Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Hình thức của hợp đồng theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.6 KB, 22 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình sản xuất, kinh doanh, cũng như trong cuộc sống hàng ngày một
yếu tố không thể thiếu được là phải có giao lưu dân sự, đó là sự chuyển giao tài
sản, quyền tài sản hoặc thực hiện một dịch vụ nào đó giữa người này với người
khác, giữa tổ chức này với tổ chức khác, giữa pháp nhân này với pháp nhân
khác. Sự giao lưu dân sự đó thường được hình thành thông qua sự thỏa thuận
giữa các bên, trên cơ sở đó pháp luật buộc các bên phải thực hiện quyền và
nghĩa vụ đó. Sự thỏa thuận đó gọi là hợp đồng.
Điều 385 Bộ luật dân sự 2015 quy định “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên
về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền, nghĩa vụ dân sự”. Như vậy,
cơ sở đầu tiên để hình thành một hợp đồng là việc thỏa thuận bằng ý chí tự
nguyện của các bên. Tuy nhiên hợp đồng chỉ được pháp luật công nhận và bảo
vệ khi ý chí các bên phù hợp với quy định của nhà nước, trong đó có các quy
định về hình thức và nội dung của hợp đồng. Với mục đích đi sâu tìm hiểu về
các quy định của pháp luật về hình thức và nội dung của hợp đồng , em xin lựa
chọn đề tài: “ Hình thức của hợp đồng theo quy định của pháp luật dân sự
Việt Nam hiện hành – Những vấn đề lý luận và thực tiễn”.
Trong quá trình làm bài em đã cố gắng nhiều, song với trình độ hiểu biết vấn đề
còn hạn chế nên bài viết khó thể tránh khỏi những thiếu sót. Bởi vậy, em rất
mong có thể nhận được sự đóng góp ý kiến từ phía thầy cô để bài làm của em
được hoàn thiện hơn.

NỘI DUNG
I. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM HỢP ĐỒNG
1.1. Khái niệm hợp đồng
Để tồn tại và phát triển, mỗi cá nhân cũng như mỗi tổ chức phải tham gia nhiều
mối quan hệ xã hội khác nhau. Trong đó, việc các bên thiết lập với nhau những


quan hệ, để qua đó chuyển giao cho nhau các lợi ích vật chất nhằm đáp ứng nhu
cầu sinh hoạt, tiêu dùng, đóng một vai trò quan trọng, là một tất yếu đối với mọi


đời sống xã hội. Tuy nhiên việc chuyển giao các lợi ích vật chất đó không phải
là tự nhiên hình thành bởi tài sản, chúng không thể tự tìm tới nhau để thiết lập
các quan hệ. Các quan hệ tài sản chỉ được hình thành từ những hành vi có ý chí
của các chủ thể. Nếu chỉ có một bên thể hiện ý chí của mình mà không được bên
kia chấp nhận cũng không thể hình thành một quan hệ để qua đó thực hiện việc
chuyển giao tài sản hoặc làm một công việc đối với nhau được. Do đó chỉ khi
nào có sự thể hiện và thống nhất ý chí giữa các bên thì quan hệ trao đổi lợi ích
vật chất mới được hình thành. Quan hệ đó được gọi là hợp đồng.
Như vậy, hợp đồng chính là một giao dịch dân sự mà trong đó các bên tự trao
đổi ý chí với nhau nhằm đi đến sự thỏa thuận cùng nhau làm phát sinh các quyền
và nghĩa vụ nhất định. Dưới góc độ pháp lý thì hợp đồng được hiểu là sự thỏa
thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân
sự (theo Điều 385 Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2015). Hợp đồng là một bộ
phận các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan
hệ xã hội phát sinh trong quá trình dịch chuyển các lợi ích vật chất giữa các chủ
thể với nhau. Trên cơ sở định nghĩa về hợp đồng ta rút ra được các đặc điểm của
hợp đồng.
1.2. Đặc điểm của hợp đồng
Theo Điều 385 Bộ luật dân sự 2015 định nghĩa về hợp đồng thì hợp đồng có hai
nét cơ bản đó là: Sự thỏa thuận giữa các bên và làm phát sinh hậu quả pháp lý.
Hợp đồng trước hết phải là một thỏa thuận có nghĩa là hợp đồng phải chứa đựng
yếu tố tự nguyện khi giao kết nó phải có sự trùng hợp ý chí của các bên. Việc
giao kết hợp đồng phải tuân theo các nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí,
hợp tác, trung thực và ngay thẳng, tự do giao kết hợp đồng, nhưng không được
trái với pháp luật và đạo đức xã hội.


Thỏa thuận theo từ điển tiếng Việt có nghĩa là: Đi tới sự đồng ý sau khi cân
nhắc, thảo luận. Thỏa thuận cũng có nghĩa là sự nhất trí chung (không bắt buộc
phải được nhất trí hoàn toàn) được thể hiện ở chỗ không có một ý kiến đối lập

của bất cứ một bộ phận nào trong số các bên liên quan đối với những vấn đề
quan trọng và thể hiện thông qua một quá trình mà mọi quan điểm của các bên
liên quan đều phải được xem xét và dung hoà được tất cả các tranh chấp; là việc
các bên (cá nhân hay tổ chức) có ý định chung tự nguyện cùng nhau thực hiện
những nghĩa vụ mà họ đã cùng nhau chấp nhận vì lợi ích của các bên. Sự đồng
tình tự nguyện này có thể chỉ được tuyên bố miệng và được gọi là thoả thuận
quân tử (hợp đồng quân tử) hay được viết thành văn bản gọi là hợp đồng viết
hay hợp đồng thành văn. Tuỳ theo từng trường hợp được gọi là hợp đồng hay
hiệp định; vd. hiệp định mua bán, hợp đồng đại lí.
Yếu tố thỏa thuận đã bao hàm trong nó yếu tố tự nguyện, tự định đoạt và sự
thống nhất về mặt ý chí. Đây là yếu tố quan trọng nhất tạo nên sự đặc trưng của
hợp đồng so với các giao dịch dân sự khác, đây cũng là yếu tố làm nên bản chất
của luật dân sự so với các ngành luật khác.
Về chủ thể tham gia hợp đồng : Chủ thể giao kết, thực hiện hợp đồng phải có ít
nhất từ hai bên trở lên, vì hợp đồng là một giao dịch pháp lý song phương hay
đa phương. Các chủ thể khi giao kết, thực hiện hợp đồng đều phải có tư cách
chủ thể tức là phải đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật đối với
một chủ thể của quan hệ dân sự (ví dụ: nếu chủ thể là cá nhân thì phải đáp ứng
được các yêu cầu về năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự…).
Mục đích hướng tới của các bên khi tham gia hợp đồng là để xác lập thay đổi
hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Quyền và nghĩa vụ trong phạm vi hợp
đồng có phạm vi rất rộng, trước đây trong Pháp lệnh hợp đồng ngày 29-4-1991
(Điều 1) quy định hợp đồng là sự thỏa thuận của các bên về việc xác lập, thay
đổi hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của các bên trong mua bán, thuê, vay,
mượn, tặng, cho tài sản, làm một hoặc không làm công việc, dịch vụ hoặc các


thỏa thuận khác mà trong đó một hoặc các bên nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt,
tiêu dùng.
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì không liệt kê cụ thể các quyền và

nghĩa vụ dân sự cụ thể đó tuy nhiên về bản chất thì các quyền và nghĩa vụ mà
các bên hướng tới khi giao kết, thực hiện hợp đồng là những quyền và nghĩa vụ
để đáp ứng, thỏa mãn nhu cầu trong sinh hoạt, tiêu dùng, đó cũng chính là một
trong những đặc điểm cơ bản để phân biệt giữa hợp đồng và các hợp đồng kinh
tế, thương mại.
Yếu tố này giúp phân biệt hợp đồng với hợp đồng kinh tế :


Mục đích của hợp đồng kinh tế khi các bên chủ thể tham gia là mục đích
kinh doanh (nhằm phát sinh lợi nhuận) trong khi đó hợp đồng các bên
tham gia nhằm thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng.



Chủ thể tham gia hợp đồng kinh tế phải là các thương nhân, các công ty,
đơn vị kinh doanh (nếu chủ thể là cá nhân thì phải có đăng ký kinh
doanh).

II. HÌNH THỨC VÀ NỘI DUNG CỦA HỢP ĐỒNG THEO QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
2.1. Hình thức của hợp đồng
Hình thức của hợp đồng là phương tiện để ghi nhận, lưu trữ, truyền tải nội dung
của hợp đồng. Đó là phương diện để ghi nhận lại các điều khoản mà các bên đã
cùng nhau thống nhất cam kết. Tuy thuộc vào nội dung, tính chất của từng hợp
đồng cũng như tùy thuộc vào độ tin tưởng lẫn nhau mà các bên có thể lựa chọn
một hình thức nhất định trong việc giao kết hợp đồng cho phù hợp với từng
trường hợp cụ thể.
Để đảm bảo được tính thống nhất và mối quan hệ liên thông, bổ trợ lẫn nhau
trong hệ thống các quy định pháp luật về hợp đồng, chế định hợp đồng trong Bộ
luật Dân sự 2015 được xây dựng theo hướng là nền tảng chung cho pháp luật về



hợp đồng, có hiệu lực điều chỉnh đối với tất cả các quan hệ hợp đồng trong mọi
lĩnh vực. Về hình thức hợp đồng, luật dân sự 2015 không quy định cụ thể tại
điều riêng như luật dân sự 2005 quy định về hình thức của hợp đồng tại điều 401
Bộ luật Dân sự 2005 mà coi đó là hoạt động giao dịch dân sự nên nó cũng phải
thỏa mãn hình thức của giao dịch dân sự được quy định tại điều 119 luật dân sự
2015:
“1. Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành
vi cụ thể.
Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ
liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng
văn bản.
2. Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản
có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó’’.
Vì hợp đồng cũng là một loại giao dịch dân sự, nên theo các quy định nêu trên
có thể thấy, hình thức của hợp đồng bao gồm các loại sau: bằng lời nói, bằng văn
bản, bằng hành vi cụ thể và bằng thông điệp dữ liệu (hợp đồng điện tử).
Như vậy, hình thức của hợp đồng tương đối đa dạng tạo điều kiện cho các chủ
thể ký kết thuận tiện. Đối với những hợp đồng mà pháp luật đã quy định buộc
phải giao kết theo một hình thức nhất định, thì các bên phải tuân theo các hình
thức đó.
-

Hình thức miệng:

Thông qua hình thức bằng lời nói, các bên chỉ cần thỏa thuận miệng với nhau về
nội dung cơ bản của hợp đồng. Hình thức miệng được coi là có độ xác thực thấp
nhất. Khi có tranh chấp giữa các bên về một hợp đồng đã được giao kết miệng
với nhau, bất cứ bên nào cũng có thể phủ nhận tất cả những cam kết trước đây

của mình. Tuy nhiên, đối với tất cả các quốc gia trên thế giới thì hình thức miệng
vẫn được coi là hình thức hợp đồng có lịch sử lâu đời và được áp dụng phổ biến
nhất trong các giao dịch dân sự. Trước đây điều đó được lý giải là do số lượng


những người biết đọc, biết viết còn rất ít. Ngày nay, hình thức miệng vẫn giữ
nguyên được vai trò to lớn của nó. Các trường hợp cơ bản phổ biến áp dụng hình
thức miệng là:
Thứ nhất, hình thức miệng được áp dụng trong những trường hợp các bên tham
gia giao kết hợp đồng đã có độ tin cậy lẫn nhau. Độ tin cậy giữa các chủ thể
thường được xác lập thông qua các quan hệ ruột thịt, quan hệ hàng xóm láng
giềng, quan hệ bạn bè, đồng nghiệp, cùng học tập … Sự tin tưởng giữa các chủ
thể ở đây đóng vai trò như là một nhân tố chủ quan bổ xung thêm cho sự xác
thực của hình thức miệng. Trong nhiều trường hợp do thiếu độ tin cậy nên các
chủ thể không thể áp dụng được hình thức miệng.
Thứ hai, hình thức miệng được áp dụng với những hợp đồng có giá trị nhỏ. Đối
với những hợp đồng có giá trị quá nhỏ ( ví dụ: mua mớ rau, bao diêm, mượn cái
bút chì,…) thì các bên không có cách nào khác ngoài cách áp dụng hình thức
miệng, nếu áp dụng các hình thức khác sẽ có thể tạo nên những chi phí quá lớn,
mà giá trị hợp đồng quá nhỏ nên các chi phí đó làm cho việc ký kết hợp đồng trở
nên vô nghĩa.
Thứ ba, hình thức miệng được áp dụng đối với những hợp đồng mà có thể được
thực hiện và chấm dứt ngay sau khi giao kết. Ví dụ như đa số các hợp đồng bán
lẻ đều được thực hiện dưới hình thức miệng. Sau khi thỏa thuận miệng xong về
giá cả, số lượng và chất lượng …thì hai bên thực hiện ngay thỏa thuận đó ( bên
bán cân đong và bàn giao hàng, bên mua nhận lấy hàng và trả tiền ). Đến đây
hợp đồng coi như đã thực hiện xong và chấm dứt.
-

Hình thức văn bản


Các bên có thể ký kết hợp đồng dưới hình thức cùng nhau lập một văn bản viết.
Hình thức hợp đồng bằng văn bản mang tính xác thực hơn so với hình thức hợp
đồng miệng. Trong văn bản đó các bên ghi đầy đủ những nội dung đã thỏa
thuận, cùng ký tên xác nhận vào văn bản. Văn bản hợp đồng thường được soạn
thành hai hay nhiều bản gốc giông nhau, đều phải có chữ ký của các bên, mỗi


bên được giữ một bản. Căn cứ vào văn bản của hợp đồng, các bên dễ dàng thực
hiện quyền yêu cầu của mình đối với bên kia. Các trường hợp cơ bản áp dụng
hình thức văn bản này là :
+) Đối với những hợp đồng có giá trị lớn.
+) Đối với những hợp đồng mà việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ hợp đồng
có thể diễn ra trong một thời gian dài không cùng lúc với việc giao kết (ví dụ :
hợp đồng gia công xây dựng nhà…)
+) Khi giữa các bên chưa đật được sự tin cậy nhất định.
Đối với riêng dạng hợp đồng bằng văn bản thì Điều 119 khoản 2 Bộ luật dân sự
quy định: “ Trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện
bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo các quy
định đó”. Thông qua chỉ dẫn này ta thấy rằng hợp đồng bằng văn bản được chia
tiếp ra làm hai loại là : hợp đồng bằng văn bản thông thường và hợp đồng bằng
văn bản có chứng nhận của công chứng Nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban
nhân dân cấp có thẩm quyền. Hợp đồng bằng văn bản có chứng nhận, chứng
thực được coi là hình thức mang tính xác thực cao nhất và thường được pháp
luật quy định đối với các trường hợp như đối với các hợp đồng có tính chất phức
tạp, dễ xảy ra tranh chấp hoặc với hợp đồng có đối tượng là những tài sản mà
nhà nước cần phải quản lý, kiểm soát. Những trường hợp đó được quy định cụ
thể cho từng loại hợp đồng. Tuy nhiên, trong trường hợp pháp luật không có quy
định thì các bên vẫn có thể thỏa thuận với nhau áp dụng hình thức văn bản có
chứng nhận, chứng thực đó để giao kết hợp đồng. Tuy nhiên nếu có vi phạm về

hình thức thì cũng không bị coi là vô hiệu, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác.
-

Hình thức hành vi cụ thể. Ví dụ như: hợp đồng tặng cho tài sản như việc
bỏ tiền vào hòm công đức, như người tiêu dùng mua nước tại các máy bán
nước tự động, hợp đồng được coi là ký kết khi người tiêu dùng thả tiền
vào máy tự động và thực hiện một số các động tác cần thiết để nhận chai


nước. Đối với hình thức này thì chỉ cần các bên thực hiện một hoặc một
vài (không bắt buộc phải tất cả) hành vi là nghĩa vụ của hợp đồng thì hợp
-

đồng đã được coi là giao kết.
Hình thức bằng thông điệp dữ liệu (hợp đồng điện tử): Ngày nay, cùng với
sự phát triển của công nghệ thông tin, việc giao kết hợp đồng dưới hình
thức văn bản giấy không còn là hình thức thích hợp khi các bên có khoảng
cách xa về mặt địa lý. Chủ thể ở một quốc gia này có thể ký kết hợp đồng
với chủ thể của một quốc gia khác mà không phải đi đến tận nơi gặp nhau
trực tiếp để thương thảo hợp đồng. Thông qua mạng Internet, các doanh
nghiệp ở các địa phương khác nhau, ở các quốc gia khác nhau có thể
nhanh chóng tìm kiếm được bạn hàng để thiết lập mối quan hệ làm ăn, mở
rộng thị trường. Với chiếc máy tính nối mạng Internet, ngồi ở nhà chúng
ta có thể dạo quanh thị trường một cách thoải mái vào bất cứ thời điểm
nào trong ngày. Khi cần mua một món hàng, chúng ta chỉ cần liên lạc với
cửa hàng qua hệ thống mạng, sau đó sẽ có người mang món hàng đó đến
tận nơi theo yêu cầu. Sự phát triển mạnh mẽ của giao dịch điện tử kéo
theo sự ra đời một hình thức hợp đồng mới: hợp đồng điện tử- hợp đồng
được giao kết thông qua phương tiện điện tử.


2.2. Nội dung của hợp đồng
Nội dung của hợp đồng là tổng hợp các điều khoản mà các bên tham gia giao kết
hợp đồng đã thỏa thuận. Các điều khoản đó xác định những quyền và nghĩa vụ
dân sự cụ thể của các bên trong hợp đồng.
Để nhận biết được một hợp đồng và để pháp luật công nhận hợp đồng đó thì các
bên phải thoải thuận được với nhau về một số nội dung quan trọng nhất định.
Vấn đề đặt ra là: Liệu các bên thỏa thuận đến đâu thì hợp đồng coi như được
hình thành (được coi là giao kết) ? Pháp luật không thể quy định cứng nhắc rằng
mỗi hợp đồng có bao nhiêu điều khoản. Điều đó phụ thuộc vào tính chất của
từng hợp đồng cụ thể. Tuy nhiên, các điều khoản trong nội dung hợp đồng được


chia làm ba loại đó là : Điều khoản cơ bản; Điều khoản thông thường; Điều
khoản tùy nghi.
-

Điều khoản cơ bản

Các điều khoản cơ bản là những điều khoản mà nếu thiếu chúng thì hợp đồng
không thể được coi là đã giao kết. Điều khoản cơ bản có thể do tính chất của
từng hợp đồng quyết định, ngoài ra còn bao gồm cả những điều khoản mà các
bên tự cảm thấy cần thiết quy định với nhau là là các điều khoản cơ bản. Tính
chất “cơ bản” thể hiện rằng chúng nêu lên bản chất của loại hợp đồng đó, không
có chúng thì hợp đồng không được sếp vào loại này hay loại khác. Ví dụ: Đa số
các tài liệu pháp lý đều cho rằng đối với hợp đồng mua bán thì điều khoản cơ
bản bao gồm đối tượng và giá cả (Mua gì? Giá bao nhiêu?). Tuy nhiên, cũng có
quan điểm cho rằng trong thực tế nếu như các bên không thỏa thuận về giá cả thì
có thể áp dụng giá trung bình của thị trường tại thời đó. Chỉ đối với tài sản
không có giá cả chung trên thị trường (cổ vật, tranh vẽ, bất động sản,…) thì giá

cả là điều khoản cơ bản. Trong hợp đồng bảo hiểm thì các điều khoản cơ bản
bao gồm đối tượng được bảo hiểm, sự kiện bảo hiểm, giá trị bảo hiểm, thời hạn
bảo hiểm…
Các điều khoản cơ bản được quy định tại các văn bản pháp luật. Tổng hợp các
điều khoản cơ bản tạo thành nội dung chủ yếu của hợp đồng. Bên cạnh những
điều khoản cơ bản do pháp luật quy định còn có những điều khoản mà được coi
là cơ bản theo đề nghị của một trong những bên ký kết hợp đồng.
-

Điều khoản thông thường

Các điều khoản thông thường là những điều khoản được pháp luật quy định
trước. Nều khi giao kết hợp đồng, các bên không thỏa thuận những điều khoản
này, thì vẫn được coi như hai bên đã mặc nhiên thỏa thuận và được thực hiện
như pháp luật đã quy định. Khác với điều khoản cơ bản, các điều khoản thông
thường không làm ảnh hưởng tới quá trình giao kết hợp đồng. Để giảm bớt
những công việc không cần thiết trong giao kết hợp đồng, các bên có thể không


cần thỏa thuận và không cần ghi vào văn bản hợp đồng những điều khoản mà
pháp luật quy định nhưng các bên vẫn phải thực hiện các điều khoản đó. Vì vậy,
nếu có tranh chấp về những nội dung này , thì quy định của pháp luật sẽ là căn
cứ để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. Ví dụ: Địa điểm
giao tài sản động sản (đối tượng của hợp đồng mua bán) là nơi cư trú của người
mua nếu người mua đã trả tiền và trong hợp đồng các bên không thỏa thuận về
địa điểm giao tài sản.
-

Điều khoản tùy nghi


Ngoài những điều khoản phải thỏa thuận về tính chất của hợp đồng và những
điều khoản mà pháp luật đã quy định trước, khi giao kết hợp đồng các bên còn
có thế thỏa thuận để xác định thêm một số điều khoản khác nhằm làm cho nội
dung của hợp đồng được cụ thể hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho các bên trong
quá trình thực hiện hợp đồng. các điều khoản này được gọi là điều khoản tùy
nghi.
Điều khoản tùy nghi là những điều khoản mà các bên tham gia giao kết hợp
đồng tự ý lựa chọn và thỏa thuận vơi nhau để xác định quyền và nghĩa vụ dân sự
của các bên. Thông qua điều khoản tùy nghi, bên có nghĩa vụ được phép lựa
chọn một trong những cách thức nhất định để thực hiện hợp đồng, sao cho thuận
lợi mà vẫn bảo đảm được quyền yêu cầu của bên kia.
Như vậy, một điều khoản trong nội dung của hợp đồng có thể là điều khoản cơ
bản, có thể là điều khoản thông thường nhưng cũng có thể là điều khoản tùy
nghi. Chẳng hạn địa điểm giao vật trong hợp đồng mua bán tài sản sẽ là điều
khoản cơ bản, nếu khi giao kết, các bên đã thỏa thuận cụ thể về nơi giao vật.
Ngược lại, nó sẽ là điều khoản thông thường nếu các bên không thỏa thuận mà
mặc nhiên thừa nhận và thực hiện theo quy định của pháp luật. Mặt khác, địa
điểm trong hợp đồng mua bán sẽ là điều khoản tùy nghi nếu các bên đã thỏa
thuận cho phép bên có nghĩa vụ được lựa chọn một trong nhiều nơi để thực hiện
nghĩa vụ giao vật.


Dựa vào tính chất của các điều khoản tùy nghi, người ta có thể phân chúng
thành hai loại khác nhau: tùy nghi ngoài pháp luật và tùy nghi khác pháp luật.
Điều 398 Bộ luật dân sự 2015 quy định :
“1. Các bên trong hợp đồng có quyền thỏa thuận về nội dung trong hợp đồng.
2. Hợp đồng có thể có các nội dung sau đây:
a.
b.
c.

d.
e.
f.
g.

Đối tượng của hợp đồng;
Số lượng, chất lượng;
Giá, phương thức thanh toán;
Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng;
Quyền, nghĩa vụ của các bên;
Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng;
Phương thức giải quyết tranh chấp’’

Tùy theo tính chất của từng loại hợp đồng các bên có thể thỏa thuận hay không
thỏa thuận tất cả các điêu ghi trên. Các bên cũng có thể bổ sung thêm vào hợp
đồng những điều khoản không có quy định nhưng các bên cảm thấy cần thiết.
Đối với mọi loại hợp đồng thì điều khoản về đối tượng hợp đồng bao giờ cũng
được coi là điều khoản cơ bản. Hợp đồng không thể được coi là đã ký kết nếu
như trong đó chưa xác định rõ đối tượng của hợp đồng. Ví dụ như chưa thể coi
là ký kết hợp đồng mua bán nếu như giữa bên bán và bên mua chưa đạt được
thỏa thuận về vật gì cụ thể sẽ bán cho người mua. Hợp đồng ủy quyền chưa thể
được coi là ký kết nếu như các bên chưa xác định rõ bên được ủy quyền phải
thực hiện những công việc gì nhân danh bên ủy quyền. Tùy theo từng loại hợp
đồng mà đối tượng có thể là một tài sản phải chuyển giao hay một công việc
phải thực hiện. Nếu đối tượng của hợp đồng là tài sản thì tài sản đó phải được
phép giao dịch. Nếu đối tượng của hợp đồng là công việc phải thực hiện thì công
việc đó phải không bị pháp luật cấm.
Một số quan điểm cho rằng khái niệm đối tượng cần phải được hiểu theo nghĩa
rộng bao gồm các thông số cần thiết cho phép các bên xác định được cụ thể nhất
về tài sản (công việc hay dịch vụ) là mục đích của các bên đi tới thỏa thuận. Các

chỉ số đó bao gồm: tên gọi, chất lượng, số lượng, các chỉ số phân loại hoặc chỉ


số kỹ thuật (nếu có)… Quan điểm đó cho rằng cùng một sản phẩm, nhưng với
hai nhóm chất lượng khác nhau, thì đó là hai đối tượng khác nhau. Ví dụ: Gạo
loại 1 phân biệt với gạo loại 2, xe ôtô mới xuất xưởng phân biệt với xe ôtô đã
qua sử dụng.
Số lượng đóng vai trò rất quan trọng trong việc xác định đối tượng của hợp
đồng. Ngay bản thân khái niệm đối tượng thường được hiểu theo nghĩa “cái gì
và bao nhiêu”. Trong một số hợp đồng điều khoản về số lượng tưởng như không
được nhắc tới, ví dụ như hợp đồng cung cấp năng lượng điện cho người tiêu
dùng, người tiêu dùng có quyền tiêu thụ lượng điện cần thiết cho riêng mình.
Nhưng xét kỹ về thực chất thì không phải như vậy, vì giá thành trong hợp đồng
được dự liệu trước cho từng khoảng số lượng điện năng tiêu thụ, sau đó khoản
tiền điện năng thanh toán sẽ được cụ thể hóa theo chỉ số tiêu thụ thực tế. Nếu
bên tiêu thụ điện dự trù sẽ tiêu thụ một lượng điện gấp nhiều lần so với mức
bình quân của người tiêu dùng, để nhằm mục đích sản xuất, thì các bên sẽ ký kết
với nhau hợp đồng với mục đích sử dụng khác đi và cũng với giá thành khác
hẳn.
Yêu cầu về chất lượng thường do các bên thỏa thuận. Trong một số loại hợp
đồng, chất lượng được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định và giám
sát. Ví dụ như để đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng thì các mặt hàng sinh
hoạt dân dụng như thực phẩm, thuốc men, đồ dùng điện,…phải được đăng ký
chất lượng, đảm bảo mọi yêu cầu về độ an toàn, yêu cầu vệ sinh.
Thời hạn của hợp đồng thường được coi là yếu tố quan trọng của hợp đồng.
Thời hạn xác định khoảng thời gian tồn tại của chính hợp đồng, khoảng thời
gian mà các bên phải thực hiện cho nhau các nghĩa vụ đã cam kết trong hợp
đồng. Thời hạn được xác định bằng hai cách chính: bằng thời điểm cụ thể theo
lịch (thứ mấy, ngày nào của tháng nào năm nào, vào lúc mấy giờ…) và bằng
phương pháp tính khoảng độ dài thời gian (bao nhiêu ngày, bao nhiêu tháng,

mấy tuần, thậm chí mấy giờ).


Thời hạn chung của hợp đồng được xác định một cách gián tiếp thông qua thời
hạn thực hiện những nghĩa vụ của hợp đồng. Ví dụ: Thời hạn của hợp đồng gửi
giữ được tính là khoảng thời gian từ khi bên gửi giữ giao tài sản cho bên nhận
gửi giữ, kết thúc tại thời điểm bên gửi giữ lấy lại tài sản và thanh toán tiền.
Ngoài thời hạn chung xác định hiệu lực của hợp đồng thì bất mỗi việc thực hiện
nghĩa vụ bất kỳ trong hợp đồng đều có thể được quy định thời hạn riêng cho nó.
Ví dụ như thời hạn bàn giao vật, thời hạn thanh toán, thời hạn vận chuyển, thời
hạn gửi giữ lưu kho, thời hạn thầu xây dựng… Mọi vi phạm thời hạn quy định
(nhanh hơn hay chậm hơn, sớm hơn hay muộn hơn) mà không được sự thống
nhất của các bên thì đều được coi là vi phạm hợp đồng.
Trong quan hệ nghĩa vụ, quyền của một bên tương ứng với nghĩa vụ của bên kia.
Do vậy, cùng một thời hạn nhưng đối với một bên của hợp đồng làm phát sinh
quyền, nhưng đối với bên kia lại làm phát sinh nghĩa vụ. Ví dụ như thời hạn cho
vay làm phát sinh nghĩa vụ trả nợ đối với bên vay, đồng thời phát sinh quyền đòi
của bên cho vay. Trong một số trường hợp thì yếu tố thời hạn ảnh hưởng trực
tiếp tới các yếu tố khác của hợp đồng.
Giá cả của hợp đồng đóng vai trò công cụ chủ yếu để xác định giá trị tương
đương của đối tượng hợp đồng. Ví dụ như trong hợp đồng mua bán thì thông
qua giá bán mới có thể xác định được khoản tiền phải thanh toán cho một số
lượng hàng hóa nhất định. Ngay trong các hợp đồng trao đổi hàng hóa cũng phải
dựa vào giá cả để xác định số lượng hàng trao đổi. Ví dụ như đổi một chiếc ôtô
giá 300 triệu lấy 10 chiếc xe máy giá 30 triệu đồng. Giá cả thông thường được
các bên tự thỏa thuận hoặc các bên có thể thỏa thuận giao cho người thứ ba
trung gian định giá. Đối với một số mặt hàng chiến lược hay một số dịch vụ
quan trọng thì nhà nước có quy định các khung giá chuẩn mang tính bắt buộc.
Ví dụ như giá bán lẻ xăng dầu, giá cước vận chuyển và các dịch vụ quan trọng
khác. Đối với một số mặt hàng khác thì nhà nước có tổng kết từ thực tế các

khung giá nhằm trợ giúp cho các chủ thể dễ dàng định hướng khi ký kết hợp


đồng. Ví dụ như giá quy đổi ngoại tệ, giá trung bình của các mặt hàng nhu cầu
yếu phẩm trong tháng do kết quả điều tra.
Các bên hoặc thỏa thuận với nhau hoặc giá cả cụ thể, hoặc thỏa thuận phương
pháp để tính giá cho đối tượng của hợp đồng trong thời hạn thực hiện hợp đồng
(như giá có thể xác định theo theo tỷ lệ đối với giá của một mặt hàng chiến lược
nào đó theo quy định tại thời điểm thanh toán).

III. THỰC TIỄN VÀ KIẾN NGHỊ
1.

Hình thức hợp đồng

Hợp đồng là sự thoả thuận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và
nghĩa vụ dân sự giữa các bên. Trong quá trình đàm phán, thương thảo để ký kết
hợp đồng, mỗi chủ thể đều có ý chí của mình. Khi ý chí của các bên có sự trùng
hợp thì coi là có sự thoả thuận và hợp đồng được ký kết. Sự trùng hợp ý chí, hay
nói cách khác sự thoả thuận của các bên được thể hiện bằng những hình thức
khác nhau tuỳ thuộc vào ý chí của họ: có thể bằng lời nói, có thể bằng hành vi
và có thể bằng văn bản. Các hình thức thể hiện ý chí đó được gọi là hình thức
của hợp đồng. Theo nguyên tắc thì các bên có quyền lựa chọn hình thức thể hiện
ý chí của họ và đó được coi là một trong những nội dung của tự do hợp đồng –
tự do lựa chọn hình thức của hợp đồng. Tuy nhiên, trên thực tế khi giao kết hợp
đồng thì hình thức hợp đồng phần nào đó bị tác động bởi yếu tố về đặc điểm hợp
đồng giao kết như thế nào? Và quy định của pháp luật về loại hợp đồng đó ra
làm sao? chẳng hạn như nếu chúng ta ra chợ mua một mớ rau thì không ai lại đi
lập hợp đồng bằng văn bản, rồi công chứng hay chứng thực và chúng ta không
thể thỏa thuận bằng lời nói để mua, bán đi một căn nhà, hay chuyển quyền sử

dụng đất, bởi theo quy định của pháp luật thì các loại hợp đồng này phải được
lập thành văn bản và được công chứng hoặc chứng thực. Nếu như không thực
hiện công chứng hoặc chứng thực các hợp đồng loại này thì hợp đồng không
được công nhận, và không có hiệu lực. Như vậy, tùy từng trường hợp điều kiện,


hoàn cảnh, giá trị, sự phức tạp của hợp đồng mà các bên lựa chọn hình thức phù
hợp.
Đối với hình thức hợp đồng chúng ta cần lưu ý tới hai vấn đề đó là: Hình thức
hợp đồng là điều kiện để hợp đồng có hiệu lực ?(hình thức văn bản) và hình thức
bằng thông điệp dữ liệu, điểm mới trong bộ Luật dân sự 2015.
Thứ nhất, đối với vấn đề hình thức hợp đồng là điều kiện hợp đồng có hiệu lực
thì Điều 129 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Giao dịch dân sự vi phạm quy
định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu, trừ trường hợp sau đây:
1. Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn
bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất
hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên,
Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó.
2. Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt
buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất
hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên,
Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp
này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực
”. Như vậy, theo quy định trên ta thấy rằng hình thức hợp đồng là một điều kiện
bắt buộc để giao dịch có hiệu lực trong những trường hợp cần thiết, và nếu hợp
đồng không tuân thủ hình thức luật định thì có thể bị tuyên bố vô hiệu. Có
những quan điểm cho rằng với việc quy định như vậy thì nhà nước đã can thiệp
quá sâu vào hợp đồng và xâm phạm nghiêm trọng nguyên tắc tự do hợp đồng,
làm cản trở sự phát triển của các quan hệ pháp luật tư vì đã hạn chế sự tự do ý
chí của các bên. Một số quan điểm khác lại cho rằng, không nên quy định hình

thức là điều kiện có hiệu lực của giao dịch, thậm chí nên bỏ hẳn các quy định về
hình thức. Các quan điểm này có vẻ như coi nhẹ hình thức của hợp đồng là điều
kiện có hiệu lực của hợp đồng. Việc coi nhẹ tới mức bỏ hẳn yếu tố hình thức là
điều kiện có hiệu lực của hợp trong nhiều trường hợp có thể dẫn đến việc thiếu


cơ chế để bảo vệ quyền lợi của bên yếu hơn trong quan hệ hợp đồng, thiếu
chứng cứ chứng minh tồn tại của hợp đồng, khó có thể bảo đảm trật tự công
cộng cũng như an toàn pháp lý cho các bên và cả người thứ ba.
Về mối quan hệ giữa hình thức với hiệu lực của hợp đồng được quy định tại
khoản 2 Điều 117 BLDS 2015: “hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có
hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định”, và theo điều
điều 129 BLDS 2015.
Các quy định nói trên cho thấy, mặc dù pháp luật có quy định một loại hợp đồng
nào đó phải được ký kết bằng văn bản, văn bản có chứng thực, tuy nhiên hợp
đồng sẽ không bị coi là vô hiệu nếu các bên không tuân thủ hình thức, trừ trường
hợp pháp luật có quy định. Pháp luật quy định như vậy, tuy nhiên khi nghiên cứu
các quy định của Bộ luật Dân sự và các văn bản pháp luật khác thì không thể tìm
thấy bất kỳ quy định nào, theo đó hợp đồng không tuân thủ hình thức văn bản,
văn bản có chứng thực thì vô hiệu, mà trong nhiều trường hợp pháp luật chỉ quy
định hợp đồng phải được ký kết bằng văn bản. Với cách quy định về hình thức
của hợp đồng là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong pháp luật Việt Nam
nói chung và BLDS nói riêng là không rõ ràng. Thứ nhất, như đã phân tích ở
trên, hợp đồng là sự thoả thuận và hình thức của hợp đồng chỉ là hình thức thể
hiện ý chí của các bên ra bên ngoài; thứ hai, rõ ràng hợp đồng không được công
chứng, chứng thực là do một trong các bên không muốn, vậy thì Quyết định của
Toà án cũng không thể thay đổi được ý chí của họ. Mặt khác, theo quy định của
điều 121 BLDS 2015, khi hợp đồng có điều khoản không rõ ràng thì không chỉ
dựa vào ngôn từ của hợp đồng mà còn phải căn cứ vào ý chí chung của các bên
để giải thích điều khoản đó. Rõ ràng, ý chí chung của các bên được đánh giá cao

hơn hình thức biểu hiện ra bên ngoài. Ý chí của các bên được hiểu là ý chí được
biểu hiện tại thời điểm ký kết hợp đồng. Bộ luật Dân sự 2015 đã bỏ quy định về
việc hợp thức hóa hình thức giao dịch (bao gồm hợp đồng hay hành vi pháp lý
đơn phương), thay vào đó là một số quy định mới được thiết kế nhằm “cứu vãn”
giao dịch có nguy cơ vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức. Theo quy


định tại khoản 1, điều 129 của văn bản này, “giao dịch dân sự đã được xác lập
theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật
mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao
dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, tòa án ra quyết định công nhận
hiệu lực của giao dịch đó”.
Một số pháp luật chuyên ngành đặt ra yêu cầu hợp đồng phải có một số nội dung
bắt buộc. Chẳng hạn, điều 141, Luật Xây dựng quy định hợp đồng xây dựng
phải có ít nhất 14 nội dung như khối lượng công việc, yêu cầu kỹ thuật của công
việc, thời gian và tiến độ thực hiện hợp đồng... Tương tự, theo điều 18, Luật
Kinh doanh bất động sản, hợp đồng mua bán, cho thuê, cho thuê mua nhà hay
công trình xây dựng phải có 12 nội dung gồm giá, phương thức và thời hạn
thanh toán, thời hạn giao, nhận bất động sản...
Quy định mới của Bộ luật Dân sự 2015 chính thức coi việc yêu cầu hợp đồng
phải có một số nội dung bắt buộc là một điều kiện về mặt hình thức trong bối
cảnh đây vẫn là một khoảng trống của pháp luật hiện hành. Cũng trên tinh thần
này, khoản 2, điều 129, Bộ luật Dân sự nêu rõ “giao dịch dân sự đã được xác lập
bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà
một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch
thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, tòa án ra quyết định công nhận hiệu
lực của giao dịch đó và trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc
công chứng, chứng thực”.
Tuy các quy định nói trên có vẻ mang tính đột phá nhưng dường như sẽ rất khó
xác định thế nào là “hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch”. Cách tính tổng số

nghĩa vụ trong giao dịch sau đó xem số lượng nghĩa vụ đã thực hiện là bao nhiêu
sẽ không khả thi nếu như trong số các nghĩa vụ đó có những nghĩa vụ không
phân chia được theo phần hoặc danh sách các nghĩa vụ mà hợp đồng nêu chỉ
mang tính chất liệt kê và là danh sách mở.
Từ những phân tích trên, ta thấy rằng các quy định của pháp luật Việt Nam liên
quan đến hình thức là điều kiện để hợp đồng có hiệu lực cần phải được quy định


rõ ràng hơn, cụ thể hơn. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cần có sự
giải thích việc áp dụng các quy định về hình thức là điều kiện có hiệu lực của
hợp đồng tương tự án lệ và thực tiễn giải quyết tranh chấp của các nước trên cơ
sở nguyên tắc trung thực thiện chí.
Thứ hai, hình thức bằng thông điệp dữ liệu, ngoài 3 hình thức hợp đồng truyền
thống: bằng lời nói, bằng văn bản, bằng hành vi cụ thể, Bộ luật Dân sự 2015 có
một hình thức hợp đồng nữa là hình thức bằng thông điệp dữ liệu (hợp đồng
điện tử).
Ở nước ta, nhiều ngành kinh tế quan trọng, nhiều doanh nghiệp đã thực hiện
giao dịch điện tử trong các hoạt động của mình. Tuy nhiên, hoạt động giao dịch
điện tử ở nước ta về cơ bản mới ở giai đoạn xây dựng các dịch vụ ứng dụng,
chưa có dịch vụ nào được thực hiện trực tuyến hoàn toàn. Tình hình đó do nhiều
nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân quan trọng về môi trường pháp lý: nước
ta còn thiếu một khung pháp lý cần thiết, một văn bản pháp luật có giá trị pháp
lý cao để điều chỉnh các quan hệ trong giao dịch điện tử.
Trước thực tế trên, để tạo cơ sở pháp lý cho giao dịch điện tử phát triển, Bộ luật
Dân sự năm 2015 có sửa đổi trên cơ sở của luật dân sự 2005 về giao dịch dân sự
thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức: “Giao dịch dân sự thông qua
phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp
luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản” (khoản 1 Điều
119). Tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội Khoá XI, Luật Thương mại năm 2005 được
thông qua, trong đó Điều 15 ghi nhận nguyên tắc thừa nhận giá trị pháp lý của

thông điệp dữ liệu trong hoạt động thương mại: “Trong hoạt động thương mại,
các thông điệp dữ liệu đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định
của pháp luật thì được thừa nhận có giá trị pháp lý tương đương văn bản". Và
đặc biệt, tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khoá XI đã thông qua Luật Giao dịch điện tử
2005. Luật này công nhận giá trị pháp lý của giao dịch điện tử, giá trị pháp lý
của thông điệp dữ liệu, chữ ký điện tử được sử dụng trong các giao dịch điện tử;
cụ thể hoá quy định về hợp đồng điện tử trong Bộ luật Dân sự 2005, và trong


luật 2015 vẫn còn giá trị pháp lý tạo môi trường pháp lý nhằm thúc đẩy việc sử
dụng các giao dịch điện tử, giao kết hợp đồng bằng phương tiện điện tử góp
phần nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế.
Luật Giao dịch điện tử 2005 dành một chương (từ Điều 33 đến Điều 38) quy
định về việc giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử.
Xét về bản chất, hợp đồng điện tử cũng là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác
lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ như các hình thức hợp đồng phổ
biến mà chúng ta đang áp dụng, chỉ khác là chúng được xác lập thông qua các
phương tiện điện tử dưới dạng thông điệp dữ liệu. Một hợp đồng điện tử có thể
được giao kết dưới nhiều dạng khác nhau, từ các phương thức trao đổi hiện đại
như trao đổi dữ liệu điện tử, E-mail, tới các phương tiện thông tin liên lạc đã tồn
tại từ nhiều năm nay như điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác.
Các bên có thể sử dụng thông điệp dữ liệu để tiến hành một bước hay toàn bộ
các bước trong quá trình giao kết hợp đồng điện tử. Đề nghị giao kết hợp đồng
và chấp nhận giao kết hợp đồng có thể được thực hiện thông qua thông điệp dữ
liệu. Việc trao đổi, thoả thuận đó sẽ tạo ra hiệu lực pháp lý của hợp đồng mà
không cần hai bên phải thực hiện thêm bất kỳ một thủ tục nào khác (trừ trường
hợp pháp luật đòi hỏi hợp đồng phải được lập theo một hình thức và trình tự cụ
thể). Giá trị pháp lý của hợp đồng điện tử không thể bị phủ nhận chỉ vì nó được
thể hiện dưới dạng thông điệp dữ liệu (Điều 34 Luật Giao dịch điện tử 2005). Nó
có giá trị làm chứng cứ, khi các bên có tranh chấp khởi kiện yêu cầu toà án giải

quyết (Điều 14 Luật Giao dịch điện tử 2005.
Có thể đánh giá, các quy định về hình thức hợp đồng trong Bộ luật Dân sự 2015
là khá tiến bộ, đầy đủ và phù hợp với thực tiễn Việt Nam hiện nay.
2.2. Nội dung hợp đồng
Nội dung của hợp đồng là tổng thể các điều khoản mà các chủ thể tham gia giao
kết hợp đồng đã thỏa thuận. Các điều khoản đó xác định những quyền và nghĩa
vụ dân sự cụ thể của các bên trong hợp đồng. Điều 398 Bộ luật dân sự quy định


về nội dung của hợp đồng. Quy định này mang tính hướng dẫn cho các bên khi
thỏa thuận, giao kết hợp đồng nhằm thuận tiện cho việc thực hiện và làm cơ sở
để giải quyết khi có tranh chấp xảy ra. Vì vậy, trong trường hợp hợp đồng thiếu
một số điều khoản như đã liệt kê tại Điều 402 Bộ Luật dân sự 2005 thì hợp đồng
vẫn được coi là đã giao kết. Thậm chí nếu hợp đồng thiếu các điều khoản được
coi là điều khoản chủ yếu của hợp đồng thì hợp đồng đó vẫn không bị coi là vô
hiệu. Các bên vẫn có thể thỏa thuận tiếp tục bổ xung điều khoản của hợp đồng
sau khi giao kết.
So với các quy định về nội dung hợp đồng của Bộ luật dân sự 1995 quy định thì
các quy định ở Điều 402 bộ luật dân sự 2005 tiến bộ hơn hẳn và tiếp tục kế thừa
ở luật dân sự 2015. Điều 401 Bộ luật dân sự 1995 quy định : “ Nội dung chủ yếu
của hợp đồng là những điều khoản mà thiếu những điều khoản đó, thì hợp đồng
không thể giao kết được. Nội dung chủ yếu của hợp đồng do pháp luật quy định;
nếu pháp luật không quy định thì theo thỏa thuận của các bên”. Với quy định
này, nhà nước ta đã can thiệp quá nhiều vào hợp đồng, cái mà được coi là sự
“thỏa thuận” và tự do ý chí của các chủ thể. Việc quy định mới về nội dung hợp
đồng trong bộ luật dân sự 2005 và luật dân sự 2015 đã khắc phục được điểm
này, nó tạo điều kiện cho giao lưa dân sự phát triển. Ta có thể đánh giá rằng, các
quy định nội dung hợp đồng của bộ luật dân sự 2015 là phù hợp với bản chất
của hợp đồng và thực tiễn xã hội.


III. KẾT LUẬN
Hình thức và nội dung có mối quan hệ biện chứng với nhau. Hình thức hợp đồng
là cách thức thể hiện ý chí ra bên ngoài của các bên giao kết hợp đồng. Thông
qua cách thức biểu hiện này, người ta có thể biết được nội dung của giao dịch đã
xác lập. Hình thức của hợp đồng có ý nghĩa rất quan trọng trong tố tụng. Nó là
chứng cứ xác nhận các quan hệ đã, đang tồn tại giữa các bên, từ đó xác định
trách nhiệm dân sự khi có vi hợp đồng phạm xảy ra. Bởi vậy, việc quy định hình
thức, nội dung hợp đồng như thế nào để bảo đảm được quyền lợi của các bên khi


giao kết hợp đồng và không xâm phạm tới nguyên tắc “tự do thỏa thuận” khi
giao kết hợp đồng là một bài toán khó. Tuy nhiên, với các quy định về hinh thức
và nội dung hợp đồng trong Bộ luật dân sự thì đã phần nào giải quyết được vấn
đề đó, có thể đánh giá các quy định về hình thức và nội hợp đồng trong Bộ luật
Dân sự 2015 là khá tiến bộ, đầy đủ và phù hợp với thực tiễn Việt Nam hiện nay.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

Trương Anh Tuấn, Bình luận khoa học bộ luật dân sự (phần nghĩa vụ
dân sự và hợp đồng). Nxb Lao động.

2

Bộ luật dân sự năm 2015.

3


Thuvienphapluat.vn



×