Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Ảnh hưởng nhân sinh quan phật giáo trong đời sống tinh thần của con người việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.7 KB, 22 trang )

MỞ ĐẦU
Thời kỳ đổi mới đất nước hiện nay mặc cùng tồn tại rất nhiều tôn giáo ở
Việt Nam như Phật giáo, Thiên chúa giáo, Đạo Cao Đài, Hoà Hảo, Cơ đốc giáo, ...
Mỗi một tôn giáo đều có một vị trí, vai trò và những ảnh hưởng nhất định trong đời
sống văn hóa - xã hội. Trong đó, Phật giáo vẫn giữ một vai trò hết sức quan trọng
trong đời sống xã hội và tinh thần người Việt Nam.
Nhìn vào đời sống xã hội và tinh thần người Việt Nam trong thời gian qua,
ta thấy qua nhiều biểu hiện Phật giáo đang được phục hồi và phát triển, ở nhiều
vùng đất nước số người theo Phật giáo ngày càng đông, số gia đình Phật tử xuất
hiện ngày càng nhiều, lễ hội Phật giáo và sinh hoạt Phật giáo ngày một có vị trí cao
trong đời sống tinh thần xã hội. Hiện nay, trong công cuộc xây dựng đất nước quá
độ lên CNXH, chủ nghĩa Mác - Lênin là tư tưởng chủ đạo, là vũ khí lý luận của
chúng ta nhưng bên cạnh đó, bộ phận kiến trúc thượng tầng của xã hội cũ vẫn có
sức sống dai dẳng, trong đó giáo lý nhà Phật đã ít nhiều in sâu vào tư tưởng tình
cảm của một số bộ phận lớn dân cư Việt Nam. Việc xoá bỏ hoàn toàn ảnh hưởng
của nó là không thể thực hiện được nên chúng ta cần vận dụng nó một cách hợp lý
để góp phần đạt được mục đích của thời kỳ quá độ cũng như sau này. Vì vậy, việc
đi sâu nghiên cứu, đánh giá những mặt hạn chế cũng như tiến bộ, nhân đạo của
Phật giáo, những nhân tố nào cần phát huy trong điều kiện mới và bằng cách nào
để có thể phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực
của nhân sinh quan Phật giáo trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam là
vấn đề cấp thiết đang đặt ra và cần làm sáng tỏ.
Vì khuôn khổ của một tiểu luận là có hạn, nên tác giả chỉ tập trung nghiên
cứu khía cạnh “ảnh hưởng nhân sinh quan phật giáo trong đời sổng tỉnh thần của
con người Việt Nam hiện nay” làm đề tài tiếu luận của mình.
Chương 1. Khái quát về Phật giáo và nội dung nhân sinh quan Phật
giáo
1.1.

Sơ lược lịch sử hình thành Phật giáo


Đạo Phật hình thành ở Ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ VI (TCN), người sang
lập là thái tử Sidharta, người đời sau gọi là đức Phật. Phật đà (Buddha) không phải
1


là tên riêng. Đó là một quả vị, có nghĩa là người Giác ngộ (Giác giả), người Tỉnh
thức, hoặc là người Biết như thật. Tên riêng của Đức Phật là Sĩ-đạt-đa cồ-đàm
(Siddhattha Gotama). Tuy nhiên, ngày nay có rất ít người dùng tên gọi nay. Chúng
ta thường gọi Ngài là Đức Phật, hoặc Đức Phật cồ- đàm.
Đức Phật sống vào khoảng 25 thế kỷ trước tại vùng Bắc Ân độ. Ngài sinh ra
là một vị hoàng tử của vương quốc Thích-ca (Sakya) tại vùng chân núi Hy mã lạp
sơn, ngày nay thuộc nước Nepal. Ngài sống trong nhung lụa, có một thời niên thiếu
cao sang, kết hôn với công chúa Da-du-đà-la (Yasodhara), và có một người con trai
tên là La-hầu-la (Rahula).
Nhưng, bản thân Thích Ca không muốn kế vị lãnh đạo quốc gia, ngược lại,
ngài rời bỏ hoàng cung theo các nhà tư tưởng học tập, cuối cùng Thích Ca tự mình
sáng lập học thuyết, truyền bá khắp nơi, phát triển thành một tôn giáo.
Một lần nọ, khi Ngài đánh xe ngựa dạo chơi trên đường phố, Ngài thấy
được bốn cảnh vật làm thay đổi các tư duy của Ngài. Ngài thấy một cụ già run rẩy,
một người bệnh rên siết, và một tử thi sình thối. Ba cảnh nầy khiến Ngài suy nghĩ
rất nhiều và quyết tâm tìm một phương cách để giúp nhân loại và để tìm một ý
nghĩa chân thật của đời sống. Cảnh vật thứ tư là cảnh của một vị du tăng bình an
tĩnh lặng đã khiến cho Ngài có một niềm hy vọng là đó có thể là một con đường để
tìm ra Chân Lý, thoát khỏi hoạn khổ.
Vào lúc 29 tuổi, thái tử Sĩ-đạt-đa rời hoàng cung, rời gia đình vợ con, gia
nhập đời sống của một đạo sĩ khất thực trong 6 năm, đi tìm con đường diệt khổ.
Vào đêm trăng rằm tháng Tu, khi ngồi thiền duới cội cây Bồ đề ở Gaya, Ngài tìm
đuợc lời giải đáp và giác ngộ. Lúc đó, Ngài đuợc 35 tuổi. Đấng Giác Ngộ giờ đây
đuợc gọi là Đức Phật. Ngài đi đến Sa-nặc (Samath) gần thành phố Ba-na-lại
(Benares) và thuyết giảng bài pháp đầu tiên - Chuyển Pháp Luân - tại khu vuờn nai

(Lộc Uyển). Trong 45 năm tiếp theo, Ngài du hành từ nơi nay sang nơi khác, giảng
dạy về con đuờng giác ngộ cho những ai hữu duyên và sẵn sàng tu học, và Ngài

2


thành lập một giáo đoàn các vị tỳ kheo (nam tu sĩ) và tỳ kheo ni (nữ tu sĩ) thuờng
đuợc gọi là Tăng đoàn (Sangha).
Trong suốt cuộc đời hoằng hóa, dù phải đối phó với nhiều trở ngại, Đức
Phật lúc nào cũng giữ một phong thái an nhiên tự tại, và ngay cả trong giờ phút lâm
chung, Ngài vẫn bình thản cho dù thân xác đã suy yếu. Ngay trong giờ phút cuối
cùng đó, Ngài vẫn tiếp tục giảng dạy và khuyên bảo các đệ tử để họ tiếp tục tu tập
theo giáo pháp của Ngài: — "Nầy các tỳ kheo, Nhu Lai khuyên quý vị rằng mọi
pháp hữu vi đều vô thuờng, quý vị hãy tinh tấn với chánh niệm". Đó là những lời
cuối cùng của đức Phật, và Ngài nhập diệt vào năm 80 tuổi, trong năm 543 trước
Công Nguyên.
Sự ra đời của Phật giáo cách đây hơn 2.500 năm là một cuộc cách mạng
trong xã hội Ân Độ cổ đại bởi vì đạo Phật đã xóa bỏ những thể chế giai cấp truyền
thống, những tín ngưỡng lỗi thời và những quan điểm triết học thịnh hành để hình
thành nên một tín ngưỡng có thể được gọi là tinh thần khoa học và lý trí. Ke từ đó
trở đi Phật giáo đã lan truyền khắp các nước Á Châu giống như một cơn lũ và có
ảnh hưởng rất nhiều đến truyền thống, văn hóa, phong tục của người dân bản địa.
Người ta thường gọi tôn giáo này là một tôn giáo, một nền triết học, một tín
ngưỡng và một cách sống uốn nắn một nền văn hóa mới và văn minh tân tiến. Một
tinh thần tân sáng tạo trong

3


nghệ thuật, kiến trúc, điêu khắc hội họa và văn học, trong thực tế toàn bộ cung bậc

của những nổ lực của con nguời trong mỗi quốc gia Á Châu là kết quả quyết định
nhất từ sự ảnh huởng của Phật giáo.
1.2.

Nhân sinh quan Phật giáo

1.1.1. Vị trí nhân sinh quan Phật giáo trong tư tưởng triết học Phật
giáo
Ph.Ảngghen đã nói: "Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hu
ảo vào trong đầu óc của con nguời của những lực luợng ở bên ngoài chi phối cuộc
sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực luợng ở trần thế đã
mang hình thức những lực luợng siêu trần thế".
Điều đó có nghĩa là, tôn giáo do con nguời sáng tạo ra, tôn giáo không sáng
tạo ra con nguời song lại có ảnh huởng lớn tới đời sống của con nguời trên nhiều
lĩnh vực khác nhau.
Sự ra đời của Phật giáo - một trong muời tôn giáo lớn trên thế giới - Phật
giáo đang chiếm vị trí sâu rộng trong đời sống tinh thần của con nguời, trong đó có
Việt Nam.
1.1.2. Nội dung nhân sinh quan Phật giáo
Triết học Phật giáo đã đặt ra và giải quyết nhiều vấn đề của tu duy triết học.
Đó là những vấn đề thuộc bản thể luận, nhận thức luận và nhân sinh quan triết học.
Nhân sinh quan Phật giáo là một hệ thống gồm các quan điểm về con nguời, đời
sống của con nguời.
*về con người
Phật giáo tập trung ở học thuyết cấu tạo con nguời, học thuyết về sự xuất
hiện và tái sinh.
Theo Phật con nguời đuợc cấu tạo từ những yếu tố thể hiện trong thuyết
Danh sắc và thuyết Lục đại.
Thuyết Danh sắc: Con nguời đuợc cấu tạo từ hai yếu tố vật chất và tinh
thần.

Thuyết Lục đại: Con nguời đuợc cấu tạo từ sáu yếu tố:
Thuyết Ngũ ẩn: Xem con nguời đuợc cấu tạo từ năm yếu tố.
Trong các thuyết về cấu tạo con nguời của Phật giáo, thì thuyết Ngũ uẩn là
phổ biến hơn cả. Có bốn loại thực:
4


Đoạn thực: Thức ăn là động, thực vật, thức ăn vật chất, là cơm ăn nước
uống hàng ngày.
Xúc thực: Thức ăn là những cảm xúc, cảm giác.
Tư thực : Thức ăn là sự suy tư, nghĩ ngợi.
Thức thực: Thức ăn là tinh thần, là thức ăn ở cõi vô sắc, sống bằng tinh thần
thanh cao.
Phật giáo quan niệm sự vật đều luôn vận động biến đổi, không có cái gì là
thường hằng, bất biến. Còn tương tục vô thường chỉ trong một chu kỳ nối tiếp nhau
đều có sinh - trụ - dị - diệt (đối với sinh vật), hay thành - trụ - hoại - không (đối với
sự vật), đối với con người là sinh - lão - bệnh- tử.
Quan niệm của nhà Phật cho rằng, con người là sự kết hợp động của những
yếu tố động, cho nên là giả tạm, suy cho cùng là vô ngã.
Học thuyết nhân quả của Phật giáo cho rằng, con người gieo nhân nào
hưởng quả ấy, ở hiền gặp lành, gieo gió gặt bão.
Theo quan niệm của Phật giáo, xét đến cùng muôn vật trong vũ trụ là hệ
thống nhân duyên của nhau, cứ thế sinh sinh diệt diệt mãi nối tiếp nhau vô cùng
tận. Thân xác con người được đề cập trong các thuyết Danh sắc, thuyết Lục đại,
thuyết Ngũ uẩn của Phật giáo.
*Nội dung triết học nhân sinh của Phật giáo tập trung ở bốn luận điểm (gọi
là 'tử diệu đế”). Bốn luận điểm này được Phật giáo coi là bốn chân lý vĩ đại về cuộc
sống nhân sinh cho bất cứ cuộc sống nhân sinh nào thuộc đẳng cấp nào.
Luận điếm thứ nhất (kho đếy.
Triết lý nhân sinh Phật giáo cho rằng, bản chất cuộc đời con người là khổ:

"Đời là bể khổ, đời là cả những chuỗi bi kịch liên tiếp, bổn phương đều là bế khố,
nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biến, vị mặn của máu và nước mắt chúng
sinh mặn hơn nước biến".
Nỗi khổ của thế gian là khôn cùng, song có thể chia làm ba loại khổ hay tám
thứ khổ.
Ba loại khổ (Tam khổ) là: khổ khổ, hoại khổ và hành khổ.
Tám thứ khổ (Bát khổ): Sự thật nơi cuộc sống nhân sinh không có gì khác
ngoài sự đau khổ, ràng buộc hệ luỵ, không có tự do. Đó là 8 nỗi khổ trầm lâm bất
tận mà bất cứ ai cũng phải gánh chịu: Sinh, Lão, Bệnh, Tử, Thụ biệt Ly (yêu
thương chia lìa), Oán tăng hội (oán ghét nhau mà phải sống với nhau), Sở cầu bất
đắc (cái mong muốn mà không đạt được), và Ngũ thụ uẩn (5 yếu tố vô thường nung
nấu làm khổ).


Luận điểm thứ hai Tập đế (hay Nhân đế):
Tập đế nói lên sự tập hợp, tích chứa những nguyên nhân đưa tới cái khổ.
Đức Phật cho rằng, mọi cái khổ đều có nguyên nhân của nó (Thập nhị nhân
duyên) :
Trong thế giới sinh vật, khi đã giải thích về nguyên nhân biến hoá vô thường
của nó, từ quá khứ đến hiện tại, từ hiện đại tới tương lại. Phật giáo đã trình bày
thuyết “ Thập Nhị Nhân Duyên” ( mười hai quan hệ nhân duyên) được coi là cơ sở
của mọi biến đổi trong thế giới hiền sinh, một cách tất yếu của sự liên kết nghiệp
quả.
+ Vô minh: ( là cái không sáng suốt, mông muội, che lấp cái bản nhiên sáng
tỏ).
+ Hành: ( là suy nghĩ mà hành động, do hành động mà tạo nên kết quả, tạo
ra cái nghiệp, cái nếp. Do hành động mà có thức ấy là hành làm quả cho vô minh và
là nhân cho Thức).
+ Thức: ( Là ý thức là biết. Do thức mà có Danh sắc, ấy là Thức làm quả
cho hành và làm nhân cho Danh sắc).

+ Danh sắc: ( Là tên và hành ta đã biết tên ta là gì thì phải có hình và tên của
ta. Do danh sắc mà có Lục xứ, ấy danh sắc làm quả cho thức và làm nhân cho Lục
xứ).
+ Lục xứ hay lục nhập: ( Là sáu chỗ, sáu cảm giác: Mắt, mũi, lưỡi, tai, thân
và tri thức. Đã có hình hài có tên phải có Lục xứ để tiếp xúc với vạn vật. Do Lục
nhập mà có xúc - tiếp xúc. ấy là Lục xứ làm quả cho Danh sắc và làm nhân cho
Xúc.)
+ Xúc: ( Là tiếp xúc với ngoại cảnh qua sáu cơ quan xúc giác gây nên cmở
rộng xúc, cảm giác. Do xúc mà có thụ ấy là xúc làm quả cho Lục xứ và làm nhân
cho Thụ.)
+ Thụ: (Là tiếp thu, lĩnh nạp, những tác động bên ngoài tác động vào mình.
Do thụ mà có ái. ấy là thụ làm quả cho Xúc và làm nhân cho ái.
+ ái: (Là yêu, khát vọng, mong muốn, thích. Do ái mà có Thủ. Do ấy, ái làm
quả cho Thụ và làm nhân cho Thủ.)
+ Thủ: ( Là lấy, chiếm đoạt cho minh. Do thủ mà có Hữu. Do vậy mà Thủ
làm quả cho ái và làm nhân cho Hữu.)


+ Hữu: ( Là tồn tại, hiện hữu, ham, muốn, nên có dục gây thành cái nghiệp.
Do Hữu mà có sinh, do đó Hữu là quả của Thủ và làm nhân của Sinh).
+ Sinh: ( Hiện hữu là ta sinh ra ở thế gian làm thần thánh, làm nguời, làm
súc sinh. Do sinh mà có Tử, ấy là sinh làm quả cho Hữu và làm nhân cho Tử).
+ Lão tử: (Là già và chết, đã sinh ra là phải già yếu mà đã già là phải chết.
Nhung chết - sống là hai mặt đối lập nhau không tách rời nhau. Thể xác tan đi là hết
nhung linh hồn vẫn ở trong vòng vô minh. Cho nên lại mang cái nghiệp rơi vào
vòng luân hồi ( khổ não).
Thập nhị nhân duyên nhu nuớc chảy kế tiếp nhau không bao giờ cạn, không
bao giờ ngừng, nên đạo Phật là Duyên Hà. Các nhân duyên tự tập nhau lại mà sinh
mãi mãi gọ là Duyên hà mãn. Đoạn này do các duyên mà làm quả cho đoạn truớc,
rồi lại do các duyên mà làm nhân cho đoạn sau. Bởi 12 nhân Duyên mà vạn vật cứ

sinh hoá vô thuờng.
Mối quan hệ Nhân - Duyên là mối quan hệ biện chứng trong không gian và
thời gian giữa vạn vật. Mối quan hệ đó bao trùm lên toàn bộ thế giới không tính đến
cái lớn nhỏ, không tính đến sự giản đơn hay phức tạp. Một hạt cát nhỏ đuợc tạo
thành trong mối quan hệ nhân quả của toàn vũ trụ. Cả vũ trụ hoà hơp tạo nên nó.
Cũng nhu nó hoà hợp tạo nên cả vũ trụ bao la. Trong một có tất cả trong tất cả có
một. Do nhân Duyên mà vạn vật sinh hay diệt. Duyên hợp thì sinh, Duyên tan thì
diệt. Vạn vât sinh ho á vô cùng là do ở các duyên tan hợp, hợp tan nối nhau mà ra.
Nên vạn vật chỉ tồn tại ở dạng tuơng đối, trong dòng biến hoá vô tận vô thuờng vô
thực thể, vô bản ngã, chỉ là hu ảo. Chỉ có sự biến đổi vô thuờng của vạn vật, vạn sự
theo nhân duyên là thuờng còn không thay đổi. Do vậy toàn bộ thế giới đa dạng,
phong phú, nhiều hình, nhiều vẻ cũng chỉ là dòng biến hoá hu ảo vô cùng, không có
gì là thuờng định, là thực, là không thực có sinh, có diệt, có nguời, có mình, có
cảnh, có vật, có không gian, có thời gian. Đó chính là cái chân lý cho ta thấy được
cái chân thế tuyệt đối của vũ trụ. Thấy được điều đó gọi là “ chân như” là đạt tới
cõi hạnh phúc, cực lạc, không sinh, không diệt, niết bàn.
Trong 12 nguyên nhân đưa ra thì Đức Phật cho rằng, vô minh và ái dục là
hai nguyên nhân chủ yếu đưa đến đau khổ cho con người. Sự kết hợp giữa ái dục và
vô minh xuất phát từ nguồn gốc của ba thứ mà phật gọi là tam độc: tham, sân, si.
Luận điếm thứ ba (Diệt đế):
Đức Phật khẳng định, cái khổ có thể tiêu diệt được, chấm dứt được luân
hồi. Đức Phật đã giảng cho môn đệ về vấn đề này ở thành Ba Nại Na: "Này các
Thầy xa môn đến đạo diệt khố, diệt lòng tham sinh hợp với thích thú và nhục dục


tìm thích thú ở chó này chó khác nhất là tham dục, tham sinh, tham vô minh, diệt
hết những dục vọng ấy sẽ khỏi khố".
Luận điểm này cũng bộc lộ tinh thần lạc quan tôn giáo của Phật giáo; cũng
thể hiện khát vọng nhân bản của nó muốn hướng con người đến niềm hạnh phúc
“tuyệt đối”; khát vọng chân chính của con người tới Chân - Thiện -Mỹ.

Luận điếm thứ tư (Đạo đế):
Sau khi chỉ ra các nỗi khổ ở cuộc đời con người cũng như nguyên nhân gây
nên các nỗi khổ ấy. Đức Phật khẳng định, có thể tiêu diệt được khổ, tiêu diệt nỗi
khổ nhân sinh bằng trải qua tu luyện để thoát khổ đạt đến cõi Niết bàn tuyệt đối tịch
tịnh sung sướng, an lạc và tốt đẹp nhất. Đó không phải là con đường sử dụng bạo
lực mà là con đường “tu đạo”. Thực chất của con đường này là hoàn thiện đạo đức
cá nhân. Sự giải phóng mang ý nghĩa của sự thự hiện cá nhân, không mang ý nghĩa
của những phong trào cách mạng hay cải cách xã hội. Đây là nét đặc biệt của “tinh
thần giải phóng nhân sinh” của Phật giáo.
Con đường “giải phóng cả nhân” này gồm 8 nguyên tắc:
Chinh kiến'. Là sự hiểu biết đúng đắn, nhận thức rõ về tứ diệu đế, hiểu đúng
sự vật khách quan. Người có chính kiến sẽ biết phân biệt đúng sai, chi phối mọi
hành động, tâm trí sáng suốt.
Chỉnh tư duy. Sự suy nghĩ phán xét đúng với lẽ phải. Người tu hành theo
chính tư duy biết suy xét vô minh là nguyên nhân của khổ đau, tìm ra phương pháp
tu luyện để thoát khổ cho mình và mọi người; đó là diệt trừ vô minh, tam độc.
Chỉnh ngữ: Lời nói ngay thẳng, là đưa chính tư duy vào thực hành trong lời
nói cụ thể: không nói dối, không tạo ra sự bất hòa giữa mọi người, không nói lời ác
dữ, không thừa lời vô ích. .
Chỉnh nghiệp'. Đức Phật dạy chúng sinh rằng:
Nếu là tà nghiệp như sát sinh, trộm cắp, tà dâm, thì phải cải tạo, cải tà quy
chính, làm điều thiện tránh điều ác. Còn nếu là chính nghiệp việc làm hợp với lẽ
phải, có ích cho mọi người thì phải giữ gìn. Trong chính nghiệp lại có thân nghiệp,
khẩu nghiệp, ý nghiệp.
Thân nghiệp'. Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm.
Khẩu nghiệp'. Không nói dối, không nói ác, không nói hai lưỡi, không nói
thêu dệt.
ỷ nghiệp'. Không tham dục, không nóng giận, không tà kiến.



Chính mệnh'. Lối sống trong sạch, lương thiện, ngay thẳng của con người;
không tham lam gian ác, ăn bám kẻ khác, không gian dối bất chính; sống chân
chính bằng nghề nghiệp chính đáng.
Chính tịnh tiến'. Đức Phật dạy con người cố gắng làm điều thiện, tránh điều
ác; không quên lý tưởng tu đạo, luôn cảnh giác tỉnh táo trong từng việc làm; phải
chủ động tích cực trong việc tìm kiếm truyền bá chân lý nhà Phật.
Chỉnh niệm'. Trong đầu con người luôn có ý niệm trong sạch ngay thẳng,
ghi nhớ những đạo lý chân chính, điều hay lẽ phải ở đời, chăm lo thường xuyên
niệm Phật.
Chỉnh định'. Sự tập trung tư tưởng vào một việc chính đáng, đúng chân lý,
tĩnh lặng suy tư về tứ diệu đế của vô ngã vô thường về nỗi khổ của con người, là cơ
sở cho chính kiến, chính tư duy ở trình độ cao.
Triết học Mác - Lênin cũng nghiên cứu con người, lấy đó làm điểm xuất
phát đồng thời cũng là mục đích cuối cùng để phục vụ đời sống con người. Nhưng
con người trong triết học Mác là con người hiện thực sống trong một xã hội nhất
định, với các quan hệ xã hội cụ thể. Còn con người trong Phật giáo là con người nô
lệ của các sở cầu tham vọng của mình.
Chương 2. Ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến đời sổng tinh thần
của con người Việt Nam hiện nay
2.1. Những nhân tố tác động đến sự biến đồi của ảnh hưởng nhân sinh
quan Phật giáo ở nước ta hiện nay
2.1.1.

Nhân tổ kinh tế

Với tư cách là một tôn giáo Phật giáo là một trong những bộ phận hợp thành
kiến trúc thượng tầng của xã hội. Vì vậy, Phật giáo chịu sự quy định của tồn tại xã
hội (trước hết là các quan hệ kinh tế).
Trong thời kỳ chiến tranh, Ở nước ta cơ chế kinh tế tập trung quan liêu bao
cấp đã phát huy tác dụng, nhưng khi đất nước đi vào xây dựng kinh tế - xã hội

trong thời kỳ hòa bình hiện nay thì cơ chế ấy tỏ ra lạc hậu không còn phù hợp nữa.
Đồng thời những sai lầm trong quản lý kinh tế - xã hội của nước ta cộng với sự
khủng hoảng của mô hình chủ nghĩa xã hội, đế quốc Mỹ bao vây cấm vận, cũng
như khó khăn do thiên tai v.v... đã làm cho đời sống kinh tế - xã hội gặp nhiều khó
khăn. Đe khắc phục tình hình, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đã tiến
hành công cuộc đổi mới trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.


Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới của nhân dân ta đã từng
bước thu được những thành tựu rất quan trọng và vững chắc trên tất cả các mặt của
đời sống xã hội, trước hết là lĩnh vực kinh tế. Lực lượng sản xuất không ngừng
được phát hiển, quan hệ sản xuất càng được củng cố, đời sống nhân dân đang từng
bước được cải thiện, bộ mặt của đất nước ngày càng biến đổi theo hướng hiện đại
văn minh v.v... Cùng với sự đổi mới đi lên của đất nước, sự phát triển Phật giáo
cũng có những thay đổi, có nhiều nét mới so với trước thời kỳ đổi mới, số lượng
chùa chiền và tín đồ Phật giáo tăng lên nhanh chóng.
Bên cạnh những thành tựu, những mặt tích cực do đổi mới đem lại thì cũng
xuất hiện nhiều biểu hiện tiêu cực trong đời sống kinh tế - xã hội như tham nhũng,
hối lộ, thói quen tiêu dùng, tệ nạn xã hội, ô nhiễm môi trường v.v...Mặt hái của nền
kinh tế thị trường đã có những tác động không nhỏ tới Phật giáo. Có nhà sư đã
kiếm chọn những chùa to ở những trung tâm buôn bán lớn, trọng phong bì hơn là
hương, hoa; chùa chiền cũng bị ảnh hưởng bởi cuộc sống trần tục.
Như vậy, môi trường kinh tế - xã hội có ảnh hưởng quyết định đến việc hình
thành niềm tin tôn giáo của con người. Nen kinh tế thị trường đã và đang được xác
lập trên đất nước ta, sự tác động của nó đã dẫn nhiều người tìm đến Phật giáo bằng
những con đường khác nhau làm phong phú thêm đời sống văn hóa tinh thần của
con người Việt Nam. Mặt khác, nền kinh tế thị trường cũng là một trong những
nguyên nhân quan trọng làm nảy sinh các hiện tượng hạn chế, tiêu cực của các hoạt
động tín ngưỡng và tôn giáo.
Qua sự phân tích trên đây cho ta thấy rõ sự biến đổi của ảnh hưởng nhân

sinh quan Phật giáo Việt Nam hiện nay có những nguyên nhân, mà đầu tiên là do sự
phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa
Cùng với nguyên nhân này còn có thể chỉ ra nguyên nhân khác đó là sự giao
lưu văn hóa giữa các nước trên thế giới.
2.1.2. Sự giao lưu văn hóa với các nước trên thế giới
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
thúc đẩy kinh tế - xã hội. Nen văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa của văn hóa tiến bộ của nhân loại,
làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, là nền văn hóa thống nhất
mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.


Ở nước ta, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh không những là
nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng và Nhà nước, mà còn là
học thuyết lãnh đạo đời sống tinh thần của xã hội.
Phật giáo truyền vào Việt Nam khoảng thế kỷ II sau Công Nguyên. Trong
lịch sử dân tộc Việt Nam, Phật giáo có ảnh hưởng sâu đậm và lâu dài. Trong quá
trình phát triển, Phật giáo với tư cách là một tôn giáo, đã có nhiều đóng góp cho
văn hoá Việt Nam. Cũng giống như tôn giáo ngoại sinh khác như nho giáo, Đạo
giáo, islam giáo, Công giáo hay tin Đạo lành, Phật giáo khi du nhập vào Việt Nam
đã có những va chạm nhất định với văn ho á bản địa, hình thành cục diện hội nhập
khác với sự tiến hoá tự nhiên của một hệ tư tưởng bản địa. Quá trình hội nhập đó
dẫn tới sự hình thành những yếu tố văn hoá mới. Hiện nay, Phật giáo cũng đang
được đổi mới thích ứng với thời đại và vẫn có chỗ đứng trong việc góp phần làm
phong phú thêm đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam.
2.1.3. Những hiện tượng lợi dụng tôn giáo để chổng phả đường lối chỉnh
sách của Đảng và Nhà nước
Sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là điều kiện
thuận lợi để các thế lực thù địch ráo riết tiến hành các hoạt động chống phá nhằm
xóa bỏ các nuớc xã hội chủ nghĩa còn lại.

Phần lớn tăng ni, phật tử Việt Nam là những nguời yêu nuớc, họ đã có nhiều
công lao đóng góp trong các cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, cũng nhu trong
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nuớc ta.
Hiện nay, đa số các tín đồ Phật giáo bên cạnh việc thực hiện nghiêm túc giới
luật, thì đồng thời làm tốt nghĩa vụ của nguời công dân. Họ đoàn kết cùng nhau
thực hiện phuơng châm "Đạo pháp, dân tộc và chủ nghĩa xã hội", phát huy truyền
thống yêu nuớc trong trong và ngoài nuớc. Qua một số vụ việc lợi dụng Phật giáo
để chống phá đuờng lối, chính sách của Đảng và Nhà nuớc ta của các thế lực thù
địch nhằm phá hoại thành quả cách mạng, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nuớc ta
rất lộ liễu và tuơng đối toàn diện. Tuy nhiên, những âm muu của chúng đã bị thất
bại truớc sự cảnh giác của giới phật tử và nhân dân cả nuớc.
2.1.4. Quan điếm đối mới của Đảng và Nhà nước về tôn giáo và chỉnh sách
đổi với tôn giáo
Đảng và Nhà nuớc ta duới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ lâu đã
có những chính sách tôn giáo đúng đắn trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập cho
nuớc nhà và trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.


Tình hình tôn giáo hiện nay diễn ra hết sức phức tạp, nhiều lực luợng phản
động đang lợi dụng tôn giáo chống phá lại chính sách của Đảng và Nhà nuớc, hoặc
có truờng hợp duới danh nghĩa khôi phục lại văn hóa truyền thống đua nhau sửa lại
chùa tháp, đúc chuông, tạc tuợng, hoặc tổ chức các lễ hội để làm kinh tế. Truớc tình
hình đó, Đảng và Nhà nuớc ta đã đua ra quan điểm đổi mới về tôn giáo và chính
sách đối với tôn giáo. Đua hoạt động tôn giáo vào hệ thống quản lý của Đảng và
Nhà nuớc bằng pháp luật. Đảng và Nhà nuớc ta luôn xác định đây là vấn đề có ý
nghĩa rất quan trọng. Quan điểm ấy luôn nhất quán từ lý luận đến thực tiễn, đuợc
khẳng định tại các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, X, XI. Trong Nghị quyết
Hội nghị Ban chấp hành Trung uơng lần thứ 7 khóa IX đã chỉ rõ trách nhiệm, quyền
hạn, nghĩa vụ của các phật tử. Quan điểm đổi mới của chính sách tôn giáo hiện nay
là chính sách tôn giáo đuợc đặt trong tổng thể chính sách xã hội với mục tiêu phát

huy sức mạnh nhân tố con nguời, đảm bảo cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc của
họ. Chính sách tôn giáo phải nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân
dân, giúp họ tìm thấy thiên đuờng ở chính cuộc sống hiện tại.
Nhu vậy, quan niệm đổi mới của Đảng, Nhà nuớc về tôn giáo và chính sách
tôn giáo đã tác động làm biến đổi ảnh huởng nhân sinh quan Phật giáo ở Việt Nam
hiện nay.
2.2. Quá trình ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh
thần của con người Việt Nam
Đạo Phật là một trong những học thuyết Triết học - một trong ba tôn giáo
lớn nhất trên thế giới hiện nay và tồn tại từ rất lâu đời {từ khoảng thế kỷ VI trước
công nguyên). Hệ thống giáo lý rất đồ sộ và số luợng Phật tử đông đảo đuợc phân
bố trên nhiều nuớc.ở mỗi nuớc, khi đuợc du nhập vào, Phật giáo lại có sự cải biến
cho phù hợp với tập tục của từng địa phuơng, từng dân tộc và mang những sắc thái
khác nhau.
Đạo Phật đuợc truyền bá vào nuớc ta khoảng thế kỉ II sau công nguyên và
đã nhanh chóng trở thành một tôn giáo có ảnh huởng sâu sắc đến đời sống tinh thần
của con nguời Việt Nam. Phật giáo tuy có lúc thịnh suy, nhung trên thực tế đã luôn
gắn bó với truyền thống dân tộc. Phật giáo phát triển qua các thời kỳ Đinh, Lê,
hung thịnh và đạt đến đỉnh cao duới thời Lý, Trần, đã góp phần ổn định, bảo vệ chế
độ phong kiến tập quyền và đã để lại dấu ấn sâu đậm trong nền văn hóa Việt Nam.
Nhân sinh quan Phật giáo, nhất là đức từ - bi - hỷ - xả ngày càng thấm sâu vào đời
sống tâm linh, huớng con nguời vào con đuờng thiện nghiệp, tu duỡng đạo đức.
Hiện nay, tuy không còn là quốc giáo, song Phật giáo vẫn có ảnh huởng rất lớn đến
sống tinh thần của nguời Việt Nam.


Từ thế kỷ thứ VI, ảnh huởng của Phật giáo Trung Quốc đối với Việt Nam
dần dần chiếm uu thế, trong khi đó ảnh huởng của Phật giáo ấn Độ có xu huớng
giảm dần. Trong đó, đáng chú ý là có một số dòng thiền Trung Quốc du nhập vào
Việt Nam. Dòng thiền thứ nhất do Tỳ Ni Đa Luu Chi - tổ thứ ba của phái Thiền

tông Trung Quốc đã sang Việt Nam cuối thế kỷ VI (580), tu tại chùa Pháp Vân (Bắc
Ninh), trở thành vị su tổ của phái thiền mang tên ông ở Việt Nam.
Năm 820, một phái Thiền khác do thiền su Vô Ngôn Thông (Bất Ngữ
Thông) truyền bá vào nuớc ta. Dòng Thiền này tồn tại và phát triển cho đến thời
Trần. Trực chỉ nhân tâm; Kiến tính thành Phật" của Thiền tông Trung Quốc.
Dưới thời kỳ Bắc thuộc, hai phái thiền Tì Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn
Thông cùng tồn tại và phát triển song song và về cơ bản vẫn là hai phái thiền riêng
biệt, chưa chịu ảnh hưởng lẫn nhau như các thời kỳ sau này.
Phái thiền thứ ba được truyền vào nước ta là Thảo Đường. Lý Thánh Tông
là sư tổ thứ hai của phái thiền này. Đây là dòng thiền riêng của đời Lý và có ảnh
hưởng lớn ở Việt Nam đến đầu thế kỷ XIII.
Đến thời Lý (1010 - 1225) - Trần (1225 - 1400), Phật giáo Thiền Tông phát
triển hưng thịnh, đạt đến đỉnh cao rực rỡ và trở thành quốc giáo, chiếm ưu thế trong
đời sống tinh thần của người Việt Nam.
Ở Việt Nam Phật giáo được truyền vào là Phật giáo Đại thừa với các tông
phái như Thiền tông, Mật tông, Tịnh độ tông...
Cuối thế kỷ XIV đầu XV Phật giáo bị hạn chế, suy yếu dần và đi vào dân
gian. Nhiều người Việt Nam trong giới thượng lưu từ bỏ Phật giáo. Mặc dù vậy ở
nông thôn, làng xã Phật giáo vẫn được duy trì tồn tại.
Dưới thời Nhà Mạc - thế kỷ XVI, Phật giáo lại hưng khởi, các chùa mới
được mọc lên nhiều.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX phong trào chấn hưng Phật giáo được dấy
lên bắt đầu từ các đô thị miền Nam. Sở dĩ có tình trạng này là do sự giao lưu với
văn hóa bên ngoài thúc đẩy. Các giáo hội Phật giáo miền Nam, Trung, Bắc ra đời
và Phật giáo có ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống tinh thần con người Việt Nam.
Có thể thấy rằng "Nhờ biết ứng dụng phương tiện một cách linh động toàn
hảo, trải qua bao thăng trầm đối thay của lịch sử, Phật giáo Việt Nam vân tồn tại
sáng ngời với thời gian"
2.3. Ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến một số lĩnh vực trong đời
sống tinh thần của con người Việt Nam



PhẼt gi o du nhẼp vpo Viồt Nam tõ thõ kũ I sau c«ng nguy an kõt hĩp víi
phong tôc, tẼp qu n truyòn thèng d©n téc Viồt Nam hxnh thpnh n an PhẼt gi o Viồt
Nam. Tĩ^Ịi qua mét khoang thêi gian dpi, PhẼt gi o ẽ Viồt Nam kh«ng ngõng ph t
trión, lín m'nh vp ®- Lo nan mét dÊu Ên s©u ®Ẽm trong viồc hxnh thpnh ®J0
®0C, lối sống, nh©n c ch con ng-êi Viồt Nam, nòn v"n ho, Viồt Nam. Nh-í-ng
Ỵnh h-êng tÝch cùc cna PhẼt gi,0 vÉn ®ang ®-ĩc con ng-êi Viồt Nam ph,t huy
®Ó phôc vô cuéc sèng. Song ban cJnh ®ã, PhẼt gi,0 còng cã nh-í-ng Ỵnh h-êng tiau
cùc.
2.3.1. Anh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến đạo đức
Hơn 20 thế kỷ qua Phật giáo đã cùng chung sống với dân tộc ta. Triết lý
nhân sinh của Phật giáo đã thẩm thấu vào tinh thần dân tộc và có ảnh huởng sâu sắc
đến nhân sinh quan con nguời Việt Nam, góp phần đắc lực vào việc tạo nên nhân
cách của nhiều nguời dân Việt Nam.
PhẼt gi o lp mét t«n gi o, nh- c c ten gi o kh c, PhẼt gi o còng gâm cã gi o lý
vp hoT ®éng tÝn ng-ìng. Gi o lý lp mét hồ thèng c c quan ®iÓm vò thõ giíi V|i con
ng-êi, vò c,ch thoc tu luyồn V|i ho't ®éng tÝn ng-ìng, l|i nh"hig hpnh vi, nh-^ng nghi
lô cỌn phỴi thùc hiồn ®Ó ®'t tíi -íc nguyồn. CỴ hai ®Òu cã ý nghủa ®èi víi viồc
hxnh thpnh nh©n c ch cna c c tÝn ®â. Phật giáo với một hệ thống triết lý sâu sắc ít
mang tính siêu hình, mà trái lại có tính thực tiễn cao. Đó là con đuờng giúp con
nguời thoát khổ (giải thoát). Phật giáo có ảnh huởng tác động sâu sắc đến nền tảng
đạo đức, sự hình thành nhân cách con nguời Việt Nam - bản sắc độc đáo ở mỗi con
nguời. Ảnh huởng của đạo đức Phật giáo đã trở thành một bộ phận hợp thành đạo
đức của xã hội Việt Nam từ thuở xa xua.
H“n lóc npo hõt, trong mÊy chôc n"m qua ng-êi PhẼt tõ Viồt Nam hiồn nay
rÊt ch"m lo ®Õn viồc thùc hiồn c c nghi lô cna ®'o mxnh. Hă ch"m chó l an chĩa
trong nh-^ng ngpy sãc, vãng; hă tr©n trăng V|i thpnh kÝnh trong lóc thùc hpnh c c
nghi lô; hă siang n"ng trong viồc thiòn ®bnh, gR giíi, lpm thiồn. VL/Et kh,c, nhp
chĩa lu«n s*/2n spng thùc hiồn c,c ýhi cỌu cna hă nh- giỴi oan, cỌu si au. TÊt cỴ

nh-^ng ®iÒu ®ã võa cnng cè niòm tin vpo gi,0 lý, võa quy ®bnh t- duy vp hpnh
®éng cna hă, To c-1 sẽ ®Ó hxnh thpnh nh-^ng nh©n c ch riang biồt.
Con ng-êi PhẼt gi o nhxn sù vẼt trong mèi quan hồ nh©n qu^Ị, xem c,i gx
còng lp kõt qu^Ị cna mét c,i tr-íc vp lp ngu^n nh©n cna c,i sau. Mọi khi giEp mét
sù viồc hồ trăng cã lian quan ®Õn bỴn th©n hay ng-êi nhp, hă ®Òu nghủ ®Õn
ngu^n nh©n ®Ó txm c ch kh 3/4C phôc. Hăc clỉn nhxn thõ giíi, X- héi con ng-êi ẽ


trong dBng vẼn ®éng kh«ng ngõng, ẽ ®ã kh«ng cã c i gx lp tân Ti m i, c i gx còng
®ang chuyón biõn tõ c i npy sang c i kh c. Khi ng-êi th©n trong gia ®xnh l o gip,
yõu ®au, chõt chãc, hă ®Òu xem ®ã lp ®iÒu kh«ng thó tr.nh khái V|i lÊy ®Êy lpm
®iÒu an ni. Lý thuyõt nh©n duý*n sinh, v« th-êng, v« ng- cna nh|i PhẼt ®- chi
phèi ý nghủ V|i hpnh ®éng cna hã.
Nh©n c ch PhẼt gi o ®- gãp phỌn lpm n^ nh©n c ch cna con ng-êi Viồt
Nam ngpy nay. Nh©n c ch ®ã cã t c dông hai rrnLt:
MsEt tỶch cùc lp chÊp nhẼn sù biõn ®aei cna thõ giíi vp con ng-êi, sèng cã
nón nõp, trong s^h, gi^Ịn db, quan t©m ®Õn nọi khae cna ng-êi kh c, th-“ng ng-êi,
vb tha, C0U gióp ng-êi hoJn nJn, hpnh ®éng thx lÊy tù gi,c lpm ®Ọu. Như vậy,
trong cơ chế kinh tế mới này, đạo đức Phật giáo ảnh hưởng không nhỏ tới đạo đức
và nhân cách của con người Việt Nam hiện nay. Nó góp phần làm lành mạnh con
người trong kinh doanh theo luật nhân quả, làm hạn chế tác động mặt trái của cơ
chế kinh tế ấy, hạn chế, ngăn chặn sự suy thoái đạo đức trong xã hội, hướng thiện
cho con người, nếu chúng ta biết khai thác những giá trị nhân văn trong nhân sinh
quan Phật giáo.
MsEt ti%i cùc l|i nhxn ®êi mét c ch bi quan, cã pha trén chÊt h- v« chữ
nghủa, n/Eng vò tin t-ẽng ẽ quyòn n'ng V|i phĐp mpu nhiồm cna mét vh si au nhian
mp nhN vò tin t-ẽng n'ng lùc ho't ®éng cna con ng-êi, nõp sèng thx khae h'nh V|I
kh«ng tr nh khái n-^ng theo nh-^ng nghi lô thỌn bÝ. §/Ec biồt lp cã hiồn t-ĩng m a
tÝn dh ®oan nh-: Lan ®âng, ®èt vpng m-, nh-^ng ®â dĩng b»ng giÊy. Nh-^ng t- tẽng ma lỌm ®ã võa phung phÝ tiòn b'c, thêi gian Pi lpm xuÊt hiồn trong X- héi nh^ng loh ng-êi ch0 dùa vpo nh-^ng nghò nghiồp Êy mp kiõm sèng g©y ra mét sù bÊt
c«ng trong X- héi.

Như vậy, nh©n c ch con ng-êi PhẼt gi o cã nh-^ng ®iÒu tương đồng và phi'
hĩp víi X- héi hiồn nay. Nh-ng nh-^ng ®iÒu ®ã ch0 giíi h'n trong nh"hig tr-êng hĩp
nhÊt ®hnh V|I chóng ta phỴi ph t huy nh-^ng nVEt ®ã. V-ĩt qua nh"hig giíi h'n ®ã,
nã si cã nh-^ng m©u thuÉn víi gi o lý V|i trẽ n an Pc lâng, mÊt hiồu qu^Ị. VẼy con
ng-êi am hióu ®J0 lý, mõn ®10, mé ®J0 kh«ng ph^Ịi ch0 lp con ng-êi tu hpnh mét
c,ch cỌn mÉn mp ph^Ịi cã C^Ị phỌn trÝ tuồ ®Ó biõt vẼn dông gi so lý vpo cuéc
sèng mét c,ch h-Hi Ých. Hióu ®-ĩc vp lpm ®-ĩc nh- thõ, con ng-êi si thÊy ®J0
®0C PhẼt ®Np ®i vp cao th-ĩng biõt bao.
2.3.2. Ảnh hưởng của Phật giáo đến lối sổng
Lối sống là phương thức sống của con người (cá nhân, nhóm, cộng đồng xã
hội) trong một xã hội nhất định được biểu hiện trên các lĩnh vực cơ bản của đời


sống như: hoạt động lao động sản xuất, hoạt động chính trị xã hội, hoạt động văn
hóa tinh thần và hoạt động sinh hoạt hàng ngày.
Lối sống có nguồn gốc từ phương thức sản xuất. C.Mác đã viết: "Không nên
nghiên cứu phương thức sản xuất ấy đơn thuần theo khía cạnh nó là sự tái sản xuất
ra sự tồn tại thể xác của các cá nhân mà hơn thế nó đã là một hình thức hoạt động
nhất định của sự biểu hiện đời sống của họ, một phương thức sổng nhất định của
họ.
Từ xưa đến nay con người Việt Nam lấy tâm làm gốc, đây là sự tự tâm, là
thứ tình cảm trong sáng. Trong mười điều tâm niệm Phật đã dạy: "Thi ân đừng cầu
đền đáp vì cầu đền đáp là thỉ ân có mưu tỉnh". Tình cảm này được con người Việt
Nam coi trọng và lĩnh hội, coi đó là phương châm sống cảu mình. Đó là sự thể hiện
của tấm lòng và đem bày tỏ với mọi người, đặt tình cảm lên trên hết, đây vốn là
truyền thống trọng nghĩa của dân tộc ta.
Ngày nay, khi đất nước đã có sự đổi mới, nền kinh tế thị trường đang được
xác lập thì quan niệm về lối sống cũng có biến đổi nhiều. Lối sống của nhà sư cũng
thực dụng.
2.3.3. Anh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến văn hóa

Từ khi được truyền bá vào Việt Nam, Phật giáo đã trải qua nhiều bước thăng
trầm trong lịch sử, có lúc đạt tới đỉnh cao rực rỡ, cũng có lúc bị lãng quên. Mỗi
bước phát triển của Phật giáo đều gắn bó chặt chẽ, hòa quyện với sự hình thành nền
văn hóa Việt Nam (bao gồm: Tư tưởng, văn học nghệ thuật, kiến trúc, điêu khắc...).
Nói đến ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo, đến văn hóa của con người
Việt Nam là vấn đề khá phong phú, ở đây tác giả chỉ xin đề cập đến một khía cạnh
sinh hoạt vãn hóa của người dân Việt Nam trong các ngôi chùa vì ngôi chùa là giá
trị văn hóa rất gần gũi thân thương của con người Việt Nam, góp phần tô điểm cho
nhiều làng quê Việt Nam. Ngày nay chùa vẫn là nơi sinh hoạt văn hóa của đông đảo
quần chúng nhân dân Nhxn VỊIO ®êi sèng v"n ho , tinh thỌn cna X- héi Viồt Nam
trong nh"hig n"m qua, ta thÊy hiồn t-ĩng PhẼt gi o ®ang ®-ĩc phôc hâi vp ph t
trión. cJnh sù ph t trión ngpy mét lín nPnh cna kiõn tróc hiồn ®T, Viồt Nam vÉn
phôc hâi kiõn tróc cae x-a qua viồc tu soa Pi nh"hig ®Òn chĩa, miõu m'o, nh"hig
danh lam th3/4ng cỴnh. §ã l|i nh-^ng nH mp dÊu Ên cna ®'o phẼt thó hiồn râ nhÊt.
ê thêi nh|i Lý, nghồ thuẼt kiõn tróc ®- ®H tíi ®0nh cao víi nh-í-ng c«ng
trxnh mang tÝnh quy m« to lín, v-ĩt h%n thêi tr-íc V|i cỴ nh-í-ng thêi sau ®ã. Nhnòn chia Quõ GPm ( Quõ Vâ- Hp B3Ác) tr^Ịi réng tĩ^n mét diồn tÝch víi nh"hig võt


tÝch cBn Pi gâm ba cÊp tĩ^Ịi réng trVi mét diồn tÝch gỌn 120 mĐt, réng 70 mĐt.
c c ng«i th p ®êi lý gâm nhiòu tỌng, cao chãt vãt: Th p BỴo - thi an cao vpi m-H trĩng ( khoang trti 60 mĐt) gâm 12 tỌng, th p Sĩng-thiồn-di an- linh ( chĩa §ãi, Duy
Tian, Nam H|i) cao 13 tỌng, t-ĩng PhẼt Di-LEc chĩa Quúnh L©m( §«ng Chiòu,
QuỴng Ninh) cao 6 tr-ĩng, khoang 20 m. Chĩa Mét Cét 1|1 mét s ch 1'o vò nghồ
thuẼt, t-ĩng tr-ng cho 1 top sen nẽ trti m/Et n-íc. Nh-^ng kiõn tróc ®ã th-êng hop
hĩp víi cỴnh trÝ thian nhian chung quanh 1'o nan mét khung cỴnh kiõn tróc hpi hop
víi ngo'i cỴnh.
Nghồ thuẼt kiõn tróc cna ®êi Lý Pi ®-ĩc ®êi TrỌn kõ tôc truyòn thèng vp ph
t trión mang tÝnh chÊt phãng kho ng, khoĩ V|1 hiồn thùc h“n. Th p Phae Minh,
Bxnh S“n lp nh-^ng c«ng trxnh kiõn tróc cã gi trb ẽ ®êi TrỌn, Th p Bxnh S“n cao
11 tỌng, cã bè côc chTEt chi c©n xong.
Sang ®êi nhp Nguyôn nghồ thuẼt kiõn tróc cã chiòu h-íng ngpy cpng sa sót,

tuy nhrti còng cã nh-^ng s ng Po nhÊt ®hnh nh- V"n Miõu ( Hp Néi) vp mét sè
®xnh, chĩa ẽ c,c lpng. §0nh cao cna kiõn tróc nhp Nguyôn 1|1 chĩa T©y Ph^ng( Th'ch ThÊt, Hp T©y) x©y dùng thpnh ba líp lp lèi kiõn tróc phae biõn cna c c
chĩa trong nam. Chĩa T©y Ph-“ng còng 1|1 n^i tẼp tmng nhiòu pho t-ĩng cã gi trh,
trong ®ã naei tiõng nhÊt 1|1 chĩa Tuyõt S“n vp m-êi t sm vh La Hsn. C,c boc t-ĩng
lÊy ®Ò tpi trong sù tÝch ®J0 PhẼt nh-ng vÉn thõ hiồn nh-hig con ng-êi Viồt Nam
Hiồn thùc vp gĩi cỴm.
Ngpy nay, nh-^ng nghồ thuẼt, kiõn tróc ®ã vÉn cBn tân Pi V|1 ®-ĩc trĩng
tu, soa sang ®Ó lpm n-i du lhch cna kh sch thẼp ph--ng vp n-i lô b,i cna nh©n d©n
trong vĩng. Nh-^ng c«ng trxnh ®ã tuy mang ®Ẽm dÊu Ên PhẼt gi o nh-ng vÉn 1|1
s ng t'o nghồ thuẼt d©n gian phỴn nh ®êi sèng tinh thỌn cna con ng-êi Viồt Nam
x-a.
Tóm lại, từ khi du nhập vào Việt Nam, theo suốt chiều dài lịch sử của dân
tộc, Phật giáo luôn có mặt và gắn bó mật thiết với đời sống tinh thần của nguời dân
Việt Nam biểu hiện trên một số lĩnh vực nhu: đạo đức, lối sống, văn hóa..., trong đó
ảnh huởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đạo đức có phần nổi trội hơn. Phật
giáo đã đuợc nguời Việt tiếp nhận một cách dễ dàng tự nhiên, vì có nhiều điểm
tuong đồng. Phật giáo từ cái ngoại lai trở thành cái bản địa, từ xa lạ trở thành thân
thuộc với mọi nguời. Có thể nói, chính truyền thống sẵn có của dân tộc đã dễ dàng
hòa quyện với giáo lý nhà Phật, tạo nên một chủ nghĩa tích cực mang màu sắc Việt
Nam, một nhân tố bền vững trong nhân sinh quan Việt Nam.


Chưong 3. Những giải pháp Cff bản nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực,
hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo ở
nước ta hiện nay
2.3.1. Đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc phát triển kinh
tế thị trường, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh
Hồ Chí Minh thường nhắc nhở đồng bào và chiến sĩ cả nước phải "quan
tâm, chăm sóc cuộc sổng vật chất và tinh thần cho đồng bào các tôn giáo. Mong
sao sản xuất ngày càng phát trỉến, phần xác ta được ấm no thì phần hồn cũng được

yên vui".
Ở nước ta hiện nay đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc phát
triển kinh tế thị trường là chúng ta đã thực hiện mục tiêu cao cả thiêng liêng bất di
bất dịch của nhân dân ta, đó là: "Xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất,
đi lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa
xã hội gắn liền với độc lập dân tộc". Chúng ta đang phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây cũng là điều kiện tốt để phát triển con
người một cách toàn diện trên các mặt Đức - Trí - Thể - Mỹ.
Phát triển kinh tế đất nước là nhân tố quyết định nhằm hạn chế những ảnh
hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo trong đời sống tinh thần của nhân dân.
Kinh tế phát triển sẽ tạo điều kiện cho văn hóa, xã hội tiến bộ, góp phần nâng cao
trình độ nhận thức của nhân dân. Đây là điều kiện tiên quyết để phát huy tốt những
ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật
giáo, lấy đạo pháp phục vụ dân tộc, xóa bỏ những hoạt động mê tín dị đoan, góp
phần ổn định chính trị xã hội, củng cố niềm tin của quần chúng nhân dân vào Đảng
và Nhà nước.
2.3.2. Phát huy vai trò tích cực của các tổ chức Phật giáo, tổ chức phật
tử trong đời sống kinh tế - xã hội
Trong đời sống văn hóa - xã hội ở nước ta trong mấy năm gần đây đã xuất
hiện những giáo phái mới (Thanh Hải Vô Thượng Sư, Long Thọ Bồ Tát, Long Hoa
Di Lặc...), những hoạt động mê tín dị đoan diễn ra khắp nơi, trong mọi lứa tuổi và
trong mọi tầng lóp dân cư. Thực trạng này đòi hỏi công tác quản lý tôn giáo của
Đảng, Nhà nước phải được tăng cường hơn nữa. Trong đó việc tăng cường đào tạo


đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo, xây dựng phát huy vai trò các tổ chức tôn
giáo là việc làm bức thiết.
Tư tưởng đại đoàn kết các dân tộc, không phân biệt tín ngưỡng tôn giáo, tín
ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra ngay từ khi
khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã trở thành chính sách lớn của Đảng

và Nhà nước ta. Ngày 9-11-1946, Quốc hội khóa I đã thông qua Hiến pháp đầu tiên
của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong đó ghi nhận: Nhân dân có quyền
"tự do tín ngưỡng". Ngày 14-6-1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh 234/SL
quy định những hoạt động tôn giáo trong chế độ mới, được đồng bào theo và không
theo tôn giáo nhiệt liệt hoan nghênh và ủng hộ. Phát huy vai trò tích cực của các tổ
chức Phật giáo góp phần đảm bảo cơ cấu trong các tổ chức Phật giáo đưa hoạt động
của giáo hội Phật giáo đi đúng hướng, không trái với mục tiêu của Đảng và Nhà
nước.
Trong việc phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực trong các hoạt động
của Phật giáo thì các vị chức sắc, lãnh đạo giáo hội, giáo đoàn có vai trò rất lớn.
Trong không khí hòa bình, cả nước đang đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội đòi hỏi
các tín đồ, nhà tu hành, các vị chức sắc phải thực hiện tốt nghĩa vụ của mình. Hiện
nay, trong các hoạt động truyền bá Phật pháp, thì việc đào tạo các tăng ni, phật tử
cũng rất được chú trọng. Đe phát huy tốt vai trò của các tổ chức phật tử, chúng ta
cần phải thực hiện tốt đường lối, chủ trương và các chính sách tôn giáo của Đảng
và Nhà nước. Nhà nước quan tâm, chú ý, tạo điều kiện, có kế hoạch giúp đỡ về đời
sống của người tu hành, nhất là đối với những tăng ni già yếu, đời sống của họ gặp
khó khăn.
Trong đời sống văn hóa - xã hội ở nước ta trong mấy năm gần đây những
hoạt động mê tín dị đoan diễn ra khắp nơi, trong mọi lứa tuổi và trong mọi tầng lớp
dân cư. Chính vì vậy, trong các biện pháp nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt
tiêu cực trong các hoạt động của Phật giáo, thì việc gây dựng dư luận phê phán
mạnh mẽ các hủ tục mê tín dị đoan v.v... trong quần chúng nhân dân cũng là điều
cần thiết, không kém phần hiệu quả.
2.3.3.

Đấu tranh chống những hiện tượng lợi dụng Phật giáo để chống

phá sự nghiệp cách mạng của nước ta



Là đất nước gồm 54 dân tộc, có nhiều tôn giáo, trong đó có những tôn giáo
lớn như Phật giáo, Thiên chúa giáo, Hồi giáo... nhưng trong lịch sử của đất nước,
đặc biệt là hiện nay, Việt Nam không hề có xung đột sắc tộc hay chiến tranh tôn
giáo xảy ra.
Tuy nhiên, việc mở cửa, giao lưu và hội nhập với các nước trong khu vực và
thế giới đã mở ra cho đất nước ta nhiều cơ hội và thời cơ mới cho sự phát triển,
nhưng cũng đưa lại không ít nguy cơ và thách thức mới. Các tôn giáo nước ta chịu
ảnh hưởng lớn hơn, mạnh hơn từ phía bên ngoài. Một trong số đó là nguy cơ "diễn
biến hòa bình", trong đó có vấn đề lợi dụng hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng nói
chung và Phật giáo nói riêng để hòng phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc, gây rối, tạo
cớ can thiệp, chống phá sự nghiệp đổi mới, tiến tới xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa
trên đất nước ta. Hiện nay, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch lợi dụng vấn
đề tôn giáo để chống phá cách mạng Việt Nam, tập trung vào một số hoạt động chủ
yếu sau đây: Một là, tìm cách ủng hộ và thông qua các đạo luật mang tính pháp lý
nhằm lợi dụng vấn đề tôn giáo để hoạt động can thiệp, chống phá. Hai là, dung
túng, giúp đỡ lực lượng phản động trong tôn giáo người Việt ở hải ngoại tổ chức
hoạt động chống Việt Nam. Ba là, hỗ trợ, kích động và chỉ đạo các đối tượng cực
đoan, phản động trong tôn giáo ở trong nước tổ chức các hoạt động chống
phá.Chính vì vậy, đấu tranh chống các hiện tượng lợi dụng, xuyên tạc hoạt động tôn
giáo, tín ngưỡng Phật giáo là yêu cầu bức thiết đối với việc chống lại nguy cơ diễn
biến hòa bình của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động, góp phần thúc đẩy
sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta giành thắng lợi.
Hiện nay và trong thời gian tới, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch
đã, đang và sẽ tăng cường chỉ đạo, giúp đỡ mọi mặt để phát triển đạo trong các
vùng dân tộc ít người, bao gồm cả phát triển các đạo giáo mới và cả số người theo
đạo, biến các tổ chức và hoạt động tôn giáo thành các tổ chức và hoạt động chính
trị chống lại cách mạng Việt Nam. Chúng ta phải thường xuyên nêu cao cảnh giác,
đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền để nhân dân thấy rõ âm mưu thâm độc của chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch.

KẾT LUẬN
Phật giáo truyền vào Việt Nam khoảng thế kỷ II sau Công Nguyên, trải qua
nhiều biến đổi thịnh - suy, thăng trầm cùng với lịch sử dân tộc. Qua việc nghiên cứu


đề tài này chúng ta phần nào hiếu thêm được nguồn gốc ra đời của Phật giáo, tư
tưởng của Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến xã hội và người dân ta, đồng thời
hiếu thêm về lịch sử nước ta. Đặc biệt đề tài này cho chúng ta thấy rõ vấn đề có ý
nghĩa quan trọng, đó là vấn đề ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống văn hóa - xã
hội của nhân dân ta trên nhiều lĩnh vực đặc biệt là lĩnh vực đạo đức, lối sống và văn
hóa.
Hiện nay, Phật giáo là một trong những tôn giáo lớn nhất ở nước ta. Phật
giáo đứng vững và có sức sống lâu bền trong đời sống tinh thần của nhân dân ta. Sự
tồn tại và phát triển lâu dài của Phật giáo với tính cách là một trong những thành tố
của cấu trúc văn hóa dân tộc, những tư tưởng triết lý của Phật giáo, đặc biệt nhân
sinh quan của nó có giá trị nhân sinh sâu sắc đến đời sống tinh thần của con người
Việt Nam. Tóm lại, Phật giáo hoà nhập thành một yếu tố dân tộc nên đã thúc đẩy
bánh xe lịch sử tiến lên theo khả năng và vị trí của Phật giáo trong mối quan hệ với
các dòng tư tưởng khác ở từng thời điểm lịch sử cụ thể.Phật giáo đã hướng tới cái
đẹp, cái thiện và mang tinh thần yêu nước.Tinh chân, thiện,mĩ được thể hiện rõ
trong tư tưởng Phật giáo Việt Nam. Hiện nay dưới sự tác động của nền kinh tế thị
trường, hội nhập và giao lưu kinh tế quốc tế sự biến đổi của ảnh hưởng nhân sinh
quan Phật giáo diễn ra ở cả hai chiều trái ngược nhau. Điều đó đòi hỏi chúng ta là
phải phấn tích được những nguyên nhân đồng thời tìm ra các giải pháp để phát huy
những ảnh hưởng tích cực, hạn chế và đẩy lùi ảnh hưởng tiêu cực mà sự biến đổi
nhân sinh quan Phật giáo gây ra.
Vì vậy, đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta trong công tác tôn giáo nói chung đặc
biệt là đối với Phật giáo nói riêng , chúng ta phải có thái độ khách quan, khoa học
nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của
nhân sinh quan Phật giảo để xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc văn

hóa dân tộc và đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (2003), Tài liệu nghiên cứu Nghị
quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nội.

4. Giáo trình triết học Mác - Lênin (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà
5. Trần Vãn Giàu (1993), Đạo đức Phật giảo trong thời hiện đại, Nxb

Thành phố Hồ Chí Minh.
6. Nguyễn Hùng Hậu (2002), Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, tập
I, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
7. Nguyễn văn Đại - TS. Bùi Thị Thanh Hương (2011), Nxb Chính trị Hành chính, Hà Nội.
8. Nguyễn Duy Hĩnh (1999), Tư tưởng Phật giảo Việt Nam, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
9. Bùi Biên Hòa (1998), Đạo Phật và thể gian, Nxb Hà Nội.
10. Vũ Ngọc Khánh (1986), Phật giảo và văn hóa dân gian Việt Nam Mấy vấn đề Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam, Viện Triết học, Hà Nội.
11. Hồ Chí Minh (1985), Toàn tập, tập 5, Nxb Sự thật, Hà Nội.
12. Lê Hữu Tuấn (1998), Ảnh hưởng của tư tưởng triết học Phật giáo
trong đời sống văn hóa tinh thần ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ triết học, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
13. Trần Quốc Vượng (1990), Phật giảo và văn học Việt Nam, Phật giáo
và văn hóa dân tộc, Thư viện Phật học.




×