Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Đánh giá kết quả phẫu thuật ung thư dạ dày sớm tại bệnh viện việt đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 112 trang )

1

BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

NGUYỄN PHÚC KIÊN

“Đánh giá kết quả phẫu thuật ung thư dạ dày sớm tại bệnh viện Việt Đức

Chuyên ngành: Ngoại tiêu hóa
Mã số

: CK 62720701

LUẬN VĂN BÁC SĨ CHUYÊN KHOA CẤP II
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. PHẠM ĐỨC HUẤN

HÀ NỘI - 2015


2

ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư dạ dày (UTDD) là một trong những loại ung thư phổ biến trên
thế giới với 988.602 ca mắc mới chiếm 7,8% của tất cả các trường hợp ung
thư phát hiện trong năm 2008 và là nguyên nhân chết do ung thư phổ biến thứ
hai trên thế giới với 737.419 người chết mỗi năm [1],[2]. Bệnh có tiên lượng
rất xấu nếu không được chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời, tỷ lệ tử vong
chiếm tới 30% tổng số tử vong của các bệnh có khối u ác tính [3]. Năm 1938,
Saeki (Nhật Bản) lần đầu tiên chứng minh mối liên quan giữa tỉ lệ sống với mức


độ xâm lấn của UTDD, theo đó, hơn 90% sống thêm trên 5 năm sau điều trị
phẫu thuật ở những bệnh nhân UTDD giai đoạn sớm. Khái niệm UTDD sớm
(early gastric carcinoma) là những khối u phát triển tại lớp niêm mạc và dưới
niêm mạc chưa xâm lấn lớp cơ, có thể có hoặc không di căn hạch bạch huyết
vùng [4],[5]. Hiện nay, các nhà khoa học đều cho rằng việc kéo dài thời gian
sống cho bệnh nhân UTDD chủ yếu dựa vào việc phát hiện sớm và phẫu thuật
triệt để [6],[7]. Điều này đã được coi trọng và thực hiện có hiệu quả tại Nhật
Bản, tuy nhiên, dữ liệu từ các nước châu Á khác còn rất nghèo nàn [2].
Việt Nam nằm trong vùng có tỉ lệ mắc UTDD cao, theo ghi nhận tình
hình ung thư tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh khác, người
ta ước tính tỷ lệ mắc ung thư dạ dày năm 2000 là 23,7/100.000 dân ở nam,
đứng hàng thứ 2 sau ung thư phổi, còn nữ giới tỷ lệ này là 10,8/100.000 dân,
đứng hàng thứ 3 sau ung thư vú và ung thư cổ tử cung [8],[9]. Thực tế lâm
sàng cho thấy, UTDD nói chung đặc biệt là UTDD sớm thường không có dấu
hiệu lâm sàng báo hiệu, tổn thương trên nội soi dễ bị bỏ sót do nhầm lẫn với
bệnh lành tính, việc bấm sinh thiết chẩn đoán mô bệnh học chỉ được thực hiện
ở các cơ sở chuyên khoa sâu [10]; vì những nguyên nhân này, chẩn đoán và


3

điều trị UTDD sớm ở Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn. Mặc dù trong những
năm gần đây, UTDD sớm đã được quan tâm chú ý nhiều nhưng tỉ lệ phát hiện
còn rất thấp, chỉ xấp xỉ 10% [10]. Những nghiên cứu ở nước ta về chẩn đoán
và điều trị UTDD sớm còn chưa nhiều.
Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi tiến hành đề tài nghiên cứu “Đánh
giá kết quả phẫu thuật ung thư dạ dày sớm tại bệnh viện Việt Đức” với hai
mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng trên bệnh nhân ung thư dạ dày
sớm đã được mổ cắt dạ dày tại Bệnh viện Việt Đức

2. Đánh giá kết quả phẫu thuật ung thư dạ dày sớm tại Bệnh viện Việt Đức.


4

Chương 1
TỔNG QUAN

1.1. Chẩn đoán và điều trị ung thư dạ dày sớm
1.1.1. Trên thế giới
UTDD sớm hay còn gọi là UTDD giai đoạn đầu (Early gastric cancer)
được Saeki (1938) mô tả lần đầu và được Hội Nội soi Tiêu hoá Nhật Bản sử
dụng vào những năm 1960 để chỉ các tổn thương ung thư phát triển tại lớp
niêm mạc và dưới niêm mạc chưa xâm lấn lớp cơ, có thể có hoặc không có di
căn hạch.
Murakami (1971) đã thực hiện các phân tích kết quả theo dõi lâu dài sau
mổ với trước năm 1933, và chứng minh rằng tỷ lệ sống sau 5 năm là 90%
nếu ung thư còn giới hạn ở lớp dưới niêm mạc, so với 45% khi lớp cơ thành
dạ dày đã bị xâm nhập.
Nghiên cứu của Takaki Yoshikawa và cộng sự cho kết quả tỷ lệ sống sau
5 năm của UTDD sớm đạt 94%, sau 10 năm đạt 88,7% và khi ung thư mới chỉ
ở lớp niêm mạc tỷ lệ này tương ứng là 99,2% và 97,6% [11].
Các tác giả phương Tây cũng cho kết quả tương tự về hiệu quả tốt của
điều trị trong nghiên cứu của họ; nghiên cứu của Peter Lopez cũng cho tỉ lệ
91,5% [12].
Nghiên cứu trên 848 BN bị UTDD sớm Shiro Kikuchi [13] nhận thấy
các yếu tố tuổi, giới, kích thước khối u, týp đại thể không liên quan đến
thời gian sống sau mổ, các phương pháp điều trị như các dạng cắt dạ dày,
các mức độ vét hạch, cắt lách cũng không thấy mối liên quan nào với thời
gian sống ở cả 2 phương pháp phân tích đơn biến và đa biến. Chỉ có một

yếu tố: di căn hạch, được phát hiện có liên quan đến thời gian sống sau mổ.


5

1.1.2. Tại Việt Nam
UTDD sớm ở Việt Nam ít được phát hiện, tỷ lệ chẩn đoán xác định trước
mổ rất thấp, chủ yếu chẩn đoán hổi cứu sau mổ nhờ kết quả giải phẫu bệnh
Những trường hợp ung thư sớm được Hà Văn Mạo đề cập lần đầu vào
năm 1978 trên Tạp chí Nội khoa số 4 năm 1978. Trong đó giới thiệu 4
trường hợp được chẩn đoán là UTDD qua nội soi bằng ống soi mềm kèm
theo sinh thiết, kết quả mô bệnh học sau mổ khẳng định là UTDD sớm với
tổn thương khu trú ở lớp niêm mạc. Năm 1992, Hà Văn Quyết có bài viết về
UTDD sớm gồm định nghĩa, kết quả điều trị phẫu thuật trên Tạp chí Ngoại
khoa số 4/1992. Những năm sau này, UTDD sớm được đề cập rải rác trong
các công trình nghiên cứu về UTDD tiến triển của Trịnh Hổng Sơn (2001)
nghiên cứu nạo vét hạch 306 trường hợp UTDD chỉ phát hiện được 2 trường
hợp UTDD sớm chiếm tỷ lệ 0,65% và không tìm thấy di căn hạch trong các
trường hợp này. Nguyễn Xuân Kiên (2005), nghiên cứu nạo vét hạch ở 144
trường hợp UTDD trong đó có 48 bệnh nhân được nạo vét dưới định hướng
của cácbon hoạt tính phát hiện đựơc 19 trường hợp UTDD sớm trong đó tỷ lệ
di căn hạch là 15,8%. Kích thước u<2cm có 8.3% di căn hạch, những u có
kích thước 2-3,5 cm có 28,6% di căn hạch.
Nguyễn Thị Quỹ (2008), nghiên cứu sử dụng nhuôm màu Indigocarmin
trong nôi soi chẩn đoán sớm UTDD đã phát hiện được 9 trường hợp UTDD
sớm chiếm tỷ lệ 12,5%. Môt số tác giả khác như Bùi Văn Lạc, Vũ Hải trên
báo Y học Thực hành có môt số nhân xét về UTDD sớm. Tuy nhiên, cho
đến nay chưa có môt công trình nào nghiên cứu riêng về UTDD sớm môt
cách đầy đủ.
1.2. Giải phẫu và mô học

1.2.1 Hình thể dạ dày [14],[15]
Dạ dày là đoạn phình to nhất của ống tiêu hoá, ở vị trí nối giữa thực
quản và tá tràng. Dạ dày có hai thành trước sau, bờ cong lớn và bờ cong nhỏ,
tâm vị và môn vị ở hai đầu. Lần lượt từ trên xuống dưới có:


6

+ Tâm vị là vùng rộng khoảng 3-4cm nằm kế cận thực quản. Vùng này
bao gồm cả lỗ tâm vị là chỗ nối thực quản và dạ dày, không có van đóng kín,
cấu tạo là một nếp niêm mạc.
+ Đáy vị ở bên trái lỗ tâm vị và ngăn cách với thực quản bụng bởi một
khuyết gọi là khuyết tâm vị, là phần phình to hình chỏm cầu, còn được gọi
đáy phình vị.
+ Thân vị là phần tiếp theo đáy vị, hình ống, được cấu tạo bởi hai thành
và hai bờ. Giới hạn trên là mặt phẳng qua lỗ tâm vị, giới hạn dưới là mặt
phẳng qua khuyết góc bờ cong nhỏ.
+ Hang vị là phần nối tiếp theo thân vị hướng sang phải và hơi ra sau.
+ Ống môn vị thu hẹp lại giống cái phễu và đổ vào môn vị. Ở giữa môn
vị là lỗ môn vị thông với hành tá tràng.

Hình 1.1. Phân chia dạ dày [16]
1.2.2. Mô học [15],[17]
Cấu tạo của thành dạ gồm 4 lớp, từ trong ra ngoài lần lượt là lớp niêm
mạc, lớp dưới niêm mạc, lớp cơ và lớp thanh mạc:


7

♦ Lớp niêm mạc bao gồm:

+ Lớp bề mặt: Toàn bộ niêm mạc được phủ bởi tế bào biểu mô chế
nhày hình trụ, nhân nhỏ lệch về phía đáy, nguyên sinh chất có chứa các hạt
nhày sáng ở vùng trên nhân. Dưới kính hiển vi điện tử, tế bào biểu mô bề mặt
có viền vi nhung mao ngắn bao phủ mặt đỉnh, phía ngoài mặt đỉnh là lớp
mỏng glycocalyx có sợi. Tế bào biểu mô phủ sắp xếp một cách tinh vi với
những hố lõm nơi đổ vào của các tuyến dạ dày.
+ Lớp đệm: Là mô liên kết thưa có chứa các tuyến dạ dày, các sợi cơ
trơn và mạch máu.
+ Lớp cơ niêm: Là loại cơ trơn ngăn cách niêm mạc với hạ niêm mạc
và lớp cơ.
♦ Lớp dưới niêm mạc: Có đám rối thần kinh dưới niêm
♦ Lớp cơ: Gồm 3 lớp, cơ chéo ở lớp trong cùng, tiếp đến là lớp cơ vòng
và ngoài cùng là lớp cơ dọc.
♦ Lớp thanh mạc: Nằm ở ngoài cùng là một phần của lá tạng phúc mạc.
1.2.3. Liên quan của dạ dày với các cơ quan xung quanh
Dạ dày liên quan với cơ hoành, gan, đại tràng ngang, lách, tụy, tuyến
thượng thận…ở các phía khác nhau:
- Phía trên liên quan với cơ hoành và thuỳ trái gan.
- Phía trước liên quan với thành bụng. Dạ dày nằm sát dưới thành bụng
trước trong một tam giác giới hạn bởi bờ dưới gan, cung xương sườn trái và
mặt trên đại tràng ngang.
- Phía dưới liên quan với đại tràng ngang, mạc treo đại tràng và mạc
nối lớn.


8

- Phía sau và hai bên liên quan với lách, tụy, tuyến thượng thận trái,
thận trái, đại tràng góc lách.
Chính có sự liên quan này nên UTDD ở bờ cong lớn có thể xâm lấn vào

lách, đuôi tụy, xa hơn nữa u xâm lấn vào đại tràng ngang [18].
1.2.4. Mạch máu
1.2.4.1. Vòng mạch bờ cong nhỏ
- Bó mạch vị phải: Xuất phát từ động mạch gan riêng ở phía trước và
bên trái chạy đến bờ cong nhỏ chia thành hai nhánh để nối với động mạch vị
trái. Tĩnh mạch đi cùng động mạch và đổ vào tĩnh mạch cửa.
- Bó mạch vị trái: Động mạch vị trái xuất phát từ động mạch thân tạng
chạy vòng lên trên và đội phúc mạc lên thành một nếp gọi là liềm động mạch
vành vị đổ vào vị trí 1/3 trên của dạ dày chia thành hai nhánh bò sát bờ cong
nhỏ đi xuống để nối với động mạch vị phải. Tĩnh mạch vị trái phát sinh gần
tâm vị đi kèm động mạch và đổ vào tĩnh mạch cửa.
1.2.4.2. Vòng mạch bờ cong lớn
 Bó mạch vị mạc nối phải: Động mạch xuất phát từ động mạch vị tá
tràng đi trong dây chằng vị đại tràng rồi đi song song với bờ cong lớn để cho
những nhánh nuôi cho môn vị, thân vị. Những nhánh đi xuống gọi là nhánh
mạc nối. Tĩnh mạch vị mạc nối phải lúc đầu đi cùng với động mạch tới môn
vị thì uốn lên trước đầu tụy để đổ vào tĩnh mạch mạc treo tràng trên.
 Bó mạch vị mạc nối trái: Xuất phát từ động mạch lách trong rốn lách
hay từ một nhánh của động mạch vị ngắn đi vào mạc nối vị lách rồi chạy dọc bờ
cong lớn trong dây chằng vị đại tràng cho những nhánh bên nuôi dạ dày. Tĩnh
mạch vị mạc nối trái theo động mạch đổ vào tĩnh mạch lách trong rốn lách.
1.2.4.3. Những động mạch vị ngắn
Phát sinh từ động mạch lách hay từ một nhánh của nó, có khoảng 5-6
nhánh chạy trong mạc nối vị lách để chi phối cho phân trên bờ cong lớn.


9

1.2.4.4. Động mạch vùng đáy vị và tâm vị
 Các nhánh thực quản phát sinh từ động mạch vị trái đi ngược lên chi

phối cho mặt trước và mặt sau vùng tâm vị và đáy vị.
 Động mạch hoành dưới trái cho các nhánh đến mặt sau tâm vị.
 Động mạch đáy vị bất thường sinh ra từ động mạch lách đi trong dây
chằng vị hoành chi phối cho đáy vị và mặt sau thực quản.
Mạch máu đi tới dạ dày bắt nguồn từ động mạch thân tạng gồm:
 Vòng mạch bờ cong nhỏ bao gồm bó mạch vị phải và bó mạch vị trái.
 Vòng mạch bờ cong lớn bao gồm bó mạch vị mạc nối phải và bó mạch
vị mạc nối trái.
 Các động mạch vị ngắn chi phối cho phần trên bờ cong lớn.
 Động mạch vùng đáy vị và tâm vị bao gồm các nhánh thực quản phát
sinh từ động mạch vị trái, động mạch đáy vị sau phát sinh từ động mạch lách.
Động mạch hoành dưới trái cho các nhánh đến mặt sau tâm vị.
1.2.5. Thần kinh
Dạ dày được chi phối bởi hai dây thần kinh X trước và sau thuộc hệ
phó giao cảm và những sợi thần kinh từ đám rối tạng thuộc hệ giao cảm.
1.2.6. Hệ bạch huyết
Theo Đỗ Xuân Hợp [15] thì hạch bạch huyết dạ dày bao gồm:
+ Chuỗi hạch bạch huyết dạ dày: Dọc theo bờ cong nhỏ, nhận bạch
huyết của nửa phải phần đứng và 1/2 trên phần ngang dạ dày.
+ Chuỗi vị mạc nối: Nhận bạch huyết của nửa trái thân vị và nửa dưới
phần ngang dọc bờ cong lớn.
+ Chuỗi tuỵ lách: Nhận bạch huyết của đáy vị và 1/2 trên thân vị.


10

Hiệp hội nghiên cứu UTDD Nhật Bản đã đánh số các nhóm hạch để
thuận tiện cho phẫu thuật viên chuẩn hoá việc nạo vét hạch bao gồm các
nhóm sau [19],[20]:


Hình 1.2. Các nhóm hạch dạ dày theo phân loại của Nhật Bản [19]
♦ Nhóm 1:

Các hạch ở bên phải tâm vị.

♦ Nhóm 2:

Các hạch ở bên trái tâm vi.

♦ Nhóm 3:

Các hạch dọc theo bờ cong nhỏ.

♦ Nhóm 4:

Các hạch dọc theo bờ cong lớn.

♦ Nhóm 5:

Các hạch trên môn vi

♦ Nhóm 6:

Các hạch dưới môn vi.

♦ Nhóm 7:

Các hạch dọc theo động mạch vị trái.

♦ Nhóm 8:


Hạch động mạch gan chung.

♦ Nhóm 9:

Các hạch dọc theo động mạch thân tạng.

♦ Nhóm 10:

Các hạch tại rốn lách.

♦ Nhóm 11:

Các hạch dọc theo động mạch lách.

♦ Nhóm 12:

Các hạch trong dây chằng gan tá tràng, cuống gan.


11

♦ Nhóm 13:

Các hạch mặt sau đầu tuỵ.

♦ Nhóm 14:

Các hạch ở gốc mạc treo ruột non.


♦ Nhóm 15:

Các hạch dọc theo các mạch máu đại tràng giữa.

♦ Nhóm 16:

Các hạch xung quanh động mạch chủ.

* Các nhóm hạch trên được chia làm ba chặng:
Chặng 1:

Các hạch nhóm 1,2,3,4,5,6 đại diện là các hạch bờ cong
nhỏ, bờ cong lớn.

Chặng 2:

Các nhóm 7,8,9,10,11,12. Các bạch mạch chạy về phía
động mạch thân tạng, các hạch bờ trên tuỵ dọc động
mạch lách, động mạch gan chung.

Chặng 3:

Các nhóm hạch 13,14,15,16. Bạch huyết tập trung lại ở
vùng cạnh động mạch chủ và đổ vào ống ngực.

1.3. Dịch tễ học
UTDD đang đươc coi là một vấn đề y tế công cộng do mức độ phổ biến
cũng như tính nghiêm trọng của nó. UTDD là bệnh UT phổ biến đứng thứ hai
trong các bệnh UT về tỉ lệ tử vong [21],[22],[23]. Ước tính mỗi năm có
988.602 ca mắc mới 737.419 người chết mỗi năm [1],[2]. Tỷ lệ chết do

UTDD đã giảm từ 31,5/100.000 đối với đàn ông da trắng vào những năm
1935, xuống còn 7,8/100.000 dân vào năm 1983 [24].
UTDD phân bố không đồng đều trên thế giới. Mặc dù là vấn đề toàn
cầu, tuy nhiên có tới khoảng hai phần ba số bệnh nhân UTDD ở các nước
đang phát triển [21]. Tỷ lệ mắc cao nhất được thấy ở Nhật Bản, Nam Mỹ,
Đông Âu, tỷ lệ mắc thấp nhất ở Bắc Mỹ, Ấn Độ, Nigieria và Úc [8],[25],[26].
Năm 2015, Nikolaidis và cộng sự nghiên cứu tại Hy Lạp cho thấy nguy cơ dạ
dày cao hơn ở nông thôn so với thành thị (RR = 1,25, 95%CI: 1,02 – 1,54)
[27]. Cũng trong nghiên cứu tại Hy Lạp, tác giả cho rằng tỉ lệ mắc UTDD cao
hơn ở nam so với nữ [27]. Điều này cũng đúng với một điều tra tại Mỹ với tỷ


12

lệ nam/nữ là 2/1 [8]. Su Yan và cộng sự trong nghiên cứu dịch tễ học lâm
sàng bệnh UTDD ở Hehuang Trung Quốc cho kết quả tỉ lệ mắc cao hơn ở
những người trên 50 tuổi [23]. Ở Hy Lạp, nhóm tuổi phổ biến mắc bệnh là
những người trên 65 tuổi [27].
Tại Việt Nam, tác giả Nguyễn Bá Đức nghiên cứu về UTDD ở 5 tỉnh,
thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Thừa Thiên Huế và Cần Thơ
giai đoạn 2001-2004 cho thấy tỷ lệ mắc UTDD ở Hà Nội là cao nhất, chiếm tỷ
lệ 2309/3311 (69,3%). Nghiên cứu cũng chỉ ra tỷ lệ UTDD ở Hà Nội cao gấp
đôi ở Thành phố Hồ Chí Minh và rất gần vởi tỷ lệ UTDD của người Trung
Quốc và Singapore, thấp hơn tỷ lệ ở Osaka và Thượng Hải [28],[29]. Bệnh
gặp ở nam giới nhiều hơn phụ nữ (tỷ lệ 2/1) [26]. Các tác giả cũng cho thấy,
tuổi hay gặp UTDD ở nước ta là 50-60 tuổi, bệnh hiếm gặp ở những người
Việt Nam dưới 40 tuổi [25],[30]. Theo Đỗ Đức Vân (2005): tuổi trung bình
của BN UTDD là 56,6 [31], tương đương với tuổi trung bình của bệnh nhân
trong nghiên cứu của Trịnh Hồng Sơn (2001) là 54,6 tuổi [32] và Nguyễn
Xuân Kiên (2005) với tuổi trung bình của bệnh nhân là 55,52 [33]. Về nghề

nghiệp, Đỗ Đức Vân và Lê Minh Sơn cùng cho những kết quả như nhau về tỉ
lệ mắc UTDD trong các nhóm nghề khác nhau ở nước ta, theo các tác giả này,
nông dân và CBVC nhà nước chiếm tỷ lệ cao nhất. Các tỉ lệ này lần lượt trong
hai nghiên cứu là 47,6%, 36,9% [31] và 18,2%, 48,2% [29].
1.4. Nguyên nhân
1.4.1. Yếu tố sinh hoc
♦ Vai trò của xoắn khuẩn Helicobacter pylori (HP)
Vào năm 1983 Marshall và Warren phân lập được vi khuẩn HP từ các
mảnh sinh thiết biểu mô dạ dày, các nghiên cứu tiếp sau đó đã chứng minh
được nó có khả năng gây tổn thương niêm mạc dạ dày, gây viêm dạ dày theo
từng mức độ và dần dần dẫn đến dị sản, loạn sản rồi đến UTDD. Parsonet và


13

cộng sự (1991) đã cho thấy có sự liên quan chặt chẽ giữa HP và UTDD ở phụ nữ
và người da đen và HP không những làm tăng nguy cơ mắc bệnh UTDD, nó còn
là một trong các yếu tố gây bệnh. Nghiên cứu của ông cũng đưa ra tỉ lệ nhiễm
HP trên bệnh nhân UTDD là 84% và ở nhóm chứng là 61% [34]. Đối với UTDD
loại ruột thì thấy sự có mặt của HP ở mô không UT là 90% so với loại lan toả là
32% [10]. Bằng phương pháp chẩn đoán huyết thanh, tỷ lệ huyết thanh dương
tính với HP trong UTDD là 64-70% [10]. Blaser (1995) nghiên cứu sâu hơn về
vai trò của HP trong UTDD thấy rằng những người nhiễm HP có gen Cag A
có khả năng gây UTDD cao hơn người nhiễm HP không mang gen CagA
[35]. Ở Mỹ cũng như một số nơi khác trên thế giới, người ta phát hiện thấy tỷ
lệ nhiễm trùng H. pylori cao tại những khu vực có nguy cơ mắc UTDD cao
[29]. Mặc dù không phải bệnh nhân nhiễm H. pylori nào đều sẽ diễn biến
thành UTDD, tuy nhiên các nghiên cứu chỉ ra rằng bệnh nhân mắc dị sản ruột,
viêm dạ dày teo mạn tính và UTDD có tỷ lệ nhiễm H. pylori cao hơn 3,6 đến
6 lần so với ở người bình thường. Các báo cáo cho thấy tại khu vực bắc Mỹ,

tính trên quần thể người trên 50 tuổi, tỷ lệ nhiễm H. Pylori lên đến 50%, còn ở
các nước đang phát triển khác, người ta tin là tỷ lệ này lên đến gần như 100%
[29],[36],[37].
Hiện nay, trên thế giới các test huyết thanh phát hiện nhiễm H. Pylori đã
trở lên ngày càng phổ biến. Đối với nhiễm H. pylori, việc được phát hiện sớm và
điều trị kháng sinh tetracycline, subcitrate Bismuth và metromidazole đã được
chứng mình có hiệu quả tích cực. Người ta xem việc thanh toán H. pylori như
một cách để làm giảm tỷ lệ mắc cũng như giảm tỷ lệ tử vong [38],[13].
♦ Virus Epstein-Barr
Virus Epstein-Barr (EBV) là một loại herpes người có hoạt tính gây
ung thư. Bộ gen EBV đã được phát hiện trong các khối u ác tính [39]. Năm
1990, bộ gen EBV được phát hiện trong UTDD bằng cách sử dụng phản ứng


14

dây chuyền polymerase [40] và insitu lai (ISH) cho EBV-mã hóa axit ribonucleic
1 (EBER1). Nhờ những phát hiện này, các nhà khoa học chỉ ra rằng UTDD
liên quan tới EBV (EBVaGC) chiếm khoảng 10% tất cả các UTDD trên toàn
thế giới [41],[42].
1.4.2. Tiền sử bệnh lý ở dạ dày
Một số bệnh lý được coi là nguy cơ cao gây UTDD: Viêm teo dạ dày,
vô toan, thiếu máu ác tính, dị sản ruột, u tuyến của dạ dày (políp có kích
thước >2cm) [8],[44]. Đặc biệt, dị sản ruột và loạn sản có khả năng ác tính
hoá cao, trong đó dị sản ruột hoàn toàn có thể coi là tiền UTDD [17],[45].
Loét dạ dày hiếm khi tiến triên ác tính, nhưng tổn thương này khó phân biệt
với UTDD thể loét giai đoạn sớm, do đó những trường hợp loét dạ dày điều
trị nội khoa không đỡ cần phải được chẩn đoán chắc chắn có phải là UTDD
thể loét không [10].
Theo tác giả Balfour (1922), có sự liên quan giữa UTDD với những

trường hợp cắt dạ dày bán phần do bệnh lành tính, chính yếu tố này đã làm
tăng nguy cơ gây UTDD lên 2-6 lần [43].
Một số nghiên cứu cho thấy ung thư mỏm cụt sau cắt đoạn dạ dày trong
bệnh loét dạ dày chiếm 0,5 - 17%. Nguyên nhân có thể do trào ngược dịch
mật vào dạ dày gây viêm dạ dày teo đét mạn tính từ đó dẫn tới ung thư [14].
1.4.3. Yếu tố môi trường và chế độ ăn uống
Đây là yếu tố đóng vai trò quan trọng. Một nghiên cứu thấy tỷ lệ mắc
bệnh của người Nhật di cư sang Mỹ thấp hơn so với người bản địa đã chứng
minh vai trò của môi trường sống và chế độ ăn uống [8],[19]. Nhiều nghiên
cứu đã chứng minh vai trò của chế độ ăn có liên quan đến sự xuất hiện
UTDD. Các tác giả cho rằng ăn các thức ăn tươi, hoa quả tươi như cam,
chanh, tăng chất xơ, thức ăn giàu vitamin A, C, các yếu tố vi lượng như kẽm,


15

đồng, sắt, magiê làm giảm nguy cơ mắc UTDD [10]. Các yếu tố có thể làm
tăng nguy cơ mắc UTDD gồm [46],[47]:
Sử dụng hàm lượng muối cao trong thức ăn:
Thức ăn có chứa hàm lượng nitrat cao.
Chế độ ăn ít vitamin A, C.
Những thức ăn khô, thức ăn hun khói.
Thiếu phương tiện bảo quản lạnh thức ăn.
Rau quả trồng trên đất bùn
1.4.4. Thói quen
Rượu và thuốc lá đã được chứng minh là có vai trò gây UTDD. Tuy
nhiên có rất ít nghiên cứu về vai trò của rượu đối với UTDD [48]. Năm 2004,
Koizimi cùng cộng sự đã có nghiên cứu chứng mình hút thuốc lá càng nhiều
và càng lâu càng làm tăng nguy cơ UTDD [49]. Trước đó 2 năm, Chao A và
cộng sự đã tính toán được nguy cơ tương đối của hút thuốc lá với UTDD là

2,0 (CI 95%, 1,1 – 3,7) [50].
1.4.5. Béo phì
Béo phì đươc xem là một trong các yếu tố chính gây lên ung thư dạ dày
vùng tâm vị làm tăng trào ngược ống tiêu hóa, dẫn tới viêm Barret gây tổn
thương dị sản ruột – một loại tiền ung thư biểu mô tuyến dạ dày. Tại Mỹ, một
nghiên cứu gần đây cho thấy chỉ số khối cơ thể có mối liên quan chặt chẽ với
tỉ lệ tử vong do UTDD ở nam giới [51]. Năm 1999, Largergren thực hiện một
nghiên cứu trên người Thuỵ Điển, thấy rằng 25% dân số - nhóm có cân nặng
cao nhất có nguy cơ UTDD gấp 2 – 3 lần so với 25% dân số nhẹ nhất [52].
1.4.6. Yếu tố di truyền
Trong số những bệnh nhân mắc UTDD, ước tính tỉ lệ có tính chất gia
đình chiếm tỷ lệ từ 1% đến 15% [8],[10]. Mặc dù UTDD có thể là một bệnh


16

có tính chất gia đình nhưng hiện nay chưa chứng minh được yếu tố di truyền
có liên quan đến UTDD hay không. Có tác giả cho rằng khi trong gia đình đã
có người bị UTDD thì nguy cơ mắc bệnh này ở các thành viên khác cao gấp
2-4 lần so với các thành viên trong các gia đình không có người bị bệnh [46],
[53]. Cũng cho kết quả tương tự, tác giả Nguyễn Duy Hiển cho rằng gia đình
có người bị UTDD thì người thân trực hệ có nguy cơ mắc bệnh từ 2 – 3 lần so
với những người khác. Nguy cơ mắc bệnh ở những người có tiền sử gia đình
mắc UTDD là 13,3 lần [25].
Ngoài ra, các hội chứng di truyền như ung thư đại tràng nonpoliposis di truyền
và hội chứng Li- Fraumeni cũng làm tăng nguy cơ ung thư dạ dày [54],[55],[56].
1.4.7. Gen ức chế ung thư P53
Gen P53 nằm trên nhiễm sắc thể số 27 của người, người ta tìm thấy một
tỉ lệ có đột biến P53 trong 54% bệnh nhân UTDD nguyên phát và 85% những
bệnh nhân có UTDD di căn đến các hạch bạch huyết [57]. Một nghiên cứu

khác của Ynonemura trên 357 bệnh nhân cho kết quả thấy P53 đột biến trong
nhân tế bào ung thư ở 113 trường hợp, chiếm 32% [58].
1.4.8. Nghề nghiệp
Một số nghề nghiệp có liên quan với tỷ lệ mắc UTDD, bao gồm các
nghề khai thác mỏ, chế biến cao su, chế biến gỗ và các công việc lao động thủ
công nặng nhọc. Liệu có phải do loại hình nghề nghiệp dẫn đến hay đây là
biểu thị cho yếu tố mức sống thấp liên quan với UTDD, thì vẫn còn là một
điều chưa được giải đáp. Ở Mỹ và các nước Âu châu, tầng lớp kinh tế xã hội
thấp có tỷ lệ mắc UTDD cao gấp 2 lần so với nhóm khá giả [29].
1.4.9. Các yếu tố khác
Nhóm máu: Một số tác giả cho rằng yếu tố này có liên quan đến UTDD.
Theo Trần Minh Đạo hệ số mắc bệnh của nhóm máu A là cao nhất: 1,35; nhóm


17

B là l,21; nhóm AB là 1,01 và thấp nhất ở nhóm O là 0,73 [18]. Có báo cáo đã
cho thấy tỷ lệ mắc UTDD ở người nhóm máu A tăng 15% đến 20% [10],[30].
Thiếu máu nặng cũng được cho là có liên quan đến UTDD [25].
Nhiễm xạ được biết đến như một yếu tố làm tăng nguy cơ mắc UTDD.
Năm 1995, Follis và các cộng sự nghiên cứu trên 2049 bệnh nhân bị chiếu tia
cho báo cáo tỉ lệ mắc UTDD trong nhóm này cao hơn so với nhóm không bị
chiếu tia [59].
1.5. Sự lan tràn của ung thư dạ dày
- Lan tràn tại chỗ - tại vùng:
UTDD có thể xâm lấn qua lớp thanh mạc và ra các mô lân cận ở lách,
tuỵ, gan, đại tràng, tuyến thượng thận… Theo đánh giá của Zinninger (2007),
mức độ lan tràn này khá đa dạng [25]. Khối u có thể lan lên thực quản thông
qua hệ thống hạch dưới niêm mạc hoặc lan xuống hành tá tràng trực tiếp qua
lớp cơ và qua các hạch bạch huyết dưới thanh mạc [17],[45]. Khi có sự

xâm lấn lan rộng tại chỗ của khối u, thường kèm theo phát hiện có di căn
hạch quanh dạ dày. Đôi khi gặp trường hợp di căn đến hạch bạch huyết ở
xa đặc biệt là hạch thượng đòn trái (hạch Virchow). Theo nghiên cứu của
Shiu, 60-90% BN có sự xâm lấn lan rộng của khối u nguyên phát qua lớp
thanh mạc tới các mô lân cận và ít nhất có 50% có di căn hạch.
- Lan tràn vào khoang phúc mạc tạo thành các nhân di căn và là
nguyên nhân gây cổ trướng.
- Lan tràn theo đường máu như theo tĩnh mạch cửa vào gan và lên
phổi tạo thành ổ di căn UT [17]. Khi khám nghiêm tử thi của BN UTDD, tỷ lệ
di căn phổi xấp xỉ 25%.
- Di căn buồng trứng (u Krukenberg của buồng trứng) gặp trong 10%
trường hợp [61].


18

1.6. Chẩn đoán ung thư dạ dày giai đoạn sớm
UTDD sớm (early gastric carcinoma) là những khối u phát triển tại lớp
niêm mạc và dưới niêm mạc chưa xâm lấn lớp cơ, có thể có hoặc không di
căn hạch bạch huyết vùng [4],[5]. Khái niệm UTDD sớm được tác giả Seeki
người Nhật Bản đưa ra từ năm 1938 và tới tận năm 1962 mới được hiệp hội
ung thư chấp nhận, trở thành cơ sở cho việc xác định tổn thương ung thư khu
trú ở lớp niêm mạc, hoặc dưới niêm mạc, có hoặc chưa có di căn hạch.
UTDD nói chung, đặc biệt UTDD sớm triệu chứng lâm sàng rất nghèo
nàn, người bệnh có thể đến viện vì các lý do khác nhau, đôi khi bệnh được
phát hiện một cách tình cờ. Do đó việc chẩn đoán đòi hỏi phải phối hợp nhiều
phương pháp, trong đó nội soi ống mềm kèm bấm sinh thiết chẩn đoán mô
bệnh học đóng vai trò quyết định.
1.6.1. Chẩn đoán lâm sàng
Trên thực tế bệnh nhân UTDD thường đến viện ở giai đoạn muộn do

các triệu chứng của bệnh mơ hồ và không đặc hiệu. Khi các triệu chứng rõ thì
bệnh đã ở giai đoạn lan tràn không còn khả năng điều trị triệt căn.
Các triệu chứng lâm sàng có thể gặp như:
- Đau bụng vùng trên rốn: Đây là triệu chứng thường gặp nhất, đặc biệt
có ý nghĩa khi mới xuất hiện.
- Chán ăn do không có cảm giác ngon miệng, đặc biệt với những món
ăn mà trước đây ưa thích
- Đầy bụng, chậm tiêu chỉ sau một bữa ăn nhỏ
- Buồn nôn và nôn
- Ợ hơi, ợ chua
- Xuất huyết tiêu hoá
- Nuốt nghẹn


19

Các triệu chứng trên thường không rõ ràng và thường xuất hiện lẻ tẻ rời
rạc. Khi đã rõ ràng thì bệnh đã ở giai đoạn muộn.
Tại Việt Nam, khi nghiên cứu trên 37 bệnh nhân được chẩn đoán là
UTDD giai đoạn sớm, Nguyễn Bá Đức và cs cho thấy dấu hiệu đau vùng
thượng vị gặp ở 94,6% trường hợp, chán ăn gặp 70,3%, đầy bụng chậm tiêu
64,9%; không gặp trường hợp nào sờ thấy u bụng, cổ chướng hay hạch
thượng đòn [8].
Theo John và Peter có tới 80% bệnh nhân UTDD không có triệu chứng
ở giai đoạn sớm và không có triệu chứng nào là đặc hiệu cho UTDD giai đoạn
sớm [12]. Nhật Bản là nước thực hiện thành công chương trình sàng lọc rộng
rãi UTDD trên những đối tượng nguy cơ cao, do đó, có tỷ lệ chẩn đoán
UTDD sớm rất cao.
1.6.2. Chụp Xquang dạ dày
Chụp Xquang dạ dày hàng loạt có thuốc cản quang là phương pháp

kinh điển chẩn đoán UTDD. Các hình ảnh Xquang điển hình của UTDD có
thể nói đến: Hình khuyết, hình cắt cụt (tương ứng với thể sùi), hình thấu kính
(tương ứng với thể loét), hình dạ dày thuôn nhỏ mất nhu động (ứng với thể
thâm nhiễm). Đặc biệt chụp đối quang kép dạ dày cho phép xác định tổn
thương rất rõ nét ngay cả khi có biến đổi bất thường ở niêm mạc dạ dày. Theo
các chuyên gia Nhật Bản, chụp đối quang kép cho phép phát hiện 30-60% ung
thư sớm trên những đối tượng nguy cơ cao. Đặc biệt khi chụp Xquang nghi
ngờ cần thiết phải tiến hành nội soi ống mềm để khẳng định chẩn đoán.
UTDD sớm có thể có các hình ảnh: Hình treo baryt, hình hội tụ niêm
mạc, hình uốn sóng...[45].
1.6.3. Nội soi dạ dày ống mềm và bấm sinh thiết
Cùng với những thành tựu đạt được trong quá trình sàng lọc và chẩn
đoán sớm bệnh UTDD tại Nhật Bản, vai trò của nội soi ống mềm đã được


20

khẳng định và ngày càng được sử dụng rộng rãi. Nội soi cùng với nội soi
nhuộm màu kết hợp bấm sinh thiết nhiều mảnh cho phép chẩn đoán chính xác
nhất, đồng thời tránh bỏ sót ung thư sớm.
Ngô Quang Dương (1996) đã phát hiện nếu chỉ nội soi đơn thuần có thể
chẩn đoán đúng là 69,9%, nếu kết hợp bấm sinh thiết tỷ lệ chính xác tăng lên,
đạt tới 90,4% [62]. Tác giả Bùi Ánh Tuyết cũng đưa ra kết quả tương tự [3].
Cũng chính nhờ nội soi ống mềm mà số các trường hợp UTDD được chẩn
đoán sớm ngày càng tăng lên và các con số nghiên cứu tại Nhật Bản có thể là
những minh chứng rõ ràng: giai đoạn 1946 - 1955 tỷ lệ UTDD sớm ở Nhật
Bản là 2,1% đã tăng lên 28,1% trong giai đoạn 1966 - 1975, cho tới những
năm 1980 - 1985, tỷ lệ phát hiện UTDD sớm ở Nhật Bản là 39%, hiện nay tỷ
lệ này đã đạt hơn 50% tại đa số các trung tâm, nâng tỷ lệ sống trên 5 năm sau
phẫu thuật lên tới 90% [19].

Nội soi nhuộm màu: Là phương pháp sử dụng chất màu để phát hiện
những tổn thương nông ở đường tiêu hoá dựa trên sự bắt màu hay không bắt
màu của tổn thương và của niêm mạc lành. Qua đó có thể chỉ dẫn sinh thiết
trực tiếp vào vùng tổn thương mang lại chẩn đoán chính xác.
Các chất màu hiện nay đang được sử dụng là: Xanh methylen, xanh
Toluidine, Lugol, Indigo Carmin...
♦ Hình ảnh UTDD qua nội soi
* UTDD giai đoạn sớm: Mô UT khu trú ở lớp niêm mạc và dưới niêm
mạc, chưa xâm lấn qua lớp cơ. Hiếm gặp di căn trong giai đoạn này.
Hiệp hội nội soi tiêu hoá Nhật Bản dựa trên cơ sở kinh nghiệm soi dạ
dày ống mềm và nghiên cứu mảnh dạ dày cắt qua phẫu thuật đã phân loại
UTDD sớm thành 3 typ [30]:
- Typ I (typ lồi): U phát triển nổi lồi trên bề mặt niêm mạc dạ dày có
dạng polyp dạng cục hay nhú nhung mao, gặp khoảng 20%.


21

- Typ II (typ phẳng): Chia làm 3 nhóm nhỏ:
+ Nhóm IIa (phẳng gồ): Mô u phát triển ở niêm mạc tạo thành một mảng
nhỏ hơi gồ lên, ranh giới rõ chỉ cao hơn một chút so với niêm mạc xung quanh.
+ Nhóm IIb (phẳng dẹt): Mô u phát triển ở niêm mạc tạo thành mảng
nhỏ hơi chắc và tương đối phẳng so với niêm mạc bình thường xung quanh.
Loại này khó phát hiện trên nội soi trừ một vài thay đổi về màu sắc.
+ Nhóm IIc (phẳng lõm): Vùng u hơi lõm xuống thấp hơn so với niêm
mạc xung quanh. Lõm có thể do mô u hoại tử loét, bề mặt phủ lớp dịch phù to
huyết mỏng. Typ này chiếm khoảng 30-50%.
- Typ III (typ loét): Tổn thương loét có độ sâu tương đối rõ, loại này
gặp khoảng 20-40%.
Hay gặp tổn thương của các týp kết hợp với nhau, ví dụ: týp IIa+IIc,

týp IIc+III.
UT thể loét thường nông, bờ gồ ghề, niêm mạc xung quanh ổ loét
không đều, niêm mạc kết thúc với nhiều hình dáng khác nhau: tập trung, riêng
rẽ, hoặc cắt cụt.
1.6.4. Nội soi ổ bụng
Đây là phương pháp quan trọng trong đánh giá giai đoạn bệnh và đã
được chứng minh là đáng tin cậy hơn so với chụp CT-scanner trong việc phát
hiện sự lan tràn của bệnh. Siêu âm nội soi có thể được tiến hành qua nội soi ổ
bụng làm tăng độ chính xác cho chẩn đoán.
1.6.5. Siêu âm nội soi
Phương pháp siêu âm nội soi rất có ý nghĩa đối với UTDD sớm vì nó giúp
lựa chọn phương pháp phẫu thuật nhờ việc cho phép phát hiện chính xác sự xâm
lấn của ung thư vào các lớp của thành dạ dày và tình trạng di căn hạch.


22

1.6.6. Chụp cắt lớp vi tính
Đây là một phương pháp cho phép đánh giá sự lan tràn của bệnh rất tốt.
1.6.7. Chụp PET
Kỹ thuật này được sử dụng tăng cường khả năng phát hiện di căn hạch,
cho phép phát hiện 85% hạch di căn của UTDD, tốt hơn một cách có ý nghĩa
so với chụp CT-scanner.
1.6.8. Chẩn đoán mô bệnh học
Qua nội soi tiến hành sinh thiết để làm xét nghiệm mô bệnh học là
phương pháp không thể thiếu trong chẩn đoán UTDD, được coi là tiêu chuẩn
vàng giúp chẩn đoán xác định. Áp dụng phương pháp này sau phẫu thuật còn
giúp xác định giai đoạn bệnh [17],[45]. Việc phân loại UTDD về vi thể có ba
phân loại mô học được ứng dụng rộng rãi là:
• Phân loại theo Lauren năm 1965: Phân loại này đơn giản và được sử

dụng theo dõi BN UTDD. Loại lan toả thường có xu hướng phát triển lan
rộng và có tiên lượng xấu. Cần chú ý khi phẫu thuật nên xét khả năng cắt bỏ
rộng rãi [10]. Áp dụng trên bệnh nhân có:
+ UTBM: Loại ruột, loại lan toả, loại pha và các loại khác.
+ UT không biểu mô.
• Phân loại theo WHO 1997 gồm: UTBM, Carcinoid, UT không biểu mô:
+ UTBM:
UTBM tuyến gồm: UTBM tuyến nhú, UTBM tuyến ống.
UTBM tuyến nhầy, UTBM tế bào nhẫn.
UTBM không biệt hoá.
UTBM tuyến vẩy.
UTBM tế bào vẩy.
UTBM không xếp loại.
+ Carcinoid
+ Ung thư không biểu mô:
Ulympho ác tính u cơ trơn ác tính u thần kinh ác tính


23

• Mức độ biệt hoá
Rất biệt hoá
Biệt hóa vừa
Kém biệt hoá
Không biệt hoá
• Phân loại theo WHO 2000
Phân loại này đã gộp cả phân loại của Lauren vào bảng phân loại của
WHO. Các typ mô học được mã hoá, loại mô học UTBM tế bào nhỏ được bổ
sung [25],[30].
Bảng 1.1: Phân loại MBH theo WHO 2000

Loại mô học

Mã số bệnh

Tân sản nội biểu mô tuyến

8140/0

UTBM tuyến

8140/3

Típ ruột

8140/3

Típ lan toả

8144/3

UTBM tuyến nhú

8260/3

UTBM tuyến ống nhỏ

8211/3

UTBM tuyến nhày


8480/3

UTBM tế bào nhẫn

8490/3

UTBM tuyến vảy

8560/3

UTBM tế bào vảy

8070/3

UTBM tế bào nhỏ

8041/3

UTBM không biệt hoá

8020/3

Các loại khác
Carcinoid (u nội tiết biệt hoá cao)

8240/3


24


• Hình ảnh mô bệnh học của UTDD
Mỗi loại UTDD có những hình ảnh mô bệnh học đặc trưng không
giống nhau:
+ UTBM tuyến: Mô UT có cấu trúc tuyến và có lòng rộng hoặc lòng
hẹp với số lượng bất kỳ, bao gồm 3 loại nhỏ:
UTBM tuyến ống: Tế bào u sắp xếp tạo thành hình ống. Khi cắt ngang
tuyến có kích thước khác nhau, lòng tuyến có thể giãn rộng thành nang. Tế
bào u hình trụ hoặc hình vuông, khi tuyến giãn rộng chứa chất nhày, tế bào
trở nên thấp dẹt. Quanh các tuyến UT thường có mô liên kết bao bọc.
UTBM tuyến nhầy: Mô UT có một lượng lớn chất nhầy, chất này chứa
đầy trong lòng tuyến làm cho lòng tuyến giãn rộng và tràn vào mô đệm. Có
trường hợp không có hình tuyến rõ rệt, tế bào u tập trung thành từng đám hay
thành dải hình vòng cung, tất cả như bơi trong bể chất nhầy.
UTBM tuyến vảy: Hiếm gặp, cấu trúc gồm mô tuyến và mô tế bào vẩy.
Tuyến do các tế bào hình trụ hoặc hình vuông sắp xếp tạo thành. Mô tế bào
vẩy quây quanh các tuyến gồm nhiều hàng lớp.
+ UTBM tế bào vảy: Ít gặp ở dạ dày, tế bào u tập trung thành đám,
giống biểu mô lát của biểu bì. U hay gặp ở tâm vị khu vực gần thực quản,
nhưng cũng có thể thấy ở hang vị, môn vị.
+ UT tế bào nhẫn: Tế bào UT có thể tụ tập thành đám, nhưng thường
tách rời nhau và phân tán trong bể chất nhầy do tế bào chế ra. Tế bào u căng
tròn, chất nhầy đẩy lệch nhân về một phía trông giống như chiếc nhẫn.
+ UTBM không biệt hoá: Tế bào UT không sắp xếp tạo thành hình
tuyến, chúng tập trung thành đám lớn hoặc thành ổ, thành bè hay phân tán rải
rác trong mô đệm có mô liên kết xơ phát triển. Một số trường hợp, tế bào u
tròn nhỏ đồng đều tương tự tế bào lympho hoặc đa hình thái, nhân to nhỏ đa
dạng, nhiều nhân quái và nhân chia không điển hình.
+ UT không xếp loại: Tế bào u và cấu trúc u không giống các dạng đã
mô tả ở trên.



25

UTBM tuyến và UTBM không biệt hoá là hai loại hay gặp nhất. Trên
hình ảnh mô bệnh học, khi mô UT chiếm ưu thế, mô đệm nghèo nàn và thưa
thớt u có hình ảnh UT dạng não. Khi mô đệm nhiều, mô liên kết xơ phát triển,
mô UT ít và phân tán, gọi là UT thể xơ hoá hay gặp trong UTDD thể xơ đét.
1.6.9. Chẩn đoán tế bào học
Phương pháp áp lam mảnh sinh thiết qua nội soi dạ dày có ưu điểm đơn
giản, giá thành rẻ và cho kết quả nhanh với độ chính xác cao tới 80-85% [62], do
vậy được áp dụng khá phổ biến. Theo Ngô Quang Dương, phương pháp này đạt
độ chính xác là 92,2% [62].
Vì vậy theo Trịnh Quang Diện và cs chỉ cần chẩn đoán mô học qua mảnh
sinh thiết nội soi là đủ, không cần thiết phải làm thêm chẩn đoán tế bào học [3].
Các số liệu được đưa ra giải thích cho kết luận trên: chỉ có 25% trường hợp
UTDD được chẩn đoán sớm cho kết quả chính xác và có tới 64,29% có kết quả
tế bào học (-) tính [3]. Trong khi đó, sinh thiết nội soi cho kết quả dương tính ở
100% bệnh nhân.
1.6.10. Siêu âm ổ bụng
Tại Việt Nam, phương pháp này có lợi thế ở sự phổ biến như một xét
nghiệm phổ cập đơn giản, bilan trước mổ sử dụng máy siêu âm được trang bị
ở hầu hết các bệnh viện từ tuyến huyện, tỉnh tới trung ương. Tuy nhiên, có
một điểm trừ là độ nhạy và độ đặc hiệu không cao. Tuy vậy không thể phủ
nhận khả năng của kỹ thuật này, siêu âm có thể phát hiện được di căn gan,
dịch ổ bụng, hạch cuống gan phần nào giúp PTV tiên lượng cuộc mổ.
1.6.11. Xét nghiệm chất chỉ điểm khối u
Có những nghiên cứu đã được thực hiện để đánh giá khả năng áp dụng
lâm sàng của các chất chỉ điểm khối u đối với UTDD, nhóm tác giả người Hà
Lan đã nghiên cứu một loạt chất chỉ điểm khối u thuộc nhóm kháng nguyên
liên kết ung thư (TAA: Tumor Associated Antigen) như CA50, CA 19-9, CA

12-4, CA 195... Ở 94 bệnh nhân ƯTBM tuyến dạ dày (xác định bằng GPB và
phân loại rõ ràng). Kết quả thu được như sau: tỷ lệ dương tính CA50: 59,5%;
CA19-9: 34%; CA195: 29%; CEA: 33%... Họ nhận thấy nồng độ của các chất


×