Tải bản đầy đủ (.docx) (124 trang)

Biện pháp quản lý rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng thương mại cổ phần phương đông – chi nhánh hải phòng (ORIENT COMMERCIAL JOINT STOCK BANK)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (909.13 KB, 124 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ
nguồn gốc.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Phạm Thùy Ninh

1


LỜI CẢM ƠN
Trên thực tế không có sự thành công nào mà không gắn liền với những sự
hỗ trợ, giúp đỡ dù ít hay nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp của người khác. Trong
suốt thời gian từ khi bắt đầu học tập ở trường đến nay, em đã nhận được rất nhiều
sự quan tâm, giúp đỡ của quý Thầy Cô, gia đình và bạn bè. Với lòng biết ơn sâu
sắc nhất, em xin gửi đến quý Thầy Cô ở Viện Đào tạo sau Đại học – Trường
ĐHHH Việt Nam lời cảm ơn chân thành nhất với tâm huyết truyền đạt kiến thức
cho chúng em trong suốt thời gian học tập tại trường.
Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Nguyễn Văn Sơn đã tận tâm hướng dẫn
em để thực hiện nghiên cứu đề tài khóa luận. Nếu không có những lời hướng dẫn,
dạy bảo của thầy thì em nghĩ bài khóa luận này của em gặp rất nhiều khó khăn.
Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn thầy.
Em xin chân thành cám ơn cán bộ, nhân viên ngân hàng TMCP Phương
Đông (OCB) - Chi nhánh Hải Phòng đã tạo điều kiện cho em. Đặc biệt, em xin gửi
lòng biết ơn sâu sắc tới giám đốc khách hàng doanh nghiệp tại chi nhánh anh
Nguyễn Bá Thanh đã giúp đỡ em rất nhiều trong quá trình làm bài khóa luận.
Bài luận văn được thực hiện trong khoảng thời gian hạn hẹp, mặc dù đã cố
gắng hết sức nhưng do kiến thức còn hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu


sót. Em mong nhận được những lời góp ý từ thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn!

2


MỤC LỤC

3


Chữ viết tắt
CAGR
DNVVN
OCB
TMCP
NHTM
NHNN
TCTD
TSĐB
CBTD
CIC
DSCV
NH
KHDN
KHCN
WTO
GDP
CPI
VAMC

QHKH
DN
CN
DVKH
GDV
TCKT
SMS
SMEs
TNHH
PD
CV QHKH
QLRR
WB
CIC
CRM

Giải thích
Compounded Annual Growth rate
Doanh nghiệp vừa và nhỏ
Orient Commercial Joint Stock Bank
Thương mại cổ phần
Ngân hàng thương mại
Ngân hàng Nhà nước
Tổ chức tín dụng
Tài sản đảm bảo
Cán bộ tín dụng
Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng
Doanh số cho vay
Ngân hàng
Khách hàng doanh nghiệp

Khách hàng cá nhân
World Trade Organization
Gross Domestic Product
Consumer Price Index
Vietnam Asset Management Company
Quan hệ khách hàng
Doanh nghiệp
Cá nhân
Dịch vụ khách hàng
Giao dịch viên
Tổ chức kinh tế
Short Message Service
Small and medium-sized enterprises
Trách nhiệm hữu hạn
Probability of Default
Chuyên viên Quan hệ khách hàng
Quản lý rủi ro
World Bank
Credit Information Center
Customer relationship management

4


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số
bảng
1.1
2.2
2.3

2.4
2.5
2.6
2.7
2.8
2.9
2.10

Tên bảng
Trang
Bảng chỉ tiêu phân chia doanh nghiệp vừa và nhỏ, siêu nhỏ
38
Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động tại OCB Hải Phòng
54
Tình hình huy động vốn
55
Thu nhập & Chi phí
57
Cơ cấu tín dụng tại OCB Hải Phòng
58
Cơ cấu tín dụng trong hoạt động cho vay của khách hàng
60
doanh nghiệp vừa và nhỏ tại OCB Hải Phòng năm 2013 –
2015
Cơ cấu tín dụng theo ngành nghề
61
Tình hình phân loại nợ trong giai đoạn 2013 – 2015
62
Xếp hạng tín dụng tại OCB Hải Phòng
66

Trích lập dự phòng rủi ro tại OCB Hải Phòng năm 2013 –
68
2015

5


DANH MỤC CÁC HÌNH
Số
hình
1.1
2.1
2.2
2.3
2.4
2.5
2.6
2.7

Tên hình
Trang
Quy trình hoạt động tín dụng tại NHTM
31
Sơ đồ cơ cấu tổ chức OCB Hải Phòng
46
Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động tại OCB Hải Phòng
54
Tình hình huy động vốn (đơn vị: tỷ đồng)
55
Thu nhập & Chi phí (Đơn vị: Tỷ đồng)

57
Cơ cấu tín dụng tại OCB Hải Phòng
59
Tình hình phân loại nợ trong giai đoạn 2013-2015
62
Tình hình nợ xấu tại OCB Hải Phòng
63

6


MỞ ĐẦU
1.

TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính
thực hiện các nghiệp vụ tập trung, phân phối lại vốn tiền tệ cũng như các dịch vụ
có liên quan đến tài chính - tiền tệ khác trong nền kinh tế quốc dân, được coi là
huyết mạch của nền kinh tế, đóng vai trò quan trọng nhất trong hệ thống trung gian
tài chính. Do vậy nền kinh tế muốn ổn định và phát triển thì phải có hệ thống ngân
hàng trong sạch và khỏe mạnh.
Sau hơn hai thập kỷ tiến hành cải cách, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã trải
qua bốn giai đoạn phát triển đáng chú ý: (i) Giai đoạn 1990 – 1996: ghi nhận sự
tăng lên nhanh chóng về số lượng và loại hình tổ chức tín dụng nhằm đáp ứng sự
tăng vọt của cầu về dịch vụ tài chính trong giai đoạn đầu “bung ra” trong thời kỳ
chuyển đổi; (ii) Giai đoạn 1997 – 2005: củng cố, chấn chỉnh hệ thống ngân hàng
hai cấp mới được hình thành trong bối cảnh khủng hoảng tiền tệ châu Á; (iii) Giai
đoạn 2006 – 2010: nâng mức vốn pháp định và tăng cường các quy chế điều tiết;
các ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn được chuyển đổi lên thành ngân
hàng thương mại cổ phần đô thị; một số ngân hàng mới được thành lập, xuất hiện

loại hình ngân hàng 100% vốn nước ngoài; (iv) Giai đoạn 2011 đến nay: hệ thống
ngân hàng bộc lộ những yếu kém, dễ tổn thương vì những yếu kém tồn tích từ lâu,
đe dọa gây đổ vỡ hệ thống, dẫn tới yêu cầu cấp thiết phải tiến hành tái cơ cấu hệ
thống các tổ chức tín dụng.
Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự đe dọa đối với hệ thống
ngân hàng chính là việc tín dụng tăng trưởng nóng, thiếu bền vững trong thập kỷ
gần đây. Trong giai đoạn 2000 – 2010, tốc độ tăng trưởng tín dụng của Việt Nam
luôn ở mức cao, trên 20%, và tăng trưởng kép (CAGR) cho giai đoạn này đạt mức
31,55%. Lợi nhuận của ngân hàng chủ yếu đến từ hoạt động tín dụng, chiếm từ 80
– 85% cơ cấu lợi nhuận. Tuy nhiên, trong những năm gần đây khi nền kinh tế gặp
nhiều biến động tiêu cực, hoạt động tín dụng của ngân hàng ngay lập tức bộc lộ
nhiều rủi ro, tỷ lệ nợ xấu tăng đột biến, tăng trưởng tín dụng sụt giảm mạnh, từ

7


mức 40% năm 2009, xuống 29% năm 2010 và từ 2011 – 2014 tăng trưởng tín dụng
chỉ đạt khoảng 12 – 13% (riêng năm 2012, tín dụng tăng trưởng thấp nhất với
8,91%). Chính vì vậy, chất lượng của hoạt động tín dụng đóng vai trò quyết định
đến sự tồn tại và phát triển của các tổ chức tín dụng. Xác định rủi ro, nguyên nhân
của rủi ro và tìm ra các giải pháp để hạn chế rủi ro tín dụng là một trong những vấn
đề cấp thiết đang đặt ra đòi hỏi phải được giải quyết trong tình hình thị trường tài
chính đầy biến động khi những yếu tố và nguyên nhân gây ra rủi ro trong hoạt
động cho vay ngày càng đa dạng và phức tạp.
Theo đánh giá của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI),
khu vực DNVVN chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Con số thống kê
cho hay, DNVVN chiếm trên 97% tổng số DN cả nước, đóng góp 50% GDP, 33%
thu ngân sách nhà nước (NSNN), tạo ra 62% việc làm cho người lao động, đóng
góp 49% vào việc tạo giá trị gia tăng cho nền kinh tế… Nhận thấy những đóng góp
quan trọng của khối DNVVN đối với nền kinh tế, Chính phủ đã có “Quyết định số

1231/QĐ-TTg” phê duyệt Kế hoạch phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa lần hai
giai đoạn 2011-2015. Trong đó, mục tiêu đặt ra là số doanh nghiệp nhỏ và vừa
thành lập mới giai đoạn 2011-2015 dự kiến đạt 350,000 doanh nghiệp, đến ngày 31
tháng 12 năm 2015 cả nước có 600,000 doanh nghiệp đang hoạt động. Đi cùng với
con số này là lượng vốn lớn cần được đáp ứng cho các doanh nghiệp. Ước tính
80% lượng vốn cung ứng cho DNVVN là từ kênh ngân hàng. Trong hai năm gần
đây, số vốn mà các ngân hàng thương mại cho các DNVVN vay chiếm bình quân
40% tổng dư nợ; thậm chí có những trường hợp chiếm từ 60 – 70% tổng dư nợ, các
ngân hàng đã thay đổi cách nhìn về khối DNVVN, và việc tiếp cận vốn của
DNVVN ngày càng tăng vì điều kiện để ngân hàng và doanh nghiệp gặp nhau đang
ngày càng thuận lợi hơn, và đặc biệt là các DNVVN đang hoạt động ngày một tốt.
Từ các góc độ đó, tác giả đã chọn đề tài “Biện pháp quản lý rủi ro tín
dụng trong hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân
hàng Thương mại Cổ phần Phương Đông – Chi nhánh Hải Phòng (ORIENT
COMMERCIAL JOINT STOCK BANK)” để tìm hiểu và nghiên cứu.

8


2.

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
-

Nghiên cứu những lý luận cơ bản về quản lý rủi ro tín dụng trong hoạt động
cho vay đối với DNVVN của Ngân hàng thương mại.

-

Phân tích, đánh giá thực trạng, quản lý rủi ro tín dụng trong hoạt động cho

vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng TMCP Phương
Đông (OCB) – Chi nhánh Hải Phòng.

-

Đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng trong hoạt động cho
vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng TMCP Phương
Đông (OCB) – Chi nhánh Hải Phòng.

3.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1.

Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay

đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng TMCP Phương Đông (OCB) –
Chi nhánh Hải Phòng.
3.2.

Phạm vi nghiên cứu

-

Không gian nghiên cứu: Đề tài chỉ nghiên cứu trong phạm vi Ngân hàng
TMCP Phương Đông (OCB) – Chi nhánh Hải Phòng.

-


Thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu rủi ro tín dụng của Ngân hàng TMCP
Phương Đông (OCB) – Chi nhánh Hải Phòng từ năm 2013 – 2015.

-

Nội dung nghiên cứu: Bài nghiên cứu tập trung tìm hiểu xác định rủi ro,
nguyên nhân và các giải pháp để hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay đối
với DNVVN tại OCB – Chi nhánh Hải Phòng.

4.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể
như thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh, diễn giải.

5.

BỐ CỤC CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, kết cấu của đề tài gồm 3 chương, cụ thể:

9


Chương 1: Lý luận chung về quản lý rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay đối
với khối khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng thương
mại.
Chương 2: Thực trạng hoạt động cho vay và quản lý rủi ro tín dụng trong hoạt
động cho vay đối với DNVVN của Ngân hàng TMCP Phương Đông
(OCB) – Chi nhánh Hải Phòng. Qua đó nêu ra các nguyên nhân dẫn
đến rủi ro tín dụng tại OCB – Chi nhánh Hải Phòng trong thời gian từ

năm 2013 – 2015.
Chương 3: Biện pháp quản lý rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay đối với các
DNVVN tại Ngân hàng TMCP Phương Đông – Chi nhánh Hải Phòng.

10


CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG
TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ
NHỎ TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.

TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY

1.1.1.

Khái niệm
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển

của nền sản xuất hàng hóa. Nghề ngân hàng bắt đầu với nhiệm vụ đổi tiền hoặc đúc
tiền. Những người làm nghề đúc, đổi tiền thực hiện kinh doanh tiền tệ bằng cách
đổi ngoại tệ lấy bản tệ và ngược lại qua đó thu được lợi nhuận là sự chênh lệch giá
mua bán. Những người làm nghề đổi tiền thường có két tốt và thực hiện cất trữ hộ,
điều này tạo điều kiện thanh toán hộ và thanh toán không dùng tiền mặt. Ngân
hàng của những người vừa đổi tiền, thanh toán hộ vừa đúc tiền gọi là “ngân hàng
của những người thợ vàng”. Nghề ngân hàng này cũng bắt đầu từ người cho vay
nặng lãi, họ đồng thời thực hiện luôn cả nghiệp vụ đổi tiền, giữ hộ và thanh toán
hộ. Từ chỗ dùng vốn tự có để cho vay, các chủ ngân hàng nhận thấy luôn có số dư
thường xuyên tại ngân hàng vì tất cả những người gửi tiền không rút tiền cùng một
lúc. Do tính chất vô danh của tiền, chủ ngân hàng có thể sử dụng một phần tiền gửi

của khách để thu lợi nhuận. Vì vậy các ngân hàng đều tìm cách mở rộng thu hút
tiền gửi để cho vay bằng cách trả lãi cho người gửi tiền cũng như cung cấp các tiện
ích khác nhau nhằm thu lợi nhuận ngày càng lớn.
Ban đầu chủ yếu là cho vay cá nhân (chủ yếu là người giàu), với hình thức
chủ yếu là thấu chi, phát hành chứng chỉ tiền gửi khống để cho vay vì vậy mà
nhiều ngân hàng gặp khó khăn và phá sản.
Do sự sụp đổ của nhiều ngân hàng và do lãi suất cao nên nhiều nhà buôn tự
thành lập ngân hàng, gọi là ngân hàng thương mại (NHTM). Ngân hàng thương
mại xuất phát và gắn liền với tư bản thương nghiệp. Nó thực hiện các nghiệp vụ
truyền thống của ngân hàng như huy động tiền gửi, thanh toán, cất giữ hộ và cho
vay. Tuy nhiên có một điểm khác biệt là NHTM chủ yếu cho các nhà buôn vay
dưới hình thức chiết khấu thương phiếu và để đảm bảo an toàn, NHTM ban đầu

11


không cho vay người tiêu dùng, không cho vay trung – dài hạn, không cho vay nhà
nước. Sự phá sản của NHTM dẫn đến hình thành ngân hàng tiền gửi – không cho
vay, chỉ thực hiện giữ hộ và thanh toán hộ để lấy phí. Bên cạnh đó, tùy đặc điểm
của từng nước mà xuất hiện nhiều hình thức ngân hàng khác nhau tạo nên hệ thống
ngân hàng, chúng đều thực hiện kinh doanh tiền tệ (trừ ngân hàng nhà nước).
Hoạt động ngân hàng có những bước tiến nhanh cùng với sự phát triển kinh
tế và công nghệ. Trước hết đó là sự đa dạng hóa các loại hình ngân hàng (ngân
hàng tư nhân, ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh…) và các hoạt động ngân
hàng (đa dạng về số lượng dịch vụ cũng như nâng cao về chất lượng). Do sự tích tụ
và tâp trung vốn số lượng và quy mô ngân hàng ngày càng được mở rộng, các
nghiêp vụ mới ngày càng phát triển (từ chỗ chỉ cho vay ngắn hạn là chủ yếu đã mở
rộng cho vay trung và dài hạn, cho vay đầu tư, tiêu dùng, cho thuê…). Các ngân
hàng ngày càng phụ thuộc và liên hệ chặt chẽ với nhau, điển hình như các hoạt
động ngân hàng xuyên quốc gia, đa quốc gia đã và đang thúc đẩy hình thành các

hiệp hội, các tổ chức liên kết ngân hàng nhằm tạo sự thống nhất trong điều hành hệ
thống ngân hàng.
Sụp đổ ngân hàng đi liền với sự phát triển của hệ thống ngân hàng, các nhà
quản lý không ngừng cải tiến, nâng cao chính sách quản lý để hạn chế sự sụp đổ và
mở đường cho sự phát triển mạnh mẽ của ngành ngân hàng.
Tín dụng Ngân hàng đó là quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng và tổ chức tín
dụng khác với doanh nghiệp, cá nhân. Trong quan hệ tín dụng này, Ngân hàng vừa
là người đi vay, vừa là người cho vay. Khác với tín dụng Thương mại, tín dụng
Ngân hàng không cung cấp tín dụng dưới hình thức hàng hóa.
Theo luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12, tại khoản 14, Điều 4, quy
định: “Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền
hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng
nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân
hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.”

12


Cũng tại điều 4, khoản 14 trong Luật các tổ chức tín dụng có nêu: “ Cho vay
là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho khách
hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất
định theo thỏa thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi.”
Như vậy, cho vay theo quy định của pháp luật chính là một trong các hình
thức cấp tín dụng của ngân hàng thương mại, đây là hoạt động mang tính chất kinh
doanh nghề nghiệp. Khi thực hiện hoạt động cho vay tới khách hàng, ngân hàng sẽ
giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền nhất định để sử dụng theo
hợp đồng tín dụng hai bên đã kí kết, khách hàng sẽ phải sử dụng khoản tiền đó
theo đúng mục đích vay và đảm bảo hoản trả gốc và lãi theo đúng thỏa thuận.
Như vậy tín dụng ngân hàng mang bản chất chung của quan hệ tín dụng. Đó
là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ ngân hàng tới khách hàng theo

những điều kiện ràng buộc nhất định. Cũng như quan hệ tín dụng khác, tín dụng
ngân hàng chứa đựng 03 nội dung:
-

Có sự chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ người sở hữu sang người sử
dụng.

1.1.2.

-

Sự chuyển nhượng này có thời hạn cụ thể.

-

Sự chuyển nhượng này có kèm theo chi phí.

Phân loại:
Căn cứ vào các cách tiếp cận khác nhau cũng như các tiêu chí khác nhau và

tùy vào yêu cầu quản lý khác nhau mà tín dụng có thể phân loại theo nhiều cách
khác nhau. Theo đó, qua việc phân loại này giúp cho ngân hàng thiết lập các tiêu
chí thẩm định riêng biệt và quản trị rủi ro hợp lý nhằm tăng hiệu quả trong quá
trình hoạt động
1.1.2.1.


Căn cứ vào mục đích

Cho vay bất động sản: bao gồm các khoản cho vay xây dựng ngắn hạn và giải

phóng mặt bằng cũng như các khoản cho vay dài hạn tài trợ cho việc mua đất canh
tác, nhà, trung tâm thương mại và mua các tài sản nước ngoài. Đối với loại hình

13


cho vay này, ngân hàng được bảo đảm bằng chính tài sản thực: đất đai, toà nhà và
các công trình khác…


Cho vay đối với các tổ chức tài chính: bao gồm các khoản tín dụng dành cho ngân
hàng, công ty bảo hiểm, công ty tài chính và các tổ chức tài chính khác.



Cho vay nông nghiệp: nhằm hỗ trợ nông dân trong hoạt động gieo trồng, thu
hoạch và bảo quản sản phẩm.



Cho vay công nghiệp và thương mại: giúp doanh nghiệp trang trải các chi phí như
mua hàng, nhập kho, trả thuế, trả lương cho cán bộ công nhân viên.



Cho vay tiêu dùng cá nhân: giúp tài trợ cho việc mua ô tô, nhà ở, trang thiết bị gia
đình, vật liệu xây dựng để sửa chữa, hiện đại hóa nhà cửa hay trang trải các khoản
viện phí và các chi phí cá nhân khác.




Cho vay khác: gồm các khoản cho vay không được xếp ở trên và các khoản cho
vay kinh doanh chứng khoán.



Tài trợ thuê mua: ngân hàng mua thiết bị máy móc hay phương tiện và cho khách
hàng thuê.
1.1.2.2.

Căn cứ vào kỳ hạn tín dụng
Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời

gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng cũng như khả
năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian, tín dụng được phân thành:


Cho vay ngắn hạn: là các khoản tín dụng có thời hạn từ 12 tháng trở xuống. Các
khoản tín dụng này thường được cấp cho khách hàng có nhu cầu bổ sung vốn lưu
động trong kinh doanh hay bù đắp tạm thời các nhu cầu tiêu dùng trong thời gian
ngắn.



Cho vay trung hạn: là các khoản tín dụng có thời hạn từ trên 12 tháng đến 60
tháng. Các khoản tín dụng này thường được cấp cho khách hàng có nhu cầu đầu tư,
cải tạo, sửa chữa tài sản cố định, mở rộng sản xuất kinh doanh có thời gian thu hồi
vốn nhanh. Các nhu cầu tiêu dùng trung hạn có nguồn trả dần từ thu nhập nhưng
không quá dài như mua sắm ô tô, du học ...


14




Cho vay dài hạn: là các khoản tín dụng có thời hạn từ trên 60 tháng trở lên. Các
khoản tín dụng này thường được cấp cho khách hàng để đầu tư các tài sản cố định
có thời gian sử dụng dài, thời gian thu hồi vốn trên 60 tháng, có giá trị lớn phục vụ
sản xuất kinh doanh như nhà xưởng, tàu biển, máy móc thiết bị ...; các nhu cầu tiêu
dùng có giá trị lớn, thời gian trả nợ dài như mua sắm nhà cửa.
Cho vay trung và dài hạn đang ngày càng được các ngân hàng chú trọng
phát triển, một mặt chúng đáp ứng nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp, mặt khác
chúng cũng phù hợp với khả năng vốn của các ngân hàng thương mại. Thời hạn
cho vay trung hạn là từ 12 tháng đến 60 tháng, thời hạn cho vay dài hạn từ 60
tháng trở lên nhưng không quá thời hạn hoạt động còn lại theo quyết định thành
lập hoặc giấy phép thành lập đối với pháp nhân và không quá 15 năm đối với cho
vay các dự án đầu tư phục vụ đời sống.
1.1.2.3.



Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng

Tín dụng không bảo đảm: là loại tín dụng không có tài sản thế chấp, cầm cố hay
bảo lãnh của người thứ ba, việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách
hàng. Ngân hàng không nắm giữ một loại tài sản nào của người vay để thanh lý
nhằm thu hồi khoản vay khi có vi phạm hợp đồng mà thay vào đó là những điều
kiện: phương án kinh doanh được ngân hàng đánh giá có tính khả thi, có khả năng
đem lại lợi nhuận cao; doanh nghiệp phải kinh doanh có lãi trong hai năm liền kề
thời điểm vay vốn. Khách hàng là những khách hàng tốt, trung thực trong kinh

doanh, khả năng tài chính lành mạnh, quản trị có hiệu quả, khi đó ngân hàng dựa
vào uy tín của khách hàng mà không cần nguồn thu nợ bổ sung.



Tín dụng có bảo đảm: là hình thức tín dụng dựa trên cơ sở ngân hàng nắm giữ các
tài sản thuộc sở hữu trực tiếp của người đi vay hoặc thuộc sở hữu của người bảo
lãnh. Các hình thức bảo đảm thường gặp là: thế chấp, cầm cố, hoặc bảo lãnh. Mục
đích của việc này là khi có sự vi phạm hợp đồng tín dụng ngân hàng có quyền xử
lý các tài sản đó để thu hồi tiền cho vay. Sự bảo đảm này là căn cứ pháp lý để ngân
hàng có thêm một nguồn thu nợ thứ hai, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất (từ quá
trình sản xuất kinh doanh) thiếu chắc chắn. Các tài sản bảo đảm ở đây thường là

15


các bất động sản, động sản thuộc quyền sở hữu của bên đi vay hoặc bên thứ ba bảo
lãnh, được phép giao dịch, không có tranh chấp, tài sản được bảo hiểm theo quy
định của pháp luật.
1.1.2.4.


Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng

Tín dụng bằng tiền: là loại hình tín dụng được cung cấp bằng tiền. Đây là hình
thức cấp tín dụng chủ yếu của ngân hàng và được thực hiện bằng các kỹ thuật khác
nhau như: tín dụng ứng trước, thấu chi, tín dụng thời vụ, tín dụng trả góp.




Tín dụng bằng tài sản: là hình thức cho vay bằng tài sản rất phổ biến và đa dạng,
mà điển hình nhất là tài trợ thuê mua. Theo phương thức này ngân hàng hoặc công
ty thuê mua (công ty con của Ngân hàng) cung cấp trực tiếp tài sản cho khách hàng
và theo định kỳ khách hàng hoàn trả nợ vay gồm cả gốc và lãi.
1.1.2.5.



Căn cứ vào xuất xứ của tín dụng

Cho vay trực tiếp: ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho những khách hàng có nhu cầu,
đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.



Cho vay gián tiếp: là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại các khế
ước hoặc chứng từ nợ được phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán. Các hình
thức này gồm có: chiết khấu, mua lại các phiếu bán hàng, nghiệp vụ thanh lý.
1.1.2.6.



Căn cứ vào phương thức cho vay

Cho vay từng lần: mỗi lần vay vốn khách hàng và ngân hàng tiến hành thực hiện
những thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng. Phương thức này áp
dụng với những khách hàng có nhu cầu vay vốn không thường xuyên, sản xuất
không ổn định, kinh doanh theo thời vụ, thương vụ.




Cho vay theo hạn mức tín dụng: khách hàng và ngân hàng xác định và thoả thuận
một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất định. Việc cho vay
và thu nợ đan xen nhau, không phân định ranh giới, thời điểm cụ thể lúc nào cho
vay, lúc nào thu nợ. Phương thức này áp dụng đối với các khách hàng có nhu cầu
vay trả thường xuyên, tình hình kinh doanh ổn định, vòng quay vốn nhanh và có
tín nhiệm trong quan hệ tín dụng.

16




Cho vay theo dự án đầu tư: ngân hàng cho khách hàng vay vốn để thực hiện đầu
tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời sống.



Cho vay hợp vốn: một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một dự án vay
vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng. Trong đó có một tổ chức tín dụng
làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng khác. Ngoài ra cho vay
hợp vốn còn phải thực hiện theo quy chế đồng tài trợ của các tổ chức tín dụng do
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành. Cho vay hợp vốn có ưu điểm là san sẻ
được rủi ro song nhược điểm là nới lỏng việc kiểm soát tiền vay khách hàng.



Cho vay trả góp: khi vay vốn, ngân hàng và khách hàng xác định và thoả thuận số
lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc chưa được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ
hạn trong thời hạn cho vay.




Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Tổ chức tín dụng cam kết đảm bảo sẵn
sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. Tổ chức
tín dụng và khách hàng thoả thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự
phòng, mức phí trả cho hạn mức tín dụng dự phòng.



Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Tổ chức tín
dụng chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức
tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền
tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của tổ chức tín dụng. Khi cho vay phát
hành và sử dụng thẻ tín dụng, tổ chức tín dụng và khách hàng phải tuân theo các
quy định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về phát hành và sử
dụng thẻ tín dụng



Cho vay theo hạn mức thấu chi: Là việc cho vay mà tổ chức tín dụng thoả thuận
bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh
toán của khách hàng phù hợp với các quy định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh
toán.

17





Các phương thức cho vay khác mà pháp luật không cấm, phù hợp với quy định
của NHNN Việt Nam, với điều kiện hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng và
đặc điểm của khách hàng vay.
1.1.3.

Các nguyên tắc cho vay
Để khoản vay được ngân hàng chấp nhận, doanh nghiệp phải cam kết thực

hiện đầy đủ ba nguyên tắc. Các nguyên tắc này nhằm hạn chế rủi ro cho khoản vay
đem lại lòng tin cho ngân hàng về phía khách hàng.
1.1.3.1.

Vốn vay phải có mục đích và sử dụng đúng mục đích đã ghi trong
hợp đồng tín dụng
Trước bất cứ một hồ sơ vay vốn nào, ngân hàng thương mại đều yêu cầu

khách hàng trình bày mục đích vay vốn. Đây là một câu hỏi bắt buộc trong quá
trình thẩm định hồ sơ. Thông qua câu trả lời của khách hàng, ngân hàng có thể điều
tra, tìm hiểu khả năng sinh lời, tính thực thi từ mục đích đầu tư vốn của khách
hàng. Đây là một trong các yếu tố giúp ngân hàng xác định khả năng hoàn trả nợ từ
khách hàng, hạn chế rủi ro vỡ nợ, tăng cường hiệu quả cho vay trong hệ thống.
Từ khi tiếp nhận hồ sơ và sau khi giải ngân, ngân hàng luôn kiểm tra giám
sát việc sử dụng vốn vay của khách hàng có đúng với mục đích đã trình bày trước
đó. Một khoản vay có thể được giải ngân thông qua một hồ sơ vay vốn với mục
đích hợp lý và bản kế hoạch kinh doanh chi tiết, thực thi. Tuy nhiên, khi được giải
ngân, trong nhiều trường hợp khách hàng không sử dụng vốn theo đúng bản kế
hoạch kinh doanh đã kê khai với ngân hàng mà dùng vào đầu tư ngành nghề khác
đem lại rủi ro cao. Chính vì vậy, nguyên tắc sử dụng vốn vay đúng mục đích là yêu
cầu bắt buộc mà ngân hàng có quyền yêu cầu khách hàng làm theo nhằm đảm bảo

khả năng hoàn trả vốn vay và hiệu quả sinh lời của đồng vốn.
1.1.3.2.

Hoàn trả nợ gốc và lãi vay đúng thời hạn quy định trong hợp đồng
tín dụng.
Đây là môt yêu cầu bắt buộc đối với bất kì khoản vay nào. Một khoản vay

luôn được xác định thời hạn trả gốc, lãi và phương thức trả rõ ràng tại hợp đồng tín
dụng. Để đảm bảo cân bằng cung - cầu nguồn vốn và hiệu quả kinh doanh của

18


ngân hàng, việc xác định thời hạn trả nợ là việc hết sức cần thiết. Trong đó, theo
hợp đồng, ngân hàng sẽ cho khách hàng vay một khoản tiền có thể giải ngân một
lần hoặc nhiều lần, sau một khoảng thời gian đã cam kết khách hàng có nghĩa vụ
hoàn trả toàn bộ số nợ gốc cộng thêm một khoản lãi chính là khoản phí mà khách
hàng phải trả khi sử dụng khoản vay trong khoảng thời gian đó.
Những sai lệch so với dự kiến của việc hoàn trả nợ vay về mức độ vay, thời
hạn trả nợ đều phản ánh mức độ không bình thường của bên vay ở các mức độ
khác nhau. Điều này có thể là một dấu hiệu cảnh báo rủi ro cho ngân hàng.
Vốn vay phải có bảo đảm

1.1.3.3.

Căn cứ vào Điều 318, Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định các biện pháp bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bao gồm: Cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc,
ký cược, ký quỹ, bảo lãnh, tín chấp. Đây là những biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ trong mọi lĩnh vực mà pháp luật Việt Nam quy định, nhưng trong hoạt
động ngân hàng, các biện pháp bảo đảm ngân hàng thường áp dụng đó là cầm cố

tài sản, thế chấp tài sản, bảo lãnh, tín chấp. Theo Điều 3 nghị định 178/1999/NĐCP quy định các biện pháp bảo đảm tiền vay của TCTD bao gồm:
-

Biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản:
+) Cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay.
+) Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba.
+) Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay.

-

Biện pháp bảo đảm tiền vay trong trường hợp cho vay không có bảo đảm
bằng tài sản:
+) Tổ chức tín dụng chủ động lựa chọn khách hàng vay để cho vay
không có bảo đảm bằng tài sản.
+) Tổ chức tín dụng nhà nước được cho vay không có bảo đảm bằng
tài sản theo chỉ định của Chính phủ.
+) Tổ chức tín dụng cho cá nhân hộ gia đình nghèo vay có bảo lãnh
bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể chính trị xã hội.

19


Như vậy, theo quy định TCTD có thể áp dụng rất nhiều các biện pháp bảo
đảm tiền vay. Tuy nhiên, việc áp dụng biện pháp nào đối với mỗi khoản vay lại phụ
thuộc vào các yếu tố như kinh nghiệm của TCTD trong việc đánh giá rủi ro đối với
khoản vay và đánh giá tài sản bảo đảm, khả năng trả nợ của khách hàng… Tất cả
các biện pháp bảo đảm đều có ý nghĩa nếu nó dẫn đến hệ quả là khách hàng trả nợ
đầy đủ đúng hạn theo như cam kết trong hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm
tiền vay.



Điều kiện tài sản đảm bảo trong hoạt động cho vay:
Bảo đảm tiền vay bằng tài sản là hình thức bảo đảm mà ngân hàng áp dụng
đối với khách hàng vay vốn, trong đó ngân hàng đóng vai trò chủ nợ được hưởng
một số quyền hạn nhất định đối với tài sản của khách hàng là con nợ. Như vậy,
việc bảo đảm tiền vay bằng tài sản giúp cho ngân hàng tránh được rủi ro mất hoàn
toàn vốn, đồng thời đem lại cho ngân hàng quyền ưu tiên khi phát mại tài sản so
với các chủ nợ khác của khách hàng nếu khách hàng vay không có khả năng trả
được các khoản nợ đã vay. Thực tiễn cho thấy, không phải bất kỳ tài sản nào cũng
có thể dùng làm bảo đảm tiền vay được ngân hàng chấp nhận. Theo pháp luật về
bảo đảm tiền vay, tài sản dùng để bảo đảm tiền vay phải đáp ứng đủ bốn điều kiện
sau:

-

Thuộc quyền sở hữu, quyền quản lý, sử dụng của khách hàng vay hoặc bên
bảo lãnh.
Để chứng minh được điều kiện này, khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh phải
xuất trình Giấy chứng nhận sở hữu, quyền quản lý sử dụng tài sản. Trường hợp thế
chấp quyền sử dùng đất, khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh phải có giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất và được thế chấp theo quy định của pháp luật về đất đai.
Đối với tài sản mà Nhà nước giao cho doanh nghiệp nhà nước quản lý, sử dụng,
doanh nghiệp phải chứng minh được quyền được cầm cố thế chấp hoặc bảo lãnh
tài sản đó.

-

Thuộc tài sản được phép giao dịch:

20



Tài sản được phép giao dịch được hiều là các tài sản mà pháp luật cho phép
hoặc không cấm mua, bán, tặng, cho, chuyển nhượng, chuyển đổi, cầm cố thế
chấp, bảo lãnh và các giao dịch khác.
-

Không có tranh chấp tại thời điểm ký hợp đồng bảo đảm
Ngân hàng yêu cầu khách hàng vay, bên bảo lãnh cam kết bằng văn bản về
việc tài sản không có tranh chấp về quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng, quản lý tài
sản đó và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về cam kết của mình.

-

Phải mua bảo hiểm nếu pháp luật có quy định.
Đối với các tài sản mà pháp luật quy định phải mua bảo hiểm, thì TCTD yêu
cầu khách hàng xuất trình hợp đồng mua bảo hiểm trong thời hạn bảo hiểm.
1.1.4.
1.1.4.1.



Vai trò của hoạt động cho vay
Đối với nền kinh tế

Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Thông qua hoạt động cho vay, luồng vốn
có thể tập trung tại các ngành nghề kinh doanh có lợi suất cao và tính rủi ro thấp
góp phần thúc đẩy phát triển của nền kinh tế. Dựa vào các chính sách điều tiết vĩ
mô, thông qua trần lãi suất hoặc một số công cụ khác nhà nước có thể điều chỉnh
cơ cấu kinh tế tập trung tại các ngành nghề lĩnh vực kinh doanh ưu tiên như công

nghiệp và dịch vụ.



Cân bằng cung – cầu vốn trong xã hội: Với bất kì một trạng thái kinh tế nào luôn
có tình trạng nơi dư thừa nguồn vốn và nơi có nhu cầu vốn. Đặc biệt, với sự đa
dạng về ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh mà mùa vụ kinh doanh, vòng quay vốn
lưu động, …tạo cho các doanh nghiệp các khoảng thời gian chênh lệch về nhu cầu
vốn. Chính điều này đã tạo cho ngân hàng cơ hội kinh doanh khi thực hiện chức
năng phân phối nguồn vốn dư thừa trong xã hội tới các khu vực kinh tế có nhu cầu
và có khả năng hoàn trả, góp phần nâng cao hiệu quả đồng vốn và tính ổn định,
hoạt động liên tục của nền kinh tế.



Là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước: Thông qua trần lãi suất cho vay NHTW
có thể thực hiện nhiệm vụ ổn định thị trường tài chính khi điều chỉnh cung, cầu tín
dụng. Như ta đã biết cơ cấu kinh tế được quyết định bởi cơ cấu đầu tư mà tín dụng

21


lại quyết định đến cơ cấu đầu tư thông qua lãi suất. Nhà nước thông qua hoạt động
của các Ngân hàng thương mại, chủ yếu là hoạt động tín dụng để điều chỉnh cơ cấu
kinh tế.
1.1.4.2.


Đối với Ngân hàng


Tạo nguồn doanh thu chính cho ngân hàng: Tại các nước phát triển hoạt động
cho vay đem đến khoảng 70% doanh thu các NHTM, trong khi đó tại Việt Nam
khoảng 80-90% thu nhập ngân hàng thương mại phụ thuộc vào hoạt động này.
1.1.4.3.



Đối với doanh nghiệp

Hoạt động cho vay là điều kiện đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra
thường xuyên liên tục: Như ta đã biết các doanh nghiệp khác nhau về điều kiện
sản xuất kinh doanh dẫn đến tuần hoàn luân chuyển vốn khác nhau. Đồng thời mỗi
doanh nghiệp lại là một thực thể sở hữu khác nhau cho nên luôn tồn tại hai nhóm,
doanh nghiệp này thừa vốn thì doanh nghiệp khác thiếu vốn vì chưa bán được
hàng, chưa thu được tiền nhưng đã đến thời hạn phải thanh toán các khoản nợ ,
phải trả lương ... Dẫn đến các doanh nghiệp có nhu cầu được vay vốn. Nhờ hoạt
động cho vay trung gian của NHTM mà cả hai nhóm doanh nghiệp đều được thoả
mãn về vốn và dẫn đến quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra một cách thương
xuyên, liên tục, nguồn vốn được sử dụng một cách tối đa.



Tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng, đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị
công nghệ hiện đại: Vốn, kĩ thuật và lao động là ba yếu tố đầu vào cơ bản trong
hoạt động của doanh nghiệp. Qua thời gian, sự phát triển của tiến bộ khoa học
công nghệ đã chứng minh tầm quan trọng của ứng dụng công nghệ hiện đại vào
hiệu quả sản xuất. Chính vì vậy, thông qua vốn vay ngân hàng các doanh nghiệp có
cơ hội tiếp cận và sử dụng các ứng dụng công nghệ cao vào dây chuyền sản xuất
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và năng lực doanh nghiệp.
1.2.


RỦI RO TÍN DỤNG.

1.2.1.

Khái niệm rủi ro tín dụng.
Hoạt động kinh doanh của ngân hàng rất đa dạng, phong phú. Vì vậy rủi ro

đe dọa nó cũng có nhiều hình thái khác nhau và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.

22


Các loại rủi ro NHTM gặp phải là: Rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro tỷ
giá, rủi ro hoạt động … Trong đó, rủi ro tín dụng được coi là rủi ro chiếm tỷ lệ lớn
nhất, thường xuyên xảy ra và gây hậu quả nặng nề nhất đối với hoạt động ngân
hàng.
Có nhiều quan niệm về rủi ro tín dụng như sau:


Theo Ủy ban Basle thuộc Ngân hàng Thanh toán Quốc tế: “Rủi ro tín dụng là
khả năng mà khách hàng vay hoặc bên đối tác không thực hiện được các nghĩa vụ
của mình theo những điều khoản đã thỏa thuận”, cũng theo Ủy ban này, một định
nghĩa khác có thể nêu ra là “Rủi ro thất thoát đối với một ngân hàng là sự vỡ nợ
của người giao ước trong hợp đồng”, trong đó sự vỡ nợ được xác định là bất kỳ sự
vi phạm nghiêm trọng nào đối với nghĩa vụ hợp đồng khi hoàn trả gốc và/hoặc lãi.



Theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2015 của Ngân hàng Nhà nước

Việt Nam, tại khoản 1, điều 2 thì “Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng
TCTD là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của TCTD do khách
hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo
cam kết”.
Có thể có nhiều cách khác nhau để định nghĩa về rủi ro tín dụng, song các
quan niệm về rủi ro tín dụng đều hội tụ với nhau vè bản chất đó là: Rủi ro tín dụng
là khả năng (xác suất) xảy ra những thiệt hại về kinh tế mà NHTM phải gánh chịu
do khách hàng vay vốn thanh toán nợ không đúng hạn hoặc không hoàn trả được
nợ vay (gồm gốc và/hoặc lãi). Rủi ro tín dụng có thể gây tổn thất về tài chính cho
NHTM đó là giảm thu nhập ròng và giảm giá trị thị trường của vốn; trong trường
hợp nghiêm trọng có thể dẫn đến phá sản ngân hàng.
1.2.2.

Phân loại rủi ro tín dụng
Căn cứ vào các cách tiếp cận khác nhau cũng như các tiêu chí khác nhau và

tùy vào yêu cầu quản lý khác nhau mà rủi ro tín dụng có thể phân loại theo nhiều
cách khác nhau. Theo những tiêu chí và cách tiếp cận cơ bản nhất chúng ta có thể
phân loại rủi ro tín dụng NHTM theo các cách sau:


Rủi ro đối với tín dụng ngắn hạn:

23


Mục đích của tín dụng ngắn hạn là nhằm bổ sung vốn lưu động tạm thời
thiếu cho các doanh nghiệp và cá nhân kinh doanh với thời hạn ngắn (thường dưới
1 năm). Các khoản tín dụng ngắn hạn thường được kiểm tra qua tính toán hiệu quả
đầu tư giản đơn và nhanh chóng, lãi suất cho vay thấp, phương pháp này dễ xảy ra

tình trạng khách hàng sử dụng vốn ngắn hạn để đầu tư trung và dài hạn, sử dụng
sai mục đích, gây thiệt hại cho ngân hàng.


Rủi ro đối với tín dụng trung và dài hạn:
Đặc điểm của tín dụng trung và dài hạn là thời hạn thu hồi vốn dài, có khối
lượng lớn, vòng quay vốn chậm (từ một năm trở lên) chủ yếu cấp vốn để mua tài
sản cố định, cải tiến mở rộng sản xuất, đầu tư cho các công trình và dự án lớn mà
hiệu quả của công việc đầu tư này phụ thuộc vào nhiều yếu tố như biến động về
chính trị, xã hội, thiên tai địch hoạ... Những yếu tố có thể tác động tích cực hoặc
tiêu cực đến hiệu quả đầu tư. Những hoạt động tiêu cực gây ra sự đình trệ, thất
thoát vốn của doanh nghiệp, trì hoãn thời gian thu vốn của dự án gây ảnh hưởng
đến các món nợ của ngân hàng.



Rủi ro trong nghiệp vụ chiết khấu:
Chiết khấu là việc tổ chức tín dụng mua thương phiếu, giấy tờ có giá ngắn
hạn khác của người thụ hưởng trước khi đến hạn thanh toán.
Tái chiết khấu là việc mua lại thương phiếu, giấy tờ có giá ngắn hạn khác đã
được chiết khấu trước khi đến hạn thanh toán.
Chiết khấu có thể xảy ra rủi ro trong các trường hợp sau:



-

Thương phiếu giả mạo:

-


Người nhận trả không có khả năng trả nợ

Rủi ro đối với tín dụng thuê mua:
Nói chung đây là một hình thức tín dụng có độ an toàn tương đối cao vì
trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng thuê mua, tài sản cho thuê vẫn
thuộc quyền sở hữu của người cho thuê.
Theo hình thức quản lý thì rủi ro tín dụng bao gồm hai loại:



Rủi ro tín dụng có thể kiểm soát được:

24


Đối với rủi ro này ngân hàng phần nào dự đoán được chủ thể gây ra rủi ro,
ước tính được mức độ ảnh hưởng của rủi ro, đồng thời dự kiến được thời gian phát
sinh từ đó có những biện pháp phòng ngừa và hạn chế ở mực thấp nhất thiệt hại có
thể xảy ra cho ngân hàng. Những rủi ro này thường ro tính chủ quan của con người
gây ra, có thể do khách hàng gây ra như kinh doanh kém hiệu quả hoặc quản lý yếu
kém, có thể do nguyên nhân từ phía ngân hàng như không tuân thủ nguyên tắc
cũng như quy trình thẩm định, năng lực, đạo đức cán bộ tín dụng…Thông thường
là do khách hàng gây ra rủi ro này.


Rủi ro tín dụng không kiểm soát được:
Đây là loại rủi ro mà ngân hàng không thể dự đoán trước được, không biết
chúng sẽ xảy ra vào thời điểm nào, cũng như không thể tính toán một cách chính
xác được những ảnh hưởng thiệt hại mà chúng gây ra. Những rủi ro này chủ yếu do

những bất lợi về yếu tố tự nhiên như hạn hán, lũ lụt, mất mùa, hoả hoạn…Ngoài ra
rủi ro này còn do những thay đổi cơ chế cũng như chính sách của nhà nước.
1.2.3.
1.2.3.1.

Nguyên nhân và hậu quả của rủi ro tín dụng.
Nguyên nhân của rủi ro tín dụng
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng, Quản lý rủi ro tín dụng cần

xác định những nguyên nhân cụ thể, cách thức gây ra rủi ro tín dụng để có biện
pháp hạn chế.


Nguyên nhân khách quan:

-

Môi trường kinh tế thiếu ổn định:
Môi trường kinh tế không lành mạnh, nhịp độ tăng trưởng không ổn định,
chu kỳ của nền kinh tế ngắn, Ngân hàng rất khó nắm bắt được thị trường, sản xuất
trong nước không ổn định, dễ đình trệ, không có hiệu quả. Mặt khác, nền kinh tế
xuất hiện nhiều tệ nạn xã hội như buôn lậu, hàng giả ... dẫn đến sự phá sản của các
doanh nghiệp. Những thay đổi này thường xuyên xảy ra, tác động liên tục tới
người vay, tạo thuận lợi hoặc khó khăn cho người vay. Nhiều người vay, với bản
lĩnh của mình có khả năng dự báo, thích ứng, hoặc khắc phục những khó khăn.

25



×