có tiếp xúc với Asbestos, công nhân trong các hầm lò
đốt tiếp xúc với các hydrocacbon thơm đa vòng, tiếp xúc với chì, Carmium hay các
kim loại nặng khác có nguy cơ cao mắc UTBMTB thận. Ngoài ra các ngành nghề
khác như hóa dầu, hóa chất, thuộc da….đều được báo cáo có nguy cơ mắc bệnh.
Một nghiên cứu ở Đan Mạch cho các đối tượng có tiếp xúc với Trichloroethylene có
nguy cơ cao tới 40% mắc UTBMTB thận [14],[16],[18].


10

 UTBMTB thận di truyền
Có ít nhất 4 dạng của UTBMTB thận di truyền:

 Bệnh Von Hippel - Lindau (VHL): là một bệnh di truyền tính trội trên nhiễm
sắc thể thường, trong bệnh này gen đột biến nằm trong đoạn 3p25-26 (gen VHL).
UTBMTB thận phát triển trong 50% các bệnh nhân này, thường phát triển cả hai
thận và phát triển đa ổ, ngoài ra còn phát triển ở nhiều cơ quan khác nhau như u
phôi mạch ở tiểu não, u mạch võng mạc, u tế bào ưa Crom ở tuyến thượng thận, u
nang hoặc adenocarcinoma ở tụy… Tần số mắc 1/36000 [13],[14],[15],[19].
 Ung thư nhú thận di truyền typ 1 (Hereditary Papillary renal carcinoma type 1)
(HPRC): Những khối u này thường phát triển bất ngờ lan truyền như các UTBMTB
thận rải rác. Bệnh di truyền trội do đột biến của gen C-met nằm trên nhánh ngắn NST
7. Trong nhóm này có sự phát triển ung thư hai thận và đa ổ [15],[19].
 Ung thư nhú thận di truyền typ 2 (Hereditary leiomyomatosis renal cell
carcinoma type 2) (HLRCC): Là hội chứng ung thư gia đình ngoài phát triển của
ung thư thận còn phát triển các u cơ trơn ở tử cung, da. Bệnh tiến triển nhanh xâm
lấn và di căn sớm. Bệnh do đột biến gen FH (Fumarate Hydratase) nằm trên NST
1q42-43 [14].
 Hội chứ Birt- Hogg- Dube (BHD): Là hội chứng ung thư di truyền, nhóm
bệnh này có nguy cơ phát triển các u nang tóc lành tính, các nang ở phổi. U phát
triển đa ổ ở cả hai bên thận, loại ung thư này có thể là các ung thư thận kỵ màu
(33%), u tế bào hạt (50%), tế bào sáng (10%), hoặc tế bào lớn (7%)[15]. Gen liên
quan với hội chứng này nằm trên NST 17p11-2 [14].
1.3. Mô bệnh học
1.3.1. Các loại UTBMTB thận
 Ung thư tế bào sáng:
Hay gặp, chiếm tỷ lệ 70 - 80% [15],[20],[21].


11

Đại thể: khối u lớn thường đặc xuất phát từ nhu mô thận, có xu hướng xâm lấn
vỏ thận, chèn ép đài bể thận, thậm chí xâm lấn TM thận và TMCD, có biểu hiện

chảy máu, hoại tử, vội hóa trung tâm hoặc vùng ngoại vi u [21].
Vi thể: u xuất phát từ biểu mô của ống lượn gần, tế bào có bào tương sáng chứa
nhiều glycogen và lipid, hình tròn hay đa cạnh. Mô đệm chứa nhiều mạch máu. Về mô
học thành phần bao gồm các tế bào sáng, tế bào hạt hoặc dạng hỗn hợp [13],[19],[21].
Đặc điểm gen: phổ biến là sự mất đoạn trên nhánh ngắn của NST 3 và đột biến
gen VHL gặp trong 75% các trường hợp. Ngoài ra chuyển đoạn tương hỗ giữa NST
3 và 8 cũng đã được mô tả [20],[22].
 Ung thư nhú thận: có các typ 1 và typ 2 chiếm tỷ lệ khoảng 10-15% các
trường hợp UTBMTB thận[13],[20],[21]. Tuổi mắc trung bình từ 50-55.
Đại thể: khối u thường có ranh giới rõ, bề mặt nâu nhạt hoặc vàng. Chảy máu
và hoại tử trong u gặp trong 2/3 trường hợp, phần nhiều có kích thước lớn được bao
quanh bởi vòng xơ dày, 1/3 còn lại có vôi hóa trong u [21].
Vi thể: các tế bào u kích thước nhỏ, bào tương bắt màu kiềm hoặc axit xếp
thành nhú hoặc hình ống. Cấu trúc ống hoặc nhú gặp trên 90% trường hợp [21].
Đặc điểm gen: thường là hiện tượng tam bội hoặc tứ bội ở NST 7 và 17. Đa số
các ung thư nhú thận ở đàn ông là mất NST Y. Khoảng 10% ung thư nhú thận rải
rác có đột biến gen C-met [22].
 Ung thư tế bào thận kỵ màu: chiếm 5% UTBMTB thận nguồn gốc từ các tế
bào kẻ của ống góp.
Đại thể: khối u thường có hình cầu, ranh giới rõ, có màu nâu hoặc nhạt màu.
Hiếm gặp chảy máu hay hoại tử [20].
Vi thể: loại ung thư này thường có 2 dạng tế bào: loại sáng nhạt và loại ưa
eosin. Trong bào tương có rất nhiều bọng nước nhỏ li ti, chỉ nhìn thấy dưới kính
hiển vi điện tử, nhuộm Hale giúp chẩn đoán phân biệt với ung thư tế bào sáng và
các u tế bào hạt nhờ tính chất bắt màu đặc hiệu [19],[20],[21].


12

Đặc điểm gen: có hiện tượng mất đoạn các NST 1,2,6,10,13,17 và 21 gặp trên

90% trường hợp. Không có hiện tượng mất đoạn 3p hay tam bội, tứ bội của NST 7
và 17 [20],[22].
 Ung thư ống góp thận: hiếm gặp, khoảng 1% các UTBMTB thận có nguồn
gốc từ các ống góp nhìn chung loại này có tiên lượng xấu [21].
Đại thể: là những u lớn, rắn, thường có một ổ, màu nâu nhạt hoặc trắng có chảy
máu và hoại tử trung tâm nổi bật. Xu hướng phát triển về phía bể thận [21],[22].
Vi thể: tế bào u xếp thành hình ống hoặc nhú, mô đệm giàu chất xơ. Rất khó
phân biệt với các ung thư biểu mô đường bài xuất [22].
Đặc điểm gen: thông tin về gen trong loại ung thư này còn nhiều hạn chế có
thể do sự mất đoạn của NST 1,6,14,15 và 22 ở một số báo cáo [20].
1.3.2. Ung thư dạng Sarcoma
Tỷ lệ 1-5% tiên lượng xấu, xâm lấn tại chỗ và di căn nhanh, xâm lấn cơ quan
lân cận thường gặp. Về mô học cấu tạo bời các tế bào hình thoi có cả tế bào sáng và
ưa eosin. Có sự khuyết đoạn trên NST 8,9 và 14 [13].
1.3.3. Ung thư thể tủy
Được mô tả lần đầu tiên bởi Davis năm 1995, ung thư này được chẩn đoán
ở những người Mỹ gốc Phi trẻ tuổi. Bệnh thường gặp ở lứa tuổi 11-39, trung
bình 22 tuổi. Tiến triển nhanh, xâm lấn và di căn xa ở thời điểm chẩn đoán. Thời
gian sống trung bình chỉ 15 tuần [13]. Khối u thường có kích thước lớn 4-12 cm.
Về mô học các tế bào với nhân đa hình bào tương nhiều tổ chức xơ và xâm nhập
các tế bào viêm [22].
1.4. Chẩn đoán
1.4.1. Lâm sàng:
UTBMTB thận có nhiều triệu chứng đa dạng, bệnh thường tiến triển âm
thầm, không có triệu chứng hoặc không sờ thấy u trong giai đoạn u nhỏ còn khu trú.
Khi đã có triệu chứng, bệnh thường đã ở giai đoạn tiến triển [12],[13]. Khoảng 50%
các UTBMTB thận được phát hiện tình cờ. Một số phát hiện được nhờ các triệu
chứng của u di căn.



13

1.4.1.1. Triệu chứng kinh điển: có 3 triệu chứng xuất hiện đồng thời gọi là tam
chứng cổ điển với tỷ lệ dưới 10%. Khi có tam chứng này thì bệnh thường tiến triển
và ở giai đoạn muộn [13]. Các triệu chứng khác như sốt, mệt mỏi, đổ mồ hôi về
đêm thường không đặc hiệu, 2% bệnh nhân có giãn tĩnh mạch thừng tinh, thường
bên trái do tắc tĩnh mạch tinh hoàn [12].
Đái máu: tỷ lệ 50-60% các trường hợp, đái máu đại thể, toàn bãi, đái máu đơn
thuần hoặc có kèm theo triệu chứng khác. Nếu đái máu nhiều có máu cục, có thể
xuất hiện cơn đau quặn thận. Đái máu thường bất ngờ, có lúc ngừng hẳn sau đó lại
tái phát. Đái máu xuất hiện sớm hay muộn phụ thuộc kích thước, vị trí của u so với
đường bài xuất [12],[19],[22].
Đau thắt lưng: tỷ lệ khoảng 40%. Đau thường âm ỉ, lan ra trước hay xuống
dưới. Đau do căng giãn bao thận hay bể thận. Có thể đau quặn thận nếu máu cục di
chuyển trong niệu quản [12],[19].
U vùng thắt lưng: tỷ lệ 30-40% thường phát hiện khi khối u đã lớn, bệnh đã ở
giai đoạn muộn. Lâm sàng có dấu hiệu chạm thận và bập bềnh thận [12],[19],[23].
1.4.1.2. Các hội chứng cận ung thư
Khoảng 20% UTBMTB thận gặp các hội chứng này, biểu hiện bởi các triệu
chứng toàn thân và cận lâm sàng [13],[16],[24].
 Triệu chứng toàn thân:
Sốt: sốt cao trên 39 độ, trong nhiều tuần không rõ nguyên nhân, sốt có thể do
hoại tử trong u hoặc do giải phóng các chất sinh nhiệt trong ung thư, thường sốt sẽ
hết sau khi cắt thận [19]. Sốt có kèm theo các triệu chứng khác như chán ăn, mệt
mỏi, sụt cân trên 10% trọng lượng.
 Triệu chứng huyết học
Thiếu máu: thường gặp ở thời điểm chẩn đoán, khoảng 16-40% UTBMTB
thận có thiếu máu. Thiếu máu có thể là thiếu máu HC bình thường, thiếu máu HC
nhỏ hay thiếu máu nhược sắc [24].



14

Tăng canxi máu: tỷ lệ 13%, nguyên nhân do UT di căn xương gây tiêu hủy
xương, hoặc do u sản xuất các peptit giống hocmon tuyến cận giáp, các
prostaglandin, các CAF (yếu tố hoạt hóa hủy cốt bào), các TGFα và các yếu tố hoại
tử u TNF α [13],[19],[25]. Sau cắt thận, canxi máu sẽ trở lại bình thường, nếu còn
cao chứng tỏ có di căn. Tăng canxi máu do di căn xương có thể được kiểm soát
bằng xạ trị [24].
Đa hồng cầu: tỷ lệ 1-8%, do có tăng sản xuất erythropoietin hoặc các chất sinh
học tương tự bởi khối u [24], hoặc do phần thận lành bị thiếu oxy sẽ gây nên hiện
tượng trên [19]. Sau cắt thận, nếu đa hồng cầu tái phát là biểu hiện của UTBMTB
thận di căn [13].
Tăng huyết áp: khoảng 25% các trường hợp UTBMTB thận, do khối u trực
tiếp tiết sản xuất renin. Các thuốc hạ áp không có tác dụng trong trường hợp này,
huyết áp trở về bình thường nếu cắt bỏ thận [13],[19],[24].
Tăng tốc độ máu lắng: gặp trong 4% các UTBMTB thận thường tăng 30mm
trong giờ đầu và trở lại bình thường sau khi cắt thận [13].
Hội chứng Stauffer: tỷ lệ khoảng 3-20%, có biểu hiện rồi loạn chức năng gan,
sốt, mệt mỏi và sụt cân. Các rối loạn về sinh hóa bao gồm tăng Phosphatase kiềm,
giảm albumin máu, tăng billirubin hoặc transaminase huyết tương, kéo dài thời gian
prothrombin [13],[24].
1.4.2. Cận lâm sàng
1.4.2.1. Siêu âm thận
Siêu âm thận là phương pháp chẩn đoán tốt, dễ sử dụng và rẻ tiền được
khuyến cáo áp dụng đầu tiên trong chẩn đoán UTBMTB thận. Gần 40% UTBMTB
thận được phát hiện tình cờ qua siêu âm khi chưa có triệu chứng lâm sàng. Các tổn
thương trên siêu âm trong UTBMTB thận có thể là: khối giảm âm, tăng âm hay hỗn
hợp, cấu trúc âm có thể không đều hay đồng nhất, có thể có vôi hóa.



15

 Khả năng phát hiện của siêu âm: Phân biệt được u đặc và u nang, phát
hiện tốt các di căn TM chủ, TM cửa, TM thận, hạch rốn thận, sau phúc mạc, các di
căn tạng.
 Hạn chế của siêu âm: một số nang nhỏ khó xác định được là nang đơn
thuần hay không, các u nhỏ dưới 2cm, khó định được bản chất của khối u.
Độ nhạy của siêu âm trong UTBMTB thận khoảng 85% với u trên 3cm và
60% với u dưới 3cm [19],[26],[27].
1.4.2.2. Chụp cắt lớp vi tính (CT scanner)
Cho phép đánh giá được bản chất của khối u, mức độ xâm lấm của ung thư,
góp vai trò đánh giá giai đoạn của UTBMTB thận để có chỉ định điều trị chính xác.
Độ nhạy và đặc hiệu của CT scanner trong chẩn đoán UTBMTB thận tương ứng là
100% và 71% [26].
Hình ảnh của UTBMTB thận
 Trước tiêm thuốc cản quang: Hình ảnh biến đổi bờ thận thấy rõ đối với các
u lớn phát triển ra ngoài bờ thận, u nhỏ có xu hướng phát triển về phía đài bể thận
gây đè đẩy đài bể thận. Khối u thường có giới hạn khó phân biệt với mô lành, phá
vỡ vỏ thận, phát triển ra ngoài bờ thận thường được bao bọc bởi tổ chức mỡ quanh
thận. Cấu trúc không đồng nhất, tăng tỷ trọng, giảm tỷ trọng, đồng tỷ trọng hay tỷ
trọng hỗn hợp do các ổ chảy máu hoại tử và vôi hóa trong u [26].
 Sau tiêm thuốc cản quang: khối biểu hiện ngấm thuốc mạnh nhưng không
đều ở thì sớm nhất là vùng ngoại vi của u, vùng trung tâm ít đậm hơn so với nhu mô
thận lành, có vùng giảm đậm do u hoại tử, có thể thấy máu tụ quanh thận do chảy
máu. Ngoài ra còn thấy huyết khối TM thận, huyết khối TM chủ, xâm lấn các cơ
quan lân cận, đánh giá di căn hạch, di căn xa.


16


Dấu hiệu xâm lấn khu vực:
 Khoang mỡ cạnh thận: biểu hiện bằng dải hay nốt tăng tỷ trọng trong lớp
mỡ quanh thận so với các tổ chức mỡ bình thường, bao xơ thận khi bị thâm nhiễm
cũng dày lên.
 Xâm lấn TM thận: chụp CT Scanner chẩn đoán xâm lấn TM thận có độ
nhạy 78% [13],[16]. Biểu hiện bởi hình khuyết giảm tỷ trọng đồng nhất hay không
đồng nhất trong lòng mạch.
 Xâm lấn TM chủ: chụp CT Scanner phát hiện xâm lấn TM chủ có độ nhạy
96% [13],[16].
Di căn hạch: chụp cắt lớp vi tính có độ nhạy và độ đặc hiệu tương ứng là
83% và 88% [16]. Di căn hạch vùng rốn thận và hạch dọc động mạch chủ. Di căn
hạch rốn thận thường sớm, kích thước hạch trên 1cm là nghi ngờ, kích thước
hạch trên 2cm gần như chắc chắn. Không có dấu hiệu nào đặc chưng cho hạch
viêm và hạch di căn.
Xâm lấn cơ quan lân cận: chụp CT scanner chẩn đoán có độ nhạy và độ đặc
hiệu tương ứng là 60% và gần 100%. Các cơ quan lân cận bị xâm lấn như tuyến
thượng thận, lách, đại tràng, đuôi tụy, gan làm mất khoang mỡ giữa hai cơ quan.
Xâm lấn dạ dày ruột ít gặp và khó chẩn đoán [16].
1.4.2.3. Chụp niệu đồ tĩnh mạch
Thấy các dấu hiệu của u, đường bờ thận to ra hoặc xóa hẳn hình dáng của một
số thùy. Bóng thận to ra và bị đè đẩy di lệch hoặc thấy hình lồi của u thận trên một
cực thận.
Các hình ảnh của ung thư thận bao gồm:
 Đổi hướng đài thận: u chèn ép làm nở hoặc hẹp góc giữa các đài thận cạnh
nhau, hình ảnh đài thận lệch hướng kéo dài hoặc cắt cụt.


17
 Đổi hướng bể thận: u thận chèn ép làm cho bể thận bị lệch theo cùng một

hướng, có thể thấy hình ảnh khép góc hay mở góc bể thận và đoạn trên của niệu
quản hoặc đẩy cả bể thận và niệu quản vào trong.
 Chèn ép bể thận: bể thận có thể bị bè rộng. Chèn ép bể thận gây giãn đài
thận phía trên, nếu có chèn ép nhiều có thể không thấy bể thận. Tùy theo vị trí của
u, bể thận có thể bị dịch chuyển lên cao nếu u ở dưới hoặc hạ thấp nếu u ở trên. Có
thể thấy hình khuyết ở trong bể thận có bờ không đều do bể thận bị xâm lấn
[19],[26],[28].
1.4.2.4. Chụp động mạch thận
Trước đây là phương pháp hình ảnh quan trọng. Các u thận có hình ảnh điển
hình là một khối nhu mô được tưới máu rất mạnh, các nhánh mạch hỗn loạn và có
vùng hoại tử vô mạch. Khoảng 1% ung thư thận ít được tưới máu. Ngày nay,
phương pháp này có thể cần thiết trong chuẩn bị phẫu thuật bảo tồn hoặc can thiệp
gây tắc mạch trước mổ và điều trị biến chứng chảy máu ở những bệnh nhân quá giai
đoạn phẫu thuật.
1.4.2.5. Chụp tĩnh mạch chủ dưới
Nhằm tìm hình ảnh huyết khối TMCD, là hình cản quang không đều, không
đồng nhất ở vị trí có huyết khối. Ngày nay, phương pháp này ít dùng vì độ tin cậy
của siêu âm, CT scanner và cộng hưởng từ.
1.4.2.6. Chụp cộng hưởng từ
Bình thường phân biệt tủy thận và vỏ thận rất rõ, trên T1 nhu mô vỏ thận tăng
tín hiệu so với tủy thận, lớp mỡ rất tăng tín hiệu và bao quanh thận. Các ung thư
thận có T1 kéo dài biểu hiện là khối giảm tín hiệu không đồng nhất so với nhu mô
thận và đè đẩy các cấu trúc lân cận, vùng chảy máu có biểu hiện tăng tín hiệu. Trên
T2 có hình ảnh không đồng nhất do các ổ hoại tử.
Cộng hưởng từ có vai trò quan trọng trong đánh giá tổng quan sự xâm lấn của
ung thư thận, xâm lấn lớp mỡ có tín hiệu yếu, huyết khối TM có tín hiệu yếu hoặc
trung bình. Chụp cộng hưởng từ cho phép đánh giá mạch máu mà không cần thuốc


18


cản quang, phân biệt được khối đặc, lỏng, phát hiện các ổ chảy máu và xâm lấn của
u nhưng không phân biệt được các mô mềm khác nhau, thời gian thực hiện xét
nghiệm kéo dài [13],[26],[27],[28].
1.4.2.7. Xạ hình xương
Mục đích để tìm các di căn xương nhằm xếp loại giai đoạn của bệnh, theo dõi
sau điều trị khối u nguyên phát. Ổ di căn biểu hiện tăng cố định đồng vị phóng xạ
tại chỗ. Phương pháp này được sử dụng khi lâm sàng có đau xương và xét nghiệm
phosphatase kiềm tăng cao.
1.4.2.8. Xạ hình thận
Từ năm 1960 phương pháp này đã được sử dụng để chẩn đoán các khối u ở
thận, 90% các khối ung thư ở thận có sự bất thường về cố định phóng xạ trên hình
ảnh xạ hình thận. Thuốc thường dùng là chất Tc-99m - diemethylenetriamine pentaacetic acid (DTPA), ngoài việc phát hiện khối u thận phương pháp này còn dùng để
đánh giá chức năng thận một bên hoặc hai bên, chẩn đoán có tắc đường tiết niệu,
chẩn đoán thận đơn độc…. các kết quả của xạ hình thận có thể bổ xung cho chụp
niệu đồ tĩnh mạch khi không phát hiện được các khối u nhỏ, không làm biến đổi đài
bể thận.
1.4.3. Sinh thiết thận chẩn đoán mô bệnh học
Là phương pháp sử dụng kim (kim sinh thiết) dưới hướng dẫn của siêu âm
hoặc chụp cắt lớp vi tính để định vị chính xác vị trí khối u , lấy nhiều mảnh tổ chức
của khối u thận, chẩn đoán chính xác mô bệnh học. Nó có vai trò quan trọng trong
định hướng điều trị, xác đinh khối u là lành tính hay ung thư khi mà các biện pháp
chẩn đoán hình ảnh còn nghi ngờ. Đặc biệt khi khối u đánh giá là không mổ được
trên lâm sàng.
1.4.4. Chẩn đoán giai đoạn UTBMTB thận
1.4.4.1. Chẩn đoán giai đoạn theo phân loại của Robson
- 1958 Flocks và Kadesky đưa ra bảng xếp loại đầu tiên trong UTBMTB thận [19].


19


- 1963 và 1969 Robson đã cải tiến và đưa ra bảng phân loại gồm có 4 giai
đoạn. Bảng phân loại này đã được hoàn chỉnh lại năm 1973 và được sử dụng tương
đối phổ biến [13][18].
Phân loại Robson
o Giai đoạn I: u khu trú tại thận.
o Giai đoạn II: u xâm lấn lớp mỡ quanh thận nhưng chưa vượt qua bao Gerota.
o Giai đoạn III: IIIa: u xâm lấn TM thận hoặc TMCD.
IIIb: di căn hạch vùng thận.
IIIC: u xâm lấn TM thận hoặc TMCD kèm theo di căn hạch
vùng thận.
o Giai đoạn IV: IVa: u xâm lấn cơ quan lân cận.
IVb: di căn xa.
1.4.3.2. Chẩn đoán giai đoạn theo phân loại TNM:
Phân loại Robson tuy được sử dụng rộng rãi nhưng còn nhiều hạn chế do đó
năm 1978, hệ thống phân loại TMN ra đời. Đến năm 2010, bảng phân loại giai đoạn
đã được chỉnh sửa lần thứ 7 dễ áp dụng trong lâm sàng và trong điều trị.
Phân loại TNM (AJCC – 2010) [1].
T: u nguyên phát.
Tx: chưa đánh giá được u nguyên phát
T0: không thấy u nguyên phát
T1: u khu trú ở thận, đường kính lớn nhất của u ≤ 7cm.
T1a: u có đường kính lớn nhất ≤ 4cm.
T1b: u có đường kính lớn nhất 4cm ≤ u ≤ 7cm.
T2: u có đường kính lớn nhất > 7cm còn khu trú ở thận.


20

T2a: u có đường kính lớn nhất 7cm < u ≤ 10cm.

T2b: u có đường kính lớn nhất >10cm.
T3: ung thư xâm lấn TM chính hoặc bao thận nhưng không xâm lấn tuyến
thượng thận và cân Gerota cùng bên .
T3a: ung thư xâm lấn TM thận hoặc các nhánh của nó hoặc ung thư xâm lấn
lớp mỡ cạnh thận hoặc quanh thận mà không xâm lấn cân Gerota.
T3b: ung thư gây huyết khối tĩnh mạch chủ dưới phía dưới cơ hoành.
T3c: ung thư gây huyết khối tĩnh mạch chủ dưới phía trên cơ hoành, hoặc xâm
lấn thành của tĩnh mạch chủ.
T4: ung thư xâm lấn cân Gerota (bao gồm cả tuyến thượng thận cùng bên).
N: hạch vùng
Hạch vùng bao gồm hạch rốn thận, hạch cạnh ĐMC và TMCD, hạch giữa
ĐMC và TMCD.
Nx: chưa đánh giá được hạch vùng.
N0: không di căn hạch vùng.
N1: di căn hạch vùng.
M: di căn xa
Mx: chưa đánh giá được di căn xa.
M0: không có di căn xa.
M1: di căn xa.


21

Giai đoạn:
Giai đoạn

T

N


M

I

T1

N0

M0

II

T2

N0

M0

T1-T2

N1

M0

T3

N0- N1

M0


T4

N bất kỳ

M0

T bất kỳ

N bất kỳ

M1

III

IV

Hình 1.2. Hình ảnh phân loại U và hạch vùng của UTBMTB thận [1][30]


22

1.5. Điều trị ung thư biểu mô tế bào thận
1.5.1. Phẫu thuật
- Là phương pháp điều trị chủ yếu và cơ bản trong UTBMTB thận
- Ca cắt thận đầu tiên được thực hiện bởi Watcott trên một bệnh nhân nam 58
tuổi bị u thận và đã tử vong sau 15 ngày sau mổ (1861).
- Ca phẫu thuật cắt thận thành công đầu tiên trên người bệnh ung thư thận
được thực hiện bởi Grawitz năm 1883.
- Năm 1969, Robson và cộng sự đã xác định “tiêu chuẩn vàng” để điều trị ung
thư thận là cắt thận triệt căn.

- Phẫu thuật ung thư thận có những bước tiến mới trong chỉ định và cách thức
phẫu thuật đem lại những kết quả ngày càng tốt hơn.
1.5.1.1. Ung thư thận khu trú
 Phẫu thuật cắt thận triệt căn:
Đối với UTBMTB thận còn khu trú trong bao thận, trước đây phẫu thuật điều
trị cắt thận đơn thuần được xem là cơ bản. Tuy nhiên, một số các nghiên cứu đã
chứng minh giá trị của phẫu thuật triệt căn mở rộng so với loại phẫu thuật này. Xâm
lấn lớp mỡ quanh thận làm giảm thời gian sống có ý nghĩa [16],[29]. Xâm lấn lớp
mỡ quanh thận chiếm khoảng 25% trong các UTBMTB thận còn khu trú [13]. Đối
với tuyến thượng thận chỉ bị di căn 0,6% khi ung thư còn khu trú so với 8,1% lúc
ung thư ở giai đoạn muộn, nên việc cắt bỏ tuyến thượng thận cũng luôn cần được
cân nhắc, thường đi kèm di căn hạch. Di căn hạch vùng là một yếu tố tiên lượng
quan trọng làm giảm thời gian sống 5 năm có ý nghĩa [16]. Di căn hạch vùng gặp
khoảng 15-20% các trường hợp, tỷ lệ thay đổi từ 2-9% trong UTBMTB thận còn
khu trú và khoảng 45% trong UTBMTB thận tiến triển tại chỗ và có di căn xa. Một
nghiên cứu ở đại học California (Mỹ) đã cho thấy tăng thời gian sống trung bình lên
5 tháng so với nhóm không vét hạch, vét hạch trong ung thư thận làm giảm tỷ lệ tái
phát tại chỗ từ 2,5- 8% so với 11% trong cắt thận đơn thuần. Nghiên cứu của Peter
nghiên cứu trên 356 bệnh nhân ung thư thận được cắt thận được chia làm hai nhóm:
một nhóm có vét hạch một nhóm không vét hạch thấy rằng không có sự khác biệt về
sống thêm 5 năm ở nhóm bệnh nhân giai đoạn I, II nhưng đã thấy rằng ở nhóm


23

bệnh nhân giai đoạn III thì những bệnh nhân cắt thận có vét hạch thời gian sống
thêm 5 năm là 44% trong khi nhóm bệnh nhân cắt thận không vét hạch thì tỷ lệ này
chỉ là 26% [1],[5],[31]. Vậy cắt thận triệt căn bao gồm cắt thận bị ung thư, bao
Gerota, lớp mỡ quanh thận và tuyến thượng thận cùng bên thành một khối kết hợp
với vét hạch vùng [12],[13],[31],[32],[33]. Nguyên tắc chính của phẫu thuật là kiểm

soát mạch máu cuống thận để tránh sự gieo rắc của tế bào ung thư theo đường máu
[33],[34],[35].
Các đường mổ được lựa chọn có thể thay đổi tùy theo yêu cầu của phẫu thuật
các đường mổ hay được sử dụng là các đường mổ dọc giữa bụng và đường dưới
sườn (đi qua phúc mạc), đường thắt lưng (đi ngoài phúc mạc)….Ưu điểm của
đường mổ qua phúc mạc là khống chế dễ dàng mạch máu cuống thận, kiểm soát tốt
vùng sau phúc mạc và đảm bảo nguyên tắc phẫu thuật cắt thận rộng trong
UTBMTB thận [34],[35],[36].
Nạo vét hạch vùng trong UTBMTB thận: Đối với thận phải hạch vùng bao gồm
hạch cạch ĐMC, TMCD, hạch giữa ĐMC và TMCD. Đối với thận trái, hạch vùng
là các hạch cạnh ĐMC bên trái từ các hạch trước và sau trụ cơ hoành tới các hạch
trước sau và ngoài ĐMC, đi xuống bên ngoài của ĐM chậu gốc trái [32].
Ba loại vét hạch được áp dụng:
Vét hạch hạn chế: lấy các hạch quanh rốn thận.
Vét hạch trong vùng: vét đến các hạch cạnh TMCD và hạch cạnh ĐMC bên trái.
Vét hạch rộng: vét đến các hạch cạnh TMCD, trước và sau ĐMC cho đến ĐM
chậu gốc.
Lấy huyết khối TMCD: huyết khối TMCD gặp trong 4-10% các trường hợp
UTBMTB thận, vị trí của huyết khối có 3 mức độ: huyết khối dưới gan (độ I), huyết
khối sau gan (độ II), huyết khối trên cơ hoành (độ III). Thực hiện phẫu thuật này
cần phải mở TMCD lấy huyết khối trên cơ sở kiểm soát tốt TMCD trên và dưới
huyết khối, thực hiện nối tắt tim phổi và làm ngừng tuần hoàn với mức độ II và độ
III. Tỷ lệ tử vong do phẫu thuật từ 5-10% và thời gian sống thêm 5 năm khoảng
50% [12],[16].


24

 Phẫu thuật cắt thận bảo tồn
Năm 1884, Wells đã thực hiện ca cắt bỏ u xơ mỡ thận bảo tồn thận đầu tiên.

Năm 1890, Czerny áp dụng phẫu thuật bảo tồn thận trong điều trị khối ung thư
ở thận.
Năm 1950, Vermooten để xuất các u nhỏ khu trú có thể áp dụng phẫu thuật
bảo tồn.
Đã có nhiều các nghiên cứu cho các kết quả khả quan trong phẫu thuật bảo
tồn thận trong UTBMTB thận. Mốc áp dụng cho phẫu thuật bảo tồn là 4cm, những
khối u có kích thước này được phẫu thuật bảo tồn có thời gian sống thêm ngang
bằng với cắt thận triệt căn. Mặt khác, do tỉ lệ các nhân vệ tinh của u cùng bên gặp
trong khoảng 20% các trường hợp u lớn, giảm dần xuống dưới 5% đối với các u
≤4cm nên mốc này được chấp nhận trong phẫu thuật bảo tồn thận [16].
Chỉ định:
 Ung thư hai thận: có tỉ lệ 1-3%.
 Chỉ có một thận duy nhất.
 Các bệnh thận bẩm sinh khác hoặc mắc phải.
 Bệnh Von Hippel- Lindau.
 Bệnh lý của thận đối bên gây suy giảm chức năng thận như sỏi thận,
hẹp động mạch thận, bệnh lý cầu thận.
 U ≤ 4 cm
Phẫu thuật bảo tồn giữ được ít nhất 20% tổng số đơn vị thận là đảm bảo hoạt
động chức năng thận mà không phải chạy thận nhân tạo [37]. Hạn chế của phương
pháp này là kỹ thuật phức tạp và nguy cơ xảy ra các biến chứng như chảy máu, dò
thận, suy thận…khoảng 30% xuất hiện biến chứng tại thận nên nhiều phẫu thuật
viên không tán đồng kỹ thuật này[33],[37].
1.5.1.2. UTBMTB thận đã di căn
 Cắt thận: cắt thận kèm theo cắt đi khối di căn có thể đem lại tiên lượng tốt,
thời gian sống 5 năm đạt 25-50% [16]. Cắt thận và điều trị miễn dịch bổ sung
(Interferon α và Interleukin-2) có tỷ lệ đáp ứng 5-27% và có thể cải thiện sống


25


thêm. Một nghiên cứu pha III đã so sánh có đối chứng giữa hai nhóm bệnh nhân
ung thư thận giai đoạn có di căn xa một nhóm được cắt thận và điều trị miễn dịch
sau mổ và nhóm chỉ điều trị miễn dịch đơn thuần thì thấy thời gian sống trung bình
của hai nhóm tương ứng là 13,6 tháng và 7,8 tháng [1]. Ngoài ra cắt thận trong
UTBMTB thận còn có vai trò điều trị triệu chứng như giảm đau, cầm máu, các hội
chứng cận u gây ra với thời gian sống thêm ít nhất 6 tháng [16],[38].
 Phẫu thuật cắt bỏ di căn và tái phát: Khoảng 30% bệnh nhân UTBMTB
thận có di căn xa tại thời điểm chẩn đoán, trong đó chỉ có 1,5%- 3,5% là di căn đơn
độc [15]. Các vị trí di căn thường gặp là phổi (75%), phần mềm (36%), xương
(20%), gan (18%), da (8%), não (8%) [15]. Các di căn khác hiếm gặp hơn như
tuyến giáp, tuyến nước bọt, tuyến tụy và buồng trứng. Một nghiên cứu trên 59 bệnh
nhân UTBMTB thận được cắt thận và cắt bỏ khối di căn đơn độc có thời gian sống
3 năm là 45% và 5 năm là 34% [39].
1.5.2. Điều trị toàn thân
1.5.2.1. Điều trị nội tiết
Đã có các nghiên cứu về việc dùng Progestin và Adrogen trong UTBMTB
thận từ những năm 1960, gần đây các nghiên cứu về việc dùng Medroxyprogesteron
và Tamoxifen trong điều trị UTBMTB thận có hiệu quả không cao với tỷ lệ đáp ứng
dưới 5% [15]. Sử dụng Tamoxifen liều cao cũng không đem lại kết quả cao nên
hiện nay việc điều trị này không được khuyến cáo sử dụng [40].
1.5.2.2. Điều trị hóa chất
Hóa chất đối với UTBMTB thận cho tỷ lệ đáp ứng thấp, một số báo cáo về
việc sử dụng 5-FU phối hợp với Vinblastin và Floxuridin đều cho tỉ lệ đáp ứng thấp
dưới 10% [15]. Hiện nay đang có nghiên cứu về việc dùng Temsirolimus trong điều
trị ung thận di căn nhưng kết quả chưa được công bố.
1.5.2.3. Điều trị miễn dịch
Hiệu quả của điều trị miễn dịch bằng Interleukin và Interferon đã và đang
được nghiên cứu. Nhìn chung tỉ lệ đáp ứng không cao (dưới 20%) [39],[40]. Chỉ



×