LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi
thực hiện cùng với sự hướng dẫn của PGS-TS. Nguyễn Văn Sơn
Các số liệu và kết quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được
công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.
Tôi cam đoan rằng tất cả các thông tin, trích dẫn trong luận văn được chỉ
dẫn nguồn gốc và nghiên cứu đầy đủ. Nếu sai tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hải Phòng, ngày
tháng
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Bình
1
năm 2016
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin trân trọng cảm ơn PGS-TS. Nguyễn Văn Sơn đã tận
tình, trực tiếp hướng dẫn chỉ bảo tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài
Tôi xin chân thành cảm ơn các giảng viên Viện đào tạo Sau đại học
trường Đại học Hàng Hải Việt Nam; các giảng viên trong và ngoài trường; toàn
thể các bạn học viên; UBND huyện An Dương thành phố Hải Phòng; UBND
các xã: An Đồng, Lê Lợi, Hồng Phong, Đặng Cương, Bắc Sơn, An Hưng, An
Hồng, An Hòa ... cùng một số phòng ban chuyên môn trực thuộc UBND huyện
An Dương và các hộ dân đã giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Hải Phòng, ngày
tháng
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Bình
MỤC LỤC
2
năm 2016
Stt
I
II
III
IV
V
VI
1
2
2.1
2.2
3
3.1
3.2
4
5
5.1
5.2
6
Nội dung
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ CÁI
DANH MỤC BẢNG
MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích
Nhiệm vụ
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng
Phạm vi
Phương pháp nghiên cứu
Tình hình nghiên cứu và đóng góp của luận văn
Tình hình nghiên cứu
Đóng góp của luận văn
Kết cấu của luận văn
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO
NGƯỜI LAO ĐỘNG KHI THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP
1.1
1.1.
1
1.1.
2
1.13
1.1.
4
1.2
1.2.
1
1.2.
2
1.2.
3
1.2.
Quan niệm về việc làm và giải quyết việc làm cho người lao động
bị thu hồi đất nông nghiệp
Khái niệm về việc làm
Khái niệm về giải quyết việc làm cho người lao động có đất nông
nghiệp bị thu hồi
Vai trò của chính sách giải quyết việc làm cho người lao động có
đất nông nghiệp bị thu hồi
Những nội dung cơ bản của chính sách giải quyết việc làm cho
người lao động có đất nông nghiệp bị thu hồi
Căn cứ để giải quyết việc làm cho người lao động có đất nông
nghiệp bị thu hồi
Căn cứ chính trị
Căn cứ pháp luật
Căn cứ vào năng lực của chủ thể ban hành và thực hiện chính sách
Căn cứ vào đặc trưng của đổi tượng thụ hưởng chính sách
3
Trang
4
1.2.
5
1.2.
6
1.2.
7
Căn cứ vào các điều kiện kinh tế
Căn cứ xã hội
Căn cứ vào tình hình quốc tế
Vai trò của nhà nước, các tổ chức, thành phần và xã hội trong hoạch
1.3
định và thực hiện chính sách giải quyết việc làm cho người lao
động có đất nông nghiệp bị thu hồi
1.3.
1
1.3.
2
1.3.
3
1.3.
4
1.4
1.4.
1
1.4.
2
1.5
Vai trò của nhà nước
Vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội
Vai trò của doanh nghiệp
Vai trò của nông dân
Kinh nghiệm giải quyết việc làm cho người lao động ở một số nước
trên thế giới và ở Việt Nam
Kinh nghiệm giải quyết việc làm cho người lao động ở một số nước
trên thế giới
Kinh nghiệm giải quyết việc làm cho người lao động ở Việt Nam
Chính sách của thành phố Hải Phòng đối với người lao động có đất
nông nghiệp bị thu hồi
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƯỜI
LAO ĐỘNG KHI THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN AN DƯƠNG THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
2.1
2.1.
1
2.1.
2
2.1.
3
2.1.
Điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội của huyện
Điều kiện tự nhiên
Tài nguyên nước
Thực trạng môi trường
Lao động, việc làm
4
4
2.1.
5
2.2
2.3
Thực trạng phát triển đô thị và các khu dân cư nông dân
Tình hình thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn huyện và chính sách
bồi thường
Thực trạng giải quyết việc làm cho người lao động có đất nông
2.3.
nghiệp bị thu hồi ở huyện An Dương
Thực trạng việc sử dụng tiền bồi thường, đời sống thu nhập của
1
2.3.
nhóm hộ điều tra
Thực trạng công tác giải quyết việc làm cho người lao động ở các
2
địa phương có đất nông nghiệp bị thu hồi
Một số đánh giá chung về đời sống, phân tích thuận lợi, khó khăn,
2.4
cơ hội và thách thức đối với người lao động có đất nông nghiệp bị
thu hồi
2.4.
1
2.4.
2
2.4.
3
2.4.
4
Thuận lợi
Khó khăn
Cơ hội
Thách thức
CHƯƠNG 3. BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO
ĐỘNG KHI THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN
AN DƯƠNG
3.1
3.1.
1
3.1.
2
3.2
3.3
3.3.
1
3.1.
2
3.4
Quan điểm về giải quyết việc làm
Dự báo tình hình thu hồi đất
Quan điểm
Định hướng giải quyết việc làm
Mục tiêu giải quyết việc làm
Mục tiêu tổng thể
Mục tiêu cụ thể
Những biện pháp chủ yếu giải quyết việc làm cho người lao động
5
có đất nông nghiệp bị thu hồi
3.4.
1
3.4.
2
3.4.
3
3.4.
Biện pháp quản lý và sử dụng đất nông nghiệp
Biện pháp đẩy mạnh công tác hướng nghiệp đào tạo nghề, gắn
với….
Biện pháp cho vay vốn giải quyết việc làm
Biện pháp chuyển dịch cơ cấu lao động và có cơ cấu kinh tế nông
4
3.4.
nghiệp tạo việc làm
Biện pháp đẩy mạnh công tác xuất khẩu lao động và phát triển thị
5
3.4.
trường lao động
Biện pháp đổi mới công tác lãnh đạo và quản lý về lĩnh vực việc
6
làm
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1
2
Kết luận
Kiến nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO
6
DANH MỤC CÁC CHỮ VIÊT TẮT
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
Các chữ viết tắt
Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa
Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp
Cụm công nghiệp
Giá trị sản xuất
Hợp tác xã
Hội đồng nhân dân
Kinh tế - Xã hội
Khu công nghiệp
Lực lượng lao động
Tư liệu sản xuất
Ủy ban nhân dân
7
Ký hiệu
: CNH - HĐH
: CN - TTCN
: CCN
: GTSX
: HTX
: HĐND
: KT-XH
: KCN
: LLLĐ
: TLSX
: UBND
DANH MỤC BẢNG
Stt
2.1
2.2
2.3
2.4
2.5
2.6
2.7
2.8
2.9
Tên bảng
Các loại đất trên địa bàn huyện An Dương
Tổng hợp kết quả thu hồi đất thực hiện Dự án từ năm 20112015 trên địa bàn huyện An Dương
Thực trạng thu hồi đất nông nghiệp tại 4 xã An Đồng, Lê Lợi,
Hồng Phong giai đoạn 2011-2015
Cơ cấu sử dụng tiền bồi thường của người lao động được khảo
sát
Kết quả giải quyết việc làm của huyện giai đoạn 2011- 2015
Tổng hợp tình hình việc làm của lao động có đất nông nghiệp
bị thu hồi trên địa bàn huyện An Dương giai đoạn 2011- 2015
Dự báo tình hình thu hồi đất nông nghiệp và lao động mất việc
làm năm 2016 - 2020
Kế hoạch giải quyết việc làm giai đoạn 2016 - 2020
Kế hoạch đào tạo nghề nghề cho người lao động bị thu hồi đất
nông nghiệp giai đoạn 2016 - 2020
8
Trang
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Biện pháp giải quyết việc làm cho người lao động là nông dân khi thu hồi
đất nông nghiệp đang được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Hiện nay, ở
Việt Nam đã có trên 200 các Khu công nghiệp lớn, gần 300 các cụm công
nghiệp và hàng nghìn các khu đô thị, nơi đây tập trung một lượng lớn các LLLĐ
trực tiếp và đóng góp vào ngân sách hàng tỉ USD cho sự phát triển chung của
đất nước. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được về đổi mới kinh tế đất nước,
việc thu hồi và sử dụng đất ở một số nơi còn nhiều bất cập và cần hoàn thiện về
chính sách, pháp luật cũng như những vấn đề phát sinh cần được giải quyết kịp
thời để có thể khai thác sử dụng có hiệu quả, bền vững đối với nguồn tài nguyên
đất đai của đất nước và phục vụ tốt cho các mục đích phát triển công nghiệp,
dịch vụ, phát triển đô thị và khu dân cư trong quá trình CNH, hiện đại hóa đất
nước. Bên cạnh đó, việc thu hồi đất cho các mục đích phát triển lại nảy sinh
vấn đề liên quan đến đời sống, việc làm của những người nông dân mà họ sống
dựa hoàn toàn vào đất sản xuất nông nghiệp. Những vấn đề về môi trường do
hậu quả của quá trình phát triển các khu công nghiệp, mở mang đô thị và các
khu dân cư mới, điều này đã và đang đặt ra nhiều thách thức cho công tác quản
lý cũng như hoạch định chiến lược phát triển.
Huyện An Dương là huyện ven đô, nằm phía Tây của thành phố Hải Phòng
được tách ra từ huyện An Hải cũ từ năm 2003. Trong những năm gần đây tốc độ
phát triển các khu công nghiệp, khu dịch vụ, đô thị, các dự án phát triển sản
xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng,…khá nhanh. Vì vậy, nhiều nông dân mất đất sản
xuất, không có việc làm. Mặc dù trong những năm qua, Thành ủy, Uỷ ban nhân
dân thành phố Hải Phòng, các đơn vị kinh tế, doanh nghiệp và người lao động
đã triển khai nhiều hoạt động quan trọng để giải quyết việc làm, thu hút nhiều
lao động cho nhân dân các khu vực đã bàn giao mặt bằng cho các dự án. Tuy
nhiên, vấn đề thiếu việc làm vẫn còn xảy ra ngày càng trầm trọng.
Xuất phát từ thực tế trên, học viên chọn đề tài “Biện pháp giải quyết việc
9
làm cho người lao động có đất nông nghiệp bị thu hồi trên địa bàn huyện An
Dương thành phố Hải Phòng”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Phân tích thực trạng mất và thiếu việc làm của nông dân, chính sách về giải
quyết việc làm cho người lao động có đất nông nghiệp bị thu hồi để thấy được các
mặt được, mặt tồn tại và nguyên nhân của các tồn tại. Từ đó, luận văn sẽ đưa ra
một số biện pháp giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất.
2.2. Nhiệm vụ:
Nghiên cứu cơ sở lý luận về việc làm, về chính sách giải quyết việc làm cho
người lao động là nông dân về thu hồi đất.
Phân tích thực trạng về thu hồi đất nông nghiệp và tác động đến đời sống,
việc làm của người lao động, thực trạng của các chính sách về giải quyết việc
làm cho người lao động khi bị thu hồi đất nông nghiệp hiện nay.
Đề xuất một số biện pháp để giải quyết việc làm cho người lao động bị thu
hồi đất nông nghiệp trên địa bàn huyện An Dương.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng:
Những người lao động là nông dân trên địa bàn huyện An Dương thành phố
Hải Phòng khi có đất nông nghiệp bị thu hồi.
3.2. Phạm vi:
Đề tài được tiến hành nghiên cứu trên địa bàn huyện An Dương thành phố
Hải Phòng trong thời gian từ 2011 – 2015.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận là phương pháp
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; phương pháp điều tra xã hội học, phương
pháp thống kê, phương pháp tham vấn chuyên gia và phân tích số liệu, so sánh,
tổng hợp….
5. Tình hình nghiên cứu và đóng góp của luận văn
5.1. Tình hình nghiên cứu
10
Trong phạm vi giải quyết việc làm cho người lao động khi thu hồi đất nông
nghiệp đã có một số đề tài nghiên cứu. Ví dụ:
Báo cáo chuyên đề “Tác động của quá trình CNH, đô thị hóa đến lao động
và việc làm khu vực nông nghiệp, nông thôn” – 2006 của Thạc sĩ Nguyễn Thị
Tâm – Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn;
Đề tài khoa học: “Thực trạng và giải pháp giải quyết việc làm cho lao động
sau khi bàn giao đất cho các cụm công nghiệp, khu công nghiệp và các khu đô thị
mới trên địa bàn tỉnh Hải Dương” do cử nhân Nguyễn Văn Hưng, Phó giám đốc
sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh Hải Dương làm chủ nhiệm. (Tải phần
này về nghiên cứu giải pháp giải quyết của Hải Dương)
Đề tài “Thực trạng việc làm của người lao động trong các hộ nông dân
diện thu hồi đất tỉnh Quảng Nam” do Tiến Sĩ Phạm Quang Tín, Đại học Kinh tế,
Đại học Đà Nẵng làm chủ nhiệm…
5.2. Đóng góp của luận văn
Luận văn phân tích thực trạng việc làm và chính sách giải quyết việc làm
của Đảng và nhà nước được áp dụng đối với người lao động là nông dân bị thu
hồi đất nông nghiệp tại huyện An Dương. Tổng kết kết quả đạt được trong giải
quyết việc làm, phát hiện các sai sót, hạn chế, nguyên nhân của các hạn chế, từ
đó đề xuất các biện pháp khắc phục. Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho
sinh viên, học viên cao học và những ai quan tâm.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về giải quyết việc làm cho người lao động khi
thu hồi đất nông nghiệp.
Chương 2: Thực trạng giải quyết việc làm cho người lao động khi thu hồi
đất nông nghiệp trên địa bàn huyện An Dương
Chương 3: Biện pháp để giải quyết việc làm cho người lao động khi thu
hồi đất nông nghiệp trên địa bàn huyện An Dương.
Kết luận và kiến nghị
11
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƯỜI
LAO ĐỘNG KHI THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP
1.1. Quan niệm về việc làm và giải quyết việc làm cho người lao động bị thu
hồi đất nông nghiệp
1.1.1. Khái niệm về việc làm
Việc làm là một phạm trù tổng hợp, liên kết các quá trình kinh tế, xã hội
và nhân khẩu.
Nhà khoa học nổi tiếng trong kinh tế lao động người Nga Kotlia A đã đưa
ra khái niệm việc làm trong phạm trù kinh tế nói chung tồn tại ở mọi hình thái
xã hội; đồng thời, việc làm là phạm trù tái sản xuất xã hội, mà không thể đồng
nhất với lao động và sử dụng sức lao động, nó định ra đặc tính dân số hoạt động
kinh tế so với những yếu tố sản xuất vật chất, thể hiện quan hệ giữa con người
về việc tham gia của họ vào quá trình sản xuất xã hội.
Các nhà khoa học kinh tế Anh lại cho rằng "việc làm theo nghĩa rộng là
toàn bộ các hoạt động kinh tế của một xã hội, nghĩa là tất cả những gì quan hệ
đến cách kiếm sống của một con người, kể cả các quan hệ xã hội và các tiêu
chuẩn hành vi tạo thành khuôn khổ của quá trình kinh tế"
Các nhà kinh tế Sônhin và Grincốp của Liên Xô lại cho rằng "việc làm là
sự tham gia của người có khả năng lao động vào một hoạt động xã hội có ích
trong khu vực xã hội hoá của sản xuất, trong học tập, trong công việc nội trợ,
trong kinh tế phụ của các nông trang viên"
Luật Lao động được Quốc hội (khoá IX) thông qua ngày 23/6/1994 ghi rõ
"mọi hoạt động lao động tạo ra thu nhập không bị pháp luật ngăn cấm đều được
thừa nhận là việc làm…".
Người lao động là người ít nhất đủ 15 tuổi, có khả năng lao động, có giao
kết hợp đồng lao động, gồm những người đang có việc làm và những người
chưa có việc.
Bộ luật Lao động nước Việt Nam đã cụ thể hoá khái niệm việc làm dưới
ba dạng hoạt động như sau:
- Làm các công việc để nhận tiền lương, tiền công bằng tiền mặt hoặc
12
bằng hiện vật;
- Làm các công việc để thu lợi nhuận cho bản thân;
- Làm các công việc cho hộ gia đình mình nhưng không được trả thù lao
dưới hình thức tiền lương, tiền công cho công việc đó.
1.1.2. Khái niệm về giải quyết việc làm cho người lao động có đất nông
nghiệp bị thu hồi
“Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định đến phát huy nhân tố con người,
ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính
đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân”. [19] là Chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010 đã được thông qua tại Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta.
Giải quyết việc làm có thể hiểu là tổng thể các biện pháp, chính sách kinh tế
- xã hội từ vi mô tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội tạo điều kiện để
người lao động có thể có việc làm.
Chính sách lao động việc làm được coi là chính sách kinh tế - xã hội cơ bản
giúp đảm bảo sự phát triển bền vững cho các thành phần kinh tế. Hội nghị
thượng đỉnh Copenhagen tháng 3 năm 1945 cho thấy các chiến lược phát triển
xã hội của các quốc gia đến năm 2000 và 2010 đều tập trung và các chính sách
tạo việc làm xã hội, bao gồm cả khu vực nông nghiệp và nông thôn. Chính sách
tạo việc làm thực chất là các biện pháp làm tăng khả năng tiếp cận với việc làm
của LLLĐ xã hội.
Các chính sách tạo việc làm có mối quan hệ biện chứng với các chính sách
kinh tế và xã hội khác mà nếu được thực hiện tốt nó sẽ sử dụng hiệu quả mọi
nguồn lực lao động nhờ đó thất nghiệp và trợ cấp thất nghiệp sẽ giảm đi. Ngược
lại, khi các chính sách này không được thực thi tốt, lại rơi vào đúng thời kỳ suy
thoái kinh tế thì thất nghiệp sẽ gia tăng, kéo theo là gia tăng các tệ nạn xã hội làm
tăng gánh nặng lên các chính sách an sinh xã hội và như thế có thể kết luận, một
chính sách lao động việc làm không hiệu quả sẽ dẫn tới hậu quả xấu cho xã hội.
Giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động bị thu hồi đất là một bài
toán khó đối với các nhà hoạch định chính sách, bởi nó liên quan đến nhiều
13
ngành, nhiều lĩnh vực.
Có thể hiểu chính sách giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi
đất như sau:
Chính sách giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất là tổng thể
các biện pháp kinh tế và các biện pháp khác của Nhà nước (từ trung ương tới địa
phương) tác động đến các đối tượng quản lý nhằm hỗ trợ và tạo việc làm cho
người lao động bị thu hồi đất.
Chính sách giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất khác với chính
sách nói chung ở đối tượng mà nó tác động – đó chính là nông dân bị thu hồi đất
nông nghiệp. Cần đặt chính sách giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất
trong hệ thống các chính sách vĩ mô của nhà nước như chính sách phát triển
nguồn nhân lực, chính sách tam nông, chính sách giải quyết việc làm, chính sách
phát triển các khu công nghiệp, chính sách đất đai… Do đó, chính sách giải
quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất không chỉ được thực hiện thông qua
các biện pháp về kinh tế (tín dụng cho nông dân, khuyến khích đầu tư xây dựng
cơ sở hạ tầng, trợ cấp, đền bù…) mà còn phải chú trọng đến các biện pháp mang
tính xã hội (giáo dục đào tạo, tư vấn việc làm, vận động, khuyến khích chuyển
đổi cơ cấu kinh tế…). Sự kết hợp hài hòa các biện pháp phù hợp với tình hình
thực tiễn, nhu cầu, nguyện vọng, tâm lý, tập quán của nông dân sẽ là nhân tố
đảm bảo sự thành công của sự can thiệp của Nhà nước thông qua chính sách.
Thứ nhất, các chính sách giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất
mang tính hỗ trợ là chủ yếu. Giải quyết việc làm không chỉ là trách nhiệm riêng
của nhà nước đối với nông dân bị thu hồi đất mà còn là trách nhiệm của toàn xã
hội và đặc biệt là cần chính sự nỗ lực tìm kiếm và chuyển đổi nghề nghiệp từ
chính những người nông dân bị thu hồi đất.
Thứ hai, chính sách giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất có tính
vùng, tính khu vực rõ rệt. Rõ ràng, tính không đồng đều của LLLĐ nông nghiệp
trên phạm vi cả nước về chất lượng nguồn nhân lực, trình độ dân trí, phong tục
tập quán canh tác của nông dân mỗi vùng miền rất khác nhau, sự phân bố dân cư
và lao động giữa các vùng nông thôn trong nước không đồng đều, số lượng nông
14
dân bị thu hồi đất ở mỗi địa phương là khác nhau. Tính không đồng đều còn thẻ
hiện ở vị trí địa lý của từng vùng, có những khu vực giá trị đất đai cao hơn
những khu vực khác, có khu vực việc thu hút đầu tư, xây dựng các khu công
nghiệp mạnh mẽ hơn các khu vực khác… Do vậy, đòi hỏi các chính sách giải
quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất phải có những văn bản tương xứng.
Thứ ba, đây là loại chính sách mang tính xã hội rõ nét. Đây là một trong
những nội dung cơ bản của công bằng xã hội và phát triển cuộc sống con người.
Đối tượng của chính sách giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất là loại
chính sách xã hội liên quan đến một trong những mặt sống còn của cuộc sống
con người.
Chính sách giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất là loại chính
sách liên quan trực tiếp đến con người và mang tính xã hội, nhân văn và nhân
đạo sâu sắc bởi vì mục tiêu cơ bản của nó là hiệu quả xã hội, góp phần ổn định,
phát triển và tiến bộ xã hội, đảm bảo cuộc sống của hàng triệu nông dân bị thu
hồi đất và đảm bảo tính công bằng, bình đẳng.
Người lao động không có việc làm sẽ ảnh hưởng đến đời sống gia đình và
đương nhiên sẽ ảnh hưởng đến xã hội. Tệ nạn xã hội sẽ tăng lên, tình hình chính
trị, xã hội sẽ không ổn định và giải quyết được.
Thứ tư, tổ chức triển khai văn bản chính sách phụ thuộc vào các đặc điểm
tâm lý, tập quán của người nông dân của lao động nông thôn. Trong điều kiện
dân cư nông thôn dân trí thấp hơn các khu vực khác, hoạt động nông nghiệp với
tác động của điều kiện tự nhiên đã tạo ra những đặc điểm tâm lý rất khác nhau
giữa nông dân các vùng miền trong cả nước. Trong điều kiện như vậy, những
chính sách tác động đến nông dân phải có những biện pháp tổ chức thích hợp thì
mới mang lại hiệu quả cao.
Thứ năm, đây là chính sách có tính cấp bách. Việc làm luôn là một vấn đề
mang tính kinh tế - chính trị - xã hội được tất cả các chính phủ trên thế giới quan
tâm. Đối với nước ta nông dân chiếm phần lớn LLLĐ của cả nước (hơn 70%
LLLĐ). Với tốc độ thu hồi đất mạnh mẽ như hiện nay để phục vụ cho CNH, đô
thị hóa, nếu không sớm xây dựng các chính sách giải quyết việc làm cho nông
15
dân bị thu hồi đất sẽ gây ra những hậu quả nặng nề đối với xã hội và đối với
những nông dân bị thu hồi đất.
Công tác thực hiện chính sách giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi
đất cũng phải khẩn trương và được chú trọng đặc biệt, tránh để nhiều nông dân rơi
vào tình trạng không có việc làm.
1.1.3. Vai trò của chính sách giải quyết việc làm cho người lao động có đất
nông nghiệp bị thu hồi
Thứ nhất, về mặt kinh tế
Chính sách giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất hợp lý sẽ cho
phép khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, các tiềm năng kinh tế, tránh
lãng phí nguồn lực xã hội. Lao động trong khu vực nông nghiệp chiếm hơn 70%
LLLĐ cả nước. Hàng năm LLLĐ nông nghiệp đã góp phần đáng kể cho GDP
của đất nước. Nếu không sử dụng LLLĐ này vào sản xuất sẽ gây lãng phí tài
nguyên con người – nguồn lực quan trọng nhất để phát triển đất nước. Với
những phẩm chất đáng quý của nguồn nhân lực Việt Nam, nếu có chính sách
phù hợp sẽ khuyến khích được lực lượng này tham gia vào các khu vực sản xuất
ngoài nông nghiệp như dịch vụ, công nghiệp, thủ công nghiệp… từ đó góp phần
thực hiện thành công chủ trương CNH, HĐH và chuyển dịch CCLĐ của Đảng
và Nhà nước ta.
Chính sách giải quyết việc làm hợp lý còn cho phép sử dụng có hiệu quả
nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực và vốn. Tạo việc làm và giải
quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất sẽ góp phần tích cực trong việc phân
bổ lao động một cách hợp lý.
Thứ hai, về mặt chính trị
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, hiện đại hóa và hội nhập sâu vào kinh tế
thế giới và khu vực, nhiều cơ chế chính sách đã ban hành không còn phù hợp,
tính đồng bộ của chủ trương chính sách không cao. Nông dân bị thu hồi đất, mất
việc làm đang trở thành vấn đề gây bức xúc trong xã hội. Nếu không giải quyết
được vấn đề không những gây ảnh hưởng đến kinh tế - xã hội mà còn ảnh hưởng
lớn đến chính trị. Bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, cả quốc gia phát triển và
16
quốc gia đang phát triển, để ổn định chính trị, các nhà lãnh đạo luôn phải quan
tâm đến vấn đề việc làm và hạn chế thất nghiệp.
Chính sách giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất sẽ củng cố và
duy trì lòng tin của hàng chục triệu nông dân vào sự lãnh đạo của Đảng và việc
thực hiện tôn chỉ, mục đích của Đảng ta. Nhân dân, đặc biệt là tầng lớp nông dân
đã một lòng theo Đảng là vì chúng ta đã thực hiện đúng khẩu hiệu “Người cày
có ruộng”. Vì vậy, nếu vì phục vụ cho CNH, hiện đại hoá mà chúng ta lấy đất
của nông dân bất chấp những hậu quả sẽ xảy ra đối với đời sống của những nông
dân bị thu hồi đất thì lòng tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng sẽ bị xói
mòn. Một chính sách không hợp lý sẽ không thu phục được lòng tin của nhân
dân, do vậy tất yếu sẽ gây ra khiếu kiện, khiếu nại làm tổn hại đến uy tín của
Đảng và Nhà nước.
Thứ ba, về mặt xã hội
Không có việc làm là một trong những nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã
hội như: trộm cắp, lừa đảo, nghiện hút, giết người… Các quan hệ gia đình, làng
xã rạn nứt và xuống cấp. Giải quyết việc làm cho người lao động nhất là các
thanh niên hạn chế các tệ nạn xã hội do không có việc làm gây ra và giải quyết
được các vấn đề xã hội đòi hỏi. Khi con người có việc làm sẽ thỏa mãn được các
nhu cầu thông qua các hoạt động lao động.
Không có việc làm, người dân sẽ đi tự do từ nông thôn ra thành thị để kiếm
việc làm. Điều đó dẫn đến mật độ dân số ở đô thị tăng đột biến, quá tải về cơ sở
hạ tầng, tạo ra sự lộn xộn và sức ép lớn cho các khu đô thị như nhà ở chật chội,
thiếu thốn, giá cả leo thang, nạn xây dựng, lấn chiếm đất công bừa bãi, tệ nạn xã
hội, bệnh tật, lối sống xô bồ, xuống cấp, ô nhiễm môi trường… Đây là những
vấn đề khó giải quyết cho các cơ quan quản lý ở đô thị.
Nông dân bị thu hồi đất và không có việc làm là một vấn đề mà các chuyên
gia kinh tế đã cho là “có tính chất xã hội nan giải”. Như vậy, nếu không có
chính sách hỗ trợ phù hợp, người nông dân mất đất sẽ bị đẩy trở lại tình trạng
đói nghèo. Giải quyết việc làm giúp họ tham gia vào quá trình sản xuất xã hội
cũng là yêu cầu của sự phát triển, là điều kiện cơ bản cho sự tồn tại và phát triển
17
của con người.
1.1.4. Những nội dung cơ bản của chính sách giải quyết việc làm cho người
lao động có đất nông nghiệp bị thu hồi
Chính sách giải quyết việc làm được phân loại như sau:
Các chính sách vĩ mô nhằm mở rộng và phát triển việc làm cho lao động xã
hội nói chung và nông dân bị thu hồi đất nói riêng. Các chính sách này gồm có:
Chính sách tín dụng, vốn, nâng cao dân trí, đào tạo nghề, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và cơ cấu lao động nông thôn, tạo và mở rộng thị trường lao động cho
nông dân bị thu hồi đất tìm việc làm…
Các chính sách khuyến khích phát triển các ngành nghề và lĩnh vực có khả
năng tạo ra việc làm: Chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát triển
các ngành kinh tế phụ trợ, chính sách di dân xây dựng vùng kinh tế mới, chính
sách xuất khẩu lao động trong những giai đoạn nhất định, chính sách phát triển
công nghiệp nông thôn, chính sách khôi phục và phát triển các ngành nghề thủ
công truyền thống… Cụ thể là:
- Chính sách về nâng cao dân trí và đạo tạo nghề cho nông dân bị thu hồi đất
Dạy nghề cho lao động nông thôn vừa là khâu cơ bản, vừa là khâu đột phá
làm dịch chuyển cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ.
Từng bước nâng cao trình độ đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật
cao. Chính vì vậy, công tác dạy ngề cũng được Đảng và Nhà nước ta quan tâm và
coi đó là một nhiệm vụ quan trọng góp phần phát triển kinh tế - xã hội nói chung
và đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Chính sách vốn và tín dụng để tạo việc làm
Chính sách vốn và tín dụng là một chính sách có vai trò quan trọng trong
việc giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất. Chính sách này hướng tới
hai đối tượng chính là doanh nghiệp và nông dân bị thu hồi đất. Doanh nghiệp
cần vốn để mở rộng sản xuất, doanh nghiệp lớn mạnh sẽ là nơi thu hút lao động.
Nông dân bị thu hồi đất cần vốn để học nghề mới, chuyển đổi nghề nghiệp, đầu
tư sản xuất kinh doanh, góp vốn…
Khi bị thu hồi đất, người nông dân mất kế sinh nhai, buộc họ phải chuyển
18
đổi sang làm những công việc khác ngoài nông nghiêp. Để chuyển đổi nghề
nghiệp, họ cần vốn để học nghề, để đầu tư vào các ngành nghề mới như mua
trang thiết bị sản xuất, việc chuyển sang nghề mới không đơn giản, người lao
động phải làm quen, học hỏi và thậm chí thất bại, phải trải qua nhiều nghề khác
nhau hoặc để đi xuất khẩu lao động, những nông dân này cũng phải có tiền thế
chấp, các khoản phí học nghề, dịch vụ, môi giới… cho các công ty xuất khẩu lao
động.
Như vậy, để giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất nhà nước cần
có chính sách hỗ trợ vốn và tín dụng hợp lý mang tính nâng đỡ cho các doanh
nghiệp (nơi tạo ra việc làm và tiếp nhận lao động) và đặc biệt là nông dân bị thu
hồi đất để họ có thẻ tự tạo việc làm cho chính bản thân mình.
- Chính sách chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp
Đây là một giải pháp phù hợp với định hướng chung của Đảng và Nhà nước
ta về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và chuyển dịch cơ cấu lao động nói
riêng. Cùng với quá trình CNH, hiện đại hóa đất nước sẽ diễn ra sự biến đổi sâu
sắc về cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, đặc biệt là cơ cấu lao động nông thôn.
Sản xuất ở nông thôn đã và đang chuyển dịch theo hướng từ thuần nông sang kết
hợp chặt chẽ với nông – công nghiệp – dịch vụ.
Trong thực tế phát triển, muốn CNH, hiện đại hóa thì một phần lớn đất
nông nghiệp được chuyển sang sử dụng và mục đích phi nông nghiệp, chủ yếu
cho phát triển công nghiệp, dịch vụ, đô thị; một bộ phận lớn nông dân bị mất đất
sản xuất, phải chuyển đổi nghề nghiệp. Ngược lại, việc thu hồi đất nông nghiệp
cũng là một cơ hội để chúng ta thực hiện chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế
và cơ cấu lao động trong cả nước. Do đó, việc hoàn thiện chính sách về chuyển
dịch cơ cấu lao động nông nghiệp, chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm tại
chỗ cho nông dân là một yêu cầu cấp bách hiện nay.
- Chính sách về mở rộng và tạo điều kiện cho nông dân bị thu hồi đất tiếp
cận các thị trường lao động
Chính sách thị trường lao động là toàn bộ những biện pháp nhằm đảm bảo
giải quyết việc làm liên tục, thích hợp với nhu cầu, khả năng và điều kiện đối với
19
những người có khả năng lao động muốn có việc làm. Chính sách thị trường lao
động là nhân tố quyết định tới việc tạo thế cân đối trong thị trường lao động giảm
bớt thất nghiệp đến giới hạn an toàn cho xã hội. Xét về mặt kinh tế, chính sách thị
trường lao động có mục tiêu tái tạo sự ổn định trong thị trường lao động, tạo điều
kiện cho thị trường lao động phát triển. Còn về mặt xã hội, chính sách thị trường
lao động nhằm điều chỉnh lại cũng như giảm bớt sự phân bố bất hợp lý về LLLĐ
hạn chế những tiêu cực do thất nghiệp gây ra.
Một trong những cản trở đối với nông dân nói chung và nông dân bị thu hồi
đất nói riêng khiến họ không tìm được việc làm là do khả năng tiếp cận thị trường
lao động hạn chế. Điều đó một phần do bản thân người lao động còn hạn chế về
trình độ và khả năng tìm kiếm, một phần do nhà nước chưa có những biện pháp
hợp lý để thông tin về thị trường lao động có thể đến gần với người nông dân có
đất bị thu hồi. Chính bởi vậy chính sách mở rộng và tạo điều kiện để nông dân bị
thu hồi đất tiếp cận với thị trường lao động là một chính sách hết sức cần thiết tạo
việc làm. Để giảm bớt tỷ lệ thất nghiệp cho phép, một trong những biện pháp tổng
hợp là nhà nước cần phải có những chính sách tác động để hình thành và mở rộng
thị trường lao động. Bao gồm cả thị trường lao động trong nước và thị trường lao
động nước ngoài.
- Chính sách về đất đai và bồi thường khi thu hồi đất
Đất đai là TLSX của người nông dân. Mất TLSX đồng nghĩa với việc mất kế
sinh nhai cũng như làm thay đổi cấu trúc của LLLĐ xã hội. Những nông dân
không còn ruộng đất chuyển sang các khu vực kinh tế khác nghĩa là họ đã rời
khỏi LLLĐ nông nghiệp. Các chính sách liên quan đến đất đai và đặc biệt là chính
sách về thu hồi đất là loại chính sách hết sức nhạy cảm vì nó tác động đến lực
lượng sản xuất chính của nước ta, làm thay đổi quan hệ sản xuất. Do vậy phải hết
sức cẩn trọng khi hoạch định các chính sách liên quan đến đất đai nói chung và
thu hồi đất nói riêng. Trong phạm vi đề tài này không đề cập đến chính sách đất
đai và bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nói chung mà chỉ đề cập đến chính
sách đất đai và bồi thường, hỗ trợ có liên quan đến tạo việc làm cho nông dân có
đất bị thu hồi.
20
Mục tiêu của chính sách bồi thường khu thu hồi đất của nông dân là đảm bảo
tính công bằng và hỗ trợ cho họ khi mất đi tư liệu sản xuất để có thể chuyển đổi nghề
nghiệp sang các khu vực khác ngoài nông nghiệp. Chính sách về đất đai nói chung
và bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng có hiệu quả, khả thi sẽ là
tiền đề tốt để thực hiện giải quyết việc làm. Giá bồi thường cao hay thấp, thỏa đáng
hay không thỏa đáng, phương thức bồi thường như thế nào, thủ tục bồi thường đơn
giản hay phức tạp… ảnh hưởng rất lớn đến cơ hội nghề nghiệp của nông dân bị thu
hồi đất. Một chính sách về đất đai hợp lý như: khai hoang, mở rộng diện tích đất
mới, quy hoạch đất, cải tạo đất, thu hồi đất… cũng ảnh hưởng không nhỏ đến công
tác giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất.
- Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp
Doanh nghiệp đã góp phần quan trọng trong việc tạo ra sự tăng trưởng kinh tế
của đất nước và thu hút LLLĐ xã hội. Doanh nghiệp được kỳ vọng là nơi thu hút
và đào tạo LLLĐ là những nông dân bị thu hồi đất. Có thể nói hệ thống doanh
nghiệp vừa là đồng minh của nhà nước vừa là một công cụ hữu hiệu của nhà nước
để giải quyết việc làm cho nông dân có đất nông nghiệp bị thu hồi.
Doanh nghiệp là lĩnh vực then chốt của nền kinh tế quốc dân, làm nền tảng
cho việc thực hiện chính sách giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất của
nhà nước. Do đó, chính sách đối với doanh nghiệp trong việc tạo việc làm cho nông
dân nói chung và người lao động là nông dân bị thu hồi đất nói riêng là hết sức
quan trọng. Nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ và khuyến khích các doanh
nghiệp phát triển.
1.2. Căn cứ để giải quyết việc làm cho người lao động có đất nông nghiệp bị
thu hồi
1.2.1. Căn cứ chính trị
Ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà
nước ta thực hiện những mục tiêu chiến lược của đất nước, Đảng lãnh đạo Nhà
nước thông qua việc vạch ra cương lĩnh, chiến lược và các định hướng về chính
sách. Nhà nước thể chế hóa những đường lối, chủ trương của Đảng bằng pháp
luật và thực thi những đường lối, chủ trương đó trong thực tiễn. Vì vậy, những
21
chính sách do Nhà nước đề ra phải căn cứ vào đường lối, chủ trương và những
định hướng chính sách của Đảng.
Trong nguồn nhân lực, lao động nông thôn chiếm một tỷ lệ lớn. Đây là đối
tượng có đóng góp to lớn đối với sự phát triển và nền kinh tế quốc dân. Giai cấp
nông dân có một vị trí quan trọng, tạo ra nội lực tiềm tàng về phương diện chính
trị - xã hội và công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Sự nghiệp CNH, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng có được thực hiện tốt
hay không phụ thuộc rất lớn và giai cấp nông dân. Bởi vì, giai cấp nông dân
chính là chủ thể và là nguồn nội lực quan trọng nhất của CNH, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn. Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ:
“Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở
liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và trí thức do Đảng
Cộng Sản lãnh đạo” (1). Theo tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Vai trò của
nông dân là quân chủ lực của Cách mạng, là bạn đồng minh chủ yếu và tin cậy
nhất của giai cấp công nhân, là lực lượng cơ bản cùng với giai cấp công nhân
xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương khóa 7 của
Đảng đã xác định vị trí của nông nghiệp, nông thôn và nông dân (Tam nông) là
cơ sở để ổn định chính trị đất nước trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, hiện đại hóa
và hội nhập kinh tế thế giới. Trên cơ sở vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đại hội
IX, Đảng ta đã đề ra mục tiêu: “Đối với giai cấp nông dân, ra sức bồi dưỡng
sức dân ở nông thôn và phát huy vai trò giai cấp nông dân trong sự nghiệp đổi
mới, tập trung sự chỉ đạo và các nguồn lực cần thiết cho CNH, hiện đại hóa
nông nghiệp, phát triển nông thôn; thực hiện tốt các chính sách về ruộng đất,
phát triển nông nghiệp toàn diện, tiêu thụ nông sản hàng hóa, bảo hiểm sản
xuất và bảo hiểm xã hội; phát huy lợi thế từng vùng, giúp đỡ vùng khó khăn;
phân bổ dân cư theo quy hoạch, phát triển ngành nghề, giải quyết việc làm, xóa
đói giảm nghèo, cải thiện đời sống, nâng cao dân trí, xây dựng nông thôn
mới…” (1)
1.2.2. Căn cứ pháp luật
Hệ thống pháp luật tạo nên những khuôn khổ pháp lý quy định và điều
22
chỉnh tất cả các quan hệ xã hội. Các chính sách công do nhà nước ban hành, vì
vậy cũng phải căn cứ vào hệ thống pháp luật hiện hành.
Các thể chế pháp luật cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách những
quy tắc hành động, tiêu chuẩn xây dựng chính sách, những ràng buộc và khuôn
khổ đối với chính sách. Nói cách khác, các chính sách không được trái với
những quy định pháp luật hiện hành. Điều đó có nghĩa là khi hoạch định một
chính sách phải nắm được tất cả các quy định pháp luật đang điều tiết lĩnh vực
có liên quan đến vấn đề chính sách đó.
Các chính sách giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất trước hết
phải dựa vào các quy định của Hiến pháp, Luật Lao động, Luật Đất đai, Luật
Dạy nghề và các quy định của địa phương. Một số dự án ODA có quy chế rộng
mở hơn so với các quy định của pháp luật Việt Nam về giải quyết việc làm cho
nông dân bị thu hồi đất.
1.2.3. Căn cứ vào năng lực của chủ thể ban hành và thực hiện chính sách
Thành công của một chính sách phụ thuộc lớn vào khả năng của chủ thể
ban hành và thực hiện chính sách. Đó chính là năng lực hoạch định và thực thi
chính sách của cán bộ - công chức trong bộ máy quản lý nhà nước. Năng lực này
được thể hiện qua các mặt như: Năng lực phân tích, dự báo, năng lực thực tế,
năng lực về thiết kế tổ chức… Nếu năng lực của chủ thể hoạch định và thực thi
chính sách yếu kém thì sẽ đưa ra những chính sách không sát thực tế, làm lãng
phí nguồn lực huy động, làm giảm hiệu lực, hiệu quả của chính sách, thậm chí
còn làm biến dạng chính sách trong quá trình tổ chức thực hiện. Ví dụ như chính
sách giá để tính bồi thường khi người nông dân bị thu hồi đất hiện nay còn nhiều
bất cập như chưa sát giá thị trường… dẫn đến tình trạng nhiều dự án bị chậm
tiến độ do người dân không đồng ý với phương án bồi thường đưa ra.
Bên cạnh đó việc thực hiện các chính sách về đất đai cũng liên quan đến
các chính sách khác như: chính sách tăng cường nâng cao năng lực cho lực
lượng giáo viên dạy nghề còn chưa đồng bộ và đủ mạnh nên lực lượng giáo viên
dạy nghề hiện tại còn nhiều bất cập không chỉ về số lượng mà cả về chất lượng
và sẽ là thách thức lớn để phát triển công tác dạy nghề trong thời gian tới ở Việt
23
Nam. Do vậy, triển khai việc dạy nghề cho nông dân bị thu hồi đất gặp rất nhiều
khó khăn. Nông dân không có nhiều lựa chọn và khó tiếp cận được chính sách
đào tạo nghề để chuyển đổi nghề nghiệp.
1.2.4. Căn cứ vào đặc trưng của đối tượng thụ hưởng chính sách
Khi xây dựng và thực hiện chính sách giải quyết việc làm cho nông dân bị
thu hồi đất, các nhà hoạch định phải căn cứ vào đặc điểm của đối tượng thu
hưởng chính sách, đó là những nông dân, hộ nông dân bị thu hồi đất.
Một số đặc trưng của lao động nông nghiệp, nông thôn ảnh hưởng đến việc
hoạch định và thực hiện chính sách:
- Nguồn nhân lực trong nông nghiệp nông thôn nhìn chung có trình độ văn
hóa và chuyên môn kỹ thuật thấp và không đồng đều so với các lĩnh vực khác
của nền kinh tế quốc dân. Trình độ văn hóa thấp làm hạn chế khả năng tiếp thu
kiến thức và áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ mới. Đồng thời cũng gây
không ít khó khăn cản trở cho việc đào tạo để chuyển đổi nghề, chuyển dịch lao
động sang các lĩnh vực khác của nền kinh tế. Để có thể tạo được việc làm phù
hợp, các nhà hoạch định chính sách phải dựa trên tình trạng việc làm, độ tuổi,
trình độ văn hóa, nghề nghiệp… của người bị thu hồi đất. Chính vì vậy, chính
sách giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất cần khuyến khích các hoạt
động đào tạo, tập huấn kỹ năng nghề nghiệp mà còn cả các hoạt động nâng cao
trình độ văn hóa cho người lao động (học chữ, phổ cập tiểu học…). Cần có
những chính sách về đào tạo nghề để chuyển đổi nghề nghiệp cho những nông
dân không còn đất sản xuất…;
- Sản xuất nông nghiệp trên cơ sở kinh tế tiểu nông với điều kiện lao động
dựa vào công cụ thô sơ đòi hỏi con người phải lao động vất vả, đặc biệt trong
điều kiện thiên nhiên nắng lắm, mưa nhiều, hạn hán, lũ lụt… đã tôi luyện cho
con người sức bền bỉ chịu đựng gian khổ, cần cù, chịu thương, chịu khó;
- Nghề nông, nhà nông lấy sự cần mẫn, chăm chỉ làm đầu chứ không phải
học vấn cao xa. “Lão nông chi điền” là điển hình được đề cao yếu tố tình cảm,
cảm tính, trực tính, dù có những tinh tế qua trải nghiệm thực tiễn, tích lũy kinh
nghiệm và vốn sống nhưng lại hạn chế về năng lực phân tích, về tư duy khái
24
quát và đầu óc duy lý. Do tồn tại là lưu truyền hàng ngàng năm qua các thế hệ
nên nghề nông và nhà nông hoàn toàn có sự chi phối của tri thức kinh nghiệm
chứ không dựa trên tri thức lý luận khoa học. Trong nông thôn truyền thống,
nghề làm ruộng là nghề mà không có nghề với nghĩa là chuyên môn, được đào
tạo, huấn luyện theo khoa học. Bước vào thời kỳ đổi mới và hiện đại hóa đòi hỏi
phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế, văn hóa, lối sống làm cho nhiều người tỏ ra bỡ
ngỡ, lúng túng, bị động, thậm chí bất lực, không tiếp cận được với nghề mới,
việc mới;
- Cũng do đặc điểm của nền nông nghiệp truyền thống lấy kinh tế tiểu nông
mang nặng tính tự cung, tự cấp làm đơn vị cơ sở, nên người sản xuất không
quen hạch toán kinh tế. Với người nông dân, hầu như mọi tư liệu vật chất phục
vụ sản xuất đều có sẵn trong tay và đặc biệt họ không tính tới công sức mình bỏ
ra. Sự lo toan của con người chủ yếu tập trung vào chu trình sinh trưởng của cây
trồng, vật nuôi trong thời gian một vụ. Từ đó đã hình thành một tập tính kém
hạch toán, không quen lường tính xa. Bên cạnh đó, sự thành bại của nông nghiệp
phần lớn phụ thuộc vào thiên niên, nên dễ tạo tâm lý cầu may và “ăn xổi”. Đó
cũng là cách làm ăn tùy tiện, tản mạn, lãng phí về thời gian, thiếu kỷ luật chặt
chẽ;
- Nguồn nhân lực trong nông nghiệp, nông thôn (đặc biệt là bộ phận lao
động trực tiếp sản xuất) làm việc có tính chất thời vụ. Sản xuất nông nghiệp phụ
thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên, sinh thái của từng vùng. Sản xuất chủ
yếu theo mùa vụ, việc làm không thường xuyên;
- Về cơ cấu dân số, đặc điểm chung nhất của khu vực này là dân số tăng
nhanh, cơ cấu dân số trẻ làm tăng LLLĐ cho nên khả năng tạo việc làm luôn
thấp hơn cầu về việc làm của lao động nông thôn. Nguồn nhân lực nông nghiệp,
nông thôn có độ tuổi trung bình ngày càng tăng. Điều đó đồng nghĩa với khả
năng sức khỏe và trình độ sẽ hạn chế hơn so với các lĩnh vực khác. Độ tuổi trung
bình cao cũng có thể dẫn đến hạn chế việc tiếp thu ứng dụng khoa học công
nghệ và làm quen với môi trường công nghiệp, cường độ lao động cao. Do vậy
các chính sách giải quyết việc làm cho đối tượng này khi chuyển sang lĩnh vực
25