Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.74 KB, 30 trang )

LUÂN VĂN:


Thực
hiệntrong
pháplĩnh
luậtvực
xử lỷ
phạm
hành
chính
hảìviquan
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài

Ngày 10 tháng 9 năm 1945, Sở Thuế quan và Thuế gián thu (tên gọi đầu tiên của
Hải quan Việt Nam ngày nay) đuợc thành lập bởi sắc lệnh số 27/SL do Bộ truởng Bộ Nội
vụ Võ Nguyên Giáp thay mặt Chủ tịch nuớc ký, với nhiệm vụ "đảm bảo công việc của
Sở Tổng thanh tra độc quyền muối và thuốc phiện và các sở thuong chính Bắc, Trung và
Nam Bộ" [5].
Cho đến nay, đã 60 năm trôi qua, Hải quan Việt Nam đã có những đóng góp
xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc. Trong thời kỳ đổi mới hoạt
động hải quan có tác động rất quan trọng và ảnh huởng trực tiếp đến hiệu quả của hoạt
động xuất nhập khẩu, đến môi truờng đầu tu nuớc ngoài, đến hoạt động du lịch; ảnh
huởng trực tiếp đến việc bảo hộ và thúc đẩy sản xuất trong nuớc, bảo hộ lợi ích nguời
tiêu dùng, bảo vệ môi truờng, góp phần bảo vệ trật tự an toàn xã hội, an ninh quốc gia.
Thực hiện thắng lợi đuờng lối đổi mới kinh tế, chủ động hội nhập của Đảng. Trong điều
kiện mới, để thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X, ngành Hải quan
cần phải làm là đảm bảo thực hiện tốt pháp luật hải quan, trong đó có việc đảm bảo thực
hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan.
Thực tiễn cho thấy, trong những năm qua, việc đảm bảo thực hiện pháp luật xử


lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan bên cạnh những ưu điểm đã bộc lộ nhiều
bất cập, nhu có nhiều qui định pháp luật còn chồng chéo, không thống nhất, chua phù
hợp với thực tế, thiếu tính khả thi. Hoạt động giải thích pháp luật vi phạm hành chính đã
triển khai song hiệu quả chua cao dẫn đến việc áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực hải quan nhiều noi còn tùy tiện hoặc dung túng bao che, không xử
lý hoặc xử lý không kịp thời... Những điều đó làm nảy sinh tâm lý coi thuờng kỷ cuông
phép nuớc. Trong khi đó, việc tuyên truyền pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực hải quan còn hạn chế, chua đuợc tiến hành thuờng xuyên. Nguời dân còn thiếu
hiểu biết hoặc hiểu biết rất hạn chế pháp luật ở lĩnh vực này. Hon nữa các co quan có
nhiệm vụ xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan cũng đồng thời thực hiện
nhiệm vụ chống buôn lậu; công chức thực hiện nhiệm vụ này chưa được đào tạo chuyên
sâu, đa số kiêm nhiệm các nhiệm vụ khác.
về mặt lý luận, đảm bảo thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh

vực hải quan đặt ra nhiều vấn đề nhưng chưa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu
nào. Một số công trình được công bố chỉ nghiên cứu chung về pháp luật hải quan và xử
phạt vi phạm hành chính, những vấn đề như: chất lượng pháp luật xử lý vi phạm hành


chính trong lĩnh vực hải quan; ý thức pháp luật của các đối tượng tham gia hoạt động hải
quan; bộ máy tổ chức và nhân sự; co chế phối hợp giữa các lực lượng; phưong tiện vật
chất kỹ thuật và môi trường xã hội cũng như dư luận xã hội chưa thực sự được tiến hành
trên co sở khoa học.
Rõ ràng, cả về mặt lý luận, cả về mặt thực tiễn, việc nghiên cứu một cách toàn
diện vấn đề đảm bảo thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải
quan để đề xuất và luận chứng các giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện pháp luật đó
nghiêm minh, chính xác, kịp thời là hết sức cần thiết và cấp bách hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Những năm trước thời kỳ đổi mới hầu như chưa có công trình nào nghiên cứu

về pháp luật hải quan. Theo đường lối đổi mới và nhất là nhằm thực hiện chủ trưong
"quản lý đất nước bằng pháp luật", việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về pháp luật,
về co chế thực hiện pháp luật nói chung, pháp luật hải quan nói riêng đã có sự phát triển
mạnh. Có thể kể đến một số công trình sau:
- Luận án Tiến sĩ Luật học: "Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về hải quan trong
điều kiện hiện nay ở nước ta" của Vũ Ngọc Anh, 1999.
- Luận văn thạc sĩ luật học: "Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về kiểm tra giảm
sát hải quan ở Việt Nam hiện nay" của Hoàng Anh Công, 2001.
- Luận văn thạc sĩ luật học: "Tăng cường quản lỷ nhà nước bằng pháp luật đổi
với hoạt động hải quan ở Việt Nam hiện nay" của Trần Văn Dũng, 2001.
- Luận văn thạc sĩ luật học: "Thực hiện pháp luật ở các tỉnh miền núi phía bắc ở
nước ta hiện nay - thực trạng và các phương hướng, giải pháp" của Lê Thanh Bình,
2002.
- Luận văn thạc sĩ luật học: "Tăng cường quản lỷ nhà nước bằng pháp luật
trong lĩnh vực hải quan ở Việt Nam hiện nay" của Bùi Văn Thịnh, 2003.
- Luận văn thạc sĩ luật học: "Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh
vực xử lỷ vi phạm hành chính ở nước ta hiện nay" của Đặng Thanh Sơn, 2003.
- Luận văn thạc sĩ luật học: "Vi phạm pháp luật hành chính trong lĩnh vực hải
quan và giải pháp xử lý "của Lê Nguyễn Nam Ninh, 2004.
- Luận văn thạc sĩ luật học: "Hoàn thiện pháp luật trong quản lỷ nhà nước về
hải quan đổi với doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay" của Bùi
Văn Hải, 2005.
- Đề tài nghiên cứu cấp ngành: "Nghiên cứu hoàn thiện hệ thống các văn bản
qui phạm pháp luật trong lĩnh vực hải quan đổi chiểu với các cam kểt quốc tể liên quan"
của Viện Nghiên cứu Hải quan, 2003.
- Đề tài khoa học cấp ngành: "Nghiên cứu một sổ giải pháp nhằm hoàn thiện


pháp luật xử lỷ vi phạm hành chỉnh về hải quan theo yêu cầu của hội nhập kinh tể quốc
tể " của Vụ Pháp chế - Tổng cục Hải quan, 2005.

Ngoài ra, còn có một số bài viết của các cán bộ chuyên gia trong và ngoài ngành
hải quan liên quan đến đề tài luận văn đã được đăng trên các tạp chí như bài viết của
Tiến sĩ Lê Vương Long và thạc sĩ Hoàng Văn Sao đăng trên Tạp chí Luật học - đặc san
về xử lý vi phạm hành chính. Một số các bài viết trên trang web Hải quan Việt Nam về
pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan. Bài viết trên trang tin điện
tử Bộ Tài chính về "một số vướng mắc cần sớm tháo gỡ trong xử lý vi phạm hành chính
về hải quan"; một số bài viết về những vướng mắc khi xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực hải quan ở các Cục Hải quan địa phương trong từng lĩnh vực cụ thể...
Các công trình nghiên cứu trên chủ yếu tập trung vào các vấn đề về hoàn thiện
pháp luật xử lý vi phạm hành chính, pháp luật hải quan, quản lý nhà nước bằng pháp luật
đối với hoạt động hải quan, một số lĩnh vực công tác cụ thể của ngành hải quan, chưa có
đề tài trực tiếp nghiên cứu việc đảm bảo thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực hải quan.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

* Mục đích:
Luận văn trên co sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến
đề tài để đề xuất và luận chứng các giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực hải quan ở Việt Nam hiện nay.
* Nhiệm vụ:
Luận văn giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Phân tích co sở lý luận về thực hiện và đảm bảo thực hiện pháp luật xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan, như khái niệm, đặc điểm, nội dung, vai trò của
pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan, khái niệm, đặc điểm của
thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan, từ đó tìm hiểu
khái niệm và yêu cầu đảm bảo thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực hải quan, các yếu tố ảnh hưởng đến việc đảm bảo thực hiện pháp luật xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực hải quan hiện nay.
- Phân tích, đánh giá thực trạng đảm bảo thực hiện pháp luật xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực hải quan.



- Đe xuất và luận chứng các giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

- Đổi tượng nghiên cứu của luận văn: Là những vấn đề lý luận và thực tiễn
thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan ở Việt Nam.
- Phạm vỉ nghiên cứu: Trong khuôn khổ có hạn, luận văn chỉ tập trung nghiên
cứu những vấn đề cơ bản của việc bảo đảm thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực hải quan, và về thời gian, chỉ nghiên cứu chủ yếu giai đoạn từ sau
đổi mới (1986) đến nay, đồng thời có tham khảo các quy định pháp luật truớc đó khi
phân tích các vấn đề mang tính lịch sử.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật, về
tuyên truyền, giáo dục thực hiện pháp luật. Luận văn dựa trên cơ sở lý luận trực tiếp của
bộ môn lý luận chung về nhà nước và pháp luật của khoa học pháp lý xã hội chủ nghĩa
- về phương pháp nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp của triết học
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, như phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn,
phân tích và tổng hợp, lịch sử cụ thể. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương
pháp nghiên cứu của một số bộ môn khoa học khác, như phương pháp luật học so sánh,
phương pháp xã hội học (điều ứa, khảo sát).
6. Những đóng góp mới của luận văn

Điểm mới nhất của luận văn là ở chỗ không chỉ nghiên cứu thực hiện pháp luật
xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan mà là nghiên cứu làm sáng tỏ các yêu
cầu, các yếu tố đảm bảo thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải
quan. Từ đó, các giải pháp đề xuất mang tính toàn diện, không chỉ có ý nghĩa đối với

thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan, mà còn có ý nghĩa
trong nghiên cứu đảm bảo thực hiện pháp luật nói chung, góp phần hoàn thiện cơ chế
thực hiện và bảo vệ pháp luật, giáo dục pháp luật theo chủ trương, đường lối của Đảng
hiện nay.


7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

- ỷ nghĩa ỉỷ luận: Luận văn góp phần xây dựng hệ thống các khái niệm, đặc
điểm của việc thực hiện, đảm bảo thực hiện và các yêu cầu, yếu tố ảnh hưởng đến việc
đảm bảo thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan.
- ý nghĩa về mặt thực tiễn: Luận văn góp phần hoàn thiện co chế thực hiện và
bảo vệ pháp luật, giáo dục pháp luật theo chủ trưong, đường lối của Đảng. Luận văn có
thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu thực hiện pháp luật xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan và thực hiện pháp luật hải quan ở Việt Nam
hiện nay theo các hướng của Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam qui định tại Nghị quyết 48-NQ/ TƯ của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ưong
Đảng (khóa IX).
8. Kết cấu của luận văn


Ngoàiphần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 2 chưong, 4 tiết.
Chương 1
Cơ sở lý luận về thực hiện và đảm bảo
thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh Yực hải quan ở Việt Nam

1.1. Pháp luật Yà thực hiện pháp luật xử lý YỈ phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan

1.1.1. Pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh Yực hải quan


1.1.1.1. Khải niệm pháp luật xử lý vi phạm hành chỉnh trong lĩnh vực hải
quan

Đe hiểu được khái niệm pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan trước hết cần phải
tìm hiểu một số khái niệm liên quan:
- Khái niệm vi phạm hành chỉnh.

Vi phạm hành chính là một loại vi phạm pháp luật xảy ra khá phổ biến hàng ngày trong đời sống xã hội,
kinh tế, từ những hành vi nhỏ như vứt rác không đúng nơi, đúng chỗ, đến những hành vi có tính chất, mức độ lớn
hơn như điều khiển môtô, xe máy đi vào đường một chiều, vượt đèn đỏ, hoặc những hành vi trong hoạt động sản
xuất, kinh doanh như tiến hành kinh doanh mà không đăng ký theo quy định của pháp luật, trốn thuế, thay đổi trụ
sở của doanh nghiệp mà không thông báo, hay những hành vi trong lĩnh vực bảo vệ môi trường như vận chuyển
và xử lý chất thải, các chất gây ô nhiễm môi trường không đúng theo quy định về bảo vệ môi trường; những hành
vi trong lĩnh vực thương mại như xuất nhập khẩu hàng hóa không đúng giấy phép hoặc không làm đúng thủ tục
hải quan trong lĩnh vực hải quan. Tóm lại, những hành vi vi phạm pháp luật trên thể hiện rất đa dạng, phong phú,
ở hầu hết các lĩnh vực của quản lý nhà nước, song đều có chung một số đặc điểm sau:

Một là, vi phạm hành chính đều là những hành vi xâm hại đến trật tự quản lý nhà nước, phá vỡ trật tự
hành chính đang được duy trì và bảo vệ, làm ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, tính chất và mức độ xâm hại của hành vi vi phạm hành chính mặc dù nguy
hiểm cho xã hội song chưa đủ các yếu tố cấu thành tội phạm được quy định tại Bộ luật hình sự.

Hai là, chủ thể của hành vi vi phạm hành chính là tổ chức hoặc cá nhân. Đối với tổ chức, thì hành vi này
được thực hiện bởi cá nhân nhưng dưới danh nghĩa tổ chức (do tổ chức giao, phân công hoặc thực hiện hành vi
nhân danh tổ chức đó).

Các chủ thể thực hiện hành vi vi phạm hành chính là tổ chức hoặc cá nhân có năng lực chịu trách nhiệm



hành chính.

Theo quy định của pháp luật hiện hành, cá nhân là chủ thể của vi phạm hành chính phải là người không
mắc các bệnh làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi và đủ độ tuổi do pháp luật quy định.
Người từ độ tuổi 14 đến dưới 16 tuổi là chủ thể của vi phạm hành chính với lỗi cố ý. Người đủ từ 16 tuổi trở lên
là chủ thể của vi phạm hành chính trong mọi trường hợp (vi phạm do lỗi cố ý hay vô ý). Tổ chức là chủ thể vi
phạm hành chính là các co quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các đon vị kinh tế, các đon vị trực thuộc các lực
lượng vũ trang nhân dân theo quy định của pháp luật. Tổ chức, cá nhân nước ngoài cũng là chủ thể vi phạm hành
chính theo quy định của pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết, gia nhập có
quy định khác. Như vậy, chủ thể của vi phạm hành chính có co cấu rộng hon rất nhiều so với co cấu chủ thể của vi
phạm hình sự.

Trách nhiệm pháp lý hành chính phát sinh như một tất yếu khách quan, có nghĩa là khi thực hiện hành vi
vi phạm hành chính cá nhân, tổ chức phải chịu những hình thức xử lý do pháp luật quy định. Trách nhiệm hành
chính tồn tại dưới hình thức các chế tài hành chính, thông thường là phạt tiền, cảnh cáo và có thể đồng thời còn áp
dụng các biện pháp hành chính khác. So với trách nhiệm hình sự, trách nhiệm hành chính phong phú hon, song ít
nghiêm khắc hon.

Ba là, vi phạm hành chính cũng như mọi hành vi vi phạm pháp luật khác đều xâm hại đến các quan hệ xã
hội được pháp luật bảo vệ. Nói cách khác, khách thể của vi phạm hành chính là quan hệ xã hội về quản lý nhà
nước trong các lĩnh vực bị hành vi vi phạm xâm hại. Khách thể của vi phạm pháp luật chính là yếu tố quan trọ ng
để xác định tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm pháp luật loại này. Do các quan hệ trong
quản lý nhà nước rất đa dạng và phong phú nên khách thể của hành vi vi phạm pháp luật hành chính cũng rấ t
phong phú, đa dạng trên mọi lĩnh vực của quản lý nhà nước, được quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm
pháp luật.
Từ những phân tích trên, có thế hiếu: Vi phạm hành chính là hành vi do cả nhân, tổ chức thực hiện với
lỗi cổ ỷ hoặc vô ỷ, vi phạm quy định của pháp luật về quản lỷ nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy
định của pháp luật phải bị xử lỷ vi phạm hành chỉnh.
- Khái niệm xử lỷ vi phạm hành chỉnh.
Xử lý vi phạm hành chính bao gồm xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp xử lý hành chính.


Xử phạt hành chính thực chất là một loại hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Đó là loại hoạt động
đặc biệt và rất phức tạp bao gồm một loạt các hành vi cụ thể liên quan mật thiết với nhau như phân tích, đánh giá
tính chất, mức độ của vi phạm hành chính, xác định thẩm quyền xử phạt, đối chiếu với quy định của pháp luật, áp
dụng hình thức và mức phạt và ra quyết định xử phạt hành chính.

Quyết định xử phạt hành chính khi được ban hành sẽ gây một hậu quả pháp lý đặc biệt, làm phát sinh
trách nhiệm hành chính của cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính, tức là buộc họ phải chịu hậu quả bất lợ i trước
Nhà nước về tinh thần (bị hạn chế quyền) hoặc về tài sản (bị phạt tiền, bị tịch thu tang vật, phưong tiện...).
Xử phạt vi phạm hành chính có những đặc điểm co bản sau:


Một là, xử phạt vi phạm hành chính là một loại hoạt động cưỡng chế nhà nước, mang tính quyền lực nhà
nước.

Tính cưỡng chế và tính quyền lực nhà nước thể hiện ở chỗ hoạt động xử phạt hành chính luôn luôn được
các cơ quan hoặc cán bộ có thẩm quyền thực hiện. Chỉ có các cơ quan hoặc cán bộ nhà nước nào được Nhà nước
trao thẩm quyền xử phạt hành chính và được ghi rõ trong các văn bản pháp luật có quy định về xử phạt hành
chính mới có quyền quyết định xử phạt.

Xử phạt hành chính là phản ứng của Nhà nước trước các hành vi xâm hại quy tắc quản lý nhà nước. Biểu
hiện của phản ứng đó chính là việc áp dụng các biện pháp xử phạt hành chính. Việc áp dụng các biện pháp xử
phạt này có tác dụng trực tiếp điều chỉnh hành vi xử sự của con người vi phạm, tức là buộc họ phải gánh chịu
những hậu quả bất lợi trước Nhà nước và có tác dụng đình chỉ vi phạm hành chính qua đó mà bảo vệ và duy trì
trật tự quản lý nhà nước.
Hai là, cơ sở để xử phạt hành chính là vi phạm hành chính.
Chỉ có hành vi nào xâm phạm quy tắc quản lý nhà nước mà chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình
sự do các cá nhân, tổ chức đủ năng lực chủ thể thực hiện với lỗi cố ý hay vô ý mới bị xử phạt hành chính.

Đặc điểm có tính nguyên tắc trên đây đã được khẳng định tại khoản 2 Điều 3 Pháp lệnh xử lý vi phạm

hành chính: "Cá nhân, tổ chức chỉ bị xử phạt hành chính khi có hành vi vi phạm hành chính do pháp luậ t quy
định" [38].

Từ quy định trên, khi áp dụng các biện pháp xử phạt đòi hỏi các cơ quan hoặc cán bộ nhà nước có thẩm
quyền phải xác định rõ có vi phạm hành chính xảy ra hay không, tính chất và mức độ của vi phạm như thế nào,
hành vi vi phạm đó có quy định trong các văn bản pháp luật quy định về xử phạt hành chính hay chưa.

Ba là, hoạt động xử phạt hành chính được tiến hành qua nhiều khâu, nhiều giai đoạn nhưng kết quả của
hoạt động này phải được thể hiện bằng quyết định xử phạt hành chính.

Trong xử phạt hành chính, các chủ thể có thẩm quyền tiến hành xử phạt luôn được thực hiện hai loại hành

vi: 1- hành vi ban hành quyết định xử phạt. Quyết định xử phạt hành chính phải được thể hiện bằng văn bản hay
bằng một hình thức khác do pháp luật quy định; 2- hành vi hành chính khác, như nhằm đình chỉ hành vi vi phạm,

lập biên bản vi phạm, giải thích hành vi vi phạm và thông báo điều khoản văn bản pháp luật được áp dụng cho cá
nhân hoặc tổ chức vi phạm...

Hai loại hành vi trên luôn có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, hành vi ban
hành quyết định xử phạt là co bản và chủ yếu nhất. Các hành vi hành chính khác được thực hiện nhằm hướng tới
việc ra quyết định xử phạt hoặc thực hiện trên co sở quyết định xử phạt. Đặc biệt, khi ban hành quyết định xử
phạt sẽ dẫn đến hậu quả pháp lý là làm phát sinh trách nhiệm hành chính. Quyết định xử phạt hành chính là hình


thức thể hiện công khai ý chí và thái độ của Nhà nước phản ứng trước các hành vi vi phạm hành chính và mức
cưỡng chế của Nhà nước đối với chủ thể vi phạm.
Bổn là, hoạt động xử phạt hành chính được tiến hành trong khuôn khổ pháp luật và phải tuân theo pháp
luật về trình tự, thủ tục hành chính.

Tất cả các co quan, cán bộ có thẩm quyền xử phạt hành chính khi thực hiện các hành vi xử phạt đều phải

tuân theo các trình tự, thủ tục hành chính do pháp luật quy định chứ không tuân theo các quy định về tố tụng hình
sự kể cả trường hợp Tòa án nhân dân thực hiện quyền xử phạt hành chính.
Từ những đặc điểm trên có thể đi đến định nghĩa sau: Xử phạt vỉ phạm hành chỉnh là một loại hoạt động
cưỡng chế hành chỉnh cụ thể mang tỉnh quyền lực nhà nước phát sinh khi cỏ vỉ phạm hành chỉnh; biểu hiện ở việc
áp dụng các chế tài hành chỉnh mang tỉnh chất trừng phạt do các chủ thể, cỏ thẩm quyền nhân danh Nhà nước
thực hiện theo quy định của pháp luật.

Xử lý vi phạm hành chính còn là việc áp dụng các biện pháp hành chính khác khi có hành vi vi phạm
hành chính xảy ra. Các biện pháp xử lý hành chính khác được áp dụng đối với cá nhân có hành vi vi phạm pháp
luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội nhưng chưa đến múc truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định tại các
điều 23, 24, 25, 26, 27 của pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính. Cụ thể như: Giáo dục tại xã phường, thị trấn; đưa
vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục; đưa vào cơ sở chữa bệnh; quản chế hành chính.
Từ khái niệm xử lý vi phạm hành chính có thể đi đến quan niệm về pháp luật xử lý vi phạm hành chính,
đó là: Tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh do
có hành vi vi phạm hành chính, bao gồm các quy phạm, xác định hình thức xử phạt vi phạm hành chỉnh và một sổ
biện pháp xử lỷ hành chính khác.
- Khái niệm vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan.
Điều 11 Luật Hải quan quy định:

Hải quan Việt Nam có nhiệm vụ thực hiện kiểm ứa, giám sát hàng hóa, phương tiện vận tải;
phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới; tổ chức thực hiện pháp luật về
thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; kiến nghị chủ trương, biện pháp quản lý nhà nước về hải
quan đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh và chính sách thuế đối
với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu [26].

Cơ quan hải quan là cơ quan trực tiếp thực hiện quyền kiểm tra, giám sát đảm bảo duy trì sự quản lý của
Nhà nước đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu, phương tiện vận tải và hành khách xuất, nhập cảnh; điều tra chống
buôn lậu, chống gian lận thương mại... nhằm bảo hộ và thúc đẩy sản xuất trong nước, tăng sức cạnh tranh của
hàng hóa xuất khẩu; thu thuế xuất, nhập khẩu bảo đảm nguồn thu cho ngân sách nhà nước, bảo vệ lợi ích hợp
pháp cho người tiêu dùng; bảo vệ môi trường; góp phần bảo vệ lợi ích chủ quyền kinh tế và an ninh quốc gia; trật

tự, an toàn xã hội. Cơ quan hải quan thực hiện các quyền đó thông qua một hệ thống các quy trình thủ tục hành
chính đó là thủ tục hải quan nhằm hợp thức hóa cho hàng hóa, hành lý, phương tiện vận tải khi qua lại biên giới,
đồng thời thực hiện các quyền kiểm tra, giám sát nhằm đảm bảo các chế độ quản lý của nhà nước đối với các đối
tượng nói trên cũng như các quy trình thủ tục được đảm bảo tuân thủ.


Trên thực tế hoạt động Hải quan luôn có những hành vi cố ý hay vô ý vi phạm các quy định của Nhà
Nước đối với các chế độ quản lý, các quy trình thủ tục hay việc kiểm ứa, giám sát của cơ quan hải quan. Các vi
phạm đó chính là các vi phạm pháp luật hải quan, xâm phạm đến trật tự quản lý nhà nước về hải quan và diễn ra
phổ biến ở hầu hết các khâu nghiệp vụ của quá trình kiểm ứa, giám sát, kiểm soát hải quan. Các hành vi vi phạm
pháp luật này, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm đều phải bị xử phạt hoặc có thể có hành vi bị xử lý vi phạm
hình sự như các hành vi buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, hành lý qua biên giới theo quy định tại các
điều 153, 154 Bộ luật hình sự, nhưng đa số bị xử phạt theo quy định của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính.
Từ khái niệm vi phạm pháp luật và vi phạm pháp luật hành chính cùng với những phân tích ở trên có thể
hiểu khái niệm vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan như sau: Vỉ' phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan
là hành vi do cả nhân, tổ chức thực hiện một cách cổ ỷ hoặc vô ỷ xâm phạm tới các quy định quản lỷ nhà nước về
hải quan mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và phải chịu xử phạt vi phạm hành chính theo quy định
của pháp luật.

Vi phạm các quy định về quản lý nhà nước trong lĩnh vực hải quan được quy định cụ thể tại Điều 1 của
Nghị định số 138/2004/NĐ-CP ngày 17/6/2004 (sau đây gọi tắt là Nghị định 138/2004/NĐ-CP) của Thủ tướng
Chính phủ và các văn bản pháp luật khác có quy định hành vi và chế tài xử phạt mà văn bản đó có xác lập thẩm
quyền xử phạt cho cơ quan hải quan, bao gồm:
+ Vi phạm các quy định về thủ tục hải quan;
+ Vi phạm các quy định về kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải quan;

+ Vi phạm các quy định về xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh hàng hóa, hành lý ngoại hối, vàng, tiền Việt
Nam, kim khí quý, đá quý, cổ vật, văn hóa phẩm, bưu phẩm, vật dụng trên phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập
cảnh, quá cảnh và các tài sản khác (gọi chung là hàng hóa); vi phạm các quy định về xuất cảnh, nhập cảnh, quá
cảnh phương tiện vận tải.

- Khái niệm xử lý vi phạm hành chỉnh trong lĩnh vực hải quan.

Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan là thuật ngữ pháp lý dùng để chỉ việc xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực hải quan và áp dụng các biện pháp xử lý khác.

Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan là hoạt động do co quan hải quan tiến hành (hoặc do
co quan nhà nuớc đuợc pháp luật qui định) đối với cá nhân, tổ chức vi phạm các quy định của pháp luật về quản
lý nhà nuớc trong lĩnh vực hải quan có lỗi cố ý hoặc vô ý mà không phải là tội phạ m theo các qui định của pháp
luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính.

Xuất phát từ khái niệm của xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan ở trên cho thấy, ngoài các
đặc điểm chung của xử phạt vi phạm hành chính thì xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan có một
số đặc điểm riêng sau:

Một là, căn cứ xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan là các văn bản quy phạm pháp luật do


nhiều co quan ban hành gồm:

+ Quốc hội ban hành các luật trong đó có nhiều quy định về xử phạt vi phạm hành chính hoặc các biện
pháp xử phạt hành chính khác. Ví dụ, tại Điều 20 của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, hay tại Điều 65, 68
Luật thuong mại quy định cho việc tái xuất đối với hàng hóa nhập khẩu xác định là nhầm lẫn không đúng với hợp
đồng...

+ ủy ban Thuờng vụ Quốc hội ban hành nhiều văn bản, điển hình là Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính
ban hành năm 2002 xác định các hành vi vi phạm hành chính, thời hiệu xử phạt hành chính, nguyên tắc xử phạt
hành chính, các biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm hành chính, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính... và
khung phạt vi phạm hành chính về hải quan đến mức tối đa 70 triệu đồng.

+ Chính phủ ban hành các nghị định quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính trong

các lĩnh vực quản lý nhà nuớc, trong đó có lĩnh vực quản lý nhà nuớc về hải quan, các nghị định quy định về chế
độ áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác. Cụ thể nhu Nghị định số 134/2003/NĐ-

CP ngày 14/11/2003 quy định chi tiết thi hành một số điều của pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002,
Nghị định 138/2004/NĐ-CP quy định về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan...

+ Các bộ, cơ quan ngang bộ ban hành các thông tư hướng dẫn thi hành các nghị định của Chính phủ về
xử phạt hành chính theo từng lĩnh vực quản lý nhà nước chuyên ngành. Nhiều thông tư của các bộ, cơ quan ngang
bộ, thông tư liên tịch giữa các bộ, cơ quan ngang bộ được ban hành để hướng dẫn thi hành các nghị định của
Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước chuyên ngành nhưng có liên
quan trực tiếp đến lĩnh vực quản lý hải quan, như thương mại, thuế, môi trường, văn hóa, ngân hàng... Ví dụ,
Thông tư số 77/ TT của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn thi hành xử phạt vi phạm hành chính đối với
hành vi xuất khẩu, nhập khẩu tiền, ngoại hối trái phép qua biên giới.

Đe quản lý nhà nước phù hợp với tình hình thực tế các văn bản quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm
hành chính thường được sửa đổi, bổ sung. Hơn nữa, các nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính do
nhiều bộ, cơ quan ngang bộ, ban ngành ban hành. Điều này dễ dẫn đến tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo giữa các
quy định về xử lý vi phạm hành chính trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, vấn đề nổi cộm đang được
đặt ra hiện nay là phải làm sao để các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật về vi phạm hành chính
thống nhất, đồng bộ nhằm phục vụ có hiệu quả công tác xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan.

Hai là, vi phạm pháp luật hành chính diễn ra phổ biến hàng ngày, hàng giờ trong đời sống xã hội dưới
nhiều hình thức phong phú, đa dạng. Và việc áp dụng pháp luật về xử phạt vi phạm pháp luật hành chính do nhiều
cơ quan, nhiều người có thẩm quyền thực hiện (ví dụ, bộ đội biên phòng, quản lý thị trường, một số thanh tra
chuyên ngành...). Hơn nữa việc áp dụng pháp luật xử phạt vi phạm hành chính được thực hiện trực tiếp với người
dân, với các tổ chức và cũng trực tiếp động chạm đến các quyền tự do dân chủ của công dân, vì vậy công tác giám
sát, kiểm tra rất khó thực hiện sâu sát và có hiệu quả. Điều này đòi hỏi người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành
chính trong khi thực thi công vụ phải có tinh thần trách nhiệm, tính tự giác và ý thức kỷ luật cao. áp dụng các biện
pháp hành chính phải phù hợp với quy định của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, nghị định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực hải quan và các văn bản pháp luật hiện hành về tổ chức hoạt động, chức năng nhiệm vụ



của hải quan. Người có thẩm quyền phải thực hiện đúng mục đích và yêu cầu của văn bản pháp luật cụ thể quy
định xử phạt vi phạm hành chính.

Ba là, trong khi thực hiện chức năng nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà nước trong từng lĩnh vực, các co
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật và xử lý vi phạm hành chính để đáp ứng
nhu cầu đấu tranh phòng và chống vi phạm hành chính về hải quan. Ngoài Pháp lệnh xử lý vi phạ m hành chính
năm 2002 được ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành theo thẩm quyền, Chính phủ có quyền ban hành văn bản
quy phạm pháp luật quy định hành vi vi phạm, hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với từng hành
vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực về hải quan và lĩnh vực khác có liên quan đến lĩnh vực hải quan. Pháp lệnh
này cũng không cho phép Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân từ cấp tỉnh trở xuống được ban hành văn bản
quy định về hành vi, chế tài xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp xử lý hành chính khác. Điều này đã cho
thấy, việc ban hành quy định xử lý vi phạm hành chính chỉ thuộc về thẩm quyền của co quan Nhà nước ở trung
ưong, các co quan nhà nước ở địa phưong có trách nhiệm thực hiện những quy định, xử lý vi phạm hành chính về
hải quan do các co quan quản lý nhà nước ở Trung ưong quy định.

Bổn là, khi thực hiện xử phạt vi phạm pháp luật hành chính, người có thẩm quyền xử phạt chỉ được thực
hiện quyền xử phạt của mình trong phạm vi mà pháp luật đã quy định.Trong trường hợp quyết định xử phạt hoặc
quyết định áp dụng biện pháp hành chính khác vượt thẩm quyền được pháp luật quy định cho phép là vi phạm
pháp luật và phải bị xử lý. Ví dụ như khoản 1 Điều 34 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính quy định: Đội trưởng
đội nghiệp vụ thuộc Chi cục Hải quan có quyền: a) Phạt cảnh cáo; b) phạt tiền đến 500.000 đồng.

Năm là, kết quả của việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan thể hiện ở các quyế t định
xử phạt hành chính, quyết định áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra. Việc
quyết định áp dụng các hình thức xử phạt, các biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm hành chính thể hiện sự trừng
phạt nghiêm khắc của Nhà nước đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan, qua đó giáo
dục ý thức tuân thủ pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực hải quan.

Biện pháp xử lý hành chính khác trong lĩnh vực hải quan như các biện pháp khắc phục hậu quả do vi

phạm hành chính về hải quan gây ra. về bản chất, biện pháp này không có tính chất trừng phạt người vi phạm
hành chính mà chỉ nhằm mục đích khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính để lại trên thực tế. Biện pháp này
gồm: buộc tiêu huỷ tang vật vi phạm là văn hoá phẩm thựcđộc hại, hàng hóa gây hại cho sức khỏe con người, vật
nuôi và cây trồng; buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc buộc tái xuất hàng hóa, phưong tiện vi phạm; buộc
nộp lại số tiền bằng trị giá tang vật, phưong tiện vi phạm đã bị tiêu thụ, tẩu tán, tiêu hủy trái với quy định pháp
luật.
- Khái niệm pháp luật xử lỷ vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan.
Qua các phân tích ở trên có thể định nghĩa pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan
như sau: pháp luật xử lỷ vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan là một bộ phận của pháp luật xử lỷ vi phạm
hành chỉnh, và là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh do có hành vi vi phạm hành chính về hải quan, bao gồm các quy phạm quy định hình thức xử phạt vi
phạm và một sổ biện pháp xử lý hành chỉnh khác trong lĩnh vực hải quan.
1.1.1.2. Nội dung pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải
quan


- Các quy phạm pháp luật xử lỷ vi phạm hành chính về thủ tục hải quan.

Thủ tục hải quan là các công việc mà người khai hải quan và công chức hải quan phải thực hiện theo qui
định của Luật Hải quan đối với hàng hóa, phương tiện vận tải (khoản 6 Điều 4 Luật Hải quan).

Vi phạm hành chính về thủ tục hải quan là những hành vi vi phạm về các nguyên tắc tiến hành thủ tụ c,
địa điểm làm thủ tục và thời hạn làm thủ tục hải quan, đó là:

+ Là hành vi làm thủ tục hải quan không đúng thời hạn qui định theo qui định của Luật Hải quan; nộp
không đúng thời hạn chứng từ thuộc hồ sơ hải quan thuộc diện được chậm nộp theo qui định của pháp luật.

+ Là hành vi tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập hàng hóa, phương tiện vận tải không đúng thời hạn
ghi trong giấy phép, tờ khai hải quan hoặc giấy tờ khác theo quy định của pháp luật.


+ Là hành vi không nộp chứng từ phải nộp thuộc hồ sơ hải quan được chậm nộp theo qui định của pháp
luật; hành vi kê khai không đúng thời hạn theo quy định của pháp luật khi thay đổi mục đích sử dụng hàng hóa.

Neu người khai hải quan (pháp nhân, công dân tham gia hoạt động hải quan) không thực hiện các quy
định trên thì khi đó cơ quan, cán bộ, công chức hải quan (được Nhà nước trao cho thẩm quyền xử lý) sẽ thực hiện
pháp luật bằng hình thức áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan ra quyết định xử
phạt vi phạm hành chính tùy theo mức độ hành vi có thể phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 50.000 đồng đến
2.000.000 đồng theo quy định tại Điều 8 Nghị định 138/2004/NĐ-CP quy định về việc xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực hải quan.
- Các quy phạm pháp luật xử lỷ vi phạm hành chỉnh về kiểm tra, giảm sát, kiểm soát hải quan.

Kiểm tra hải quan là việc kiểm tra hồ sơ hải quan, các chứng tư liên quan và kiểm tra thực tế hàng hóa,
phương tiện vận tải do cơ quan hải quan thực hiện (khoản 8 Điều 4 Luật Hải quan).
Vi phạm hành chính về kiểm tra hải quan là các hành vi sau:

+ Không đưa hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu đến đúng địa điểm qui định để làm thủ tục hải quan; không
cung cấp thông tin chứng từ tài liệu liên quan đến hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu phương tiện vận tải xuất cảnh,
nhập cảnh khi cơ quan hải quan yêu cầu theo qui định của pháp luật; không chấp hành quyết định kiểm tra sau
thông quan không có lý do xác đáng; không lưu trữ đầy đủ hồ sơ hải quan, sổ sách chứng từ kế toán liên quan đến
hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu đã được thông quan trong thời hạn phải lưu trữ theo qui định của pháp luật; không
xuất trình hàng hóa đang lưu giữ là đối tượng kiểm tra sau thông quan theo yêu cầu của cơ quan hải quan; không
bố trí người, phương tiện phục vụ việc kiểm tra thực tế hàng hóa, phương tiện vận tải khí cơ quan hải quan yêu
cầu mà không có lý do xác đáng; chuyển nhượng sử dụng hàng hóa thuộc đối tượng được hưởng ưu đãi thuế quan
không đúng quy định; tự ý sử dụng hàng hóa được giao quản lý chờ làm thủ tục hải quan.

+ Xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa trái với qui định của nhà nước về viện trợ nhân đạo; hành vi xuất khẩu,


nhập khẩu hàng hóa không khai hoặc không đúng với khai hải quan về số lượng, trọng lượng, chất lượng, mã số
hàng hóa, trị giá, xuất xứ, không đúng nội dung giấy phép.


+ Thay đổi hình thức, cấu tạo, tính chất hàng hóa để hợp thức việc xuất khẩu, nhập khẩu; đánh tráo hàng
hóa đã kiểm tra hải quan với hàng hóa chưa kiểm tra hải quan.

+ Vi phạm quy định chuyển nhượng sử dụng hàng hóa thuộc đối tượng được hưởng ưu đãi thuế quan
không đúng quy định; hành vi xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa không khai hoặc không đúng với khai hải quan về
số lượng, trọng lượng, chất lượng, mã số hàng hóa, trị giá, xuất xứ và các hành vi thay đổi hình thức, cấu tạo, tính
chất hàng hóa để hợp thức việc xuất khẩu, nhập khẩu mà có hành vi trốn thuế thì bị xử phạ t theo quy định của
pháp luật về thuế.

+ Xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa trái với quy định về ưu đãi, miễn trừ hải quan; hàng hóa thuộc diện
cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu; đưa hàng hóa giả mạo xuất xứ vào lãnh thổ Việt Nam; xuất khẩu hàng hóa giả
mạo xuất xứ; đưa hàng hóa, phương tiện vào lãnh thổ Việt Nam khi chưa được phép của cơ quan nhà nước theo
thẩm quyền quy định; xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa không có giấy phép theo quy định.

+ Giả mạo niêm phong hải quan, giấy tờ thuộc hồ sơ hải quan để xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa mà
không phải là tội phạm; không xuất trình được giấy phép khi hàng hóa về tới cửa khẩu đối với hàng hóa nhập
khẩu theo quy định phải có giấy phép trước khi ký hợp đồng; xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa gây ô nhiễm môi
trường, lây lan dịch bệnh, có hại cho sức khỏe con người.

Các chủ thể tham gia hoạt động hải quan không thực hiện các quy định trên về kiểm tra hải quan thì cơ
quan, cán bộ, công chức hải quan (được Nhà nước trao cho thẩm quyền xử lý) sẽ thực hiện pháp luật bằng hình
thức áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan ra quyế t định xử phạt vi phạm hành
chính tùy theo mức độ hành vi có thể phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền và áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả
cho phù hợp theo quy định tại Điều 15 Nghị định 138/2004/NĐ-CP quy định về việc xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực hải quan: xử phạt từ 1.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng. Ngoài việc phạt tiền cá nhân, tổ chức vi
phạm hành chính còn bị phạt bổ xung hặc bị áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả sau: tị ch thu hàng hóa;
tước quyền sử dụng giấy phép; buộc đưa tang vật vi phạm ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc buộc tiêu hủy tang vật,
phương tiện vi phạm.


Giám sát hải quan là biện pháp nghiệp vụ do cơ quan hải quan áp dụng để đảm bảo sự nguyên trạng của
hàng hóa, phương tiện vận tải đang thuộc đối tượng quản lý hải quan (khoản 9 Điều 4 Luật Hải quan). Giám sát
hải quan được thực hiện trực tiếp bởi cán bộ, công chức hải quan hoặc gián tiếp như: niêm phong, kẹp chì hải
quan, dán tem, dùng máy soi, máy ngửi, camera để quan sát, xem xét, theo dõi hoặc dùng súc vật được huấn luyện
để dò tìm...

Pháp luật xử lý vi phạm hành chính về giám sát hải quan quy định các hành vi sau là các hành vi vi phạm
hành chính về giám sát hải quan:

+ Hành vi không bảo quản nguyên vẹn niêm phong hải quan, kho hàng hóa, hàng hóa, phưong tiện vận


tải đang chịu sự kiểm tra, giám sát hải quan không có lý do xác đáng.
+ Hành vi di chuyển phưong tiện vận tải, hàng hóa đang chịu sự giám sát hải quan không đúng qui định.

+ Hành vi tự ý thay đổi bao bì, hình thức kiểu dáng công nghiệp, xuất xứ, nhãn mác, chủng loại, chất
lượng, số lượng, trọng lượng, tiêu thụ hàng hóa đang chịu sự giám sát hải quan.

Các chủ thể tham gia hoạt động hải quan có các hành vi vi phạm như quy định trên về giám sát hải quan
thì co quan, cán bộ, công chức hải quan(được Nhà nước trao cho thẩm quyền xử lý) sẽ thực hiện pháp luật bằng
hình thức áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan ra quyết định xử phạt vi phạm hành
chính tùy theo mức độ hành vi có thể phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 200.000 đồng đến 20.000.000 đồng và áp
dụng các biện pháp khắc phục hậu quả cho phù hợp theo quy định tại Điều 9 Nghị định 138/2004/NĐ-CP quy
định về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan.

Kiểm soát hải quan là các biện pháp tuần tra, điều tra hoặc biện pháp nghiệp vụ khác do co quan hải quan
áp dụng để phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới và các hành vi khác vi phạm
pháp luật hải quan (khoản 10 Điều 4 Luật Hải quan).

Pháp luật xử lý vi phạm hành chính về kiểm sát hải quan quy định cụ thể những hành vi sau đây là hành

vi vi phạm về kiểm soát hải quan:

+ Lên, xuống phưong tiện vận tải chở hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu đang chịu sự kiểm tra hải quan khi
chưa được phép của co quan hải quan; không dừng phưong tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh đúng địa
điểm quy định để làm thủ tục hải quan; điều khiển phưong tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh không
đúng tuyến đường cửa khẩu quy định.

+ Hành vi không thực hiện đúng quy định về quản lý hải quan khi đưa tàu biển vận chuyển hàng hóa xuất
khẩu, nhập khẩu vào Việt Nam không đúng cảng quy định; tự ý cặp mạn tàu thuyền chở hàng hóa xuất khẩu, nhập
khẩu đang làm thủ tục hải quan.

+ Không chấp hành hiệu lệnh của công chức hải quan theo quy định khi di chuyển phưong tiện vận tải
trong địa bàn hoạt động của hải quan; không thực hiện yêu cầu mở noi cất giữ hàng hóa theo quy định để công
chức hải quan kiểm tra; bốc dõ hàng hóa không đúng cảng đích ghi trong vận đon mà không có lý do xác đáng.

+ Đưa vào địa bàn hoạt động hải quan hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu mà hàng hóa đó chưa đủ giấy tờ
hợp lệ theo quy định; chứa chấp, mua bán, vận chuyển trong địa bàn hoạt động hải quan hàng hóa có nguồn gốc
nhập khẩu trái phép mà tang vật vi phạm có trị giá trên, dưới 20.000.000 đồng.

+ Tự ý xếp, dỡ, chuyển tải, sang mạn, sang toa, cắt toa hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh trên
phưong tiện vận tải đang chịu sự kiểm tra, giám sát hải quan.


+ Tẩu tán, tiêu hủy hoặc vứt bỏ hàng hóa để trốn tránh sự kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải quan; hành vi
đánh tráo, tẩu tán tang vật, phưong tiện vi phạm đã bị phát hiện, tạm giữ.

+ Cư dân biên giới (là người có hộ khẩu thường trú hoặc được phép tạm trú dài hạn tại các xã biên giới)
có hành vi mang qua biên giới hàng hóa vượt mức quy định của pháp luật mà không khai hải quan; hàng hóa
thuộc diện Nhà nước không cho phép trao đổi; mang hàng hóa qua biên giới không đúng cửa khẩu quy định; chứa
chấp, mua bán vận chuyển trong địa bàn hoạt động hải quan hàng hóa có nguồn gốc nhập khẩu trái phép.


Các chủ thể tham gia hoạt động hải quan có các hành vi vi phạm như quy định trên về kiểm soát hải quan
thì co quan, cán bộ, công chức hải quan (được Nhà nước trao cho thẩm quyền xử lý) sẽ thực hiện pháp luật bằng
hình thức áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan ra quyết định xử phạt vi phạm hành
chính tùy theo mức độ hành vi có thể phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 200.000 đồng đến 20.000.000 đồng và còn
có thể bị tịch thu tang vật vi phạm hoặc có thể bị buộc nộp lại số tiền bằng trị giá, tang vật vi phạ m theo quy định
tại Điều 14 Nghị định 138/2004/NĐ-CP quy định về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan.
- Các quy phạm pháp luật xử lý vi phạm hành chính về xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh hàng hóa; vi
phạm các quy định về xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh phưong tiện vận tải.

Hàng hóa bao gồm hàng hóa xuất, nhập khẩu, quá cảnh; hành lý, ngoại hối, tiền Việt Nam của nguời xuất
cảnh, nhập cảnh; kim khí quý, đá quý, cổ vật, văn hóa phẩm, bưu phẩm, các tài sản khác xuất khẩu, nhập khẩu,
quá cảnh hoặc lưu giữ trong địa bàn hoạt động của hải quan; vật dụng trên phưong tiện vận tải xuất cảnh, nhập
cảnh, quá cảnh và các tài sản khác.

Pháp luật xử lý vi phạm hành chính về xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh hàng hóa quy định cụ thể những
hành vi sau đây là hành vi vi phạm:

+ Hành vi vi phạm các quy định về xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa theo loại hình quà biếu như hành vi
xuất khẩu, nhập khẩu quà biếu không đúng với khai hải quan, quà biếu thuộc danh mục cấm xuất khẩu, cấm nhập
khẩu hoặc xuất nhập khẩu có điều kiện nhưng không có đủ điều kiện để xuất khẩu, nhập khẩu.

+ Hành vi vi phạm quy định về xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa của người xuất nhập cảnh như vi phạm
quy định về khai hải quan khi xuất khẩu, nhập khẩu hành lý; vi phạm quy định về hải quan khi xuất khẩu, nhập
khẩu hàng hóa ngoài định mức quy định về hành lý.
+ Hành vi vi phạm các quy định về khai hải quan khi xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa là tài sản di chuyển.

+ Hành vi vi phạm các quy định về khai hải quan đối với ngoại hối, vàng của người xuất cảnh, nhập cảnh
tùy theo trị giá tang vật vi phạm. Theo quy định hiện hành mỗi người khi xuất cảnh, nhập cảnh được phép mang
theo 3.000 USD và tưong đưong, 100 gram vàng mà không phải khai báo hải quan.


+ Hành vi vi phạm các quy định về về khai hải quan đối với tiền Việt Nam của người xuất cảnh, nhập
cảnh tùy theo trị giá tang vật vi phạm. Theo quy định hiện hành mỗi hành khách khi xuất cảnh, nhập cảnh được


phép mang theo 10.000.000 Việt Nam đồng không phải khai báo hải quan.

+ Hành vi vi phạm các quy định về xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh phưong tiện vận tải như sau: Phưong
tiện vận tải nhập cảnh phải được làm thủ tục hải quan tại cửa khẩu nhập đầu tiên, phưong tiện vận tải xuất cảnh
phải được làm thủ tục hải quan tại cửa khẩu xuất cuối cùng. Và các phưong tiện vận tải xuất nhập cảnh, quá cảnh
phải đi qua đúng tuyến đường quy định, người điều khiển phưong tiện hoặc chủ phưong tiện vận tải phải khai
báo, làm thủ tục hải quan, cung cấp các thông tin, chứng từ về hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, vật dụng trên
phưong tiện vận tải theo thời hạn quy định.

Các chủ thể tham gia hoạt động hải quan có các hành vi vi phạm như quy định trên thì co quan, cán bộ,
công chức hải quan (được Nhà nước trao cho thẩm quyền xử lý) sẽ thực hiện pháp luật bằng hình thức áp dụng
pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính tùy theo
mức độ hành vi có thể phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 50.000 đồng đến 20.000.000 đồng bị theo quy định tại Điều
10, 11, 12, 13 Nghị định 138/2004/NĐ-CP quy định về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan.
1.1.1.3. Vai trò của pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải
quan

Với tư cách là một yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật có vai trò quan trọng trong việc đảm
bảo sự ổn định và phát triển xã hội. Điều này được thể hiện cụ thể đối với pháp luật xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực hải quan đó là:

+ Đảm bảo giữ vững kỷ cưong pháp chế trong quản lý nhà nước về lĩnh vực hải quan. Pháp luật xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan là tổng thể các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành nhằm điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực quản lý hành chính về hải quan bao gồm các hình thức xử phạt
vi phạm và một số biện pháp xử lý hành chính khác trong lĩnh vực hải quan. Như vậy, Nhà nước sử dụng pháp

luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan như một phương tiện để thực hiện quyền lực của mình
trong quản lý, kiểm tra, kiểm soát các hoạt động của các đối tượng tham gia hoạt động hải quan. Nhờ có sự quy
định chặt chẽ của pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan mà các đối tượng tham gia hoạt
động hải quan thực hiện một cách nghiêm túc đảm bảo thực hiện đường lối, chủ trương của đảng, pháp luật của
nhà nước; đảm bảo thực hiện tốt cải cách hành chính nhà nước, giảm phiền hà, tiêu cực trong hoạt động hải quan
đảm bảo an ninh quốc gia, an ninh kinh tế, trật tự an toàn xã hội đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.

+ Thúc đẩy phát triển kinh tế theo đúng chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng, hội nhập kinh tế
đồng nghĩa với việc mở cửa nền kinh tế, gắn kết nền kinh tế Việt Nam với nền kinh tế thế giới thành một thể
thống nhất. Hội nhập kinh tế đòi hỏi phải mở cửa thị trường cho hàng hóa, dịch vụ của nước ngoài vào Việt Nam,
đồng thời đưa hàng hóa dịch vụ của Việt Nam đến với thị trường các nước. Pháp luật quản lý nhà nước về hải
quan phải gắn liền với pháp luật xuất nhập khẩu hàng hóa, thuế hàng hóa xuất nhập khẩu, quá cả nh hàng hóa,
phương tiện và đi đôi với nó là các quy định bắt buộc phải thực hiện, các quy định cấm, các thủ tục phải tuân
theo. Điều này đồng nghĩa với việc nếu vi phạm các quy định này đều bị xử phạt hành chính. Hội nhập kinh tế đòi
hỏi phải giảm thiểu hàng rào phi thuế quan, tăng cường tạo thuận lợi cho thương mại, du lịch và đầu tư quốc tế,
đòi hỏi pháp luật phải thông thoáng, công khai, minh bạch, chính xác... Như thế pháp luật đó dễ áp dụng dễ thực
hiện và giảm các vi phạm hành chính xảy ra góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế.


+ Pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan còn góp phần giáo dục ý thức pháp luật cho
cán bộ công chức cũng như các đối tượng tham gia hoạt động hải quan bởi với các quy định chặt chẽ các chủ thể
buộc phải tự giác chấp hành nếu không sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật. Đồng thời, pháp luật xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan cũng là các biện pháp ngăn chặn hữu hiệu các hành vi vi phạm pháp luật
hải quan; góp phần hoàn thiện pháp luật, bộ máy cán bộ công chức hải quan.
1.1.2 Thực hiện pháp luật xử lý vỉ phạm hành chính trong lĩnh vực hải

quan

1.1.2.1. Khái niệm thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chỉnh trong lĩnh vực hải quan


Đe hiểu được thế nào là thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan trước hết
cần phải tìm hiểu một số khái niệm liên quan.
- Khái niệm thực hiện pháp luật.

Pháp luật là một công cụ quản lý xã hội sắc bén, song pháp luật chỉ có thể phát huy được vai trò và những
giá trị của mình trong việc duy trì trật tự và tạo điều kiện cho xã hội phát triển khi nó được tôn trọng và thực hiện
trong cuộc sống. Vì vậy, thực hiện pháp luật là hoạt động không thể thiếu kể từ khi pháp luật xuất hiện.

Xây dựng những quy phạm pháp luật nhà nước nhằm mục đích điều chỉnh các quan hệ xã hội đáp ứng lợi
ích của nhân dân và tiến bộ xã hội. Mục đích đó chỉ có thể đạt được khi pháp luật được các chủ thể nghiêm chỉnh
thực hiện trong đời sống xã hội. Pháp luật với tầm quan trọng của nó không chỉ dừng lại bằng các đạo luật, vì đó
chỉ là pháp luật ở trạng thái "tĩnh", vấn đề quan trọng là "pháp luật phải trở thành chế độ pháp chế, được thực hiện
thông qua hoạt động của các co quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân; trở thành phưong thức quản lý xã hội,
cho tổ chức đời sống xã hội".

Thực hiện pháp luật là một hiện tượng xã hội mang tính pháp lý. Quá trình hoạt động thực hiện pháp luật
được diễn ra đồng thời và tiếp nối với quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật của nhà nước. Thực hiện pháp
luật là trách nhiệm, nghĩa vụ của mọi tổ chức (kể cả các co quan nhà nước) và mọi công dân Việt Nam và các tổ
chức, công dân nước ngoài làm việc, sinh sống trên đất Việt Nam. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và có
trách nhiệm thực hiện pháp luật đúng với nguyên tắc do Hiến pháp quy định (Điều 12 Hiến pháp năm 1992):
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công
dân phải nghiêm chỉnh chấp hành hiến pháp và pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội
phạm, các vi phạm hiến pháp và pháp luật.


Mọi hành động xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và công
dân đều bị xử lý theo pháp luật [19].


Thực hiện pháp luật là hành vi xử sự của con người được tiến hành phù hợp với yêu cầu của các quy
phạm pháp luật. Hành vi xử sự của con người trong hoạt động thực hiện pháp luật vừa mang tính chất xã hội,vừa
mang tính pháp lý. Vì vậy, thực hiện pháp luật bao hàm các hành vi (hành động hay không hành động) của các cá
nhân, các tổ chức phù hợp với các quy định của pháp luật.

Như vậy, ta có thể hiểu, thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định
của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống, tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt động thực tế của các chủ thể pháp
luật.
Căn cứ vào tính chất của hoạt động thực hiện pháp luật khoa học pháp lý phân chia thực hiện pháp luật
thành bốn hình thức sau:

Tuân thủ pháp luật: Đây là một dạng thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật tự kiềm chế
mình để không tiến hành những hoạt động mà pháp luật cấm. Việc các chủ thể pháp luật tự kiềm chế là những xử
sự thụ động, tự ghép mình vào tập thể, vào xã hội, đặt lợi ích quốc gia, lợi ích cộng đồng, tập thể lên trên lợi ích
cá nhân lợi ích bộ phận cục bộ. Pháp luật quy định mọi tổ chức và công dân không được thực hiện những hành vi
nguy hiểm cho xã hội, không được xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Đó là những điều
pháp luật cấm. Đồng thời, vì lợi ích chung, tùy theo tình hình, hoàn cảnh cụ thể mà pháp luật bắt buộc tổ chức,
công dân phải làm một việc nào đó.
Chấp hành pháp luật: Là một hình thức thực hiện pháp luật mà trong đó các chủ thể thực hiện các nghĩa

vụ pháp lý của mình với các hành động tích cực. Khác với việc thực hiện các nghĩa vụ pháp lý mang tính đương
nhiên của công dân, của cán bộ, của công chức nhà nước; là bổn phận và trách nhiệm mà các chủ thể phải thực

hiện theo quy định của pháp luật nhưng khuyến khích hoạt động có hiệu quả cao. Hoạt động chấp hành pháp luật

là cơ sở pháp lý để đánh giá công trạng, thành tích và danh dự, phẩm giá tốt đẹp của công dân và tổ chức cũng
như của cán bộ, công chức nhà nước.

Sử dụng pháp luật: Là hình thức thực hiện pháp luật mà trong đó, các chủ thể pháp luật sử dụng các
quyền năng pháp lý để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình. Song nếu các chủ thể không sử dụng

quyền của mình thì pháp luật cũng không bắt buộc. Nói một cách khác, các quyền chủ thể được pháp luật cho
phép thực hiện theo ý chí của chủ thể. Trong một chế độ pháp luật dân chủ, chủ thể pháp luật có nhiều quyền năng
pháp lý như: quyền khiếu nại, quyền tố cáo, quyền đình công, quyền bãi khóa, biểu tình, thị uy... các chủ thể pháp
luật được định các quyền này để bảo vệ các lợi ích nhà nước, lợi ích tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân. Khi công dân thực hiện các quyền này, phải thực hiện theo qui định của pháp luật.


áp dụng pháp luật: Đây là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà nước thông qua các cơ quan
nhà nước hoặc cán bộ công chức có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể thực hiện những qui định của pháp luật
hoặc tự mình căn cứ vào các qui định của pháp luật ra các quyết định làm phát sinh, chấm dứt hay thay đổi những
quan hệ pháp luật cụ thể.
- Khái niệm thực hiện pháp luật xử lỷ vi phạm hành chỉnh.

Thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính là thực hiện pháp luật về một lĩnh vực cụ thể trong xã hội
có hành vi vi phạm hành chính. Nói cách khác, thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính là quá trình hoạ t
động có mục đích của các cơ quan quản lý nhà nước làm cho những quy phạm pháp luật xử lý vi phạm hành
chính đi vào đời sống, tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật xử lý vi phạm hành
chính nhằm ngăn chặn tình trạng vi phạm pháp luật hành chính.
Khái niệm thực hiện pháp luật xử lỷ vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan.
Pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan chỉ có thể phát huy được vai trò của mình
trong việc duy trì trật tự quản lý nhà nước về hải quan và tạo điều kiện cho xã hội phát triển khi nó được tôn trọng
và thực hiện trong cuộc sống. Vì vậy, thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan là
hoạt động không thế thiếu, và được hiếu là: quả trình hoạt động có mục đích làm cho những quy phạm pháp luật
xử lỷ vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan trở thành hiện thực trong cuộc sống, tạo ra hành lang pháp lỷ
cho hoạt động thực tể của các chủ thể tham gia hoạt động hải quan nhằm ngăn chặn tình trạng vi phạm pháp luật
hành chính trong lĩnh vực hải quan đảm bảo ổn định an ninh kinh tể, chỉnh trị và xã hội cho đất nước.
1.1.2.2. Đặc điếm cửa thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan

Thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan có những đặc điểm chung của
thực hiện pháp luật nói chung, bên cạnh đó lại có những đặc điểm riêng do đặc thù của hoạt động của hải quan và

pháp luật hải quan.
Đặc điểm chung:

Thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan có những đặc điểm của thực hiện
pháp luật, xử lý vi phạm hành chính nói chung.

Thực hiện pháp luật là hoạt động không thể thiếu ngay từ khi pháp luật xuất hiện và có một số đặc điểm
chung sau:

+ Thực hiện pháp luật là một trong những hình thức để thực hiện các chức năng nhiệm vụ của nhà nước.
Tất cả các nhà nước để có thể tổ chức và quản lý được xã hội đều bắt buộc phải tiến hành xây dựng (ban hành)
pháp luật. Khi ban hành pháp luật nhà nước mong muốn sử dụng chúng để điều chỉnh các quan hệ xã hội phục vụ
lợi ích và mục đích của nhà nước và xã hội. Điều đó chỉ có thể đạt được khi pháp luật được các tổ chức và cá
nhân trong xã hội thực hiện một cách chính xác, đầy đủ. Do vậy, đối với các nhà nước vấn đề quan trọng không
chỉ là ban hành thật nhiều các văn bản quy phạm pháp luật mà còn phải tổ chức thật tốt để chúng được thực hiện
trong thực tế, làm cho các yêu cầu, quy định của pháp luật trở thành hiện thực.


+ Thực hiện pháp pháp luật là hành vi hợp pháp của các chủ thể pháp luật. Pháp luậ t được đặt ra là để
điều chỉnh hành vi của con người, nên việc thực hiện pháp luật phải thể hiện ở hành vi pháp luật của con người.
Hành vi đó có thể là hành động hoặc không hành động phù hợp với những quy định của pháp luật. Nói khác đi, tất
cả những hoạt động nào của các cá nhân, các tổ chức mà phù hợp với các quy định của pháp luật thì đều được coi
là biểu hiện của việc thực hiện các quy phạm pháp luật. Hành vi thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp nên nó
không trái pháp luật, không vượt quá phạm vi các quy định của pháp luật, luôn phù hợp với các quy định của
pháp luật.

+ Thực hiện pháp luật là giai đoạn không thể thiếu và vô cùng quan trọng của co chế điều chỉnh pháp
luật. Thực hiện pháp luật, một mặt, nhằm đạt được những mục đích xã hội mà vì chúng nhà nước đã phải ban
hành pháp luật, mặt khác, còn cho phép làm rõ những hạn chế, bất cập của hệ thống pháp luật thực định để từ đó
có thể đưa ra những giải pháp hữu hiệu cho việc sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành và co

chế đưa pháp luật vào cuộc sống. Thực hiện pháp luật nghiêm minh sẽ tạo ra trật tự cần thiết để các quan hệ xã
hội tồn tại và phát triển theo những định hướng mong muốn có lợi cho xã hội, cho nhà nước cũng như cho các cá
nhân.

+ Thực hiện pháp luật do nhiều chủ thể khác nhau tiến hành với nhiều cách thức khác nhau. Pháp luật
mang tính bắt buộc chung đòi hỏi mọi tổ chức và cá nhân trong xã hội đều phải nghiêm chỉnh thực hiện. Vì vậy,
thực hiện pháp luật có thể là hành vi của mỗi cá nhân nhưng cũng có thể là hoạt động của các co quan nhà nước,
các tổ chức xã hội... Pháp luật lại gồm rất nhiều các loại quy phạm pháp luật khác nhau, do vậ y đối với mỗi loại
quy phạm pháp luật thì những cách thức thực hiện chúng cũng khác nhau: có thể đó là xử sự chủ động nhằm đạt
được một lợi ích hay cái gì đó như sử dụng quyền hoặc làm nghĩa vụ pháp lý, có thể là xử sự thụ động, kiềm chế
không làm những điều mà pháp luật cấm như không trộm cắp tài sản của người khác...

+ Việc thực hiện pháp luật có thể phụ thuộc ý chí của mỗi chủ thể trong trường hợp các quy phạm tùy
nghi, nhưng chủ yếu là phụ thuộc ý chí của nhà nước. Hành vi thực hiện pháp luật có thể được chủ thể tiến hành
trên cơ sở nhận thức sâu sắc về sự cần thiết và tự giác thực hiện. Cũng có thể hành vi thực hiện pháp luật được
chủ thể tiến hành do ảnh hưởng của những người khác, do bị áp dụng những biện pháp cưỡng chế nhà nước hoặc
do sợ bị áp dụng những biện pháp đó. Một số quy phạm pháp luật mà việc thực hiện có thể được tiến hành thông
qua những quy định giản đơn như chủ thể pháp luật nhận thức, xác định những yêu cầu, đòi hỏi của pháp luật rồi
lựa chọn phương án thực hiện, chỉ đạo hành vi thực tế của mình để thực hiện các quyền, nghĩa vụ pháp lý mà
pháp luật quy định. Song cũng có nhiều quy phạm pháp luật để thực hiện được còn đòi hỏi phải thông qua những
quy trình hết sức phức tạp với sự tham gia của nhiều tổ chức, cá nhân khác nhau theo những trình tự, thủ tục chặt
chẽ mà pháp luật quy định (thông qua cơ chế thực hiện, áp dụng pháp luật). Chẳng hạn, có những quy phạm pháp
luật để thực hiện được còn đòi hỏi đòi hỏi phải có sự tham gia của các văn bản quy định chi tiết, văn bản hướng
dẫn thi hành hoặc văn bản giải thích chính thức; sự tham gia của các cơ quan nhà nước hay nhà chức trách có
thẩm quyền với vai trò là người tổ chức, hướng dẫn thực hiện qua nhiều công đoạn khác nhau.

Trên cơ sở những đặc điểm chung trên, có thể rút ra những đặc điểm riêng trong thực hiện pháp luật xử lý
vi phạm hành chính sau:
+ Đặc điểm thứ nhất, thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính chủ yếu là sử dụng hình thức áp dụng
pháp luật xử lý vi phạm hành chính bởi xuất phát từ đặc thù của pháp luật xử lý vi phạm hành chính.



áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính mang tính quyền lực của nhà nước, chỉ thuộc về các cơ quan
hoặc cán bộ nhà nước được nhà nước trao thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính, và được ghi rõ trong các văn
bản pháp luật. Việc áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính có tác dụng điều chỉnh hành vi xử sự của cá nhân,
tổ chức vi phạm tức là buộc họ phải gánh chịu những hậu quả bất lợi trước nhà nước về những
hành vi mà mình gây ra, qua đó bảo vệ và duy trì trật tự quản lý nhà nước trong lĩnh vực hành chính.

áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính là hoạt động phải tuân theo những quy định chặt chẽ của
pháp luật về cả hình thức và thủ tục để tránh những sự tùy tiện có thể dẫn đến việc áp dụng pháp luật không đúng
cụ thể là: chỉ có những hành vi nào xâm phạm quy tắc quản lý nhà nước mà chưa đến mức phải truy cứu trách
nhiệm hình sự do các cá nhân, tổ chức đủ năng lực chủ thể thực hiện với lỗi cố ý hay vô ý mới bị áp dụng pháp
luật xử lý vi phạm hành chính.

Như vậy, áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính là hình thức thực hiện pháp luật mà nhà nước
thông qua các co quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể thực hiện những quy
định của pháp luật xử lý vi phạm hành chính, hoặc tự mình căn cứ vào các quy định của pháp luật xử lý vi phạm
hành chính để tạo ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật hành
chính.
+ Đặc điểm thứ hai, chủ thể thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính, gồm:

Một là, các chủ thể được nhà nước trao cho thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính và được ghi rõ trong
các văn bản quy phạm pháp luật. Việc xử lý vi phạm hành chính được giao cho nhiều co quan, cán bộ có thẩm
quyền khác nhau thực hiện. Theo quy định của pháp luật, thẩm quyến xử lý vi phạm hành chính thuộc về các co
quan sau:

ủy ban nhân dân các cấp; co quan công an nhân dân; bộ đội biên phòng; co quan cảnh sát biển; co quan
hải quan; co quan kiểm lâm; co quan thuế; co quan quản lý thị trường; co quan thanh tra chuyên ngành; giám đốc
cảng vụ hàng hải, giám đốc cảng vụ thủy nội địa, giám đốc cảng vụ hàng không; tòa án nhân dân và co quan thi
hành án dân sự.

Đồng thời, pháp luật còn quy định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính cụ thể của mỗi cán bộ có
thẩm quyền xử phạt trong các co quan này tại Điều 28, Điều 29,
Điều 30, Điều 31, Điều 32, Điều 33, Điều 34, Điều 35, Điều 36, Điều 37, Điều 38, Điều 39, Điều 40.

Hai là, các chủ thể áp dụng pháp luật hành chính có thể là tổ chức hoặc cá nhân có năng lực chịu trách
nhiệm hành chính theo quy định của pháp luật hành chính. Ngoài ra, các chủ thể áp dụng pháp luật hành chính
còn là các cá nhân tổ chức nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam. Các chủ thể được thực hiện các
hành vi mà pháp luật xử lý vi phạm hành chính không quy định hành vi đó là hành vi vi phạm. Các chủ thể có thể
thực hiện hoặc không thực hiện các quyền tự do đó tùy theo ý chí của mình, chứ không bắt buộc phải thực hiện.
Các chủ thể có quyền khiếu nại, tố cáo để bảo vệ các lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của mình.


+ Đặc điểm thứ ba, kết quả của áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính là các co quan nhà nước có
thẩm quyền ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm hành chính, trong đó ghi nhận
các hình thức, các biện pháp xử phạt áp dụng đối với tổ chức cá nhân vi phạm hành chính. Việc quyết định các
biện pháp xử phạt đó thể hiện sự trừng phạt nghiêm khắc của nhà nước đối với các tổ chức cá nhân vi phạm hành
chính, qua đó giáo dục cho mọi người ý thức tuân thủ pháp luật hành chính nói riêng và pháp luật nói chung.
Do đặc thù của hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan và pháp luật xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực hải quan mà việc thực hiện lại có những đặc điểm riêng, đó là:
Một là, về hình thức thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan, co quan quản
lý nhà nước có thẩm quyền chủ yếu sử dụng hình thức áp dụng pháp luật.

Thực hiện pháp luật xử lý vi phạm phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan chủ yếu là hình thức áp
dụng pháp luật vì Nhà nước thông qua các co quan, cán bộ, công chức hải quan, co quan nhà nước khác có thẩm
quyền tổ chức cho các chủ thể tham gia hoạt động hải quan thực hiện có hiệu quả những quy định của pháp luật
xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan. Khi có các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan
xảy ra thì các chủ thể có thẩm quyền được nhà nước quy định ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi chấm dứt
các quan hệ pháp luật, hay nói một cách cụ thể là các chủ thể được nhà nước trao cho thẩm quyền xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực hải quan tiến hành xử lý các hành vi vi phạm pháp luật hải quan đó theo đúng quy định
của pháp luật mà không phụ thuộc vào ý chí của các chủ thể bị áp dụng. Đây là hoạt động mang tính quyền lực

nhà nước. Do đó, áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan các chủ thể có thẩm quyền
xử lý cần truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với những chủ thể vi phạm được đảm bảo bằng biện pháp cưỡng chế
khi cần thiết.
Việc áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan cần phải dựa trên co sở hệ
thống các văn bản quy phạm pháp luật (như đã trình bày ở phần

1.1.1.2. ) Các chủ thể được nhà nước trao cho thẩm quyền áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực hải quan phải áp dụng đúng các quy định của pháp luật, xử lý đúng người, đúng vi phạm, đúng
trình tự thủ tục và được áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành khi cần thiết cụ thể:

Do tính đặc thù trong lĩnh vực hải quan nên pháp luật xử lý vi phạm pháp luật hành chính trong lĩnh vực
hải quan hiện hành có quy định một số trường hợp cụ thể không xử phạt vi phạm hành chính hay được áp dụng
riêng một số nguyên tắc xử phạt. Ví dụ, trường hợp hành vi vi phạm nhập khẩu hàng hóa không đúng với khai báo
hải quan về số lượng, trọng lượng mà trị giá tang vật không vượt quá mức quy định cụ thể của Nghị định
138/2004/NĐ-CP thì không bị xử phạt... Ngoài ra, đối với những hành vi vi phạm hành chính về xuất nhập khẩu
ngoại tệ theo hành khách xuất nhập cảnh, hành vi vi phạm của đối tượng là cư dân biên giới thì được áp dụng
nguyên tắc phạt theo trị giá của tang vật vi phạm.

Trong lĩnh vực hải quan, do vi phạm hành chính được xác lập ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác
nhau, có thẩm quyền xử phạt của co quan hải quan. Do vậy, nguyên tắc áp dụng văn bản pháp luật về xử phạt


được áp dụng thường xuyên trong xử phạt, mặc dù nguyên tắc này không được quy định trong pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính. Cụ thể:

Trong trường hợp nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan và văn bản quy phạm
pháp luật khác có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hon.

Trong trường hợp nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan và các văn bản quy


phạm pháp luật khác có quy định khác nhau về cùng một vấn đề, do cùng một co quan ban hành thì áp dụng văn
bản được ban hành sau cùng.

Trong trường hợp nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan và văn bản quy phạm

pháp luật mới liên quan khác không quy định trách nhiệm pháp lý hoặc quy định trách nhiệm pháp lý nhẹ hon đối
với hành vi xảy ra trước ngày văn bản có hiệu lực thì áp dụng văn bản mới.

Hai là, áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan phải tuân theo trình tự, thủ
tục chặt chẽ do pháp luật quy định để tránh những sự tùy tiện có thể dẫn đến việc áp dụng pháp luật không đúng,
không chính xác. Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan được quy định cụ thể tại Chuông V,
Nghị định 138/2004/NĐ-CP quy định về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan như:

Xử phạt theo thủ tục đon giản: là thủ tục được áp dụng đối với các hành vi vi phạm nêu tại khoản 1 Điều
8, điểm a khoản 1 Điều 10, khoản 1 Điều 11, khoản 1 Điều 12, Điều 13, khoản 1 Điều 14 Nghị định
138/2004/NĐ-CP , nhằm đình chỉ ngay hành vi vi phạm hành chính, chế tài xử phạt có thể là quyết định xử phạt
tại chỗ mà không cần lập biên bản vi phạm, nhưng phải được vào "sổ theo dõi hồ so hành vi vi phạm hành chính
về hải quan" và đưa vào lưu trữ theo quy định, nếu hành vi vi phạm hành chính mà pháp luật quy định mức phạt
tiền trên 100.000 đồng nhà chức trách thì phải tiến hành lập biên bản vi phạm hành chính theo pháp luật quy định
gồm các bước:
Đình chỉ ngay hành vi vi phạm và tiến hành lập biên bản theo đúng mẫu ấn chỉ biên bản vi phạm hành
chính về hải quan, ghi nhận trung thực và đầy đủ, chính xác, khách quan hành vi vi phạm của tổ chức, cá nhân.
Đối với những vi phạm nghiêm trọng hoặc có tình tiết phức tạp cần làm rõ thì nhất thiết phải lấy ngay lời
khai của người vi phạm hoặc đại diện tổ chức vi phạm; nếu có người chứng kiến, người bị thiệt hại hoặc đại diện
tổ chức bị thiệt hại thì phải ghi rõ họ tên, địa chỉ, lời khai của họ.

Khi xét thấy cần áp dụng các biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính, công chức hải quan đang thi hành
công vụ phải báo cáo những người có thẩm quyền để ra quyết định. Tang vật, phưong tiện vi phạm bị tạm giữ
phải làm thủ tục nhập kho và thực hiện quản lý theo quy định hiện hành về chế độ kiểm toán, thống kê. Khi áp
dụng biện pháp tạm giữ đối với tang vật là tiền Việt Nam, ngoại tệ, vàng, bạc, đá quý, kim khí quý, các chất ma

túy và những vật thuộc chế độ quản lý đặc biệt khác thì việc bảo quan được thực hiện quy định của pháp luật. Đối


×