Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

YẾU TỐ LIÊN VĂN HÓA TRONG THƠ NGUYỄN QUANG THIỀU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.49 KB, 28 trang )

CHƯƠNG I: VÀI NÉT VỀ NGUYỄN QUANG THIỀU VÀ CÁC YẾU TỐ
LIÊN VĂN HÓA TRONG TẬP THƠ “SỰ MẤT NGỦ CỦA LỬA”
1.1 Vài nét về nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và quan niệm sáng tác của ông
1.1.1 Vài nét về nhà thơ Nguyễn Quang Thiều
Ông tên thật là Nguyễn Quang Thiều, sinh năm 1957 tại Thôn Hoàng Dương
(Làng Chùa), Xã Sơn Công, Huyên Ứng Hòa, Tỉnh Hà Tây. Ông vào làm việc
tại báo Văn nghệ từ năm 1992 và rời khỏi đây năm 2007
Là một nhà thơ hiện đại của Việt Nam, ngoài lĩnh vực chính thơ ca tạo nên
tên tuổi, Nguyễn Quang Thiều còn là một nhà văn với các thể loại tiểu
thuyết, truyện ngắn, bút ký và tham gia vào lĩnh vực báo chí. Ông hiện nay là Phó
Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam; Phó Tổng thư ký thứ nhất Hội Nhà văn Á – Phi.
Bắt đầu viết văn từ năm 1983, Nguyễn Quang Thiều là cây bút đa năng và
sung sức, xuất hiện thường xuyên trên văn đàn, báo chí. Bên cạnh thơ, Nguyễn
Quang Thiều cũng ghi dấu ấn về văn xuôi, tiểu luận, dịch thuật.
Các tác phẩm làm nên tên tuổi Nguyễn Quang Thiều là thơ. Đó là các tập:
Ngôi nhà tuổi 17 (1990) Sự mất ngủ của lửa (1992); Những người đàn bà gánh
nước sông (1995); Những người lính của làng (1996); Thơ Nguyễn Quang Thiều
(1996); Nhịp điệu châu thổ mới (1997); Bài ca những con chim đêm (1999); Thơ
tuyển cho thiếu nhi (2004); Cây ánh sáng (2009); Châu thổ (2010).
1.1.2 Quan niệm sáng tác
Sáng tác với Nguyễn Quang Thiều là nơi để trút ra thế giới bên trong, đã có
lần tâm sự rằng ngay cả việc vẽ tranh cũng chính là một cách để anh biểu đạt cho
một ý tưởng bằng màu sắc, đường nét mà anh khó có thể diễn đạt trọn vẹn bằng


ngôn từ. “Tôi viết rất nhiều thể loại như truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch sân khấu,
kịch bản phim, tiểu luận, báo chí… Nhưng thơ ca là nơi duy nhất để tôi giải phóng
tôi và để tôi trú ẩn. Một điều tôi muốn nói đến là: có thể những bài thơ cụ thể nào
đó không cứu rỗi được thế giới nhưng những gì mang tinh thần của thi ca đã và
đang cứu rỗi thế giới.”
Và tác giả Nguyễn Quang Thiều còn chia sẻ “Điều quan trọng nhất của thơ


là tạo ra sự ám ảnh và điều tệ hại nhất là thiếu trí tưởng tượng.” Với ông, thơ ca
như một mảnh đất cần khai phá, hướng tới những điều mới lạ. Nguyễn Quang
Thiều đã lựa chọn một hướng đi theo cách mà người thầy tinh thần vĩ đại của ông Brodsky - đã chọn. Nguyễn Quang Thiều viết về hạnh phúc lẫn khổ đau, lương
thiện lẫn tội ác, xấu xa lẫn đẹp đẽ, lầm than lẫn sướng vui, tuyệt vọng lẫn hy vọng,
tàn tụi lẫn tái sinh.
1.2 Khái niệm về văn hóa và liên văn hóa
1.2.1 Khái niệm văn hóa
Thuật ngữ “văn hóa” theo ngôn ngữ của phương Tây có nguồn gốc từ các
dạng của động từ Latinh colere là colo, colui, cultus với hai nghĩa. Thứ nhất, là giữ
gìn, chăm sóc, tạo dựng trong trồng trọt; thứ hai là cầu cúng. Từ “văn hóa” trong
Tiếng Việt là từ gốc Nhật, người Nhật sử dụng từ này cũng để định nghĩa văn hóa
theo phương Tây.1
Tác giả A.L. Kroeber và C.L Kluckhohn quan niệm văn hóa là “loại hành vi
rõ ràng và ám thị đã được đúc kết và truyền lại bằng biểu tượng, và nó là thành quả
độc đáo của nhân loại khác với các loại hình khác, trong đó bao gồm cả đồ tạo tác
do con người làm ra.”2. Có thể hiểu rằng, văn hóa chính là sản phẩm sáng tạo của
1 Theo Wikipedia, />2 Trần Quốc Vượng (1998), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXBGD Việt Nam, tr.17.


con người, ngay từ thuở bình minh của xã hội loài người, nhưng những sản phẩm
sáng tạo ấy được đúc kết thành những biểu tượng vì thế văn hóa luôn gắn liền với
các giá trị (giá trị vật chất, giá trị tinh thần).
Theo nhà văn Pháp Edouard Herriot văn hóa “là cái gì còn lại khi tất cả
những cái khác bị quên đi, là cái vẫn thiếu khi người ta đã đọc tất cả”. Văn hóa
được biểu hiện thông qua các yếu tố ngôn ngữ, tôn giáo, các giá trị và thái độ, cách
cư xử và phong tục, các yếu tố vật chất, thẩm mĩ, giáo dục,...
1.2.2. Văn hóa trong mối quan hệ với văn chương nghệ thuật
Muốn nghiên cứu tác phẩm văn học cần đặt nó trong một chỉnh thể thống
nhất: đặt nó trong hệ thống chỉnh thể văn học và để nó gia nhập vào hệ thống chỉnh
thể văn hóa. M.Bakhtin đã khẳng định: “Không thể tách rời văn học ra khỏi hệ

thống văn hóa và “vượt mặt” văn hóa liên hệ trực tiếp với các nhân tố chính trị,
kinh tế, xã hội”. Giữa văn hóa và văn học luôn có những sợi dây liên đới. Nếu văn
học phản ánh hiện thực thông qua hình tượng, tạo thành các “mã nghệ thuật”, thì
các yếu tố của văn hóa là chất liệu tạo tác nên hệ thống biểu tượng đó.
Văn học có lối phản ánh khá đặc trưng, nếu chiếu một tia sáng nhỏ qua văn
hóa thì sẽ thu lại một chùm mây phản xạ, vì thế đi từ hình ảnh cho đến các biểu
tượng văn học dưới góc nhìn liên văn hóa thì ý nghĩa bề sâu của “mã nghệ thuật”
được thể hiện khá đặc sắc và giá trị thẩm mĩ tác phẩm được khắc sâu.
Lí thuyết liên văn bản, được Kristeva cho rằng: “bất kì văn bản nào cũng
được cấu trúc như một bức khảm các trích dẫn; bất kì văn bản nào cũng là sự hấp
thụ và biến đổi các văn bản khác”.3 Đó là hiện tượng tương tác, quan hệ tạo nên
các “đường biên” giá trị giữa văn bản văn học và các “văn bản ngoài”. Trong phạm
3 Julia Kristeva (1986), “Word, Dialogue and Novel” trong The Kristeva Reader, Toril Moi (ed. 1986), New Work:
Columbia University Press, p.37


vi của bài tiểu luận này, chúng tôi xin xem xét mối tương tác giữa văn bản văn học
và các yếu tố văn hóa, để có thể thấy được ở một góc độ nào đó văn hóa như là chủ
thể và bản thân nó cũng là khách thể trong văn chương nghệ thuật. Hơn nữa, có thể
thấy các kí hiệu học văn hóa có vai trò đặc biệt trong hoạt động tạo những nghĩa
mới.
Sự biểu hiện của cuộc “giao tiếp nghệ thuật” giữa văn chương và văn hóa rõ
nét nhất là qua các mẫu gốc. “Thuật ngữ “mẫu gốc” được dịch từ archétype; còn
được dịch là siêu mẫu, cổ mẫu. Cổ mẫu là những hình ảnh hoặc ý niệm đầu tiên,
nguyên khởi, được di truyền từ thế hệ nọ sang thế hệ kia.” 4 Theo Carl Jung, cổ mẫu
thuộc về vô thức, được ẩn giấu trong “vô thức tập thể”. Jung cho rằng, vô thức tập
thể nơi lưu trữ kinh nghiệm của chúng ta với tư cách là một loài, đó là những tri
thức mà khi sinh ra đã sẵn có, mang tính tiên nghiệm và không phụ thuộc vào môi
trường hay hoàn cảnh. Nội dung của mẫu gốc “ẩn chứa trong các nghi lễ cổ sơ, các
thần thoại, các tượng trưng, các tín ngưỡng, các hành vi tâm lí” 5, được biểu hiện

qua các motip, chẳng hạn như sử dụng motip thần thoại nạn đại hồng thủy để lý
giải mẫu gốc về nước. Với phạm vi khảo sát qua tập thơ “Sự mất ngủ của lửa”,
nhóm chúng tôi triển khai dựa trên huyền thoại về lửa, sự tẩy rửa bằng lửa để thấy
được ngọn lửa “thao thức” trước hiện trạng xã hội; không những vậy mà còn từ các
mẫu gốc làng, dòng sông, người phụ nữ,... để thấy rõ hơn khuôn diện văn hóa dân
tộc trong thơ Nguyễn Quang Thiều.
1.3 Các yếu tố liên văn hóa trong thơ Nguyễn Quang Thiều
Một trong những điều kì diệu của nghệ thuật tạo nên khi chúng ta nghe một
bản nhạc, xem một bức tranh hay đọc một cuốn sách là ở đó, dẫu không diễn ra bất
4 Lại Nguyên Ân (2017), 150 thuật ngữ văn học, NXB Văn học, tr.245.
5 Lại Nguyên Ân (2017), 150 thuật ngữ văn học, NXB Văn học, tr.247.


kì sự giao tiếp nào nhưng vẫn luôn có những cuộc gặp gỡ. Ở các tác phẩm của tập
thơ Sự mất ngủ của lửa, ta không chỉ chứng kiến cuộc gặp gỡ giữa nhà thơ và độc
giả, mà bên cạnh đó còn diễn ra cuộc gặp gỡ giữa các chủ thể văn hóa (cuộc gặp
của những kẻ dự phần của văn hóa).
Đọc thơ Nguyễn Quang Thiều, ta gặp lại rất nhiều các hình ảnh quen thuộc
của văn hóa Việt: sông Đáy (Sông Đáy), những người mẹ thương binh (Những ví
dụ), đêm mất điện (Cánh buồm), rượu rắn (Trong quán rượu rắn), những người
đàn bà vác dậm (Trên đại lộ)… Những hình ảnh này gây nên sự bất ngờ với người
đọc vì sự quen thuộc của nó, sự quen thuộc mà hầu như chẳng có mấy tác giả ngày
nay muốn đưa nó vào thơ của mình. (Đọc thơ Nguyễn Thế Hoàng Linh, Nhã
Thuyên, Nguyễn Bình Phương, Bùi Chát hay Ocean Vương ta cảm nhận những
bầu không khí khác hẳn, tạo bởi những hình ảnh khác hẳn). Những hình ảnh này
gây nên sự bất ngờ với người đọc còn vì sự xa lạ của nó, sự xa lạ của sự quen
thuộc. Hàng loạt các biểu tượng, hình tượng văn hóa lung lay trong bóng của chính
bản thân nó, bóng đen văn vật 1000 năm. Những vết rạn của biểu tượng là cơn cựa
mình của các giá trị hiện sinh, dấu ấn của tượng trưng; điều này làm nên sự xa lạ
hòa quyện với sự quen thuộc, hồi sinh các biểu tượng văn hóa trong văn học.

Ở bài seminar này, chúng tôi sẽ tập trung làm rõ các biểu tượng, hình tượng
văn hóa trong tập thơ Sự mất ngủ của lửa và những giá trị hiện sinh, tượng trưng
mà các biểu tượng, hình tượng văn hóa mang lại trong tập thơ này.
Phạm vi nghiên cứu của seminar giới hạn trong tập thơ Sự mất ngủ của lửa.
Đây là tập thơ thứ hai của Nguyễn Quang Thiều, viết sau tập thơ đầu tay Ngôi nhà
17 tuổi. Tập thơ thứ hai này không những mang những dấu ấn văn hóa hết sức đặc
biệt mà theo chúng tôi, nó là tập thơ lớn của vài chục năm trở lại đây, và Nguyễn
Quang Thiều cũng đã viết trong lời nói đầu của tập thơ khi nó được tái bản vào


năm 2015: “Thời gian cứ thế trôi đi và nhạo báng tất cả những gì không có khả
năng đi cùng nó”6.

6 Nguyễn Quang Thiều (2015), Sự mất ngủ của lửa, NXB Hội nhà văn, tr. 7


CHƯƠNG II: CÁC YẾU TỐ, HÌNH TƯỢNG LIÊN VĂN HÓA TRONG TẬP
THƠ “SỰ MẤT NGỦ CỦA LỬA”
2.1. Sông Đáy (Sông Đáy)
Sông Đáy của Nguyễn Quang Thiều như biểu tượng nguồn chảy sáng tạo,
đánh thức mọi ký ức, xúc cảm và suy tưởng của thơ ông. Dòng sông ấy vừa trở nên
kỳ vĩ, vừa đau đáu trong tâm thức thi ca và vẻ đẹp thẩm mỹ lộng lẫy. Mặc dù, trước
ông đã có một sông Đáy dịu dàng, thật lãng mạn trong thơ Quang Dũng:
“Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc
Sáo diều vi vút thổi đêm trăng”.
Một sông Đáy dùng dằng, xao xuyến thế niềm thương và thi sĩ, một đặc trưng thơ
Hữu Thỉnh:
“Sông Đáy ở đâu về
Chia hai bờ nội ngoại
Bên lở và bên bồi

Cùng tương tư đất bãi”
Và giờ đây, sông Đáy trong tâm thế Nguyễn Quang Thiều hiện lên thế này:
“Những chiều xa quê tôi mong dòng sông dâng lên ngang trời cho tôi được thấy
Cho đôi mắt nhớ thương của tôi như hai hốc đất ven bờ, nơi những chú bống đến
làm tổ được dàn dụa nước mưa sông”
(Sông Đáy)


Nỗi nhớ chảy miên man sông Đáy qua cấu trúc câu thơ dài, gần văn xuôi, như
muốn chảy mãi, bứt khỏi cái hữu hạn của biểu hiện.
Sông Đáy là một địa danh văn hóa và trong văn học Việt, con sông này cũng
đã trở thành là hình tượng nghệ thuật trong sáng tác của một số nhà văn, nhà thơ.
Hình tượng sông Đáy ở bài thơ là con sông của hình bóng những người thân giăng
níu, của cảnh vật và thiên nhiên vừa gần gũi, như đâu đó trong không gian tương
tự, lại vừa lạ, vừa huyền ảo, ăm ắp và dào lên dòng chảy ký ức Nguyễn Quang
Thiều. Con sông như ông tự sự: “Sông Đáy chảy vào đời tôi/ Như mẹ tôi gánh
nặng rẽ vào ngõ sau mỗi buổi chiều đi làm về vất vả/ Tôi dụi mặt vào lưng người
đẫm mồ hôi mát một mảnh sông đêm…”. Con sông của miền tâm tưởng, “cơn mơ
vang tiếng cá quẫy tuột câu như một tiếng nấc”; nơi những chú bống thường về
làm tổ; nơi “một cây ngô cuối vụ khô gầy/ suốt đời buồn trong tiếng lá reo”.
Cái con sông bùi ngùi thế phận, đằm sâu hơi thở quê làng: “Sông Đáy ơi,
sông Đáy ơi… chiều nay tôi trở lại/ Mẹ tôi đã già như cát bên bờ/ Ôi mùi cát khô,
mùi tóc mẹ tôi/ Tôi quỳ xuống vốc cát ấp vào mặt…”. Con sông mà ít nhất, ông lặp
lại hai lần về sự “già như cát” khi kể về nó, đủ để nói những ám ảnh dòng sông
nguồn cội của ông: “Chiều nay con ngồi ho bên cửa/ Bao sợi mưa đứt hết cuối trời/
Con chờ đợi nỗi niềm già như cát/ Lặng lẽ suốt đời cởi áo thả vào sông” (Những
con thuyền sông Đáy). Và, con sông ấy dường luôn chuyển động trong giằng xé hệ
tầng tâm thức nhị trùng dòng chảy thực và ảo, đau đáu niềm quê: “Ta chạy đến hai
phía bờ, quỳ xuống trước sông/ Sông ở giữa đôi ta - một chân trời chuyển động/
Những vầng mây xỉn màu vì gió/ Những cánh buồm khổ đau tự xé và tự vá lại

mình/ Những con bống sông, những chiếc chìa khóa vàng, đang mở cửa” (Dòng
sông).
2.2 Cá - bài ca của sự lưu lạc (Xô – nat hoàng hôn trên biển)


Cá là một trong những hình tượng văn hóa quen thuộc ở các nước trên khắp
thế giới. Tuy nhiên ở các nước nông nghiệp, con cá có một địa vị hết sức đặc biệt.
Trong thư tịch về truyền thuyết Lạc Long Quân đã có những ghi chép về con Ngư
tinh, về sau bị Lạc Long Quân thu phục. Ngoài ra, còn có tục thả cá chép và ngày
đưa ông Táo về trời, tức ngày 23 Tết v.v. Tuy nhiên cá trong Xô - nat hoàng hôn
trên biển lại mang dáng dấp không hề dính dáng một chút gì đến những huyền
thoại. Những con cá ở bài thơ không còn là những totem linh thiêng được mọi
người lễ bái.
Không gì khác, cá là hiện thân của những nỗi đau, những tổn thương. Không
ít lần trong thơ mình, ông đã hóa thân thành những sự vật để cảm nhận, lắng nghe
sự chuyển mình của thế giới để hiểu hơn về sự tồn tại. Và nhiều lần trong thân thể,
hình hài của cá, ông lắng nghe tâm sự của chúng để hiểu và thốt lên rằng:
“Lăn nhanh, lăn nhanh
Hỡi mặt trời, cơn đau đớn của lửa
Những lá buồm lóe lên ánh sáng thủy thần
Ta nghe tiếng dây buộc chèo xiết rên tóe máu
Những tấm lưới bùng ra như đám cháy
Và bao cuộc chia ly của lũ cá dại khờ”
(Xô – nat hoàng hôn trên biển)
Những tấm lưới bùng ra như đám cháy. Và đằng sau đó là những cuộc chia
li của lũ cá dại khờ đã nằm gọn trong tấm lưới, đó là những nỗi đau mà chúng phải
trải qua mỗi khi hoàng hôn về.
Học thuyết tiến hóa của Charles Darwin, một trong ba học thuyết gây xáo
động lịch sử của nhân loại, cho rằng sự sống trên Trái Đất khởi nguồn và sau đó
tiến hóa từ một tổ tiên chung có nguồn gốc từ biển cả từ khoảng 3,8 tỷ năm trước.

Sự tiến hóa thành loài mới và sự phân nhánh sự sống lặp lại có thể suy luận ra từ


tập hợp chuỗi ADN chung. Những nét tương đồng này có thể dùng để tái dựng lịch
sử tiến hóa từ những loài hiện tồn và những dấu vết hóa thạch. Và ở một phần nào
đó, một góc sâu thẳm trong nhà thơ đồng nhất với loài cá, tiếng gọi bản năng của
loài cá trong nhà thơ vẫy gọi gào thét đòi được tìm về với tổ tiên của mình, trở về
với biển cả:
“Ta cất tiếng gọi bến bờ của ta bằng tiếng cá
Trong hoàng hôn nước màu huyết dụ
Có một bài ca lưu lạc tìm về”
(Xô – nat hoàng hôn trên biển)
2.3 Chiếc roi (Mười một khúc cảm - II)
“Thương cho roi cho vọt
Ghét cho ngọt cho bùi”
(Tục ngữ)
Có lẽ bắt nguồn từ câu tục ngữ này, đòn roi trong tâm thức của ông bà cha
mẹ chúng ta là biểu tượng của tình thương yêu. Và thậm chí, bằng sự dạy dỗ của
đòn roi, ta cũng đã bắt đầu tin nó là biểu hiện của tình yêu của cha mẹ.
Khúc cảm thứ II trong Mười một khúc cảm kể về câu chuyện hút thuốc của
nhà thơ từ năm 14 tuổi. Và hiển nhiên, những trận đòn. Những trận đòn quất tơi tả
tâm hồn của một chú nhóc mà không phải là những lời khuyên nhủ bảo ban của
tình yêu thương.
Chiếc roi là hình ảnh cả một cộng đồng người oằn mình vác những đá tảng
văn hóa. Và những con người này vác lâu đến nỗi quên đi mất những nỗi đau khổ


của mình, quên đi mất hành động mang vác. Và cứ thế những thế hệ sau sinh ra
trong sự hiển nhiên gồng gánh. Những đứa trẻ lớn lên từ trong đòn roi cứ thế tiếp
nhận những đòn roi từ cuộc đời:

“Đâu rồi đòn roi của cha
Đâu rồi đòn roi của cha
Ta trong khói suốt đời quờ quạng”
(Mười một khúc cảm - II)
2.4 Người điên (Mười một khúc cảm – X)
Người điên luôn đứng ngoài rìa của đời sống, và trong mỗi nền văn hóa, đây
là những con người nằm ở phần khuất của cộng đồng. Người điên luôn là một cái
gì đó không nguy hiểm nhưng có nguy cơ gây hại và luôn bị mọi người tránh xa,
nhạo báng. Trong văn hóa Việt và nhiều nền văn hóa nữa, các từ như điên, khùng,
sự không bình thường được dùng trong giao tiếp phần lớn là để mỉa mai, cười
nhạo. Tâm lý của cộng đồng luôn hướng về những đám đông, sự bình thường, an
toàn; với những bộ phận thiểu số, luôn sẽ có những định kiến và sự dè chừng nhất
định của đám đông. Rõ ràng, người điên, đang sống trong hình hài con người
nhưng đã không còn được xem là một con người nữa.
Đi vào trong văn học, kiểu nhân vật người điên là một hình tượng nghệ thuật
đặc biệt và được nhiều nhà văn quan tâm xây dựng. Kiểu nhân vật này ta gặp trong
các sáng tác của M. Cervantex, N. V. Gogol, Lỗ Tấn... Kiểu nhân vật người điên
gợi cho người đọc rất nhiều suy nghĩ, liên tưởng về con người, về cuộc sống. Sự
bất thường về tâm lí, tính cách, ngôn ngữ, hành động... của nhân vật người điên đã
gây ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc cho độc giả mỗi khi tiếp xúc với tác phẩm. Những


vấn đề xung quanh hình tượng nghệ thuật này là câu hỏi mà người viết luôn muốn
tìm kiếm lời giải đáp.
Người điên trong Khúc cảm thứ V được tác giả đặt ngang hàng với những
con người nguyên thủy, tức tổ tiên của con người. Cũng giống như phần khuất của
văn hóa, điên là phần bản năng, là một phần của mỗi cá thể. Chúng ta không thể từ
chối nó, hay xóa bỏ nó.
2.5 Những người vợ liệt sĩ (Những ví dụ)
Với một đất nước liên miên phải chịu những cơn dày vò của chiến tranh thì

những người chinh phu (người vợ có chồng đi chinh chiến xa) vốn là một hình ảnh
quen thuộc trong văn hóa và nghệ thuật. Trong văn hóa:
“Đồng Đăng có phố Kì Lừa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh”
(Ca dao)
Là những đá vọng phu nằm rải rác trên đất nước.
Trong nghệ thuật:
“Dấu chàng theo lớp mây đưa
Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà”
(Chinh phụ ngâm, Đặng Trần Côn – Đoàn Thị Điểm)
“Đêm đông, xa trông cố hương buồn lòng chinh phu
Đêm đông, bên song ngẩn ngơ kìa ai mong chồng”
(Đêm đông, Nguyễn Văn Thương)
Là những hình tượng người vợ xa chồng trong các sáng tác thơ ca, âm nhạc.


Và đau khổ nhất vẫn là những người vợ có chồng bỏ mạng nơi chiến trận,
hoặc là trở về với hình hài không còn lành lặn. Trong Những ví dụ, những hình
tượng người vợ liệt sĩ được nhà thơ ban đầu mô tả với giọng điệu thương cảm, một
con người có đời sống “bình thường” nhìn vào những cá nhân “bất hạnh”. Trong
các sáng tác về chủ đề này, ta thường thấy hầu như tác giả đều viết với thiên hướng
ngợi ca hoặc thương cảm. Nhưng ở Nguyễn Quang Thiều, nỗi đau của những
người phụ nữ này sẽ là phi nhân đạo nếu đem nó ra ngợi ca, nên ông đã dùng giọng
điệu thương cảm. Và khi sự thương cảm đỗ vơ vì vốn dĩ bản chất nó là tình cảm
giả tạo, thì đó là lúc nhà thơ chợt nhận ra những mảng đen tối của con người mình
2.6 Viên đạn - nỗi đau chiến tranh Việt Nam (Cơn mê)
Những vết thương trong chiến tranh khắc vào sâu trong tâm khảm mỗi con
người đi qua nó. Con người chìm trong con mê, chập chờn thoi thóp với nỗi đau.
Viên đạn như một mảnh kí ức của nỗi đau chiến tranh Việt Nam, nó còn là nỗi day
đứt của người lính Mĩ khi trót bắn viên đạn tội lỗi vào quá khứ:

“John Baca đã bóp cò hai mươi năm về trước
Đạn vẫn bay đến bây giờ”
(Cơn mê)
Hiện thực trong thơ Nguyễn Quang Thiều thường được tái hiện như giấc mơ
của người mệt mỏi, kiệt sức vì quá tải trong những cơn dư chấn, như vừa chợp mắt
đã nhìn thấy quá khứ hai mươi năm trước, được phóng chiếu theo những cách thức
khác lạ, có thể cảm nhận được cả hơi thở nóng bỏng, sự khắc nghiệt đến kinh
hoàng của đời sống trên da thịt:
“Con chó liếm mãi, liếm mãi trên ngực anh
Lưỡi nó như ngon lửa nhỏ mang cái hơi ấm của nước


Sự dịu dàng của chó làm anh bật khóc

Tiếng sung bắn ra từ đầu cơn mê
Cuối cơn mê là Cửu Long Giang
Những người dân quấn khăn rằng thả lưới
Hoàng hôn xõa đôi cánh vàng khe khẽ xuống dòng sông
(Cơn mê)
Nhưng sau tất cả, giữa cảnh chiến tranh hoang tàn đổ nát, hình ảnh con chó
liếm trên tấc thịt da người lính kia đã khơi gợi lại thiện lương, mới nhận ra những
lỗi lầm của mình. Hình ảnh dịu dàng của con chó kia trở thành nỗi ám ảnh day dứt
đến tận sau cùng :
Con chó liếm mãi, liếm mãi,
Liếm mãi, liếm mãi, liếm mãi…
(Cơn mê)
2.7 Mạng nhện – con nhện (Ám ảnh)
“Đêm khuya ra đứng bờ ao
Trông cá, cá lặn; trông sao, sao mờ.
Buồn trông con nhện vương tơ,

Nhện ơi nhện hỡi, nhện chờ mối ai?
Buồn trông chênh chếch sao mai


Sao ơi sao hỡi, nhớ ai mà mờ”
(Ca dao)
Trong văn hóa Việt, con nhện cùng với những tơ nhện, mạng nhện của nó là
biểu tượng chỉ sự rối rắm. Mạng nhện, trong thơ ca nghệ thuật còn chỉ những cái
bẫy, sa chân vào khó mà chạy thoát ra được. Trong Ám ảnh, tơ nhện mang những
đặc tính phụ thuộc vàolnhững góc nhìn khác nhau ở mỗi thời điểm khác nhau của
nhà thơ. “Tấm mạng nhện giăng nơi cửa sổ phòng tôi không có mưu mô độc ác
gì”. Tấm mạng nhện ấy được nhà thơ so sánh với những hình ảnh bình đến quen
thuộc. “Mỏng như hơi thở con tôi […] Nó dịu dàng đỡ những giọt sương đêm” Và
hơn hết, hình ảnh tấm võng, người mẹ, lời ru được tác giả sử dụng thật tinh tế bởi
đó là những thứ nuôi dưỡng con người. Mọi thứ hiện lên thật trong sáng, hình ảnh
con nhện – mạng nhện cũng vậy.
Thế nhưng đó cũng chỉ là suy nghĩ của mỗi con người lúc nhỏ, bởi khi lớn
lên, sống trong cuộc đời với những mưu mô, lừa lọc. Bản thân con người cũng có
sự nghi ngờ và đề phòng. Bởi thế:
“Nhưng đời tôi phải chăng đã gặp những lừa lọc
Nên tôi sợ và tôi nghi ngờ
Rằng ý nghĩa tôi sẽ mắc vào tơ nhện”
(Ám ảnh)
Những vòng vây của tơ nhện hay cũng chính là mảnh lưới mà con người sa vào, ở
đó có những mưu mô, thủ đoạn mà chẳng ai biết trước.
“Nó sẽ ăn ngon lành
Như kẻ ăn mày ăn lát bánh mỳ phết bơ béo ngậy
Vừa ăn nó vừa gãi những cái chân dài lên từng sợi tơ mảnh”
(Ám ảnh)



Và chính những điều đó cũng chính là nỗi ám ảnh mà nhà thơ đã từng chiêm
nghiệm, từng trải về cuộc đời. Có thể thấy ở đây, trong đoạn đầu tác giả nói về lưới
nhện như tấm lưới chứa những lừa lọc nhưng khi đến đoạn cuối
Sự nghi ngờ đã lây lan, sự căm thù đã lây lan
Nhưng mãi mãi tấm mạng nhện kia không có mưu mô độc ác gì
Mỏng như hơi thở của con tôi phả vào mặt kính”
(Ám ảnh)
Phải chăng khi sống với những cạm bẫy, dối lừa, con người thường không
tin tưởng mọi thứ trong cuộc sống kể cả mạng nhện - hình tượng được nhà thơ đề
cập đến trong bài thơ này.
2.8 Đêm mất điện (Cánh buồm)
Mất điện chính là trạng thái tăm tối, mịt mù khi mà ánh sáng từ điện đã
không còn soi sáng mà thay vào đó là màn đêm bao phủ. Mất điện là một trong
những hiện tượng thường gặp ở các nước nông nghiệp trong quá trình hiện đại hóa.
Nó là hiện thân của quá trình giao thời của một một xã hội. Chính hình ảnh đêm
mất điện đã giúp ông tái hiện được bức tranh tăm tối, suồng sã của thị xã. Đồng
thời, hình ảnh này là nỗi niềm về sự bất an, nó triệt để đến mức trong một ngày
thành phố mất điện mà mọi sinh hoạt trở nên ngừng trệ. Sự bất an toát ra từ một
đời sống tinh thần nghèo nàn, buồn tẻ, thiếu thốn:
“Thị xã hỡi, đêm mất điện
Bóng tối đổ xuống như tóc người đàn bà góa bụa
Trong bóng tối
Mặt người nhòa vào mặt cây


Nhòa vào mặt con mèo
Nhòa vào mặt bàn, mặt ghế
Bóng tối miên man xóa đi tất cả.”
(Cánh buồm)

Cứ ngỡ rằng thị xã hiện đại, thị xã văn minh nhưng đằng sau đó là một thế
giới mờ nhòa. Từ sự cố mất điện mà con người không thể nhận diện được chính
mình bởi bóng tối đã phủ kín tất cả. Việc sử dụng điệp từ “nhòa” càng nhấn mạnh
thêm sự mờ ảo của cảnh vật, tâm trạng của ông khi hòa lẫn với thiên nhiên. Đó là
nỗi buồn đau đáu của tác giả trước sự thiếu thốn mà không thể làm gì được.
2.9 Rượu rắn (Trong quán rượu rắn)
“Rắn không chỉ là loài động vật sống trên khắp thế giới, nó còn là biểu
tượng cho nước, lửa, linh hồn, nhục dục, quyết đoán, đa nghi, rắn còn Rắn biểu
trưng cho cả giới tính nam và nữ, là một vị thần sáng thế, biểu trưng cho vũ trụ thời
hỗn mang”7. Xuất phát từ chính đặc tính của loài rắn, nét đặc trưng sinh học của
loài rắn đã góp phần quyết định ý nghĩa biểu tượng của nó cụ thể là cách di chuyển
uyển chuyển và sự siết chặt trong động tác bắt mồi khiến nó biểu trưng cho sức
mạnh, sự lột da biểu trưng cho sự tái sinh, nọc độc của rắn có thể giết chết
người nên được liên hệ đến đặc tính xấu và sự độc ác, tính lưỡng giới tượng trưng
cho khởi nguồn của vũ trụ, thân hình rắn là một đường ngoằn ngoèo không đầu
không đuôi kéo dài vô tận hoặc là một đường tròn thể hiện tính luân hồi của sống
và chết. Rắn là hình tượng khá quen thuộc trong đời sống văn hóa người Việt Nam
và điều đáng chú ý trong hình tượng rắn của người Việt Nam là xuất hiện rất đa
dạng với những biến thể khác nhau, như rắn, trăn, chằn tinh, giao long, thuồng
7 Jean

Chevalier - Alain Gheerbrant (1997), Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới,
Nxb Đà Nẵng.


luồng, thậm chí là rồng. Ở mỗi một hình thức thể hiện của rắn, hoặc với mỗi một
biến thể, hình tượng rắn đều mang những ý nghĩa nhất định. Rắn là mẫu gốc quan
trọng nhất của tâm hồn con người.
Rượu rắn hay rượu từ các loài bò sát vốn là một hình ảnh quen thuộc ccura
văn hóa Việt. Lạ là những thứ có độc lại được người Việt đem đi ngâm rượu. Hình

ảnh nọc độc của rắn có liên hệ đến thứ gì đó xấu xa. Tuy nhiên, nọc rắn trong thơ
Nguyễn Quang Thiều là hình ảnh rất khác lạ, không là xấu, cũng chẳng thiện lương
nhưng là hình ảnh của sự hồi tưởng, của những say sưa về quá khứ, “không uống
rượu mà uống từng kí ức”. Hình ảnh nọc rắn ấy được miêu tả rất mới lạ, là “từng
tia phun chói trong bình”, những bình rượu mang “linh hồn” của rắn làm say bao
kẻ trong những “đêm vĩ đại”.
“Nọc độc từng tia phun chói trong bình
Người không uống rượu mà uống từng ký ức
Mạch máu căng lên những vệt rắn bò
Đêm vĩ đại chôn vùi trong quán nhỏ
Rừng mang mang gọi từng khúc thu vàng
Rượu câm lặng chở những linh hồn rắn
Có một kẻ say hát lên bằng nọc độc trong mình.”
(Trong quán rượu rắn)
2.10 Những người đàn bà vác dậm (Trên đại lộ)
Trong suốt chiều dài 4000 năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, người
phụ nữ đã đóng góp thầm lặng của họ đã đúc kết nên những giá trị đạo đức truyền
thống: anh hùng, đảm đang, yêu nước, nhân ái, thủy chung, nghĩa tình, giàu đức hy
sinh. Hình ảnh người phụ nữ từ lâu đã trở thành đề tài muôn thuở của thi ca, nhạc,


hoạ. Nét đẹp đằm thắm, duyên dáng, đáng yêu của họ đã làm cho bao văn nhân,
nghệ sĩ phải rung động trái tim yêu để rồi sáng tạo nên những áng thơ văn bất hủ ca
ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ dân tộc. Từ khi nền văn học viết ra đời, thì bóng
dáng người phụ nữ trở thành đề tài lớn được tập trung khắc họa ở nhiều khía cạnh,
phương diện gắn liến với quá trình đi lên và phát triển của văn học.
Người phụ nữ và hình tượng người phụ nữ nổi bật lên với hai đặc điểm cơ
bản: Hoặc là người phụ nữ - hiện thân của cái đẹp, hoặc là người phụ nữ - hiện
thân của số phận bi thương. Văn học Việt Nam hầu hết xoáy vào thân phận phận
của người phụ nữ, những biến cố của họ trước dòng đời. Hình tượng người đàn bà

hiện lên qua ngòi bút thơ Nguyễn Quang Thiều trong bài thơ Trên đại lộ không đẹp
đẽ mà lầm lũi đi về trong đêm có khi tưởng chừng như những bóng ma:
“Những người đàn bà vác dậm đi thành một hàng dọc về phía bên
phải sát mép đại lộ
Người họ bọc kín bởi những lớp vải nâu và đen
Chỉ đôi tay, đôi chân và đôi mắt lộ ra
Nhưng tất cả cũng một màu như thế
Những chiếc dậm đan bằng tre trên vai họ như vầng trăng khuyết vớt
từ bùn lên
Những cái giỏ bên hông như những cái đầu trọc lắc lư theo nhịp bước
Bóng họ đổ xuống đường thành những vũng đen”
(Trên đại lộ)


CHƯƠNG III: CÁC GIÁ TRỊ HIỆN SINH, TƯỢNG TRƯNG QUA CÁC
YẾU TỐ, HÌNH TƯỢNG VĂN HÓA TRONG TẬP THƠ SỰ MẤT NGỦ CỦA
LỬA
Những hình tượng văn hóa Việt vốn đã được đóng đinh trong mỗi người các
ý nghĩa và giá trị được định hình từ lâu đời. Tuy nhiên, trong thơ Nguyễn Quang
Thiều, các hình tượng này được xây đắp lại bởi các giá trị hiện sinh và chủ nghĩa
tượng trưng, điều mà vốn chỉ dùng các “yếu tố phương Tây” hoặc các sự vật hiện
đại mới nói lên được. Có thể nói rằng ông là một khối hoài nghi lớn của những giá
trị truyền thống.
3.1 Chuỗi hành trình tìm kiếm cội nguồn - tìm lại bản thể
Một trong những câu hỏi lớn của triết học có lẽ là “Tôi là ai?”. Chưa bao giờ
và sẽ chẳng bao giờ con người có thể ngừng việc tìm kiếm bản thân mình. Cấu tạo
não đặc biệt hơn các loài khác làm cho con người suy nghĩ nhiều hơn và đau khổ
nhiều hơn. Cơn đau kinh khủng nhất có lẽ lẽ khi con người ý thức được rằng họ là
những sinh vật không có “nhà”, không có nơi thuộc về.
Xô – nat hoàng hôn trên biển là khúc ca của những kẻ không quê hương trên

mặt đất, là khúc ca của “những kẻ lưu lạc” đau đáu tìm một vùng đất để được cất
tiếng gọi: cố hương. Lời thơ vừa là lời giục giã, cũng vừa là than khóc đau đớn,
giục giã để ngày mau tắt, và khóc cho những nỗi đau phải đánh đổi:
“Lăn nhanh, lăn nhanh
Chỉ còn một vòng nữa thôi”
“Lăn nhanh, lăn nhanh
Chỉ còn nửa vòng nữa thôi”
“Chỉ còn một vòng nữa thôi


Mặt trời sẽ chạm vào biển
Đó là lúc lòng ta đau đớn nhất
Đó là lúc ta không sao chịu nổi
Lúc có một bài ca lưu lạc trở về”
(Xô – nat hoàng hôn trên biển)
Nhà thơ tin rằng cá chính là tổ tiên của mình, và biển cả rộng lớn chính là
nhà. Những con người đã chết, bỏ mạng nơi đáy biển, họ không một chút hối hận
vì họ trở về nhà. Cá chính là bản thể của nhân loại. Những con cá bơi tự do trong
nước và gọi thiên nhiên bằng tiếng nói của mình. Nếu các triết gia hiện sinh vẫn
chưa trả lời được câu hỏi “Tôi là ai?” thì lúc này, Nguyễn Quang Thiều đã trả lời
được câu hỏi này, cho bản thân ông.
Ở một bài thơ khác trong tập thơ Sự mất ngủ của lửa, bài thơ Chuyển động,
cũng là khúc ca của những kẻ tìm kiếm quê hương. Bài thơ là sự kể lại chuyển
hành trình của bầy ốc sên trong một đêm trăng. “Như một thành phố vùi trong lòng
đất tự xa xưa giờ thức dậy”, cái hiện thực không xa lạ ở làng quê Việt Nam những
năm 70, 80 thế kỷ trước. Trong cuộc hành trình ấy, ốc sên đi qua rất nhiều nơi, gặp
rất nhiều thứ: “Ốc sên bò qua giấc ngủ của cỏ và của những chiếc lá vàng rụng trên
mặt đất. Chúng miết những tấm thân mềm qua những mảnh chai vỡ sắc lạnh. Cuộc
ra đi ấy là đi tìm hạnh phúc hay chứa đựng đẫy rẫy những nguy hiểm, đau khổ
đang chờ đón bầy ốc sên. “Ngôn ngữ bí ẩn nào đang hạnh phúc hay đau khổ gọi

bầy sên”
Và người ta nói rằng, đó là một ám ảnh về cuộc đời, con người cái mà chúng
ta đi tìm trong cuộc đời này, ấy là cố hương – là nơi ta dừng chân trước những mỏi
mệt của cuộc đời. Có thể nơi chúng ta đang sống không phải là cố hương của ta, có
thể là ở một nơi khác rất gần hay rất xa, nhưng chúng vẫn cứ đi, về nơi mà chúng


sẽ thuộc về, hoặc có thể là sẽ chẳng có nơi nào cả: “Khu vườn này là quê hương
chúng, hay là khu vườn bên, hay còn… xa nữa”. Và có lẽ mục đích của cuộc sống
không phải là một lý tưởng cao đẹp nào cả mà chỉ là sống, và mục đích của những
chuyến đi chỉ là đi (dầu cho không có bất kì một đích đến nào).
3.2 Nỗi đau thân phận
Sống là mang trên mình muôn vàn nỗi đau của thân phận. Làm sao ta được
biết ta được sinh ra trong một cơ thể như thế nào, ở một nền văn hóa như thế nào?
Làm sao ta được lựa chọn bố, lựa chọn mẹ cho ta? Và quan trọng nhất, là làm sao,
ta được sống theo đúng ý mình?
John Baca trong bài thơ Cơn mê chính là một người lính Mỹ trong cuộc
chiến tranh ở Việt Nam:
“John Baca đã bóp cò hai mươi năm về trước
Đạn vẫn bay đến bây giờ”
(Cơn mê)
John Baca không được lựa chọn số mệnh cho mình, anh phải cầm súng chĩa
vào người khác, giết họ. Đồng thời giết chết chính mình. Rõ ràng là nỗi đau, nỗi
ám ảnh ấy quá lâu, quá dai dẳng, nhưng anh không có cách nào để kết thúc nó
được. Chiến tranh, dẫu chính nghĩa hay phi nghĩa, bên thắng cuộc cũng như bên
thua cuộc, đều thua bởi chiến tranh, đều trả giá bằng những nỗi đau, hi sinh và mất
mát.
“Những viên đạn – bầy chuột cống trụi lông
Chạy rúc vào những ngôi nhà lá dừa
Cắn tung những tấm lưới phơi trên bãi”

(Cơn mê)
“John Baca sằng sặc
Bóp trong tay những con chuột răng vàng ám khói
Những con chuột trụi long trơn tuột
Trườn qua kẽ tay run rẩy của anh
John Baca tắt lặng”
(Cơn mê)


Và hình ảnh con chó liếm mãi viết thương của anh ở cuối bài như một sự an
ủi, một cử chỉ xoa dịu chân thành của nhà thơ để làm dịu bớt nỗi đau của những
người lính, nạn nhân nghiêm trọng nhất của chiến tranh.
3.3 Tình yêu là gì, nó có phải là ảo tưởng của con người?
Câu trả lời của tâm lý học ứng dụng ắt hẳn sẽ khiến rất nhiều người thất
vọng. Các nhà nghiên cứu cho rằng, các chất hóa học thần kinh chính là nguyên
nhân gây nên cảm xúc của chúng ta. Còn tình yêu nó được điều khiển bởi nội tiết
tố Oxytocin8. Tác dụng của nó giống với nha phiến: nó vừa kích động, vừa làm
ngây ngất, lại vừa an thần như thế nào đó. Oxytocin còn được tôn vinh như là “nội
tiết tố chung thủy” hay nội “tiết tố gắn bó”.
Nguyễn Quang Thiều không phải là một nhà tâm lý học, câu trả lời của ông
văn chương và hình tượng hơn: chiếc nhẫn. Chiếc nhẫn tước mất tình yêu khỏi hai
cá thể đang say đắm, khoác lên đó là vòng buộc của trách nhiệm và nghĩa vụ.
“Gần hai mươi năm chân tóc buốc từng giờ
Ta vật vã trong vòng lăn chiếc nhẫn vàng hàng xén”
(Chiếc nhẫn)
Ta có thể sử dụng câu trả lời của tâm lý học ứng dụng để bước chân vào con
đường hiện sinh. Vì tình yêu chỉ là sự điều khiển của một loại hoocmon và con
người vốn là hai bản thể độc lập, nên sẽ chẳng bao giờ có thể hiểu nổi nhau, dù họ
cùng một giống loài. Và chính vì thế, khi tình yêu tắt trong cuộc sống hôn nhân, nó
sẽ không khác gì ngoài những cơn dày vò của trách nhiệm, của vai trò người

chồng, người vợ, người bố, người mẹ. Không quá khó hiểu khi nhân vật Ta thấy vợ
mình đôi lúc thật là xa lạ:
“Ta chối bỏ gương mặt em kinh hãi
Khoảng tối thần sau cửa bếp khuất dâng”
(Chiếc nhẫn)
“Chiếc nhẫn vàng hàng xén ơi đổ xuống nơi nào
Ta thương tật đi tìm em ngoài vòng ánh sáng”
(Chiếc nhẫn)
8 Richard David Precht (2015), Tôi là ai, nếu vậy thì bao nhiêu?, NXB Dân Trí, tr. 415


3.4 Cảm giác lạc loài, xa lạ, cô đơn giữa loài người
Một trong những đặc trưng của hiện sinh chính là sự cô đơn. Sự cô đơn cho
chúng ta thấy chúng ta đang ý thức về con người mình, ý thức rằng bản thân ta
không giống ai, và chỉ có mỗi mình ta. Hình ảnh bầy kiến của bài thơ Bầy kiến qua
bàn tiệc chính là những cảm xúc cô đơn của nhà thơ hóa thân thành. Bầy kiến y
như những kẻ xa lạ lạc lỏng trong thế giới của loài người, vì nó không thể hiểu nổi
thế giới của con người. Trong bài thơ, bầy kiến là đoàn khách đi lạc vào căn phòng
tổ chức tiệc của con người lúc này đã tàn cuộc.
“Chỉ còn trên bàn tiệc
Bát đĩa, cốc chén
Và những cái chai cạn khô
Cùng cơn gió lốc quạt trần
Rền rĩ nỗi buồn đồ vật”
(Bầy kiến qua bàn tiệc)
Tiệc là những cuộc vui do con người bày ra để thỏa mãn nhu cầu “được vui”
của mình. Kết thúc bữa tiệc là những đống thức ăn thừa mứa, những cơn mây mưa
mất ý thức dưới sự dẫn dắt của cồn. Cuộc vui kết thúc. Nhu cầu tìm vui chỉ thỏa
mãn vài giây phút ngắn ngủi của cuộc đời con người. Cho nên cuộc vui chỉ là
những sự vô nghĩa, hời hợt. Tiếp đó, những cuộc vui khác sẽ nối nhau ra đời. Cuộc

đời con người sẽ chẳng khác gì chuỗi nối tiếp của các bữa tiệc, hội hè. Và con
người là chỉ là giống loài nô lệ của những ham muốn. Bầy kiến đã nhìn loài người
với cảm nhận buồn tẻ, đáng thương cũng như nhà thơ không thể tìm được tiếng nói
chung của bản thân với giống loài.
Một hình ảnh khác từ văn hóa mang lại giá trị hiện sinh trong sáng tác của
Nguyễn Quang thiều chính là hình tượng những người đàn bà vác dậm trong bài
thơ Trên đại lộ. Hình tượng những người đàn bà hiện lên qua ngòi bút thơ Nguyễn
Quang Thiều không đẹp đẽ mà lầm lũi đi về trong đêm có khi tưởng chừng như
những bóng ma:


“Những người đàn bà vác dậm đi thành một hàng dọc về phía bên
phải sát mép đại lộ
Người họ bọc kín bởi những lớp vải nâu và đen
Chỉ đôi tay, đôi chân và đôi mắt lộ ra
Nhưng tất cả cũng một màu như thế
Những chiếc dậm đan bằng tre trên vai họ như vầng trăng khuyết vớt
từ bùn lên
Những cái giỏ bên hông như những cái đầu trọc lắc lư theo nhịp bước
Bóng họ đổ xuống đường thành những vũng đen”
(Trên đại lộ)
Họ là những người đàn bà vác dậm như những bóng người “lặng lẽ đi như
đội quân thất trận” sau những giờ kiếm ăn đầy mệt mỏi. Không ai biết họ là ai, đến
từ đâu, đi về đâu trong đêm đen. Những con người “một màu” đi vào đêm cho ta
góc nhìn về một phần của cuộc sống hiện tại, những con người vẫn lam lũ từng
ngày, vất vả và cơ cực. Bức tranh trong thơ Nguyễn Quang Thiều lúc đậm lúc nhạt,
khi rõ nét khi nhòe mờ được khắc tạc trong bóng tối sau mỗi ngày chỉ vừa đủ hình
dung và kích thích trí tưởng tượng phong phú của chúng ta:
“Họ lặng lẽ đi như đội quân thất trận
Cán dậm chúi xuống mặt đường - Những nòng súng gỗ hết đạn

Những tấm áo rách sặc mùi bùn phơi trong lòng dậm như cờ ngày
việc làng giã đám
Vảy cá bám trên áo họ lấp lánh những tấm huân chương


×