Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thuế tại chi cục thuế quận hồng bàng – thành phố hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (614.21 KB, 100 trang )

BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀNG HẢI VIỆT NAM

HỌ VÀ TÊN: VŨ THỊ MAI ANH

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
CÔNG TÁC QUẢN LÝ THUẾ TẠI CHI CỤC THUẾ
QUẬN HỒNG BÀNG - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH QUẢN LÝ KINH TẾ

HẢI PHÒNG - 2016


BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀNG HẢI VIỆT NAM

HỌ VÀ TÊN: VŨ THỊ MAI ANH

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
CÔNG TÁC QUẢN LÝ THUẾ TẠI CHI CỤC THUẾ
QUẬN HỒNG BÀNG - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

Ngành: Quản trị kinh doanh
Mã số: 60340410

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS VŨ TRỌNG TÍCH



HẢI PHÒNG 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Bản luận văn tốt nghiệp này là công trình nghiên cứu
của cá nhân tôi, thực sự được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết kết
hợp với khảo sát, áp dụng một phần trong tình hình thực tiễn và dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS Vũ Trọng Tích.
Các dữ liệu, giải pháp và những kết quả trong luận văn là trung thực,
xuất phát từ việc phối hợp giữa kiến thức khoa học và kinh nghiệm thực tiễn.
Luận văn này chưa từng được công bố dưới bất cứ hình thức nào trước đây.
Một lần nữa, tôi xin khẳng định về sự trung thực của lời cam đoan trên.
Tác giả

Vũ Thị Mai Anh


i

LỜI CẢM ƠN
Là một người làm việc trong lĩnh vực quản lý nhà nước, tôi rất muốn được
cống hiến một phần nhỏ bé của mình cho sự nghiệp phát triển của đất nước. Tôi
luôn nhận thức được việc trau dồi kiến thức là rất cần thiết, cùng với sự tin tưởng
của cá nhân vào trường đại học Hàng Hải mà tôi đã từng học đại học, tôi đã tiếp tục
theo học tại ngôi trường thân yêu này. Để hoàn thành chương trình cao học, trước
hết phải kể đến công ơn của Nhà trường và Quý Thầy cô đã tận tình giúp đỡ, tận
tâm chỉ bảo. Tôi xin gửi lời cảm ơn trân trọng nhất đến Nhà trường và Quý thầy cô,
những người đã dậy và dìu dắt tôi trong suốt quá trình học tập vừa qua.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Vũ Trọng Tích,

người Thầy đã dành rất nhiều thời gian và tâm huyết hướng dẫn, nghiên cứu để giúp
tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Trong quá trình hoàn thành luận văn, mặc dù tôi đã có nhiều cố gắng bằng tất
cả sự nhiệt huyết và năng lực của mình, tuy nhiên chắc chắn sẽ không thể tránh khỏi
những hạn chế và thiếu sót. Rất mong nhận được những đóng góp quý báu của Quí
Thầy Cô và các bạn.
Trân trọng./.
Hải Phòng, ngày

tháng

Tác giả

Vũ Thị Mai Anh

năm 2016


ii

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN..............................................................................................3
LỜI CẢM ƠN....................................................................................................i
MỤC LỤC.........................................................................................................ii
..........................................................................................................................iii
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU....................................................................iv
DANH MỤC CÁC HÌNH................................................................................iv
PHẦN MỞ ĐẦU...............................................................................................1
CHƯƠNG 1.......................................................................................................3
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THUẾ VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ THUẾ.............3

1.1 Tổng quan về thuế...................................................................................3
1.1.1 Khái niệm Thuế................................................................................3
1.1.2 Phân loại thuế..................................................................................5
1.1.3 Chức năng và vai trò của thuế đối với sự phát triển Kinh tế – Xã
hội............................................................................................................23
1.2 Công tác quản lý thuế............................................................................29
1.2.1 Khái niệm công tác quản lý thuế....................................................29
1.2.2 Đặc trưng cơ bản của công tác quản lý thuế.................................32
1.2.3 Nội dung công tác quản lý thuế.....................................................35
1.2.4 Các mô hình tổ chức quản lý thuế..................................................36
1.2.5 Công tác quản lý thuế ở một số nước trên thế giới và bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam..............................................................................41
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ THUẾ......................45
TẠI CHI CỤC THUẾ QUẬN ĐỐNG ĐA - THÀNH PHỐ HÀ NỘI.............46
2.1 Tổng quan về Chi cục thuế Quận Hồng Bàng.......................................46
2.1.1 Vị trí, chức năng.............................................................................46
2.1.2 Nhiệm vụ và quyền hạn..................................................................46
2.1.3 Cơ cấu tổ chức:..............................................................................48
2.2 Đánh giá thực trạng công tác quản lý thuế tại Chi cục thuế Quận Hồng
Bàng.............................................................................................................49
2.2.1 Đánh giá công tác lập kế hoạch thu thuế.......................................50
2.2.2 Đánh giá công tác tổ chức thu thuế...............................................54
2.2.3 Công tác kiểm tra và xử lý các vi phạm về thuế............................58
2.2.4 Đánh giá công tác tuyên truyền hướng dẫn đối với người nộp thuế.
.................................................................................................................62
2.3 Những kết quả đạt được, những hạn chế trong công tác quản lý thuế tại
Chi cục thuế Quận Hồng Bàng....................................................................63
2.3.1 Những kết quả đạt được trong công tác quản lý thuế....................63
2.3.2 Những hạn chế trong công tác quản lý thuế..................................64
2.3.3 Nguyên nhân của những hạn chế trong công tác quản lý thuế......64



iii

CHƯƠNG 3 CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ
THUẾ TẠI CHI CỤC THUẾ QUẬN HỒNG BÀNG – THÀNH PHỐ HẢI
PHÒNG...........................................................................................................68
3.1 Căn cứ đề xuất giải pháp.......................................................................68
3.1.1 Tình hình phát triển Kinh tế - Xã hội tại Quận Hồng Bàng...........68
3.1.2 Mục tiêu, nhiệm vụ của Chi cục thuế Quận Hồng Bàng................70
3.2 Nội dung các giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thuế tại Chi cục
thuế Quận Hồng Bàng – Thành phố Hải Phòng..........................................72
3.2.1. Hoàn thiện công tác cán bộ trong công tác quản lý thuế.............72
3.2.2. Hoàn thiện công tác lập kế hoạch thu thuế...................................72
3.2.3 Hoàn thiện quy trình kê khai thuế và thu nộp thuế........................73
3.2.4 Tăng cường các hoạt động tuyên truyền hướng dẫn đối với người
nộp thuế...................................................................................................75
3.2.5 Tăng cường các giải pháp ngăn chặn các hành vi vi phạm về thuế
.................................................................................................................77
3.2.6 Hiện đại hóa cơ sở vật chất và đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình
độ đội ngũ cán bộ nhân viên thuế...........................................................84
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.........................................................................88
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................93


iv

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Tình hình thực hiện thu ngân sách nhà nước năm 2012.................51
Bảng 2.2: Tình hình thực hiện thu ngân sách nhà nước năm 2013.................52

Bảng 2.3: Tình hình thực hiện thu ngân sách nhà nước năm 2014.................54
Bảng 2.4: Tổng hợp tình hình thực hiện thu ngân sách nhà nước 2013-2014.54
Bảng 2.5: Tình hình quản lý đối tượng nộp thuế năm 2012............................55
Bảng 2.6: Tình hình quản lý đối tượng nộp thuế năm 2013............................56
Bảng 2.7: Tổng hợp tình hình nợ thuế của Khối doanh nghiệp NQD năm 2013
.........................................................................................................................60
Bảng 2.8: Kết quả thu nợ năm 2013 của khối doanh nghiệp NQD................60
Bảng 2.9: Tổng hợp tình hình nợ thuế của Khối doanh nghiệp NQD năm 2014
.........................................................................................................................60
Bảng 2.10: Kết quả thu nợ năm 2014 của khối doanh nghiệp NQD...............60
Bảng 2.11: Tổng hợp công tác tuyên truyền hướng dẫn đối với người nộp thuế
2012 – 2013 - 2014..........................................................................................62

DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 2.1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức Chi cục thuế Quận Hồng Bàng.....................49
Hình 3.1: Các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ hài lòng của người nộp thuế. .75


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Để đảm bảo giữ vững ổn định môi trường đầu tư mang tính cạnh tranh quốc
tế cao của nền kinh tế Việt Nam đã và đang hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế thế
giới, đòi hỏi nhà nước phải đưa ra một chính sách thuế với các chiến lược quản lý
hợp lý.
Thuế là nguồn thu chủ yếu của quốc gia. Vì vậy, một nền tài chính quốc gia
lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu từ nội bộ nền kinh tế quốc dân. Tất cả
các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước đều được đáp ứng qua các nguồn thu từ thuế, phí
và các hình thức thu khác như: vay mượn, viện trợ nước ngoài, bán tài nguyên quốc

gia, các khoản thu khác..vv.. Song thực tế cho thấy các hình thức thu ngoài thuế đó
có rất nhiều hạn chế và bị ràng buộc bởi nhiều điều kiện. Do đó thuế vẫn được coi
là khoản thu quan trọng nhất vì khoản thu này mang tính chất ổn định và khi nền
kinh tế càng phát triển thì khoản thu này càng tăng.
Trong thực tế nước ta hiện nay, nguồn lực cho công tác quản lý thuế còn
nhiều hạn chế, trong khi sự phức tạp từ các doanh nghiệp kinh doanh ngày một tăng
lên. Điều đó đã mang đến nhiều khó khăn hơn cho cơ quan quản lý thuế trước sức
ép phải đảm bảo công tác thu thuế để đảm bảo ngân sách nhà nước hàng năm. Đây
là khó khăn lớn nhất mà ngành thuế ở Việt Nam cần phải vượt qua.
Hệ thống thuế bao gồm nhiều loại thuế hoạt động trong các lĩnh vực khác
nhau. Một sắc thuế có thể được ban hành theo một trong hai hình thức pháp lý, đó
là: Luật và Pháp lệnh. Tuy có nhiều loại thuế khác nhau, nhưng tất cả chúng đều có
một kết cấu chung và được trình bày theo một trình tự thống nhất, gồm có các yếu
tố cấu thành chủ yếu như: Tên gọi, đối tượng nộp thuế, đối tượng tính thuế, thuế
suất, chế độ giảm thuế và miễn thuế và cách thức tổ chức thực hiện.
Hệ thống thuế bao gồm nhiều sắc thuế được xây dựng theo các nguyên tắc cơ
bản, đó là: Tính minh bạch, tính hiệu quả, linh hoạt và nguyên tắc công bằng. Hệ
thống thuế bao gồm: hệ thống chính sách thuế và hệ thống quản lý thuế.
Đối với Quận Hồng Bàng, một trong 3 quận Trung tâm của Hải Phòng, là
đơn vị có số dân, số doanh nghiệp đóng trên địa bàn đông nhất trong các quận
huyện thuộc Thành phố, thì những hạn chế và khó khăn nêu trên của công tác quản


2

lý thuế cũng là một bài toán khó cần lời giải của ngành thuế địa phương.
Từ những phân tích nêu trên, tôi chọn luận văn Thạc sỹ với đề tài " Giải pháp
hoàn thiện công tác quản lý thuế tại Chi cục thuế Quận Hồng Bàng – Thành phố Hải
Phòng" để nhằm nghiên cứu, giải quyết một vấn đề cấp thiết và có ý nghĩa thực tiễn
trong công tác quản lý thuế tại Quận Hồng Bàng – Thành phố Hải Phòng hiện nay.

2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là từ việc hệ thống hóa và làm rõ cơ sở lý
luận về công tác quản lý thuế cùng với việc phân tích thực trạng công tác quản lý
thuế trong điều kiện thực tế tại địa phương để có thể đề xuất các giải pháp hoàn
thiện công tác quản lý thuế tại chi cục thuế Quận Hồng Bàng – Thành phố Hải
Phòng cho phù hợp với đường lối chính sách và pháp luật của Nhà nước.
3. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là công tác quản lý thuế.
4. Phạm vi nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là tiếp cận số liệu và tập trung nghiên cứu
những vấn đề liên quan đến công tác quản lý thuế tại Chi cục thuế Quận Hồng Bàng
– Thành phố Hải Phòng trong gần 3 năm 2012 – 2014.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Để hoàn thành mục tiêu nghiên cứu, luận văn đã sử dụng tổng hợp nhiều
phương pháp nghiên cứu khác nhau.
Cơ sở phương pháp luận: Duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Các phương pháp nghiên cứu: Phương pháp phân tích, phương pháp so sánh,
phương pháp thống kê, phương pháp tổng hợp, điều tra, khảo sát thực tế.
6. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu và kết luận thì luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Tổng quan lý luận về thuế và công tác quản lý thuế.
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý thuế tại Chi cục thuế Quận Hồng
Bàng – Thành phố Hải Phòng.
Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thuế tại Chi cục thuế
Quận Hồng Bàng – Thành phố Hải Phòng.


3

CHƯƠNG 1

LÝ LUẬN CHUNG VỀ THUẾ VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ THUẾ
1.1 Tổng quan về thuế
1.1.1 Khái niệm Thuế
Thuế là một khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân có nghĩa vụ
phải thực hiện đối với Nhà nước, phát sinh trên cơ sở các văn bản pháp luật do Nhà
nước ban hành, không mang tính chất đối giá và hoàn trả trực tiếp cho đối tượng
nộp thuế. Thuế không phải là một hiện tượng tự nhiên mà là một hiện tượng xã hội
do chính con người định ra và nó gắn liền với phạm trù Nhà nước và pháp luật.
+ Sự ra đời và tồn tại của thuế gắn liền với sự phân chia xã hội thành các
giai cấp đối kháng và sự xuất hiện của Nhà nước - Pháp luật.
Thuế là một thực thể pháp lý nhân định nhưng sự ra đời và tồn tại của nó
không chỉ phụ thuộc vào ý chí con người mà còn phụ thuộc vào các điều kiện Kinh
tế - Xã hội của từng thời kỳ lịch sử nhất định.
Sự xuất hiện Nhà nước đòi hỏi cần phải có của cải vật chất cần thiết chi cho
hoạt động thường xuyên của bộ máy Nhà nước nhằm đảm bảo cho Nhà nước tồn
tại, duy trì quyền lực và thực hiện chức năng quản lý xã hội của mình. Trong điều
kiện có các giai cấp, tồn tại chế độ tư hữu cùng với phạm vi hoạt động của Nhà
nước ngày càng mở rộng thì chế độ đóng góp theo phương thức tự nguyện của dân
cư trong chế độ cộng sản nguyên thủy không còn phù hợp nữa. Ðể có được lượng
của cải cần thiết, Nhà nước đã sử dụng quyền lực của mình ban hành pháp luật, ấn
định bắt buộc các thể nhân và pháp nhân phải đóng góp cho Nhà nước một phần của
cải mà họ làm ra và hình thành qũy tiền tệ tập trung của Nhà nước. Ban đầu những
của cải vật chất này được thu nộp dưới hình thức hiện vật, dần dần thuế được
chuyển sang hình thức tiền tệ. Ðồng thời với việc ấn định nghĩa vụ thu nộp của cải
vật chất đối với dân cư, Nhà nước đảm bảo việc thực hiện các nghĩa vụ đó bằng bộ
máy cuỡng chế của Nhà nước.
Sự xuất hiện sản phẩm thặng dư trong xã hội là cơ sở chủ yếu để thuế tồn tại
và phát triển. Như vậy, thuế là phạm trù có tính lịch sử và là một tất yếu khách
quan, thuế ra đời xuất phát từ nhu cầu đáp ứng chức năng của Nhà nước và sự tồn
tại của thuế không tách rời quyền lực Nhà nước.



4

+ Thuế do cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất ban hành.
Ở các quốc gia, do vai trò quan trọng của thuế đối với việc hình thành ngân
sách Nhà nước và những ảnh hưởng của nó đối với đời sống Kinh tế - Xã hội nên
thẩm quyền quy định, sửa đổi, bãi bỏ các Luật thuế đều thuộc cơ quan lập pháp.
Ðây là nguyên tắc sớm được ghi nhận trong pháp luật của các nước. Chẳng hạn ở
nước Anh đạo Luật về dân quyền năm 1688 quy định: cấm mọi sự thu thuế để dùng
vào việc chi tiêu của Nhà nước nếu không được Quốc hội chấp thuận; ở Pháp, Quốc
hội Pháp quy định: bất cứ một khoản thuế nào nếu không được Quốc hội chấp thuận
thì không được áp dụng. Hiến pháp của nước Cộng hòa Pháp năm 1791 quy định
Quốc hội Pháp có quyền biểu quyết và định đoạt các Luật thuế.
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: Quốc hội có
nhiệm vụ và quyền hạn quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các Luật thuế. Tuy vậy, do
yêu cầu điều chỉnh các quan hệ pháp luật về thuế, Quốc hội có thể giao cho Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ một số loại thuế thông qua hình
thức ban hành Pháp lệnh hoặc Nghị quyết về thuế.
+ Thuế là khoản nộp mang tính nghĩa vụ bắt buộc của các pháp nhân và thể
nhân đối với Nhà nước không mang tính đối giá hoàn trả trực tiếp.
Thuế là nghĩa vụ thanh toán mà các thể nhân và pháp nhân khi có các dấu
hiệu và điều kiện được quy định cụ thể trong Luật thuế thì phải thực hiện đối với
Nhà nước và được đảm bảo thực hiện bằng sự cưỡng chế của Nhà nước.
+ Thuế là công cụ phản ánh quan hệ phân phối lại của cải vật chất dưới
hình thức giá trị giữa Nhà nước với các chủ thể khác trong xã hội.
Nhà nước thu thuế làm phát sinh quan hệ phân phối giữa Nhà nước với các
thể nhân và pháp nhân trong xã hội. Ðối tượng của quan hệ phân phối này là của cải
vật chất được biểu hiện dưới hình thức giá trị.
Sự tồn tại và phát triển của Nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử, đặc điểm

của phương thức sản xuất, kết cấu giai cấp là những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến
vai trò, nội dung, đặc điểm của thuế. Do đó, cơ cấu và nội dung của cả hệ thống
pháp luật thuế và từng Luật thuế phải được nghiên cứu, sửa đổi bổ sung, cải tiến và
đổi mới kịp thời nhằm thích hợp với tình hình, nhiệm vụ của từng giai đoạn. Ðồng
thời phải tổ chức bộ máy phù hợp, đủ sức đảm bảo thực hiện các quy định pháp luật
về thuế đã được Nhà nước ban hành trong từng thời kỳ.


5

Hệ thống pháp luật thuế được coi là phù hợp không chỉ nhìn một cách phiến
diện vào số lượng các Luật thuế nhiều hay ít, vào mục tiêu đơn thuần là động viên
tài chính vào ngân sách Nhà nước mà phải được phân tích một cách toàn diện, chặt
chẽ với yêu cầu phát triển kinh tế, với đời sống xã hội, không đối lập với quyền lợi
và khả năng đóng góp của nhân dân.
Ở nước ta trước cải cách chế độ thu ngân sách Nhà nước, Luật thuế chỉ áp
dụng đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc thành phần kinh tế tập thể và cá
thể. Ðể thực hiện chế độ thu ngân sách Nhà nước phù hợp với cơ chế thị trường,
phát huy vai trò của các hình thức thu ngân sách Nhà nước, cuộc cải cách chế độ thu
ngân sách Nhà nước được thực hiện trên cơ sở Nghị quyết Quốc hội khóa VIII kỳ
họp thứ IV năm 1989. Kết qủa của cuộc cải cách này đưa đến việc áp dụng thống
nhất chế độ thu thuế đối với tất cả các thành phần kinh tế, không phân biệt hình
thức sở hữu, hình thức kinh doanh. Từ đây thuế thực sự trở thành nguồn thu chủ yếu
của ngân sách Nhà nước và thuế chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu nguồn thu ngân
sách Nhà nước.
1.1.2 Phân loại thuế
Tùy theo điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước mà hệ thống pháp luật
thuế bao gồm nhiều loại thuế khác nhau. Ðể định hướng xây dựng và quản lý hệ
thống thuế, chúng ta tiến hành sắp xếp các Luật thuế có cùng tính chất thành những
nhóm khác nhau, gọi là phân loại thuế. Tùy thuộc vào mục tiêu, yêu cầu của từng

giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội mà cơ cấu và nội dung các Luật thuế có khác
nhau. Cũng tùy thuộc vào cơ sở, mục đích phân định, thông thường thuế được phân
loại theo các tiêu thức sau:
+ Căn cứ vào tính chất của nguồn tài chính động viên vào ngân sách Nhà
nước, thuế được phân làm 2 loại: thuế trực thu và thuế gián thu.
- Thuế gián thu là loại thuế mà Nhà nước sử dụng nhằm động viên một phần
thu nhập của người tiêu dùng hàng hóa, sử dụng dịch vụ thông qua việc thu thuế đối
với người sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Tính chất gián thu thể hiện ở chổ
người nộp thuế và người chịu thuế không đồng nhất với nhau. Thuế gián thu là một
bộ phận cấu thành trong giá cả hàng hoá, dịch vụ do chủ thể hoạt động sản xuất,
kinh doanh nộp cho Nhà nước nhưng người tiêu dùng lại là người phải chịu thuế. Ở


6

nước ta thuộc loại thuế này bao gồm: Thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt...
- Thuế trực thu là loại thuế mà Nhà nước thu trực tiếp vào phần thu nhập của
các pháp nhân hoặc thể nhân. Tính chất trực thu thể hiện ở chổ người nộp thuế theo
quy định của pháp luật đồng thời là người chịu thuế. Thuế trực thu trực tiếp động
viên, điều tiết thu nhập của người chịu thuế. Ở nước ta thuộc loại thuế này gồm:
thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, thuế
chuyển quyền sử dụng đất, thuế sử dụng đất nông nghiệp...
Sự phân loại thuế thành thuế trực thu và thuế gián thu có ý nghĩa quan trọng
trong việc xây dựng chính sách pháp luật thuế.
+ Căn cứ vào đối tượng đánh thuế. Thuế được chia thành:
- Thuế đánh vào hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ như thuế giá trị gia tăng.
- Thuế đánh vào sản phẩm hàng hoá như thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ
đặc biệt...
- Thuế đánh vào thu nhập như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập đối

với người có thu nhập cao.
- Thuế đánh vào tài sản như thuế nhà đất.
- Thuế đánh vào việc khai thác hoặc sử dụng một số tài sản quốc gia như
thuế tài nguyên, thuế sử dụng đất, sử dụng vốn của ngân sách Nhà nước.
- Thuế khác và lệ phí, phí.
Các loại thuế trên được áp dụng cho nhiều đối tượng khác nhau để vừa phát
huy tác dụng riêng của từng loại thuế, vừa hổ trợ, bổ sung cho nhau nhằm thực hiện
một cách tổng hợp các mục tiêu và vai trò của hệ thống pháp luật thuế.
Ở nước ta, từ giữa những năm 1980, cùng với công cuộc đổi mới và mở cửa
nền kinh tế, hệ thống pháp luật thuế Việt Nam đã được nghiên cứu và đến năm 1990
một hệ thống pháp luật thuế mới được hình thành, bao gồm hệ thống chính sách
pháp luật thuế và hệ thống quản lý Nhà nước về thuế.
Hiện nay theo Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 – 2020 đã
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, hệ thống chính sách thuế trong giai đoạn
2011 - 2020 bao gồm các sắc thuế, phí và lệ phí chủ yếu sau đây: Thuế giá trị gia
tăng; Thuế tiêu thụ đặc biệt; Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; Thuế thu nhập doanh


7

nghiệp; Thuế thu nhập cá nhân; Thuế tài nguyên; Thuế sử dụng đất nông nghiệp;
Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp; Thuế bảo vệ môi trường. Ngoài ra còn có một
số phí và lệ phí có tính chất như thuế như: lệ phí trước bạ, lệ phí giao thông, lệ phí
chứng thư, lệ phí sát sinh.
- (1) Thuế giá trị gia tăng:
Khái niệm: Thuế giá trị gia tăng có nguồn gốc từ thuế doanh thu và Pháp là
nước đầu tiên trên thế giới ban hành Luật thuế giá trị gia tăng vào năm 1954. Thuế
giá trị gia tăng đã được áp dụng rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới, tính đến nay đã
có khoảng 130 quốc gia áp dụng loại thuế này. Ở nước ta, tại kỳ họp lần thứ 3 Quốc
hội khoá 12, Quốc hội nước ta đã thông qua Luật thuế giá trị gia tăng (Luật số:

13/2008/QH12) có hiệu lực thi hành kề từ ngày 01/01/1999. Sau đó tại Quốc hội
khoá XIII, kỳ họp thứ 5 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật
thuế giá trị gia tăng (Luật số: 31/2013/QH13) và sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2014.
Theo quy định của Luật thuế giá trị gia tăng thì thuế giá trị gia tăng là một
loại thuế gián thu đánh trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh
trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng và được nộp vào ngân sách Nhà
nước theo mức độ tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ.
Ðây là một loại thuế doanh thu đánh vào mỗi giai đoạn sản xuất, lưu thông
sản phẩm hàng hoá, từ khi còn là nguyên liệu thô sơ cho đến sản phẩm hoàn thành,
và cuối cùng là giai đoạn tiêu dùng. Chính vì vậy mà chúng ta còn gọi là thuế doanh
thu có khấu trừ số thuế đã nộp ở giai đoạn trước. Thuế giá trị gia tăng được cộng
vào giá bán hàng hoá, dịch vụ, và do người tiêu dùng chịu khi mua hàng hoá, sử
dụng dịch vụ.
Cơ chế hoạt động của thuế giá trị gia tăng: Cơ sở cuả thuế giá trị gia tăng
chính là phần giá trị tăng thêm cuả sản phẩm do cơ sở sản xuất, kinh doanh mới
sáng tạo ra chưa bị đánh thuế. Nói cách khác, cơ sở của thuế giá trị gia tăng là
khoản chênh lệch giữa giá mua và giá bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ. Do đó cơ
chế hoạt động của thuế giá trị gia tăng được quy định như sau:
- Một trong những nguyên tắc cơ bản cuả thuế giá trị gia tăng là sản phẩm,
hàng hoá dù qua nhiều khâu hay ít khâu từ sản xuất đến tiêu dùng, đều chịu thuế
như nhau.


8

- Thuế giá trị gia tăng có điểm cơ bản khác với thuế doanh thu là chỉ có
người bán hàng (hoặc dịch vụ) lần đầu phải nộp thuế giá trị gia tăng trên toàn bộ
doanh thu bán hàng (hoặc cung ứng dịch vụ). Còn người bán hàng (hoặc dịch vụ) ở
các khâu tiếp theo đối với hàng hoá (hoặc dịch vụ) đó, chỉ phải nộp thuế trên phần

giá trị tăng thêm. Nói cách khác, thuế giá trị gia tăng là loại thuế duy nhất thu theo
phân đoạn chia nhỏ, trong quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá (hoặc dịch vụ) từ
khâu đầu tiên đến người tiêu dùng, khi khép kín một chu kỳ kinh tế. Ðến cuối chu
kỳ sản xuất, kinh doanh hoặc cung cấp dịch vụ, tổng số thuế thu được ở các công
đoạn sẽ khớp với số thuế tính trên giá bán hàng hoá hoặc giá dịch vụ cho người tiêu
dùng cuối cùng.
- Thuế giá trị gia tăng không chịu ảnh hưởng bởi kết quả sản xuất, kinh
doanh của đối tượng nộp thuế, không phải là yếu tố của chi phí mà chỉ đơn thuần là
một khoản được cộng thêm vào giá bán của đối tượng cung cấp hàng hóa, dịch vụ.
- Thuế giá trị gia tăng do người tiêu dùng chịu nhưng không phải do người
tiêu dùng trực tiếp nộp mà là do người bán sản phẩm (hoặc dịch vụ) nộp thay vào
kho bạc, do trong giá bán hàng hoá (hoặc trong dịch vụ) có cả thuế giá trị gia tăng.
Vì qua từng công đoạn, thuế giá trị gia tăng đã được người bán đưa vào giá hàng
hoá, dịch vụ cho nên thuế này được chuyển toàn bộ cho người mua hàng hóa hoặc
sử dụng dịch vụ cuối cùng chịu.
Ðể áp dụng thuế giá trị gia tăng cho đúng đắn, công bằng, có hiệu quả, đáp
ứng được chủ trương "góp phần thúc đẩy sản xuất, khuyến khích phát triển nền kinh
tế quốc dân, động viên một phần thu nhập của người tiêu dùng vào ngân sách nhà
nước", cần phải giải quyết trước hết một số vấn đề sau:
- Các hoạt động sản xuất kinh doanh, mua bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ
lớn và vừa phải thực hiện đầy đủ chế độ hoá đơn, chứng từ hợp lệ tạo điều kiện
thuận lợi cho việc kiểm tra, xác định doanh thu tính thuế và khấu trừ thuế đối với
từng cơ sở kinh doanh.
- Công tác kế toán doanh nghiệp, nhất là kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm phải được hướng dẫn thực hiện thật tốt, đảm bảo được giá thành sản
phẩm phản ảnh trung thực các chi phí thực tế phát sinh đã cấu tạo ra sản phẩm lưu
thông trên thị trường đến tay người tiêu dùng. Hệ thống bán lẻ (các cửa hàng, cửa hiệu,


9


các siêu thị) cũng được hướng dẫn chế độ sổ sách kế toán hợp lệ, thực hiện nghiêm
chỉnh và được kiểm tra chặt chẽ. Chỉ số giá cả lên xuống từng thời kỳ phải được quy
định rõ để tiến hành điều chỉnh giá bán lẻ, đảm bảo giá trị tăng thêm hợp lý.
- Trình độ cán bộ quản lý thu thuế phải được nâng cao về chế độ hoá đơn,
chứng từ, sổ kế toán, thông thạo về chế độ quản lý, tính thuế, khấu trừ thuế, hoàn
thuế giá trị gia tăng. Hơn nữa, khi áp dụng thuế giá trị gia tăng thì vai trò cuả người
thu thuế đồng thời cũng là người trả thuế (thoái thu) và vai trò cuả người nộp thuế
cũng là người thu thuế (được cơ quan thuế khấu trừ hoặc hoàn lại). Người thu thuế
phải có khả năng tính được mức thuế phải thu, mức thuế khấu trừ cho đúng, đủ, kịp
thời. Về khả năng thì có thể đào tạo được, nhưng vấn đề quan trọng nhất là người
thu thuế nếu kém phẩm chất sẽ có điều kiện để tiêu cực, đó là việc tính mức khấu
trừ, mức thoái thu cao hơn mức chính xác, làm thiệt hại cho ngân sách nhà nước
hoặc khấu trừ không đủ, hoàn thuế chậm trễ làm thiệt hại cho các chủ thể đã chịu
thuế trong quá trình sản xuất, kinh doanh. Ðối với người nộp thuế, tất nhiên ngoài
khả năng tính toán đầy đủ số thuế mình còn phải nộp sau khi được khấu trừ, còn
phải có đầy đủ phẩm chất cuả một nhà kinh doanh lương thiện xem việc nộp thuế
đầy đủ, kịp thời là một nghĩa vụ hợp lý và công bằng.
- Mở rộng diện thanh toán mua bán hàng hoá thông qua các tài khoản ngân
hàng, tạo điều kiện cho việc xác định doanh thu bán hàng, làm căn cứ cho việc tính
thuế được chính xác.
- Ý thức tự nguyện, tự giác chấp hành các luật thuế cuả các doanh nghiệp từng
bước được nâng lên, gắn liền với việc xử lý nghiêm các hành vi vi phạm về thuế.
- Hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện và đưa dần việc thực hiện pháp
luật vào nề nếp, kỷ cương, cả trong nhận thức tư tưởng và trong hành động thực tế.
Vai trò của thuế giá trị gia tăng trong lưu thông hàng hoá: Luật thuế doanh
thu quy định doanh thu phát sinh là cơ sở để thực hiện chế độ thu nộp thuế. Do đó
Nhà nước đánh thuế trên toàn bộ doanh thu phát sinh của sản phẩm qua mỗi lần
chuyển dịch từ khâu sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Nếu các sản phẩm, hàng hoá
chịu thuế càng qua nhiều khâu thì số thuế Nhà nước thu cũng tăng thêm qua các

khâu nên việc áp dụng thuế doanh thu dẫn đến tình trạng thuế thu trùng lặp đối với
phần doanh thu đã chịu thuế ở công đoạn trước. Ðiều đó mang tính bất hợp lý, tác


10

động tiêu cực đến sản xuất và lưu thông hàng hoá. Với tính ưu điểm của thuế giá trị
gia tăng là Nhà nước chỉ thu thuế đối với phần giá trị tăng thêm cuả các sản phẩm ở
từng khâu sản xuất, lưu thông mà không thu thuế đối với toàn bộ doanh thu phát
sinh như mô hình thuế doanh thu. Nếu như không có các sự kiện biến động về tài
chính, tiền tệ, sản xuất và lưu thông giảm suất, yếu kém, kinh tế suy thoái và các
nguyên nhân khác tác động thì việc áp dụng thuế giá trị gia tăng thay cho thuế
doanh thu sẽ không ảnh hưởng gì đến giá cả các sản phẩm tiêu dùng, mà trái lại giá
cả càng hợp lý hơn, chính xác hơn vì tránh được thuế chồng lên thuế.
Theo nghiên cứu và thống kê cuả ngân hàng thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ
quốc tế (IMF) thì phần lớn các nước trong đó có cả Việt Nam sau khi áp dụng thuế
giá trị gia tăng, giá cả các loại hàng hoá, dịch vụ đều không thay đổi hay chỉ thay
đổi một tỷ lệ không đáng kể và mức sản xuất cuả các doanh nghiệp, mức tiêu dùng
cuả dân chúng không sút giảm, hay chỉ suất giảm một tỷ lệ nhỏ trong thời gian đầu,
kể cả các trường hợp tăng thuế suất thuế giá trị gia tăng đối với một số mặt hàng
trong định kỳ điều chỉnh. Như vậy ta có thể kết luận rằng thuế giá trị gia tăng không
phải là một nhân tố gây ra lạm phát, gây khó khăn trở ngại cho việc phát triển sản
xuất, lưu thông hàng hoá mà trái lại, việc áp dụng thuế giá trị gia tăng đã góp phần
ổn định giá cả, mở rộng lưu thông hàng hoá, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển
và đẩy mạnh xuất khẩu.
Vai trò của thuế giá trị gia tăng trong quản lý nhà nước về kinh tế: Thuế là
công cụ rất quan trọng để Nhà nước thực hiện chức năng quản lý vĩ mô đối với nền
kinh tế. Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình vận hành theo cơ chế thị trường có
sự quản lý cuả nhà nước, do đó thuế giá trị gia tăng có vai trò rất quan trọng và
được thể hiện như sau:

- Thuế giá trị gia tăng thuộc loại thuế gián thu và được áp dụng rộng rãi đối
với mọi tổ chức, cá nhân có tiêu dùng sản phẩm hàng hoá hoặc được cung ứng dịch
vụ, nên tạo được nguồn thu lớn và tương đối ổn định cho ngân sách nhà nước.
- Thuế tính trên giá bán hàng hoá hoặc giá dịch vụ nên không phải đi sâu
xem xét, phân tích về tính hợp lý, hợp lệ cuả các khoản chi phí, làm cho việc tổ
chức quản lý thu tương đối dễ dàng hơn các loại thuế trực thu.
- Ðối với hàng xuất khẩu không những không nộp thuế giá trị gia tăng mà
còn được khấu trừ hoặc được hoàn lại số thuế giá trị gia tăng đầu vào nên có tác


11

dụng giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, đẩy mạnh xuất khẩu, tạo điều kiện cho
hàng xuất khẩu có thể cạnh tranh thuận lợi trên thị trường quốc tế.
- Thuế giá trị gia tăng cùng với thuế nhập khẩu làm tăng giá vốn đối với
hàng nhập khẩu, có tác dụng tích cực bảo hộ sản xuất kinh doanh hàng nội địa.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho việc chống thất thu thuế đạt hiệu quả cao. Việc
khấu trừ thuế giá trị gia tăng được thực hiện căn cứ trên hoá đơn mua vào đã thúc
đẩy người mua phải đòi hỏi người bán xuất hoá đơn, ghi doanh thu đúng với hoạt
động mua bán, khắc phục được tình trạng thông đồng giữa người mua và người bán
để trốn lậu thuế. Ở khâu bán lẻ thường xảy ra trốn lậu thuế do người tiêu dùng
không cần đòi hỏi hoá đơn vì đối với họ không còn xảy ra việc khấu trừ thuế. Tuy
vậy, ở khâu bán lẻ cuối cùng, giá trị tăng thêm thường không lớn, số thuế thu ở khâu
này không nhiều.
- Thuế giá trị gia tăng thường có ít thuế suất, bảo đảm sự đơn giản, rõ ràng.
Với ít thuế suất, loại thuế này mang tính trung lập, vì về cơ bản không can thiệp sâu
vào mục tiêu khuyến khính hay hạn chế sản xuất, kinh doanh dịch vụ, tiêu dùng,
theo ngành nghề cụ thể, không gây phức tạp trong việc xem xét từng mặt hàng,
ngành nghề có thuế suất chênh lệch nhau nhiều.
- Nâng cao được tính tự giác trong việc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của người

nộp thuế. Thông thường, trong chế độ kê khai nộp thuế giá trị gia tăng, cơ quan thuế
tạo điều kiện cho cơ sở kinh doanh tự kiểm tra, tính thuế, kê khai và nộp thuế. Từ
đó, tạo tâm lý và cơ sở pháp lý cho đơn vị kinh doanh không phải hiệp thương, thoả
thuận về mức doanh thu, mức thuế với cơ quan thuế. Việc kiểm tra thuế giá trị gia
tăng cũng có mặt thuận lợi vì đã buộc người mua, người bán phải nộp và lưu giữ
chứng từ, hóa đơn đầy đủ nên việc thu thuế tương đối sát với hoạt động kinh doanh
từ đó tập trung được nguồn thu thuế giá trị gia tăng vào ngân sách nhà nước ngay từ
khâu sản xuất và thu thuế ở khâu sau còn kiểm tra được việc tính thuế, nộp thuế ở
khâu trước nên hạn chế thất thu về thuế.
- Tăng cường công tác hạch toán kế toán và thúc đẩy việc mua bán hàng hoá
có hoá đơn chứng từ, việc tính thuế đầu ra được khấu trừ số thuế đầu vào là biện
pháp kinh tế góp phần thúc đẩy cả người mua và người bán cùng thực hiện tốt hơn
chế độ hoá đơn, chứng từ.


12

- Việc khấu trừ thuế đã nộp ở đầu vào còn có tác dụng khuyến khích hiện
đại hoá, chuyên môn hoá sản xuất, tăng cường đầu tư mua sắm trang thiết bị mới để
hạ giá thành sản phẩm.
- Thuế giá trị gia tăng được ban hành gắn liền với việc sửa đổi, bổ sung một
số loại thuế khác như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu... góp phần làm
cho hệ thống chính sách thuế của Việt Nam ngày càng hoàn thiện, phù hợp với sự
vận động và phát triển của nền kinh tế thị trường, tương đồng với hệ thống thuế
trong khu vực và trên thế giới, góp phần đẩy mạnh việc mở rộng hợp tác kinh tế và
thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Nhìn chung trong các loại thuế gián thu, thuế giá trị gia tăng được coi là
phương pháp thu tiến bộ nhất hiện nay, được đánh giá cao do đạt được các mục tiêu
lớn cuả chính sách thuế, như tạo được nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, đơn
giản, trung lập... Tuy nhiên, trong thời gian đầu áp dụng thuế giá trị gia tăng đã phát

sinh một số khó khăn, vướng mắc và Nhà nước ta đã từng bước tháo gỡ những khó
khăn đó trong quá trình thực hiện Luật thuế giá trị gia tăng.
-

(2) Thuế tiêu thụ đặc biệt:

Khái niệm: Thuế tiêu thụ đặc biệt là một loại thuế gián thu, đánh vào một số
hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế theo qui định của luật thuế tiêu thụ đặc
biệt. Thuế được cấu thành trong giá cả hàng hóa, dịch vụ và do người tiêu dùng chịu
khi mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ.
Thuế tiêu thụ đặc biệt được áp dụng phổ biến ở các nước trên thế giới với
những tên gọi khác nhau: chẳng hạn ở Pháp gọi là thuế tiêu dùng đặc biệt, ở Thụy
Ðiển gọi là thuế đặc biệt. Ở nước ta, tiền thân của thuế tiêu thụ đặc biệt hiện hành là
thuế hàng hóa được ban hành năm 1951. Ðến năm 1990 Bộ tài chính soạn thảo dự
án luật thuế mới, đổi thuật ngữ thuế hàng hóa thành thuế tiêu thụ đặc biệt và được
Quốc hội thông qua ngày 30/6/1990. Sau đó được sửa đổi bổ sung tại kỳ họp thứ 3
Quốc hội khóa 9 và thông qua ngày 5/7/1993. Ðến tháng 10/1995 Luật thuế tiêu thụ
đặc biệt lại được sửa đổi, bổ sung lần nữa. Ðể phát huy vai trò của luật thuế tiêu thụ
đặc biệt trong điều tiết sản xuất, tiêu dùng xã hội, điều tiết thu nhập của người tiêu
dùng cho ngân sách nhà nước một cách hợp lý, tăng cường quản lý sản xuất kinh
doanh đối với một số hàng hóa, dịch vụ; ngày 20/5/1998 Quốc hội khóa X, kỳ họp


13

thứ 3 đã thông qua Luật thuế tiêu thụ đặc biệt (Luật số: 05/1998/QH10) và có hiệu
lực thi hành kể từ ngày 01/01/1999 thay thế Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 1990 và
hai đạo luật sửa đổi, bổ sung ban hành năm 1993 và năm 1995. Sau đó Quốc hội
khóa XII, kỳ họp thứ 4 đã thay thế luật trên, thông qua Luật thuế tiêu thụ đặc biệt
(Luật số: 27/2008/QH12) ngày 14/11/2008 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/4/2009.

Ðặc điểm của thuế tiêu thụ đặc biệt: Là một loại thuộc tiêu dùng, thuế tiêu
thụ đặc biệt có những đặc điểm như sau :
- Các loại hàng hóa, dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt được pháp luật thuế
các nước qui định hầu như giống nhau gồm : rượu, bia, thuốc lá, xe ô tô, xăng...;
kinh doanh cá cược, đua ngựa, đua xe, sòng bạc...
- Mức thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt được pháp luật thuế các nước quy định
rất cao vì thuế đánh vào một số hàng hóa dịch vụ mang tính chất xa xỉ, chưa thật
cần thiết cho nhu cầu thiết yếu hàng ngày của con người và có ảnh hưởng đến sức
khỏe của nhiều người trong xã hội.
- Cách thu thuế tiêu thụ đặc biệt ở các nước cũng giống nhau, tức là nhà
nước chỉ thu một lần ở khâu sản xuất, nhập khẩu hàng hóa hay kinh doanh các dịch
vụ thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.
Tầm quan trọng của thuế tiêu thụ đặc biệt: Xuất phát từ đặc điểm đã được
trình bày ở phần trên, do đó thuế tiêu thụ đặc biệt có tầm quan trọng như sau:
- Thông qua chế độ thu thuế tiêu thụ đặc biệt, nhà nước động viên một phần
thu nhập đáng kể của người tiêu dùng vào ngân sách nhà nước.
- Thuế tiêu thụ đặc biệt là công cụ rất quan trọng để nhà nước thực hiện chức
năng hướng dẩn sản xuất và điều tiết tiêu dùng xã hội.
- Thuế tiêu thụ đặc biệt cũng là công cụ để nhà nước điều tiết thu nhập của
người tiêu dùng vào ngân sách nhà nước một cách công bằng hợp lý: ai tiêu dùng nhiều
các hàng hóa, dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt thì nộp thuế nhiều hơn người tiêu
dùng ít hoặc không phải nộp thuế nếu không tiêu dùng các hàng hóa, dịch vụ đó.
- Việc ban hành Luật thuế tiêu thụ đặc biệt để điều chỉnh việc sản xuất, kinh
doanh, lưu thông và tiêu dùng một số hàng hóa, dịch vụ mang tính chất xa xỉ, chưa
thật cần thiết cho nhu cầu xã hội thể hiện sự tăng cường quản lý, kiểm soát của nhà
nước một cách tập trung, chặt chẽ đối với các loại hàng hóa, dịch vụ này.


14


Mối liên hệ giữa thuế tiêu thụ đặc biệt với các loại thuế khác trong quá trình
lưu thông hàng hóa, thực hiện dịch vụ (chủ yếu là thuế giá trị gia tăng, thuế xuất
khẩu, nhập khẩu): Các loại hàng hóa, dịch vụ thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt
không phải chịu thuế giá trị gia tăng đối với số lượng hàng hóa, dịch vụ đã kê khai
nộp thuế tiêu thụ đặc biệt. Chẳng hạn, cơ sở trực tiếp sản xuất khi bán ra những mặt
hàng thuộc diện chiụ thuế tiêu thụ đặc biệt thì cơ sở này chỉ kê khai nộp thuế tiêu
thụ đặc biệt mà không phải kê khai nộp thuế giá trị gia tăng đối với số hàng hoá đã
chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.
Trường hợp cơ sở sản xuất có tổ chức chi nhánh, cửa hàng tiêu thụ sản phẩm
trực thuộc thì cơ sở sàn xuất phải kê khai và nộp thuế tiêu thụ đặc biệt tại nơi sản
xuất. Các chi nhánh, cửa hàng tiêu thụ sản phẩm phải kê khai nộp thuế giá trị gia
tăng theo thuế suất đối với hoạt động kinh doanh thương nghiệp.
Các hàng hóa, dịch vụ đã chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, khi lưu thông trên thị
trường, tức là được chuyển qua khâu thương nghiệp thì các cơ sở kinh doanh các
mặt hàng này không phải nộp thuế tiêu thụ đặc biệt nhưng phải nộp thuế giá trị gia
tăng theo biểu thuế ngành kinh doanh thương nghiệp.
Cơ sở nhập khẩu các mặt hàng thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp
thuế tiêu thụ đặc biệt cùng với thuế nhập khẩu theo từng lần nhập khẩu, khi bán
hàng hóa này thì cơ sở phải nộp thuế giá trị gia tăng.
-

(3) Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu:

Khái niệm: Sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển dẫn đến các quan hệ mua
bán trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia diễn ra ngày càng tăng. Mỗi một quốc gia
độc lập có chủ quyền đều sử dụng một loại thuế thu vào hàng hoá xuất khẩu, nhập
khẩu qua cửa khẩu, biên giới nước mình. Thuế này được gọi chung là thuế quan.
Trong điều kiện nền kinh tế thế giới phát triển theo xu hướng quốc tế hóa thì
pháp luật của các nước về thuế quan ngày càng có xu thế hội nhập với các quốc gia
trong khu vực và trên phạm vi toàn thế giới.

Thuế quan ở Việt Nam có tên gọi là thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu - Thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một loại thuế đánh vào các hàng hoá mậu dịch, phi
mậu dịch được phép xuất khẩu, nhập khẩu qua biên giới Việt Nam.
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được nhà nước ta ban hành vào năm 1951,
thời điểm này thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là công cụ để nhà nước thực hiện


15

chức năng quản lý việc xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá giữa vùng tự do và vùng bị
tạm chiếm, bảo vệ và phát triễn kinh tế vùng tự do, xúc tiến việc giao lưu các loại
hàng hoá là nhu yếu phẩm cần thiết cho quân đội và nhân dân. Phương châm đấu
tranh kinh tế với địch là đẩy mạnh xuất khẩu, tranh thủ nhập khẩu các loại hàng hoá
cần thiết cho kháng chiến, sản xuất và đời sống nhân dân. Do đó, nhà nước miễn
thuế xuất khẩu cho tất cả các loại hàng hoá của vùng tự do. Mặt khác, hạn chế nhập
khẩu hàng hoá từ vùng địch. Thuế suất áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu là từ 30
% trở lên.
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hàng mậu dịch được Quốc hội nước ta ban
hành ngày 29/12/1987. Ðạo luật này chỉ điều chỉnh quan hệ thu nộp thuế phát sinh từ
hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng mậu dịch. Do đó có sự phân biệt trong áp dụng
chế độ thu thuế giữa hàng hoá mậu dịch với các loại hàng hoá phi mậu dịch khác.
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được sửa đổi, bổ sung một số điều và đã
được Quốc hội thông qua ngày 26/12/1991 và ngày 20/5/1998.
Sau đó Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành được Quốc hội khóa XI,
kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14/6/2005 (Luật số: 45/2005/QH11) có hiệu lực thi hành
từ ngày 01/01/2006. Theo đó, Nhà nước thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu không
phân biệt tính chất hàng hoá là xuất khẩu, nhập khẩu mậu dịch hay phi mậu dịch.
Ðối tượng điều chỉnh của Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu là quan hệ thu nộp
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu giữa nhà nước với các tổ chức và cá nhân có hàng
hoá được phép xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam, kể cả hàng

hoá từ thị trường trong nước đưa vào khu chế xuất và từ khu chế xuất đưa ra thị
trường trong nước.
Theo quy định của Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu thì thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu đối với hàng hoá mậu dịch mang tính chất gián thu. Còn đối với các loại
hàng hoá khác thì tùy theo từng trường hợp mà thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có
tính chất gián thu hoặc tính chất trực thu.
Tính chất của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu: Thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu là công cụ rất quan trọng để nhà nước thực hiện chính sách kinh tế của mình,
quản lý các hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu; mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại;
nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu. Căn cứ vào từng giai đoạn


16

lịch sử và điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi nước mà thuế quan được sử dụng với
nhiều mục tiêu khác nhau. Tuy nhiên, ở góc độ chung nhất có thể nhận thấy rằng
tính chất của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được thể hiện ở các khía cạnh sau:
- Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là nguồn thu quan trọng cho ngân sách nhà
nước. Mục tiêu chung của các quốc gia là sử dụng thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
để tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Ðồng thời thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu là loại thuế dễ thu nhất, ít bị phản ứng từ phía trong nước, thậm chí có khi còn
được sự ủng hộ của nhiều người.
- Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cấu thành trong giá cả hàng hoá, làm tăng
giá hàng hoá, do đó có tác dụng điều tiết xuất khẩu, nhập khẩu và hướng dẫn tiêu
dùng; bởi vì lượng hàng hoá xuất khẩu hay nhập khẩu phụ thuộc vào sức tiêu thụ
hàng hoá, yếu tố này lại phụ thuộc vào giá cả. Giá cả hàng hoá cao hay thấp sẽ
quyết định việc giảm hoặc tăng sức cạnh tranh của hàng hoá đó trên thị trường.
Thông qua thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nhà nước điều tiết việc xuất khẩu, nhập
khẩu hàng hoá . Hơn nữa, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu sẽ hạn chế việc tiêu dùng
hàng hoá xa xỉ hoặc các loại hàng hoá không được khuyến khích sử dụng như thuốc

lá, rượu, bia...
- Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có tác dụng bảo hộ nền sản xuất trong
nước. Việc đánh thuế cao vào hàng hoá nhập khẩu sẽ giúp các nhà sản xuất trong
nước có thể cạnh tranh được với hàng hoá nhập khẩu. Ðặc biệt thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu giúp cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh các ngành còn non trẻ
trong nước có thời gian trưởng thành và sinh lời để từ đó có thể cạnh tranh với hàng
hoá nhập khẩu.
- Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có tác dụng giảm bớt nạn thất nghiệp vì
việc đánh thuế nhập khẩu cao thì hàng hoá nhập khẩu sẽ giảm; để bù vào lượng
hàng hoá nhập khẩu đó nhà nước ta phải mở rộng đầu tư, phát triển sản xuất, tạo ra
nhiều công ăn việc làm cho người lao động từ đó góp phần giải quyết nạn thất
nghiệp trong nước.
- Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là công cụ để nhà nước thực hiện chính
sách phân biệt đối xử trong quan hệ thương mại đối với các nước. Chẳng hạn Mỹ
đòi EU phải giảm từ 30 - 50% trợ cấp cho nông nghiệp, nếu không Mỹ sẽ tăng mức
thuế đánh vào hàng hoá nông sản của EU nhập khẩu vào thị trường Mỹ.


17

- Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu góp phần mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngọai giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới.
- Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu là công cụ quan trọng để Nhà nước thực hiện
chức năng quản lý và nâng cao hiệu qủa hoạt động xuất nhập khẩu trong cả nước.
Mã số thuế: Danh mục mặt hàng chịu thuế cuả biểu thuế xuất khẩu, biểu thuế
nhập khẩu hiện hành, về cơ bản được xây dựng dựa trên cơ sở bảng danh mục hàng
hoá xuất khẩu, nhập khẩu cuả Hội đồng hợp tác hải quan thế giới, đồng thời có biến
đổi một số phần cụ thể cho phù hợp với hoạt động xuất, nhập khẩu cuả Việt Nam.
-


(4) Thuế thu nhập doanh nghiệp:

Khái niệm: Thuế thu nhập doanh nghiệp là một loại thuế trực thu đánh vào
lợi nhuận của các doanh nghiệp.
Ở Việt Nam, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp được Quốc hội nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 10/5/1997 và có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/01/1999 thay cho Luật thuế lợi tức.
Sau đó luật này được thay thế bằng Luật thuế thu nhập doanh nghiệp (Luật
số: 09/2003/QH11) do Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 17/6/2003.
Tiếp theo Luật số 09 nêu trên đã được thay thế bằng Luật thuế thu nhập
doanh nghiệp (Luật số: 14/2008/QH12) do Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 3 thông
qua ngày 03/6/2008 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009 nhằm đảm bảo sự
phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế trong giai đoạn mới.
Vì sao cần phải có thuế thu nhập doanh nghiệp: Thuế thu nhập doanh nghiệp
xuất hiện rất sớm trong lịch sử phát triển của thuế. Hiện nay ở các nước phát triển,
thuế thu nhập doanh nghiệp giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo ổn
định nguồn thu ngân sách Nhà nước và thực hiện phân phối thu nhập. Mức thuế cao
hay thấp áp dụng cho các chủ thể thuộc đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp
là khác nhau, điều đó phụ thuộc vào quan điểm điều tiết thu nhập và mục tiêu đặt ra
trong phân phối thu nhập của từng quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Thuế thu nhập doanh nghiệp ra đời bắt nguồn từ các lý do chủ yếu sau:
- Thuế thu nhập doanh nghiệp ra đời bắt nguồn từ yêu cầu thực hiện chức
năng tái phân phối thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội.
- Sự ra đời của thuế thu nhập doanh nghiệp xuất phát từ nhu cầu tài chính
của Nhà nước.


18

Vai trò của thuế thu nhập doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường:

Thuế thu nhập doanh nghiệp là công cụ quan trọng để Nhà nước thực hiện
chức năng tái phân phối thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội. Trong điều kiện nền
kinh tế thị trường ở nước ta, tất cả các thành phần kinh tế đều có quyền tự do kinh
doanh và bình đằng trên cơ sở pháp luật. Các doanh nghiệp với lực lượng lao động có
tay nghề cao, năng lực tài chính mạnh thì doanh nghiệp đó sẽ có ưu thế và có cơ hội
để nhận được thu nhập cao, ngược lại các doanh nghiệp với năng lực tài chính, lực
lượng lao động bị hạn chế sẽ nhận được thu nhập thấp, thậm chí không có thu nhập.
Ðể hạn chế nhược điểm đó, Nhà nước sử dụng thuế thu nhập doanh nghiệp làm công
cụ điều tiết thu nhập của các chủ thể có thu nhập cao, đảm bảo yêu cầu đóng góp của
các chủ thể kinh doanh vào ngân sách Nhà nước được công bằng, hợp lý.
Thuế thu nhập doanh nghiệp là nguồn thu quan trọng của ngân sách Nhà
nước. Phạm vi áp dụng của thuế thu nhập doanh nghiệp rất rộng, gồm cá nhân,
nhóm kinh doanh, hộ cá thể và các tổ chức kinh tế có hoạt động sản xuất, kinh
doanh hàng hoá, dịch vụ có phát sinh lợi nhuận. Nền kinh tế thị trường nước ta ngày
càng phát triển và ổn định, tăng trưởng kinh tế được giữ vững ngày càng cao, các
chủ thể hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ ngày càng mang lại nhiều lợi nhuận
thì khả năng huy động nguồn tài chính cho ngân sách Nhà nước thông qua thuế thu
nhập doanh nghiệp ngày càng dồi dào.
Thuế thu nhập doanh nghiệp là công cụ quan trọng để góp phần khuyến
khích, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển theo chiều hướng kế hoạch, chiến
lược, phát triển toàn diện của Nhà nước. Nhà nước ưu đãi, khuyến khích đối với các
chủ thể đầu tư, kinh doanh vào những ngành, lĩnh vực và những vùng, miền mà Nhà
nước có chiến lược ưu tiên phát triển trong từng giai đoạn nhất định.
Thuế thu nhập doanh nghiệp còn là một trong những công cụ quan trọng của
Nhà nước trong việc thực hiện chứng năng điều tiết các hoạt động kinh tế - xã hội
trong từng thời kỳ phát triển kinh tế nhất định. Thuế thu nhập doanh nghiệp là loại
thuế có vai trò quan trọng trong hệ thống pháp luật thuế của Việt Nam, song để phát
huy một cách có hiệu qủa vai trò của thuế thu nhập doanh nghiệp, chúng ta cần phải
xem xét nó dưới nhiều khía cạnh, kể cả những kinh nghiệm xử lý của nước ngoài.



×