Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

NGUYỄN HUY THIỆP NHÀ VĂN CỦA KHUYNH HƯỚNG TRUYỆN NGẮN MỞ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.37 KB, 32 trang )


Thuấn, con trưởng họ Nguyễn. Trong làng, họ Nguyễn là họ lớn, số lượng trai đinh
có lẽ chỉ thua họ Vũ. Ông nội tôi trước kia học Nho, sau về dạy học. Ông nội tôi có
hai vợ. Bà cả sinh được cha tôi ít ngày thì mất, vì vậy ông nội tôi phải tục huyền.
Bà hai làm nghề nhuộm vải…” (Tướng về hưu). Chỉ bằng một vài câu văn mở đầu
với cấu trúc đơn giản (chủ yếu là câu đơn), tác giả đã làm hiện lên hết tất cả nhân
vật có mặt trong truyện, người đọc sẽ dễ dàng bao quát hết nhân vật khi ngay từ
khi bắt đầu tiếp cận tác phẩm, chứ không cần phải đọc hết tác phẩm mới nắm được.
Nếu như cách mở đầu của truyện ngắn càng đơn giản, ngắn gọn thì cách kết
thúc của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp luôn là kết thúc mở. Đặc biệt, ở nhiều
truyện, nhà văn tạo dựng nhiều giả thuyết khác nhau cho đoạn kết câu chuyện.
Điều này thể hiện rõ nét tính khách quan trong phong cách Nguyễn Huy Thiệp. Tác
giả cho phép người đọc tự do chọn lựa một kết cục phù hợp chứ không áp đặt. Kết
thúc mở được Nguyễn Huy Thiệp sử dụng nhiều trong nhóm truyện đề tài lịch sử.
Điển hình như trong Kiếm sắc, nhân vật Lân đã bị Nguyễn Phúc Ánh xử chém
bằng thanh kiếm thần. Tuy nhiên, tác giả lại “chua” thêm một đoạn, kể về giai
thoại Con gái thủy thần Đặng Phú Lân và Ngô Thị Vinh Hoa trốn vua Gia Long lên
Đà Bắc, giờ vẫn còn con cháu sống trên vùng ấy. Riêng trong truyện ngắn Vàng
lửa, Nguyễn Huy Thiệp đã tạo ra 3 đoạn kết khác nhau cho câu chuyện. Đoạn kết
1: nhân vật Phăng bị vua Gia Long đầu độc chết. Đoạn kết 2: Nhân vật Phăng được
vua Gia Long cho hồi hương về Pháp và sống đến già trong vinh hoa phú quý.
Đoạn kết 3: tác giả không nhắc đến nhân vật Phăng, chỉ cho là Gia Long không
muốn người đời biết được mối quan hệ của nhà vua với người châu Âu. Mỗi đoạn
văn lại đưa ra cách lí giải riêng về số phận nhân vật: “Tôi hiến bạn đọc ba đoạn
kết cho câu chuyện này để bạn đọc tùy ý lựa chọn”. Trong nhiều truyện khác, tác
giả cũng có cách kết thúc mở tương tự. Để tạo ra kết thúc mở, Nguyễn Huy Thiệp
thường dùng những yếu tố mang tính hư cấu, mang đậm chất huyền thoại hoặc
những lời đồn không đáng tin cậy. Ta có thể bắt gặp điều này trong các truyện:
Chảy đi sông ơi, Vàng lửa, Kiếm sắc, Phẩm tiết… Nguyễn Huy Thiệp đã “khước từ
cách áp đặt chân lí cho người khác, đồng thời thể hiện một cái nhìn triết học sâu
sắc trước dòng chảy phức tạp đầy ngã rẽ bất ngờ của đời sống” 10. Quyền phán xét,


nhìn nhận tác phẩm giao lại cho người đọc. Câu chuyện mở ra những khả năng để
người đọc suy ngẫm, mỗi người sẽ có thể suy ngẫm theo những chiều hướng khác
như chính cuộc đời vốn “đa sự và không ít những ngẫu nhiên”
10 Nguyễn Văn Long (chủ biên), giáo trình văn học Việt Nam hiện đại (tập 2), nxb, tr. 202

13


Bên cạnh việc lựa chọn cách kết thúc mở để tạo nên các nhìn khách quan
cho các vấn đề, nhất là trong các truyện về đề tài lịch sử. Một nét nổi bật nữa, góp
phần làm nên khuynh hướng “mở” trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp đó là
nhà văn thường dùng hình thức liên hoàn hoặc truyện trong truyện. Trong truyện
Những ngọn gió Hua Tát gồm mười truyện. Khung cảnh các câu chuyện thường
mở đầu là “Ngày ấy ở Hua Tát…”, tiếp theo là “Có một cô gái…”, “Có một người
đàn bà...”. Ở truyện Trái tim hổ xuất hiện nhân vật chàng Khó, sau đó trong truyện
Nàng Sinh lại hiện lên hình ảnh miếu chàng Khó. Chút thoáng Xuân Hương gồm
ba truyện, có quá khứ, có hiện tại, được tác giả ghép bên nhau lần lượt là Truyện
thứ nhất, Truyện thứ hai, Truyện thứ ba.
2.1.2. Cốt truyện
Trong quá trình viết Nguyễn Huy Thiệp ý thức sâu sắc và nghiêm túc về
công việc của mình ông nói “Trong quan niệm sáng tác của tôi, một mặt tôi vẫn coi
truyện ngắn như tác phẩm (viết với ý thức cổ điển) nhưng một mặt khác tôi vẫn chỉ
coi nó như là bài tập văn chương vừa thôi. Hai điều này vừa mâu thuẫn và không
mâu thuẫn” . Trong truyện ngắn của ông xuất hiện các cốt truyện sau:
2.1.2.1. Cốt truyện truyền thống
Những truyện được xây dựng theo mô hình truyền thống chiếm vị trí khá
quan trọng trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, ông là người muốn bứt phá ra
khỏi cái trật tự cũ thông thường, tác phẩm của ông thường chứa đựng tinh thần
nhân sinh cao cả như Những ngọn gió Hua Tát, Phẩm tiết, Kiếm sắc,…Cốt truyện
chính trong các truyện ngắn này là sự khắc họa nhân vật và tái hiện các xung đột

xã hội. Ông luôn có ý thức phải làm mới cốt truyện để có thể bộc lộ một cách hiệu
quả nhất quan niệm về cuộc sống, con người và điều cốt yếu là lôi cuốn, thu hút
người đọc. Trong các truyện ngắn của ông có cốt truyện hết sức năng động - ở việc
sử dụng các thành phần của cốt truyện cũng như kết cấu truyện. Trong Những
ngọn gió Hua Tát, ta thấy dù sử dụng mô hình và chất liệu dân gian nhưng yếu tố
phá phách và năng động trong con người ông luôn được bộc lộ rõ nét, mười câu
chuyện nhỏ thành một câu chuyện lớn. Cốt truyện của ông thường được xây dựng
trên cơ sở các hành động, ông miêu tả hành động của các nhân vật trong cốt truyện
rất cầu kì, chi tiết nhưng môi trường và hoàn cảnh nhân vật cũng như hành động

14


được xây dựng rất phù hợp nhằm góp phần nổi bật ý nghĩa tư tưởng của câu
chuyện.
Truyện ngắn Như những ngọn gió tất cả các nhân vật và sự kiện được bao
bọc trong cái vỏ cổ tích và huyền thoại, xây dựng các nhân vật dựa trên mô típ cổ
tích điển hình có yếu tố hoang đường tham gia trực tiếp vào số phận nhân vật
chính. Kết thúc mỗi truyện trong truyện ngắn của ông đều có hậu và không có hậu.
Khi đọc truyện chúng ta sẽ thấy mở đầu truyện ngắn của ông thường theo
mô hình truyền thống. Chẳng hạn như trong truyện Phẩm tiết: Ngô Thị Vinh Hoa là
con thứ mười của Ngô Khải. Khải là hậu duệ của Chương Khánh Công Ngô Từ,
ngưởi đã sinh ra bà Ngô Thị Ngọc Dao, mẹ vua Lê Thánh Tông. Ngô Khải là bậc
đại phú, nhà gần chùa Tiên Tích, chuyên buôn hàng tơ lụa. Nhà Khải kho đụn
không khác gì phủ Chúa, đầy tớ vài trăm người. Khải giao du rộng, chơi với toàn
người sang. Con gái họ Ngô đẹp nổi tiếng Kẻ Chợ, đời này qua đời khác nhiều
người được tuyển vào cung. Khải có bảy người con gái thì sáu người đều là thiếp
yêu ở phủ Chúa. Vinh Hoa là con gái út. Khải rất yêu chiều. Khi đẻ ra Vinh Hoa,
trên nóc nhà bỗng có đám mây ngũ sắc bay đến, tỏa ra ánh sáng rực rỡ, khắp nơi
hương thơm ngào ngạt. Trên cổ Vinh Hoa có bảy tràng hoa quấn cổ, xòe lòng tay ra

thấy có viên ngọc...ở trong, trên khắc hai chữ “thiên mệnh”. Có lẽ Nguyễn Huy
Thiệp rất ưa chuộng cách mở đầu truyện như thế này . Trong sự kiện thì có các
biến cố thường thì tác giả xây dựng trên cơ sở của mối quan hệ nhân quả, diễn biến
của câu chuyện thường vận động đơn tuyến và theo một trật tự thời gian nhất định.
Trong Huyền thoại phố phường khi bắt đầu tiến hành hành động vô liêm sỉ nhân
vật Hạnh đã “tấn công” bà Thiều để đoạt được tấm vé số, y phải trải qua những
ngày sống kham khổ, tủi nhục của kiếp công chức nghèo, đồng thời lại phải chứng
kiến cảnh sống xa hoa, lãng phí của kẻ giàu có, hắn định nịnh và tin tưởng vào
phép màu thần linh yểm trợ cho tấm vé số của bà Thiều và hắn đã trải qua một quá
trình vận lộn căng thẳng, đấu trí quyết liệt để tính toán cho mình thoát kiếp nghèo
cơ cực….Điều đó cho thấy, Nguyễn Huy Thiệp là một người có tài năng, sự sáng
tạo nghệ thuật đa dạng phong phú trong các tác phẩm của ông.
2.1.2.2. Truyện không có cốt truyện
Khái niệm truyện không có cốt truyện chỉ mang tính ước lệ và quy ước cao,
nó đánh dấu sự cách tân nghệ thuật của các nhà văn hiện đại. Truyện không có cốt
15


truyện trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp là ẩn chứa những mẫu truyện tâm
lí và truyện đời thường.
Truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp tạo thành một dòng chảy vô cùng mạnh
mẽ như Tướng về hưu, Không có vua, Con gái thủy thần,… Đọc những truyện này
sẽ thấy được những cuộc sống đời thường, ở đó cũng gặp cảnh hạnh phúc, đau khổ
được tái hiện rất sinh động và lạ thường. Truyện ngắn Chảy đi sông ơi là một dòng
thác của cuộc đời người dân sống quanh bến Cốc nổi, tâm điểm là huyền thoại về
con trâu đen trên bãi sông này với những lời đồn đại “Nó thường xuất hiện vào lúc
nửa đêm. Nó ở dưới đáy lòng sông lao lên mặt nước. Toàn thân bóng nhẫy, đôi
sừng cao vút, mõm thở phì phì, con trâu phi trên mặt nước như phi trên cạn. Con
trâu phì bọt, nước dãi của nó tựa như trứng cá. Nếu ai may mắn hớp được bọt ấy
sẽ có sức lực phi thường, bơi lặn dưới nước giỏi như tôm cá”. Cả câu là những câu

chuyện mảnh vụn của những kiếp người phù du, đó là câu chuyện về cuộc đời của
những ngư dân như lão Tảo, lão trùm Thịnh, chị Thắm,…Đó là mảnh đời đau xót
trong quá trình đi tìm con trâu đen của “tôi”. Trong truyện này không thấy những
biến cố lớn, không có xung đột đỉnh điểm mà chỉ có bi kịch dẫn đến cái chết của
các nhân vật như sự trôi chảy của dòng đời.
Với truyện ngắn Không có vua thì ta thấy được cốt truyện phân mảnh với
bảy câu chuyện nhỏ: Gia cảnh, Buổi sáng, Ngày giỗ, Buổi chiều, Ngày tết, Buổi
tối, Ngày thường. Nội dung câu chuyện xoay quanh việc Sinh về làm dâu nhà lão
Kiền, chuyện Cấn lo kiếm tiền, chuyện Khiếm ăn cắp thịt bò, chuyện cãi nhau,…
2.1.2.3. Cốt truyện huyền ảo
Cốt truyện kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Huy thiệp xuất hiện ở nhiều dạng
thức khác nhau. Đó là nhân vật kỳ ảo Ngô Thị Vinh Hoa trong Phẩm tiết, nhân vật
Mẹ Cả trong Con gái thủy thần, thanh kiếm báu trong Kiếm sắc,…Các yếu tố kì ảo
tham gia vào cốt truyện ở nhiều mức độ đậm nhạt khác nhau tùy theo dụng ý nghệ
thuật của tác giả.
Mở đầu truyện Chảy đi sông ơi là hồi ức kỉ niệm thời ấu thơ của nhân vật
khi sống trên vùng đất ven sông bến Cốc “Nước lờ lững trôi, giữa tim dòng sông
rạch một mũi sóng dập dồn, ở đầu mũi sóng có một điểm đen tựa như mũi giáo.
Bến đò tĩnh lặng rất ít người qua lại. Mùa đông có cả những con sáo lông đen
chân vàng đậu trên sợi thép níu đò căng từ gốc gạo sang phía kia sông. Chúng
16


nghiêng nghiêng đầu xuống dòng nước chảy tha thiết líu ra líu ríu”. Ở trong
truyện này, Nguyễn Huy thiệp sử dụng yếu tố kì ảo ở đầu truyện nhằm chi phối
mạch truyện, hai chi tiết sau đóng vai trò tạo cảm giác thẩm mỹ cho người đọc.
Nguyễn Huy Thiệp sử dụng rất nhiều yếu tố kì ảo vào trong truyện ngắn của mình
nhằm thôi miên bạn đọc cũng như đối với người viết.
Như vậy, việc sử dụng đan xen giữa hai yếu tố thực và ảo đã đem lại sức hấp
dẫn lạ thường trong truyện ngắn Nguyễn Huy thiệp. Đặc biệt, yếu tố kì ảo được tác

sử dụng như những mật mã đầy bí ẩn tạo chất xúc tác có tác dụng “gây mê” dẫn
người đọc bước vào thế giới nội tâm, cuộc sống bộn bề lo toan của các nhân vật.
Có thể nói Nguyễn Huy Thiệp dùng huyền thoại để giải hóa huyền thoại, dùng cổ
tích để giải hóa cổ tích tạo nên phong cách độc đáo riêng biệt trong sáng tác của
ông. Ông cũng là người luôn khao khát đi tìm cái đẹp, cái thiện, đi tìm cái chân lí
của cuộc sống tạo nên một cuộc bứt phá lớn làm thay đổi diện mạo văn học Việt
Nam.
2.2. Người kể chuyện và điểm nhìn trần thuật
2.2.1. Người kể chuyện
Người kể chuyện trong các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp rất đa dạng
và phong phú, thường xuất hiện là ngôi kể thứ nhất và ngôi kể thứ ba. Cái “tôi”
trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp không đơn giản là ngôi kể. Cái tôi ấy chính
là cái tôi mang tính đối thoại: đối thoại với môi trường, đối thoại với xã hội, đối
thoại với truyền thống lịch sử, đối thoại với chính bản thân mình.
Bản thân hình tượng “tôi”- người kể chuyện đóng một vai trò rất đặc biệt.
“Tôi” vừa là người kể chuyện với các nhân vật khác, vừa là người nhận thức sự trở
lại của chính mình. Không chỉ đứng bên ngoài quan sát mà còn bộc lộ nội tâm tính
cách của mình qua quá trình là người dẫn chuyện hoặc mối quan hệ với các nhân
vật khác. Trong hai truyện Kiếm sắc và Phẩm tiết, người kể chuyện sau khi giới
thiệu hoàn cảnh trần thuật thì đóng vai trò là người kể chuyện từ điểm nhìn bên
ngoài trong câu chuyện tiếp theo sau đó. Tính cách và phẩm chất của nhân vật hiện
lên thông qua sự miêu tả khách quan về ngoại hình, hành động, lời nói trong mối
quan hệ của các nhân vật khác. Vai trò của người kể chuyện chỉ dừng lại ở việc dẫn
dắt phần chính của câu chuyện, còn lại anh ta xuất hiện dưới hình thức một người
kể chuyện hàm ẩn và điểm nhìn bên ngoài để trần thuật. Khác với “Vàng lửa” , “
17


tôi” không chỉ dẫn chuyện, anh ta còn trở thành người kể chuyện có điểm nhìn
phức hợp trong toàn bộ truyện, tuy cái nhìn của anh ta vẫn bao quát tác phẩm,

nhưng anh ta chia sẻ quyền kể lại cho nhân vật trong khi vẫn thể hiện vai trò của
người kể chuyện chính.
Trong hai tác phẩm Chảy đi sông ơi và Con gái thủy thần, nhân vật chính trong
truyện cũng đồng thời là người kể chuyện. Điểm chung của hai nhân vật này là tin
vào một huyền thoại và tìm mọi cách vươn tới cái huyền thoại đó bằng một đức tin
mãnh liệt, thậm chí cuồng tin như nhân vật Chương trong Con gái thủy thần. Ở đây
ta bắt gặp bóng dáng của những câu chuyện cổ tích xa xưa với những tình tiết li kì
hoàn ảo và nhân vật chàng Ngốc luôn theo đuổi những điều lạ lùng ngược đời.
Mặc dù mang hơi hướng của huyền thoại nhưng truyện của Nguyễn Huy Thiệp lại
mang tính chất hiện đại với một nội dung thế sự mang nhiều triết lí sâu xa. Chỉ có
điều hiện thực được khúc xạ qua ý thức của nhà văn lại được bao phủ bởi màn
sương của những yếu tố kì ảo, mơ hồ khiến cho những điều nhà văn muốn thể hiện
dường như bất định. Người đọc phải tự vén bức màn mờ ảo ấy ra để nhìn thấu
những triết lí, quan niệm về nhân sinh, đời sống ẩn chứa bên trong.
2.2.2. Điểm nhìn trần thuật
Trong nhiều tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, điểm nhìn trần thuật hết sức đa dạng
và liên tục dịch chuyển điểm nhìn. Ví dụ trong tác phẩm Vàng lửa, mở đầu và kết
thúc truyện cho thấy người dẫn chuyện không tham gia vào truyện mà chỉ đứng
bên ngoài để gây hiệu ứng cho truyện. Trong truyện người dẫn dắt truyện xưng
“tôi” và câu chuyện được kể qua lời của một người kể chuyện “vô hình” nào đó.
Các điểm nhìn trần thuật ở đây liên tục được gia tăng dịch chuyển. Câu chuyện
được hình dung qua hồi ức của Phăng và kết thúc bằng ba đoạn kết. Đoạn kết 1 là
nhân vật Phăng bị vua Gia Long đầu độc chết; đoạn kết 2: nhân vật Phăng bị vua
cho hồi hương về Pháp và sống đến già trong vinh hoa phú quý; đoạn kết 3: tác giả
không nhắc đến nhân vật Phăng mà chỉ cho là Gia Long không muốn người đời
biết được mối quan hệ của nhà vua với người châu Âu.
Tác giả đã tự tách mình ra khỏi câu chuyện và cho người đọc tự lựa chọn cái kết
theo cách hiểu của mỗi người. Lối trần thuật như vậy thường đem đến cho bạn đọc
cái nhìn đa chiều về tác phẩm với những khía cạnh khác nhau. Ngoài ra, điểm nhìn
trần thuật còn được biểu hiện qua sự dịch chuyển bất ngờ và liên tục, từ ngôi thứ

18


nhất sang ngôi thứ hai và ngôi thứ ba. Hình thức kể chuyện theo ngôi thứ nhất. Chủ
thể xưng “tôi” trong tác phẩm. Khác với hình thức tự sự ngôi thứ ba, chủ thể kể
chuyện trong trường hợp này được đặt vào trong các sự kiện, tình tiết và tâm thế
của người trong cuộc. Chủ thể kể chuyện được đặt bên ngoài câu chuyện, không
phán xét và bình luận mà để cho người đọc tự nhận xét. Trong Chảy đi sông ơi, chủ
thể kể giấu mình trong vai cậu bé mộng mơ với bao khát khao đầy huyển hoặc về
cái phi phàm, huyền thoại. Từ bỏ sách vở giáo điều, vượt lên nỗi sợ để kiếm tìm sự
thật, song các cậu nhận được ở đây là sự bịp bợm, lừa lọc. Huyền thoại là sự bịp
bợm trắng trợn, trong khi ăn cướp,ngoại tình, cờ bạc, trả giá...lại là hiện thực.
Ngoài ra, trong các tác phẩm truyện ngắn của mình tác giả còn tạo nên sự phối hợp
nhiều người kể, nhiều giọng kể với sự dịch chuyển đa chiều của điểm nhìn trần
thuật khiến câu chuyện được hiểu theo nhiều khía cạnh và chiều sâu khác nhau.
2.3. Thế giới nhân vật
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp rất phong phú. Nhân
vật trong các truyện ngắn xoay quanh nhân vật nhà quê và nhân vật phố phường.
Đây cũng là hai kiểu nhân vật hiện diện thường xuyên trong sáng tác ông. Người
nhà quê lam lũ, ít học, hồn nhiên, chất phác, giàu lòng yêu thương. Họ có lúc bình
thản, tự tin vì gốc gác của mình: “Mẹ tôi là nông dân, còn tôi sinh ở nông thôn”
(Những bài học nông thôn), “Tôi là Nhâm. Tôi sinh ở làng quê, lớn lên ở làng
quê”. Đa số họ sống trong không gian “khép kín” vì chưa từng bao giờ rời bỏ làng
quê. Đối với họ, “Ở đâu chẳng thế, chỗ nào cũng toàn là người”. Ngược lại, với
những người nhà quê thuộc về “không gian mở”, nhiều trải nghiệm như Phụng thì
“trong thiên hạ không phải chỉ có người đâu, có các thánh nhân, có yêu quái”
(Thương nhớ đồng quê). Đối diện với chất đô thị, người nhà quê nhiều tự ti, mặc
cảm, ngộ nhận (Thương nhớ đồng quê, Con gái thủy thần).
Nhân vật thành thị của Nguyễn Huy Thiệp có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với
thôn quê. Qua kiểu nhân vật nhà quê đô thị, anh cho thấy một Hà Nội trống rỗng,

dung tục, đạo đức giả. Nguyễn Huy Thiệp không tìm kiếm mẫu hình lí tưởng trong
giới trí thức tinh hoa đô thị. Với ông, ở đấy không có hi vọng. Nhân vật phố
phường trong truyện của ông hầu hết chỉ là thị dân, công chức hoặc trí thức bậc
thấp. Họ không có ước mơ, thiếu hẳn niềm tin huyền thoại. Với nhân vật nông thôn
thì khác. Họ nhiều ước mơ, lắm khát khao, nhiều mộng mị, ảo tưởng. Tuy nhiên,
nhà văn không cưu mang chất quê mùa, mộc mạc, dân dã.
19


2.4. Ngôn ngữ và giọng điệu.
2.4.1. Ngôn ngữ
Tác phẩm văn học là bức tranh hiện thực đa dạng và phong phú về cuộc sống do
các nhà văn vẽ nên thông qua chất liệu ngôn từ. Ngôn từ là chất liệu, là vỏ bọc vật
chất của tác phẩm văn học qua đó chứa đựng nội dung mà tác giả muốn thể hiện.
Qua quá trình sáng tạo của mỗi nhà văn, chất liệu ngôn ngữ chung đó lại trở thành
hệ thống ngôn từ riêng, độc đáo của mỗi người. Khi tìm hiểu, đánh giá một hiện
tượng văn học nào đó, chúng ta không thể không phân tích yếu tố ngôn từ nghệ
thuật. Mỗi nhà văn đều có sở trường sử dụng ngôn từ khác nhau. Vì vậy ngôn từ là
một trong những yếu tố quan trọng thể hiện cá tính sáng tạo, tài năng và phong
cách của nhà văn. Để phản ánh hiện thực muôn màu muôn vẻ của đời sống, nhà
văn phải có vốn từ vựng phong phú, khả năng biến hóa từ vựng sẵn có thành những
hiện tượng đa nghĩa, mới mẻ, đầy sáng tạo. Muốn được như thế, nhà văn phải
không ngừng học hỏi, trau dồi ngôn ngữ của bản thân. Mỗi nhà văn lớn là tấm
gương sáng về sự hiểu biết sâu sắc ngôn ngữ và luôn có ý thức trau dồi ngôn ngữ
trong quá trình sáng tác. Không chỉ tiếp thu vốn từ ngữ phổ thông sẵn có, nhà văn
còn phải luôn sáng tạo thêm những lớp từ, lớp nghĩa, hay cách diễn đạt riêng, góp
phần làm giàu có thêm kho tàng ngôn ngữ của dân tộc. Chịu ảnh hưởng khá sâu
sắc từ ngôn ngữ thế nên ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp mang những
đặc điểm sau: sử dụng thành thạo ngôn ngữ đời thường, tục ngữ, thành ngữ; lời kể
chuyện bằng văn xuôi xen kẽ với văn vần.

2.4.1.1. Sử dụng thành thạo ngôn ngữ đời thường, tục ngữ, thành ngữ
Trong truyện ngắn, Nguyễn Huy Thiệp bày tỏ quan niệm về thứ ngôn ngữ
mà nhà văn sử dụng phải là: “Thứ ngôn ngữ không hề phù phiếm cũng chẳng tân kì
Thứ ngôn ngữ của giống nòi truyền lại Thứ ngôn ngữ của lương tri không bao giờ
mất…”. Tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, ta nhận thấy ngôn từ nghệ thuật
trong sáng tác của ông phảng phất sắc thái của ngôn ngữ dân gian bình dị, mộc
mạc, “thứ ngôn ngữ của giống nòi truyền lại”, song không kém phần sâu sắc của sự
suy nghiệm. Nhờ đó góp phần tạo nên phong cách ngôn ngữ khá độc đáo của nhà
văn. Nhìn vào tiếng Việt, ta thấy nhận định trên chính xác hơn bao giờ hết với tính
cách, tâm hồn người Việt và những đặc trưng cơ bản của nền văn hóa dân tộc.
Người Việt Nam ta trong giao tiếp hàng ngày vốn chuộng cách nói ví von, bình
20


dân, nôm na, dễ hiểu. Tìm hiểu ngôn ngữ trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp,
ta thấy ông đã chịu ảnh hưởng, và vận dụng sáng tạo ngôn ngữ đời sống hàng ngày
vào văn chương nghệ thuật. Văn phong Nguyễn Huy Thiệp giản dị, mộc mạc như
chính lời ăn tiếng nói hàng ngày. Để tăng thêm tính tự nhiên, nhà văn đã sử dụng
nhiều lớp từ khẩu ngữ, tục ngữ, thành ngữ rất phù hợp với ngữ cảnh. Nhằm đi đến
tận cùng tính cách của từng nhân vật, Nguyễn Huy Thiệp có khi không ngần ngại
để cho nhân vật nói năng trơ trẽn, bộc lộ những toan tính xấu xa, qua đó thấy rõ sự
suy đồi đạo đức, tha hóa nhân cách của một bộ phận trong xã hội. Ngôn ngữ mà
Nguyễn Huy Thiệp sử dụng là thứ ngôn ngữ chân thực của cuộc sống đa diện, thứ
ngôn ngữ “không hề phù phiếm cũng chẳng tân kì”. Bên cạnh những câu văn trần
trụi, thô ráp, hiện lên trang văn của Nguyễn Huy Thiệp còn là thứ ngôn ngữ “giản
dị như đất” vì đó là của “giống nòi truyền lại”, vì thế mang đậm sắc thái ngôn ngữ
dân gian. Truyện ngắn của ông sử dụng lời ăn tiếng nói trong đời sống sinh hoạt
hàng ngày với số lượng khá lớn. Chúng được nhà văn góp nhặt từ ngôn ngữ giao
tiếp của những người dân quê chịu thương chịu khó nên gần gũi, giản dị hơn bao
giờ hết. Ngôn ngữ nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp dường như

không bị chi phối bởi địa vị, nghề nghiệp xã hội. Từ vua quan cho đến thường dân,
từ nhà thơ cho đến những người nông dân đều có cách nói đi đến tận cùng của sự
thật, của bản chất người. Vì thế khuôn mặt cuộc sống, con người đích thực hiện ra
một cách rõ nét nhất. Ngôn ngữ của nhân vật lịch sử, văn hóa cũng dân dã, mộc
mạc như người bình thường.
Khi tức giận, vua Quang Trung (Phẩm tiết) cũng có thể quát lớn rằng:
“Thằng Khải kia, tài bằng cái đấu, khinh ta quá chừng! Trời cho mày sống, cướp
không biết bao nhiêu lộc thiên hạ, ăn miếng ăn ngon không biết đậy mồm, còn chê
là lợm. Mày nhờ phúc tổ, có ít của chìm, như cái đuôi khô, tháng ba ngày tám
mang ra gặm, tưởng xênh xang ư?” [4, tr.175]. Nhưng khi biết Khải bị hại uất ức
phải treo cổ tự vẫn, vua thương tiếc mà bảo: “Ta nóng nảy đã đành, ta có lý của ta.
Cái lũ nhà giàu khốn nạn, chỉ biết mỗi thân mình, Khải bị hạn, sao không đứa nào
đứng ra kêu hộ một tiếng?” [4, tr.177]. Sắc thái dân gian trong ngôn ngữ truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp thể hiện qua việc truyện ngắn của ông sử dụng khá nhiều
ngôn ngữ có yếu tố tục. Nói đến cái tục, đề cập đến yếu tố tục cũng là cách nói tiếu
lâm thường ngày của người bình dân. Đó còn có thể bắt nguồn từ tín ngưỡng phồn
thực, coi trọng sự sinh sổi nảy nở của cư dân nông nghiệp. Tục ở đây cần phải hiểu
không phải là tục tĩu, ngược lại cái tục cũng là một phần của tự nhiên. Bởi nói như
21


nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh thì đó là thứ “triết lí dân gian không khô héo
xám xịt. Vì nó là ngôn ngữ của sự sống, tuy lấm láp bùn đất nhưng cứ tươi rói và
giãy nảy lên trên trang sách” [1, tr.463–464]. Trong Những bài học nông thôn có
những đoạn đoạn truyện nhà văn sử dụng ngôn ngữ có yếu tố tục rất giá trị, gần gũi
như lời ăn tiếng nói hàng ngày của những người dân quê chân lấm tay bùn.
Cái tài của Nguyễn Huy Thiệp là sử dụng lối nói ỡm ờ, những câu đối thoại
cố ý không ăn nhập tạo nên tiếng cười đầy ẩn ý. Chuyện nhố nhăng kệch cỡm của
tay thanh niên kia thật không phải là hiếm thấy trong cuộc sống đời thường. Trong
ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp còn thể hiện việc nhà văn sử dụng đắc

địa hệ thống thành ngữ, tục ngữ. Đặc biệt là các thành ngữ, tục ngữ ấy thường hiện
lên qua phát ngôn của nhân vật. Nhân vật nói năng mộc mạc bằng chính ngôn ngữ
nơi ruộng đồng, thôn xóm, thường ví von bằng những câu tục ngữ, thành ngữ, ca
dao quen thuộc. Ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp toát lên vẻ đẹp của thứ
ngôn ngữ mộc mạc, mang đậm sắc thái dân gian. Đặc điểm ấy biểu hiện qua cách
nhà văn sử dụng ngôn ngữ chắt lọc từ cuộc sống, vận dụng nhuần nhị một số thi
liệu dân gian khi sáng tác. Và cũng chính việc sử dụng phối hợp khéo léo các dạng
ngôn ngữ này mà truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp đã để lại ấn tượng sâu sắc
hơn trong cảm nhận của độc giả.
2.4.1.2. Lời kể chuyện bằng văn xuôi xen kẽ với văn vần
Bên cạnh việc sử dụng ngôn ngữ giản dị, truyện ngắn của Nguyễn Huy
Thiệp còn được kể qua lời kể chuyện bằng văn xuôi xen kẽ với văn vần. Hình thức
lời kể chuyện này là đặc điểm nghệ thuật khá phổ biến trong truyện kể dân gian,
đặc biệt là trong truyện cổ tích. Trong truyện kể dân gian, xen kẽ lời kể văn xuôi
thường có những đoạn lời kể bằng văn vần. Những đoạn này có thể là một câu thơ,
một đoạn ca dao, một bài hát đồng dao, có khi chỉ là câu nói có vần điệu. Chúng
góp phần làm tăng giá trị thẩm mĩ, nhạc tính cho lời kể, bộ lộ tâm trạng, khắc họa
tính cách nhân vật,... Có hai kiểu xen kẽ lời kể chuyện văn xuôi với lời kể chuyện
bằng văn vần. Kiểu thứ nhất là những câu chuyện được kể bằng văn xuôi, đầu
truyện là một đoạn văn vần để dẫn chuyện, hoặc cuối truyện kết thúc bằng một số
câu văn vần tóm lại nội dung truyện. Còn kiểu thứ hai là câu văn vần xen ngay vào
giữa lời văn xuôi như một yếu tố quan trọng của ngôn ngữ truyện.

22


Trong truyện Phẩm tiết Vinh Hoa hát cho Quang Trung nghe, bài ca nói về
vận mệnh của một bậc đế vương, của triều đại Tây Sơn: “… Ngồi trên ngai vàng
còn biết sợ ai? Ngọc tỉ cầm trên tay lo việc nước Biết lo là được còn thành bại ở
trời ở nơi người …” [4, tr.176] Bài hát góp phần tạo nên bước ngoặt, ngầm báo

diễn biến của các sự kiện về sau của truyện. Như ta biết, Vinh Hoa là người có tài
đoán số mệnh. Lời hát của nàng như lời tiên tri, bởi không lâu sau đó vua Quang
Trung qua đời đột ngột, nội bộ Tây Sơn rối ren, sụp đổ. Quả thực sự hưng thịnh
của triều đại Tây Sơn là rất ngắn ngủi. Khi Gia Long than thở rằng bậc đế vương
chỉ có quyền cao cả, không được quyền đê tiện. Liền đó, tác giả chen vào lời hát
của nhân vật Vinh Hoa. Bài hát của nàng như lời nhắn nhủ của quần thần với người
đang nắm trong tay quyền hành tối cao về vận mệnh của dân tộc cần nhận thức về
vai trò trách nhiệm của một bậc đế vương: “Nước có còn không Nước có mạnh
không Thiên tử là cái gốc lớn thiên hạ Cây cao, bóng cả Trùm lên muôn dân Gió
mây có biến hóa Ghi nhớ trong tâm trường Nhắc ai tự chủ trương Giữ chữ
“thường” Chính đạo thuần vương” [4, tr.180] Bài hát của Vinh Hoa nêu bật những
tư tưởng sâu sắc của truyện về quan niệm thiên tử là cái gốc lớn của thiên hạ, quyết
định sự tồn vong của quốc gia. Lời kể chuyện bằng văn xuôi xen kẽ với văn vần
vốn rất quen thuộc với độc giả qua những truyện cổ tích dân gian. Với hình thức
lời kể chuyện này, Nguyễn Huy Thiệp đã kết hợp được chất thơ và chất tự sự trong
văn xuôi. Ông đã xử lí một cách hiệu quả hai cực đối lập là sự sắc lạnh tỉnh táo
trong cái nhìn về hiện thực và chiều sâu trữ tình trong tác phẩm. Qua những câu
văn vần chảy tràn chất thơ, tuôn trào cảm xúc, ông như đưa người đọc trở về với
những gì là gốc gác, cội nguồn sâu thẳm của tư duy thơ vốn thấm đẫm trong nguồn
mạch văn chương dân tộc.
2.4.2. Giọng điệu
Giọng điệu là một phạm trù thẩm mĩ của tác phẩm văn học, phương diện cơ bản
cấu thành hình thức nghệ thuật. Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa: giọng điệu
là “thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng
được miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc
điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay
châm biếm…” [3, tr.134]. Một nhà văn muốn viết được những trang văn đầy ám
ảnh thì không phải chỉ trông chờ vào phút chốc thăng hoa của cảm xúc, ngẫu hứng
mà còn phải biết tổ chức một cách công phu sao cho thế giới nghệ thuật ấy hiện lên
chính xác và thuyết phục nhất tư tưởng về đời sống hiện thực muôn mặt. Để có thể

23


hoàn thành được điều đó thì việc lựa chọn giọng điệu cho tác phẩm có ý nghĩa vô
cùng quan trọng. Giọng điệu, cũng xuất phát từ ngôn ngữ, song nó có ý nghĩa rộng
hơn nhiều. Nó bao hàm cả ngữ cảnh, quan niệm,… Giọng điệu phản ánh lập trường
xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ của tác giả, có vai trò to lớn trong việc
tạo nên phong cách nhà văn và tác dụng truyền cảm xúc cho người đọc. Mỗi tác
phẩm văn chương đều có những giọng điệu riêng. Trong mỗi tác phẩm, bên cạnh
giọng điệu chủ đạo, bao giờ cũng tồn tại nhiều sắc thái giọng điệu khác nhau. Các
sắc thái giọng điệu đã trở thành phương tiện tham gia chuyển tải bức tranh hiện
thực vào tác phẩm và thể hiện thái độ của nhà văn trước cuộc sống. Chính vì thế
khi nghiên cứu sáng tác của một nhà văn không thể không nghiên cứu giọng điệu
nghệ thuật của họ. Tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, chúng tôi nhận thấy
có hai giọng điệu tiêu biểu đó chính là giọng điệu trữ tình, thấm đẫm chất thơ và
thứ hai là giọng điệu mỉa mai, giễu cợt.
2.4.2.1. Giọng điệu trữ tình, thấm đẫm chất thơ
Đọc truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, người đọc không khó để nhận ra
rằng dù khi viết về cái xấu, cái ác bằng giọng văn tàn nhẫn, hằn học nhất nhưng
không có nghĩa là ông đang phỉ báng con người. Ngược lại, nó thể hiện chủ nghĩa
nhân đạo, nhân văn cao cả trong sáng tác của ông. Những nỗi đau, sự cô đơn của
kiếp người thường âm thầm lặng lẽ nhưng không kém phần da diết. Với trách
nhiệm của nhà văn chỉ có quyền nói lên sự thật, Nguyễn Huy Thiệp không thể
không viết về cái xấu, phơi bày những điều xấu xa và bỉ ổi nhất. Nhưng ông không
bao giờ tuyệt vọng với cái xấu vì ông luôn tin vào lòng nhân ái, nhân tính của con
người. Những cảm xúc ấy tuôn trào trên ngòi bút, cuồn cuộn thành thác lũ, vút cao
lên những thanh âm trong trẻo, ngân vang,… tạo thành giọng điệu trữ tình ngọt
ngào, thấm đẫm chất thơ trong những trang văn của ông. Giọng điệu trữ tình trong
văn Nguyễn Huy Thiệp thể hiện rõ nét qua những trang văn ông viết về thiên
nhiên. Trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, những bức tranh thiên nhiên thường

rất đẹp và cũng rất thơ. Dường như với ông, cái nhân tạo thường hàm chứa nguy
cơ giả dối còn cái đẹp của tự nhiên thật rộng lớn và vĩnh hằng. Đến với thiên nhiên
là cách để con người được trở về với những nét đẹp truyền thống lưu giữ từ thuở
xa xưa. Trong khung cảnh ấy, tâm hồn con người trở nên trong sáng, thuần khiết và
đẹp đẽ hơn. Lời văn Nguyễn Huy Thiệp trở nên mượt mà, sâu lắng, chất chứa
những tình cảm dạt dào, đắm say khi viết về thiên nhiên. Thiên nhiên trong truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp không còn đơn thuần là thiên nhiên khách quan mà đã trở
24


thành hình tượng nghệ thuật. Không gian nghệ thuật trong tác phẩm của ông phần
nhiều là không gian được bao bọc bởi thiên nhiên, những con người sống ở đó đều
là những người lao động hiền lành, chất phác. Chúng hiện lên như những bức tranh
phong cảnh sinh động, giàu hình ảnh, âm thanh, đường nét được vẽ nên bởi ngôn
từ tài hoa, tinh tế, cảm xúc bay bổng của người nghệ sĩ. Những đoạn văn có kết cấu
cân đối, nhịp nhàng góp phần không nhỏ vào việc tái hiện không gian trữ tình, thơ
mộng, phảng phất không khí của huyền thoại xa xưa trong truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp. Đọc truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, tuy đôi chỗ còn gai góc, xù xì
khi viết về những chuyện thế thái nhân tình nhưng cái đọng lại sâu nhất nơi trái tim
người đọc chính là tình người, tình đời được biểu hiện tinh tế qua giọng điệu trữ
tình sâu lắng với những câu văn chảy tràn chất thơ, chất nhạc.
2.4.2.2. Giọng điệu mỉa mai, giễu cợt
Bên cạnh giọng điệu trữ tình, thấm đẫm chất thơ, truyện ngắn của Nguyễn
Huy Thiệp còn hấp dẫn người đọc qua giọng điệu mỉa mai, giễu cợt. Mỉa mai là
“phương thức biểu cảm mà ý nghĩa đánh giá đích thực ngược hẳn với ý nghĩa bề
mặt của phát ngôn, là sự phản đối, phủ định dưới hình thức tán dương, khẳng định”
[3, tr.195]. Còn giễu cợt là “nêu thành trò cười nhằm chế nhạo, đả kích” những thói
hư tật xấu trong xã hội [2, tr.401]. Mỉa mai, giễu cợt là những phương thức biểu
cảm được Nguyễn Huy Thiệp sử dụng có hiệu quả trong nhiều thiên truyện. Dân
gian có thói quen mỉa mai, giễu cợt nhằm phê phán những thói hư tật xấu của con

người. Cách nói ấy thường biểu hiện qua những câu truyện trạng, truyện cười, ca
dao trào phúng,…Mỉa mai, giễu cợt trong văn chương nghệ thuật không có gì quá
xa lạ, không dính dáng đến hiện tại mà luôn gắn chặt với thực trạng muôn mặt của
cuộc đời. Bởi tác phẩm dẫu nói về cái xấu, cái ác nhưng người viết vẫn hướng con
người về phía cái đẹp, khơi gợi những tình cảm cao đẹp. Đọc truyện ngắn của
Nguyễn Huy Thiệp, ta thấy phảng phất giọng điệu giễu cợt của dân gian. Giọng
điệu này cũng là một cách để nhà văn tiếp cận và phản ánh hiện thực cuộc sống.
Nhờ đó mà những phương diện đa dạng và phong phú trong dòng chảy của cuộc
sống hôm nay được nhà văn soi chiếu một cách chân thực nhưng không kém phần
tinh tế. Đối tượng mỉa mai, giễu cợt của nhà văn rất đa dạng. Giọng mỉa mai, giễu
cợt thể hiện rõ khi Nguyễn Huy Thiệp phê phán sự suy đồi truyền thống đạo lí gia
đình trong một bộ phận xã hội buổi giao thời. Điều đặc biệt là giọng văn này trong
truyện của ông ít khi gắn với tiếng cười. Nếu có thì thường không phải là tiếng
25


cười hả hê, vui vẻ. Ngược lại, nó ẩn chứa những nỗi đau, nỗi buồn về thế thái nhân
tình của kiếp người. Tiếng cười đôi khi thực sự bi đát, nặng nề, đầy mai mỉa.
Huyền thoại Mẹ Cả đầy ắp trong kí ức tuổi thơ Chương (Con gái thủy thần).
Trong trí tưởng tượng của anh, Mẹ Cả hiện lên thật đẹp và lộng lẫy. Cho đến một
hôm có người chỉ cho Chương nấm đất gần kề gốc cây muỗm và bảo đấy là mộ của
Mẹ Cả. Anh đào lên. Thì ra trong nấm đất ấy chỉ là “một khúc gỗ mục chẳng hình
thù gì” [4, tr.86]. Chuyện Mẹ Cả rốt cùng chỉ là câu chuyện bịa đặt. Sự thật mà anh
vừa trông thấy tận mắt quá phũ phàng so với huyền thoại mà người đời bấy lâu nay
vẫn thêu dệt. Thật đau đớn và chua chát, Chương thấy mình bơ vơ, lạc lõng chính
tại nơi mình đang sống. Anh quyết định đi ra biển, dẫu biết rằng “ngoài biển không
có thủy thần” [4, tr.87], nhưng có thể nơi ấy sẽ không còn những trò lừa bịp ác tâm
của con người.
Truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp được viết bởi thứ ngôn ngữ rất đời
thường, vận dụng khá nhuần nhuyễn thành ngữ, tục ngữ nên gần gũi với ngôn ngữ

sinh hoạt hàng ngày, mang đậm sắc thái ngôn ngữ của dân gian. Bên cạnh đó, nhà
văn còn kể chuyện bằng lối kể rất quen thuộc trong cổ tích, trong thói quen giao
tiếp của người Việt Nam, đó là lối kể chuyện bằng văn xuôi xen kẽ với văn vần.
Truyện của ông hấp dẫn, lôi cuốn độc giả chính là nhờ đã kết hợp được chất thơ và
chất tự sự trong văn xuôi, góp phần tạo nên sự rậm rạp trên bề mặt và cả ở chiều
sâu trong việc khám phá đời sống con người. Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn luôn
có ý thức và cố gắng tạo nên giọng điệu văn chương riêng cho mình. Với sự nỗ lực
tìm tòi không ngừng, ông đã khẳng định được văn phong riêng độc đáo không thể
nhầm lẫn. Một trong những yếu tố góp phần tạo nên sự hấp dẫn của truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp là sắc thái dân gian trong giọng điệu trữ tình, thấm đẫm chất
thơ và giọng điệu mỉa mai, giễu cợt. Văn của ông vừa có sự kế thừa cách diễn đạt
truyền thống vừa có lối diễn đạt sắc lạnh, đầy suy tư của văn chương hiện đại.
2.5. Không gian và thời gian nghệ thuật
2.5.1. Không gian nghệ thuật
Không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật, không có hình
tượng nào nằm ngoài không gian. Đặc trưng cơ bản của không gian nghệ thuật là :
Không gian mang tính chủ quan ngoài không gian vật thể còn có không gian tâm

26


trạng. Không gian nghệ thuật không chỉ cho thấy nội tại của tác phẩm văn học mà
còn quan niệm về thế giới của tác giả hay một giai đoạn văn học.
“Trong văn xuôi năm 1975, không gian nghệ thuật phổ biến là không gian sinh
hoạt đời thường, không gian mang tính chất cá nhân riêng tư.”(Theo Nguyễn Thị
Bình). Những căn phòng chật hẹp, bức bối, thế giới đồ vật chen lấn, chèn ép cuộc
sống tinh thần. Đó là khoảng không gian xác thực bắt buộc con người phải bộc lộ
đến tận cùng bản chất của mình, không có cơ hội lảng tránh traachs nhiệm cá nhân,
không gian nó làm cho mọi trò của con người diễn bị lật tẩy. Nó tham gia vào cuộc
đời của mỗi người, gắn liền với buồn vui và cảm quan đời sống. Đồng thời nó chen

chúc những dục vọng tầm thường, những ảo tưởng thê thảm của kiếp người bị tha
hóa. Tiếp thu những thành quả chúng ta cùng đến với không gian nghệ thuật trong
các tác phẩm truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp.
2.5.1.1 Không gian bối cảnh xã hội
Trên bình diện không gian bối cảnh xã hội trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ,
chúng ta nhận thấy rằng nhà văn có những sáng tạo độc đáo. Tất cả mọi không
gian, nhân vật đều có thể coi là sân khấu để làm trò, từ trò từ thiện, trò hiếu đễ, trò
cưới xin, trò sinh nhật, trò làm quan. Nguyễn Huy Thiệp cũng tỏ ra thông hiểu
nhiều vùng miền, nhiều thế hệ, nhiều thời đại. Vì vậy không gian nghệ thuật trong
truyện ngắn của ông phong phú và chính xác. Bên cạnh những không gian êm đềm
của cảnh sắc thiên nhiên, núi sông , Nguyễn Huy Thiệp còn tạo ra không gian bối
cảnh xã hội “tươi ròng sự sống”. Nó có thể là không gian trong lòng thuyền, trong
phòng khách và trong phòng ngủ của thị dân: Không gian chật chội của cửa hàng
vàng bạc bà thiều; phòng ngủ của Diệu, cô Phượng học thức; “căn bếp” nhà lão
Kiền. Ở đây thói phàm tục của con người đã diễn ra để mặc cả mua bán tâm hồn,
vừa lưu manh vừa trơ trẽn. Tất cả được thể hiện qua tính chất “láo nháo thản nhiên
rất đời và ô trọc”.
2.5.1.1.1

Không gian láo nháo thản nhiên rất đời và ô trọc

Không gian bối cảnh trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp thường là không
gian hẹp, chật chội rất nhiều các sự kiện các thông tin được dồn nén. Có khi là
không gian để nhân vật diễn các trò sân khấu (không có vua), khhong gian của nhà
có cả đám ma và đám cưới (Tướng về hưu). Cũng có khi không gian nó rất ô trọc
và rất tục. Đó là không gian của cái “ chợ phân” hộp trong một tiếng đồng hồ
27


(Chuyện ông Móng), không gian của “ cái cống” (Huyền thoại phố phường), không

gian ở “ bến xe” của những tên để ria con kiến mắt hau háu đang ngắm nhìn những
cô nàng bỏ lạc.
Trong truyện ngắn “Tướng về hưu” Nguyễn Huy Thiệp đã sáng tạo ra một không
gian nghệ thuật, mà qua đó tác giả đã làm lay động và ray rứt lương tri người đọc.
Đó là không gian diễn ra sự kiện, những biến cố vừa hào hùng vừa đau đớn được
đan cài vào số phận cá nhân vừa là một anh hùng nhưng lại là một “nạn nhân” của
con người trot được “phong thánh”. Ta đã biết, tướng Thuấn là niềm tự hào của gia
đình, dòng họ, ông cũng là người hùng thỏa mãn: “Việc lớn trong nhà cha làm
xong rồi”, nhưng nghiệt ngã thay vị tướng tài ba này vẫn bị bủa vây bởi những quy
luật mưu sinh khắc nghiệt : “ Một hôm tôi đi làm về, cha tôi đứng ở dãy nhà nuôi
chó và gà công nghiệp”, nó không còn là không gian của “ đường ra trân mùa này
đẹp lắm”, thay vào đó là cuộc sống thực tế với không khí tranh giành, thực dụng,
dối trá vây quanh ông. Một vị tướng xưa tranh giành ngang dọc vậy mà lúc nghỉ
hưu lại bị cầm chân trong một không gian thường nhật chỉ để mưu sinh cuộc sống.
Không gian chiến trận xưa quanh ông đôi lúc cũng có hiện về, nhưng giờ chỉ là
không gian trong nền hồi ức.
Đối sánh giữa không gian chiến trận của tướng Thuấn và không gian thực tại của
ông bậy giờ, ta chứng kiến được con người ở hai phương diện xã hội và cá nhân.
Sự đối lập này cho thấy tác giả đã tạo nên một không gian ngổn ngang, một thế
giới tan rã thành muôn mảnh. Một điều dễ thấy, cho dù không gian trong truyện
của Nguyễn Huy Thiệp có hư cấu nhiều đi nữa cũng chỉ nhằm phơi bày một hiện
thực trần trụi, cay độc và lạnh tanh, chua xót.
2.5.1.1.2

Không gian tù nọng quẩn quanh, bế tắc

Trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp về không gian tù nọng quẩn quanh, bế
tắc ta chú ý đến tính chất khép kín của không gian làng quê, không gian hẹp. Ta
thấy ở đây, nông dân dần bị tha hóa bởi thứu văn hóa thấp kém, trì níu bởi không
khí tù nọng ngột ngạt: “Không khí u uất, từ nọng của làng quê làm tôi tê tái cảm

giác chua xót. Mọi người rối rít cuốn cuồng để kiếm miếng ăn” (110; 80). Những
con người đầy những thành kiến ngộ nhận đã đánh mất những gì làm nên niềm vui
của cuộc đời. Cuộc sống đối với họ chỉ đơn thuần là đấu tranh để kiếm miếng ăn,
vui lòng với thứ văn hóa “lá cải”. Những “mảnh đất cằn đã làm con người trở nên
28


ti tiện”, những định kiến hẹp hòi và thói đạo đức giả đã làm thoái hóa bản chất của
con người.
2.5.2 Không gian bối cảnh thiên nhiên
Đó là không gian của dòng sông, của rừng núi, của làng quê mà nhà văn Nguyên
Huy Thiệp đã khắc họa qua các tác phẩm truyện ngắn.
2.5.2.1.1

Không gian làng quê

Trong bối cảnh làng quê, có sự đối lập giữa không gian trong nhà và ngoài đồng.
Trong nhà chật hẹp, tù túng, ngột ngạt; ngoài đồng thoáng rộng bát ngát mênh
mông. Cánh đồng quê ngang dọc, chằng chịt những bờ ruộng, con mương, xa tít
tắp tới tận chân trời. Nguyễn Huy Thiệp ít miêu tả những cánh đồng phì nhiêu, yên
ả (Chăn trâu cắt cỏ). Đồng quê trong nhiều truyện của ông thường hiện ra cằn cỗi,
hoang vắng, xơ xác, chất chứa sự lam lũ, nghèo đói, lạc hậu, tăm tối của cuộc sống
nông thôn (Con gái thuỷ thần, Thương nhớ đồng quê,Những bài học nông thôn).
Cảm nhận của Chương về nông thôn cũng là cảm nhận của Hiếu, Quyên, Nhâm,
chân thực và đáng tin cậy: “Tôi đi qua rất nhiều làng mạc, vừa đi vừa làm thuê
kiếm ăn. Những làng quê mà tôi đi qua đều buồn tẻ, tiêu điều. Quanh quẩn chỉ từng
ấy cây: cây lúa, cây ngô, cây khoai lang, vài thứ cây rau quen thuộc. Quanh quẩn
từng ấy công việc: cày ruộng, cấy hái, vun trồng” (Con gái thủy thần). Có sự đối
lập giữa trong nhà/ngoài đồng nhưng thực ra về mặt phẩm tính, trong nhà/ngoài
đồng cùng chung sự đơn điệu, nhàm chán, buồn tẻ, trống vắng, tiêu điều, xơ xác,

ngột ngạt, dự phóng một năng lượng bùng nổ, những đòi hỏi đổi thay. Bởi thế, ra
đồng, ra phố, ra biển lớn, lên núi cao rừng hoang là sự vận động không gian rất
đáng chú ý của các nhân vật nhà quê trong sáng tác Nguyễn Huy Thiệp.
2.5.2.2

Không gian núi rừng

Không gian miền núi cùng với không gian đồng quê tạo nên bối cảnh làng quê
nông thôn đơn điệu, buồn tẻ đặc trưng trong các truyện nông thôn – miền núi của
nhà văn. Hầu hết các truyện như Những ngọn gió Hua Tát, Những người thợ xẻ,
Muối của rừng, Chuyện tình kể trong đêm mưa, Những người muôn năm cũ, Tội
ác và trừng phạt..., đều phảng phất vẻ đìu hiu, cô quạnh như cảm nhận sau đây của
nhân vật tôi: “Cuộc sống ở xóm núi trôi đi đơn điệu, buồn tẻ. Khi chiều về, tiếng
mõ trâu lốc cốc khua vang ở dưới chân núi xa xôi, lẫn lộn với khói lam chiều, rồi
29


lịm đi ở cuối vực sâu cùng với bóng tối lúc đầu còn rón rén ở những bụi cây lúp
xúp với màu tím nhạt, rồi lãng vãng chuyển sang màu xám tro viền trên các ngọn
cây cao, rồi cùng phủ phàng đen kịt trùm lên toàn bộ núi rừng. Tiếng chim xao xác
gọi đàn. Con đười ươi lại hú lên thê thảm, cứ ba tiếng một, ba tiếng một cho đến
lúc chẳng có tiếng nào” (Những người muôn năm cũ). Núi rừng là một không gian
thân thiện. Nàng Bua đã đào được rất nhiều củ mài và cả một hũ vàng nơi rừng sâu
(Những ngọn gió Hua Tát). Nhưng trước vẻ hoang sơ của núi rừng, con người
muốn chế ngự và thống trị thiên nhiên. Đó là hành vi của ông Diểu khi ông đi săn
khỉ (Muối của rừng), hành vi của Bường muốn giành giật kéo cưa lừa xẻ nơi rừng
hoang (Những người thợ xẻ). Họ đã thất bại trong những cuồng vọng của mình,
nhận lại bài học từ núi rừng, trở nên có nhân nghĩa hơn, sống có tình hơn.
2.5.2.3 Không gian dòng sông
Trong sự vận động ra tỉnh về quê, vươn cao và ngụp sâu, biểu tượng con đường và

dòng sông bến nước có ý nghĩa đặc biệt. Dòng sông bến nước trong truyện ngắn
của ông không hung tợn, dữ dằn, thác lũ. Nó đầy nữ tính, mang vẻ đẹp thật mượt
mà. Đó bến Tầm Xuân giản dị mà thanh bình êm ả (Chút thoáng Xuân Hương), là
bến Cốc trữ tình thơ mộng với vẻ đẹp lạ lùng, hồn nhiên, vô tận như cuộc sống
được thức ngộ: “Chảy đi sông ơi – băn khoăn làm gì…” (Chảy đi sông ơi). Dòng
sông, bến nước là những không gian điểm, những toạ độ gốc. Đối với nhân vật tôi,
con sông và bến Cốc “gắn với đời tôi những năm thơ ấu”, “có sức lôi cuốn lạ kỳ”.
Nó là nơi nuôi dưỡng, giữ cho kí ức về quá khứ ấu thơ của nhân vật tôi sự trong
suốt, tinh khiết, thanh sạch. Dòng sông là nơi nhân vật thức nhận chân lý, lẽ sống,
là nơi con người nhận ra vẻ đẹp tự nhiên đằng sau những súng sính áo quần đầy giả
tạo (Những bài học nông thôn). Dòng sông còn là nơi mang chứa bao khát vọng.
Đó là khát vọng của tuổi thơ săn đuổi những điều phù du (Chảy đi sông ơi). Đó
còn là dòng sông của huyền thoại, dòng sông của mẹ Cả, dòng sông của tình yêu,
cũng là dòng sông của hiện thực, của chân lý (Con gái thuỷ thần). Đằng sau tất cả
những kiếm tìm hư ảo, phù du, nhân vật trải nghiệm đã tìm thấy những hạt thiện,
những tấm lòng lành. Đó là chị Thắm, chị Hương, mẹ Cả và giáo Triệu… Dòng
sông chảy trôi không ngừng nghỉ, là biểu tượng về sự vận động bất diệt của cuộc
sống con người. Nhưng vận động của nhân vật trong không gian cũng thường rất
nhọc nhằn, chông chênh, đầy suy tư, trăn trở (Thương nhớ đồng quê, Con gái thủy
thần. Nhân vật của Nguyễn Huy Thiệp vừa đi vừa dò dẫm lối đi, sục sôi những ý
nghĩ, cảm tưởng…. Nguyễn Huy Thiệp đã mượn lời nhân vật ngang tàng là Tổng
30


Cóc để phát biểu định hướng đạo đức: “Ông khinh những kẻ không dám sống thực,
không dám lặn sâu xuống đáy cuộc đời. Ông cũng khinh cả những kẻ lặn mình
xuống đáy rồi ngập ở đấy không sao lên được”? (Chút thoáng Xuân Hương).
2.5.2 Thời gian nghệ thuật
Để biểu thị sự ngưng đọng, tù túng của không gian, ngoài miêu tả, tự sự, trữ tình,
Nguyễn Huy Thiệp thường phối kết không gian điểm trong những khoảng thời gian

đặc biệt. Đó là thời gian đêm. Đêm là âm tính, dục vọng, bản năng, lương tri.
Chính người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ - Quang Trung đã thể hiện được nhân
tính của con người đời thường giàu trắc ẩn khi “đang đêm xõa tóc, đi chân đất, vừa
đi vừa vấp, chạy vào báo cho Vinh Hoa việc Khải mất” (Phẩm tiết). Đêm cũng là
thời điểm Gia Long muốn làm “vua gà, vua vịt” trước ca nữ Vinh Hoa (Phẩm tiết).
Đêm cũng là lúc nhân vật tôi, bất chấp sự tàn nhẫn của những kẻ đánh cá, khao
khát một lần được gặp con trâu đen của tuổi thơ: “Nó lao vút trên mặt nước…”
(Chảy đi sông ơi). Đêm cũng là mốc thời gian mà nhiều nhân vật của Nguyễn Huy
Thiệp thức tỉnh, ý thức về lẽ sống của mình và đồng loại. Cái đêm lão Hạ chết là
lúc Cún ngộ ra bao điều về đời sống, về cái cộng đồng lành lặn, đi thẳng trên mặt
đất ở xung quanh mình…(Cún). Cái đêm Mây phải bán mình cho ông chủ bởi
“món tiền ông ta cho tôi lớn quá” cũng là lúc Chương bất lực ê chề (Con gái thuỷ
thần). Cái đêm mênh mang sông nước là thời điểm chứng kiến một Trương Chi bất
cần, khinh bạc (Trương Chi). Trong màn đêm, họ Vũ thấy đau nhói trong tim vì
một Hà Nội “nghèo xác và dị mọ” (Bài học tiếng Việt).
Thường thì đêm tối trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp là những đêm mưa.
Đó là cơn mưa ở vùng rừng núi Tây Bắc hoang vắng, chỉ có ba con người, một
nhân chứng và hai trái tim yêu đang hát ca bài ca buồn, cô đơn trong trải nghiệm
tình yêu, trải nghiệm làm người (Chuyện tình kể trong đêm mưa). Cũng đêm mưa
phùn, lạnh đến tê buốt “cô Diệu đẻ”, Cún trút hơi thở cuối cùng, kết thúc cuộc đời
một kẻ ăn mày bất thành nhân dạng luôn khao khát là người (Cún). Đêm trăng
cũng là mốc thời gian thường thấy trong nhiều truyện ngắn của ông. Trong đêm
trăng rất sáng, Chương lần đầu chứng kiến tận mắt hình bóng nguyên thuỷ của mẹ
Cả (Con gái thủy thần). Cũng trong đêm trăng, các nhân vật sửng sốt, ngây ngất,
sung sướng bởi nụ hôn đầu đời. Trong một đêm trăng, Ngọc và Bường sau khi
đánh nhau chí chết đã hiểu thêm về nhau, những minh triết và đời thực, những
chân lý: “chỉ có nhẹ nhàng, mềm mỏng lịch thiệp, tình thương, hoà hợp, yên ổn…
31



mới khép kín được quan hệ giữa những con người và quan hệ giữa từng con người
với toàn thế giới” (Những người thợ xẻ). Dưới “ánh trăng vằng vặc lộng lẫy lạ
lùng”, huyện Thặng đã “tiên tri cho cả cuộc thế thời nay”: “tất cả mọi sự thanh cao
hoang tưởng vẫn chết trong cõi dung tục như thường!” (Chút thoáng Xuân Hương).

32



×