Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

TÁC PHẨM ĐƯỜNG KÁCH MỆNH nền TẢNG lí LUẬN PHÒNG CHỐNG NGUY cơ tự DIỄN BIẾN, tự CHUYẾN hóa TRONG ĐẢNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.61 KB, 12 trang )

TÁC PHẨM ĐƯỜNG KÁCH MỆNH – NỀN TẢNG LÍ LUẬN
PHÒNG CHỐNG NGUY CƠ “TỰ DIỄN BIẾN”,
“TỰ CHUYỂN HÓA” TRONG ĐẢNG
Tóm tắt: Tác phẩm Đường Kách mệnh của Nguyễn Ái Quốc ra đời trong
những năm 1920. Chủ tịch Hồ Chí Minh – Người sáng lập và rèn luyện Đảng ta
trở thành Đảng cầm quyền đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh
cách mạng lâu dài và gian khổ, giành được từ thắng lợi này đến thắng lợi khác,
trong đó có đội ngũ đảng viên tiên phong gương mẫu luôn sáng ngời phẩm chất
đạo đức về “Tư cách một người cách mệnh” mà Bác đã viết cho cán bộ, đảng
viên học tập, làm theo trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” từ năm 1927 đến
nay. Kể từ khi ra đời cho đến nay đã 90 năm, nhưng những bài học và nền tảng
lí luận “Tư cách của một người cách mệnh” trong “Đường Kách mệnh” vẫn còn
nguyên giá trịv à mang tính thời sự khi chúng ta đang thực hiện Nghị quyết
Trung ương 4 khoá XII của Đảng về phòng chống nguy cơ “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong cán bộ, Đảng viên.
1. Sự cần thiết của việc quán triệt Nghị quyết Trung ương IV về tăng cường
xây dựng chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ Đảng:
1.1. Nguy cơ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu
hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, Đảng viên:
Phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của người cán bộ đảng viên trong
sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, thời gian qua đội ngũ cán
bộ, đảng viên không ngừng nâng cao bản lĩnh, trí tuệ, nói đi đôi với làm, chấp
hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh, Điều lệ, Nghị quyết của Đảng, pháp luật của
Nhà nước. Kiên quyết khắc phục sự suy thoái đạo đức cũng như những tiêu cực
trong xã hội theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Ý thức phấn đấu cho chủ
1


quyền dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tinh thần trách nhiệm của cán bộ, đảng viên


được nâng lên một bước. Những đạo lý của dân tộc sống có tình có nghĩa, lá
lành đùm lá rách... được tiếp tục nhân rộng. Những việc làm thiết thực hướng về
cội nguồn, về cách mạng và kháng chiến, tưởng nhớ các anh hùng dân tộc, quý
trọng các danh nhân văn hoá, đền ơn đáp nghĩa những người có công, giúp đỡ
đồng bào hoạn nạn... đã trở thành phong trào sôi nổi, trong đó cán bộ Đảng viên
luôn là những người gương mẫu, đi đầu, thực hiện đúng lời dạy của Bác “Đảng
viên đi trước, làng nước theo sau”. Đa số cán bộ, đảng viên luôn có ý thức rèn
luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, gắn bó với Nhân dân, có
ý thức phục vụ Nhân dân, tôn trọng dân được Nhân dân tin tưởng.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong
đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý có sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng,
tham ô, tham nhũng, xa rời quần chúng nhân dân… Đồng thời, thiếu tích cực
học tập, nghiên cứu lý luận chính trị, còn thỏa mãn về trình độ hiện tại với nhận
thức chung về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; học nghị quyết
của Đảng nhưng thiếu nghiêm túc; thích nghe thành tích, ngại nghe thiếu sót,
khuyết điểm; trong sinh hoạt Đảng thì không tranh luận, sợ mất lòng với người
khác, với cấp trên. Lối sống thực dụng, mưu cầu lợi ích cá nhân, lãng phí của
công, thậm chí vi phạm pháp luật, phải xử lý hình sự. Tình trạng thiếu sâu sát,
thiếu trách nhiệm với cơ sở, với dân, với các doanh nghiệp vẫn còn; một số cán
bộ lãnh đạo, quản lý chưa thể hiện tốt sự nêu gương trước đảng viên và quần
chúng về tinh thần trách nhiệm, ý thức tự giác trong phấn đấu học tập, rèn luyện
và sinh hoạt. Đó chính là những biểu hiện của sự “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa”.
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là quá trình biến đổi trong mỗi cán bộ,
đảng viên từ nhận thức đến hành động, làm cho họ không còn là chính mình
nữa, thậm chí chuyển hóa từ tích cực sang tiêu cực, mà nguy hiểm nhất là chống
2



lại Đảng, Nhà nước và nhân dân. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là hiện tượng
như những mạch ngầm “thẩm thấu” êm dịu. Đó là quá trình âm thầm diễn ra
bên trong mỗi cá nhân, tổ chức. Các nhà khoa học xã hội cho rằng, cũng như
căn bệnh phụ thuộc vào sức đề kháng của người bệnh, sự “miễn dịch” của người
cán bộ, đảng viên trước sự thẩm thấu “tự diễn biến” phụ thuộc vào độ vững
vàng về chính trị và độ thanh liêm về đạo đức, lối sống của họ. Đảng ta tiến
hành sự nghiệp đổi mới, chủ động và tích cực hội nhập sâu rộng với thế giới,
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là những bước đi tất yếu,
hợp quy luật nhưng bản thân con đường ấy vốn rất phức tạp và đầy mâu thuẫn.
Đó là con đường đầy cám dỗ vật chất rất dễ khiến con người sa vào chủ nghĩa
cá nhân ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi, hám danh, tham nhũng, lãng phí; bè
phái, cục bộ, mất đoàn kết, “lợi ích nhóm”; cán bộ quan liêu, xa dân, sống xa
hoa, hưởng lạc. Hiện nay, trước sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch
thì những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có xu hướng diễn biến phức
tạp trong Đảng, trong hệ thống chính trị và trong xã hội.
1.2. Tác hại của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên:
Những biểu hiện đó tuy chưa nghiêm trọng, nhưng đã làm mất uy tín của
Đảng, làm suy yếu tổ chức Đảng, cơ quan nhà nước, làm cho năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của tổ chức đảng bị giảm sút. Các thế lực thù địch sẽ lợi dụng
điều này để khai thác, phá rối nội bộ từ bên trong, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong Đảng và trong xã hội, ảnh hưởng đến sức mạnh của Đảng.
làm ảnh hưởng đến uy tín, hình ảnh của Đảng. Văn kiện Đại hội lần thứ XII của
Đảng cũng đã chỉ rõ “Bốn nguy cơ mà Đảng ta chỉ ra vẫn còn tồn tại, có mặt
diễn biến phức tạp. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu tham nhũng, lãng
phí chưa bị đẩy lùi”. Tác hại của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong con
người cán bộ được biểu hiện ở chỗ: Cán bộ sẽ dần dần bị suy giảm về bản chất
cách mạng, dần dần xa rời mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Đảng, xa rời hệ tư
3



tưởng của giai cấp công nhân - Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
sa sút về phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực, phương pháp, tác phong công
tác, không còn khả năng tổ chức, tập hợp quần chúng quán triệt và thực hiện
thắng lợi mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, không còn giữ được vai trò là “gốc của mọi công việc”, cuối cùng sẽ dẫn
đến sự biến chất, sự chuyển hóa của cán bộ.
Tác hại của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong con người đảng viên
được biểu hiện ở chỗ: Đảng viên sẽ dần dần bị suy giảm về bản chất cách mạng,
dần dần xa rời mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Đảng, xa rời hệ tư tưởng của
giai cấp công nhân - chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sa sút về
phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực, phương pháp, tác phong công tác, không
còn khả năng tổ chức, tập hợp quần chúng quán triệt và thực hiện thắng lợi mọi
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, không
còn giữ được vai trò là chiến sĩ tiên phong của Đảng, cuối cùng sẽ dẫn đến sự
biến chất, sự chuyển hóa của đảng viên.
Tác hại của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên còn
biểu hiện ở chỗ: Từ những hạn chế, yếu kém của cán bộ, đảng viên sẽ làm cho
nhân dân suy giảm và mất dần niềm tin vào cán bộ, đảng viên, từ đó mà dẫn đến
suy giảm và mất dần niềm tin vào vai trò và sự lãnh đạo của Đảng, vai trò và sự
quản lý, điều hành của Nhà nước đối với xã hội, vào tính ưu việt của chế độ
XHCN. Từ đó, nhân dân sẽ không tin tưởng vào đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, không quyết tâm phấn đấu để thực
hiện thắng lợi mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước. Điều đó sẽ hạn chế việc phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết
toàn dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Để khắc phục tình trạng đó, Đảng ta đã ban hành nhiều chủ trương, nghị
quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hiện nay đang triển khai quán triệt, tổ
chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XII) về tăng cường xây dựng
4



chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Nghị
quyết đã xác định nhiều chủ trương, giải pháp về công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, trong đó nhấn mạnh phải “Thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả việc học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Chỉ thị số 05CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị”, góp phần xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh, thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội XII của Đảng; đồng thời
thực hiện tốt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh“Lợi ích của Đảng gồm có lợi
ích của đảng viên. Vì vậy sự phát triển và thành công của Đảng, một mặt là
thành công của dân tộc, một mặt là thành công của đảng viên. Vì vậy chỉ khi có
Đảngthành công và thắng lợi thì đảng viên mới có thể thành công và thắng
lợi.”1
2. Vận dụng nền tảng lí luận của tác phẩm Đường Kách mệnh vào công tác
phòng chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu
hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng:
2.1. Những nội dung cơ bản về tư cách người cách mệnh trong tác phẩm
Đường Kách mệnh của Nguyễn Ái Quốc:
Mở đầu tác phẩm, Người trình bày về “Tư cách một người cách mệnh”2,
bao hàm 3 phần; trong đó “Tự mình phải”: cần kiệm, hòa mà không tư, cả
quyết sữa lỗi mình, cẩn thận mà không nhút nhát, hay hỏi, nhẫn nại, hay nghiên
cứu, xem xét; vị công vong tư, không hiếu danh, không kiêu ngạo; nói thì phải
làm; giữ chủ nghĩa cho vững; hy sinh; ít lòng ham muốn về vật chất, bí mật. Đối
người phải: với từng người thì khoan thứ; với đoàn thể thì nghiêm, có lòng bày
vẽ cho người; trực mà không táo bạo, hay xem xét người. Làm việc phải: xem
xét hoàn cảnh kĩ càng, dũng cảm, phục tùng đoàn thể.
1

Báo cáo tổng kết Nghị quyết TW 4-khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” trình bày
tại Đại hội XII của Đảng.

2

Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 260

5


Với ba nội dung trên, Người nêu bật vấn đề cơ bản về đạo đức của người
cán bộ, đảng viên. Nói lên tư cách và phẩm hạnh của “người cách mệnh” phải
chí công vô tư, đặt lợi ích của tập thể lên trên lợi ích cá nhân, biết hy sinh lợi ích
cá nhân vì lợi ích chung của cách mạng. Đã là người cách mệnh thì phẩm chất
phải luôn khiêm tốn, giản dị, không kiêu ngạo; ít lòng ham muốn vật chất.
Trong “Tự mình phải”, Người đề cập đến phong cách làm việc khoa học
của người cách mạng là phải sâu sát, tỉ mỉ, phải luôn khiêm tốn học hỏi trong
công việc. Trong điều hành thì bao giờ cũng lật lại vấn đề: “Tại sao như thế?,
làm như thế nào?”; Trong lập trường tư tưởng phải giữ chủ nghĩa cho vững,
kiên định lập trường của người cách mạng, hy sinh, gian khổ không chùn
bước... Người đề nghị đối với “Tự mình phải” cần phòng tránh, ngăn ngừa các
biểu hiện rụt rè, bệnh kiêu ngạo, đố kỵ, cần đấu tranh chống lại những biểu hiện
chủ nghĩa cá nhân mà trong quá trình công tác, người cán bộ đảng viên thường
hay vấp phải, làm cho mình không giữ được nhân cách của người cách mệnh.
Trong “Đối người phải” khoan dung, tha thứ. Trong quan hệ đồng chí,
đồng nghiệp, bạn bè phải có lòng khoan dung, độ lượng, cùng giúp nhau để phát
triển đi lên. Đặc biệt là trong cách ứng xử đối với nhưng người có khuyết điểm,
có sai lầm thì nên khoan dung, độ lượng, tha thứ để sau những sai lầm, vấp ngã
đó mà người ta cóthể khắc phục thiếu sót, rồi trưởng thành, phát triển và đi lên.
Trong làm việc phải: xem xét hòan cảnh kĩ càng. Vì làm “việc kách
mệnh” là làm những việc rất khó; làm việc “cách mệnh” là làm việc liên quan
đến vấn đề giải phóng con người, nếu không xem xét hoàn cảnh kĩ càng mà đưa
ra những quyết định nóng vội, chủ quan, áp đặt cá nhân thì nhiều khi dẫn đến

những hậu quả xấu, ảnh hưởng đến tình cảm đồng chí, đồng đội. Vì vậy, Người
nhấn mạnh rằng: Thời nào cũng vậy, đã là người cách mệnh thì phải làm việc
xem xét hoàn cảnh kĩ càng nhưng phải dũng cảm; người cách mệnh phải dũng
cảm không chỉ đối mặt trước kẻ thù mà dũng cảm đưa ra những quyết định đúng
lúc, kịp thời có lợi cho cách mạng. Khi có thành tích thì nhận nhưng khi có
6


khuyết điểm, sai lầm thì cũng phải dũng cảm nhận. Người cũng nhấn mạnh khi
làm việc phải biết phục tùng đoàn thể. Khi sinh họat trong một tập thể thì những
quyết định, sự phân công, bố trí, giao nhiệm vụ thì phải cố gắng hòan thành;
không được né tránh vì từ đó dễ sinh ra bệnh lười biếng.
Có thể nói với 3 nội dung cơ bản nêu lên trong “Tư cách một người cách
mệnh” nêu bậc lên đạo đức của người cách mạng phải có tài, trí và dũng; tư
cách và năng lực của người cách mạng; biết đặt lợi ích của tập thể lên trên hết,
trước hết; nó khác hẳn với chủ nghĩa cá nhân. Với những lời căn dặn này cho
thấy, Người đã đặt vấn đề đạo đức cách mạng một cách rất lôgic và có cơ sở
khoa học về các quan hệ lợi ích. Đánh giá cao vai trò, vị trí của đạo đức, coi đạo
đức là gốc, là nền tảng của người cách mạng, liên quan đến sự thành bại của
cách mạng, với một quan niệm mới, Hồ Chí Minh đã đưa vào nội dung đạo đức
cách mạng bao hàm những vấn đề cơ bản về nhân sinh quan, thế giới quan cách
mạng, về ý thức và phương pháp tư tưởng của giai cấp công nhân.
Người coi việc giáo dục đạo đức cách mạng là một trong những nguyên
tắc cơ bản, nhằm xây dựng những con người cách mạng chân chính, để tiến tới
xây dựng một Đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân Việt Nam.
Đây cũng là một bài học quan trọng hàng đầu đối với tổ chức tiền thân của
Đảng - Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, vì số đông lớp cán bộ khi đó
thuộc thành phần tiểu tư sản trí thức. Có đạo đức cách mạng, những thanh niên
tiểu tư sản trí thức đó mới tiếp thu được tinh thần và bản chất của chủ nghĩa
Mác - Lênin, mới tự nguyện phấn đấu, quyết tâm hy sinh suốt đời cho sự nghiệp

giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp.
2.2. Giá trị định hướng cho cán bộ, đảng viên tự học tập, rèn luyện, tu dưỡng
đạo đức cách mạng, phòng chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ
Đảng:
7


Việc ban hành Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) cho thấy quyết tâm
rất lớn của Đảng trong ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đặc biệt, Nghị
quyết lần này đã thẳng thắn chỉ rõ những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” làm cơ sở để đấu
tranh, khắc phục. Nghị quyết xác định 4 nhóm giải pháp mang tính cơ bản, toàn
diện, khoa học và có mối quan hệ biện chứng với nhau. Theo đó, các cấp ủy, tổ
chức đảng cần nhận thức sâu sắc về nguy cơ, nhận diện đúng những biểu hiện
và đề ra các giải pháp phù hợp để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; gắn thực hiện nghị quyết Trung ương
4 với Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về đẩy mạnh việc học tập
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Quy định về những
điều đảng viên không được làm, tạo sức mạnh tổng hợp để ngăn chặn, đẩy lùi
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đồng thời, làm tốt công
tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, phát huy vai trò
của các tổ chức đảng và đảng viên trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa”; kiên quyết khắc phục những yếu kém trong công tác cán bộ và
quản lý cán bộ. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo,
quản lý các cấp có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức, trách nhiệm năng lực
tốt và động cơ phấn đấu đúng đắn, thực sự tiên phong, gương mẫu, luôn đặt lợi
ích của tập thể, quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích cá nhân.

Trong những căn bệnh của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, suy thoái về
tư tưởng, chính trị là căn bệnh nguy hiểm hàng đầu, là căn nguyên gây ra nhiều
căn bệnh khác. Ở nước ta, ngay từ khi chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức
cho sự ra đời của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan tâm đến việc
chống thoái hóa, biến chất cho cán bộ, đảng viên và tổ chức Đảng. Ngay trong
tác phẩm Đường Cách mệnh viết năm 1927, Người chỉ rõ: “Đảng muốn vững
8


thì phải có chủ nghĩa làm nòng cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, phải theo
chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa thì cũng như người không có trí
khôn, tàu không có bàn chỉ nam”.
Những lời dạy của Người về “Tư cách một người cách mệnh” trong tác
phẩm “ Đường Kách mệnh” ra đời cách nay 90 năm nhưng đến nay vẫn còn
nguyên giá trị, mang tính thời sự và đặc biệt có ý nghĩa to lớn khi cả nước ta
đang thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XII về “tăng cường xây dựng,
chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ”. Bởi,
với nhãn quan chính trị của một nhà cách mạng chân chính, Người sớm nhận ra
đạo đức cách mạng là gốc của mọi vấn đề. Đó chính là phải trung thành với lý
tưởng và mục tiêu, phải kiên định với sự nghiệp đấu tranh, và nhất là phải giữ
chủ nghĩa cho vững và ít lòng ham muốn về vật chất. Muốn đi làm cách mạng,
trước hết cán bộ đảng viên phải thấm nhuần đạo đức tư cách người cách mạng.
Cái Đức chính là cái bảo đảm cho người cách mạng “giữ vững được chủ nghĩa”
mà mình đã giác ngộ, đã chấp nhận, đã đi theo.
Muốn áp dụng được những lời dạy trong Đường Kách mệnh vào thực tiễn
cách mạng giai đoạn hiện nay, cán bộ - đảng viên cần phải tích cực, thường
xuyên tăng cường giáo dục Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho đội
ngũ cán bộ, đảng viên. Đồng thời, các cơ quan cấp ủy Đảng cần giáo dục nâng

cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội; về tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội và những hạn chế không
thể tránh khỏi trên con đường phát triển. Giáo dục nâng cao nhận thức cho cán
bộ, đảng viên về những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi
mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Nhận thức rõ những hạn chế,
bất cập không thể tránh khỏi trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện cơ chế thị trường, mở cửa, hội nhập quốc
9


tế. Đồng thời, nhận thức đúng đắn, có cơ sở lý luận và thực tiễn về bản chất của
chủ nghĩa tư bản. “Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ
tiến tới chủ nghĩa xã hội” như Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định.
Kết luận:
Cuốn sách “Đường Kách mệnh” là tác phẩm tập hợp các bài giảng của
đồng chí Nguyễn Ái Quốc tại các lớp huấn luyện cán bộ của Hội Việt Nam
Cách mạng Thanh niên, tổ chức tại Quảng Châu (Trung Quốc) trong những năm
1925-1927. Đây là những bài giảng được Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp
các dân tộc bị áp bức tập hợp lại và xuất bản thành sách năm 1927.
Với cách viết súc tích, ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, cuốn sách “Đường kách
mệnh” hàm chứa giá trị lý luận và thực tiễn to lớn, đóng vai trò quan trọng trong
việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, trong việc kết hợp phong
trào yêu nước với chủ nghĩa Mác, tạo lập các tiền đề tư tưởng, lý luận cho sự ra
đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nét độc đáo của cuốn sách này là tuy không phải là một tác phẩm chuyên
luận về đạo đức cách mạng nhưng ở ngay trang đầu cuốn sách, Nguyễn Ái Quốc
đã đề cập đến vấn đề đạo đức tư cách của người cán bộ cách mạng. Đây cũng
chính là “cái gốc” của người cán bộ. Một tác phẩm truyền bá lý luận chủ nghĩa
Mác nhưng trước hết lại nói về đạo đức, về nhân cách, trong đó Người đặc biệt

nhấn mạnh những phẩm chất đạo đức, hành vi, lối sống, cách ứng xử của người
cách mạng đối với chính mình, đối với người khác, đối với tổ chức, đoàn thể,
đối với công việc. Điều này cho thấy sự nhạy cảm của Nguyễn Ái Quốc đối với
vấn đề đạo đức. Đó là động lực tinh thần thúc đẩy hành động cách mạng. Đó
còn là bảo đảm đạo đức cho sự thành công của cách mạng. Chỗ sâu sắc và tinh
tế của Nguyễn Ái Quốc là, đạo đức không tách rời năng lực, tư duy, trí tuệ. Đạo
đức của người cách mạng là đạo đức hành động, vì sự nghiệp lớn cứu dân, cứu
10


nước cho nên phải chú trọng động cơ, thực hành lối sống, trau dồi bản lĩnh, ấy
là đạo đức chính trị, trong hoạt động chính trị để thực hiện lý tưởng và mục tiêu
cách mạng. Chỉ trong một trang viết, Người đã trình bày tới 14 tiêu chí của đạo
đức cá nhân trong quan hệ với tự mình (tự rèn luyện, tự biểu hiện, tự ứng xử,
bao quát cả chuẩn mực, đức tính, cả thái độ, động cơ, cả lựa chọn giá trị, cả
phương châm hành động) 5 tiêu chí xác định thái độ, quan hệ với người khác và
4 tiêu chí định hướng trong quan hệ với công việc, làm việc, hoạt động.
Qua đó, ta thấy nổi bật phương pháp tư duy biện chứng (tư duy trên các
lớp quan hệ, trong trạng thái động, trong tác động chủ thể với đối tượng, con
người với hoàn cảnh, con người với tổ chức), sự thống nhất giữa tư tưởng,
phương pháp với phong cách của Nguyễn Ái Quốc. Lý thuyết đạo đức cách
mạng “cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư” đã được hình thành từ đây. Tư
tưởng về vai trò của đạo đức trong hoạt động và đấu tranh cách mạng, sự trù
tính phải kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, vượt lên trên chủ nghĩa cá nhân
để toàn tâm toàn ý phụng sự lý tưởng cách mạng cũng bắt đầu hình thành từ tác
phẩm này. Đó là những tư tưởng sâu sắc, những dự cảm, tiên liệu thiên tài của
Người, còn có giá trị mãi về sau này và đang trở nên rất thời sự trong tình hình
hiện nay (nói thì phải làm, giữ chủ nghĩa cho vững, không hiếu danh, không
kiêu ngạo, ít lòng tham muốn về vật chất).
Nhận diện đúng đắn, đấu tranh, khắc phục kịp thời những biểu hiện của

sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” thông qua việc vận dụng những tư
tưởng về “Tư cách người cách mệnh” trong tác phẩm Đường Kách mệnh là biện
pháp hết sức quan trọng để khắc phục những hiểm họa khôn lường mà nó gây ra
đối với Đảng và chế độ ta. Làm được điều đó, sẽ góp phần nâng cao chất lượng
công tác xây dựng Đảng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, củng cố niềm tin
của nhân dân đối với Đảng, chế độ và làm thất bại những mưu đồ lợi dụng vấn
đề “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” để chống phá cách mạng nước ta của các thế
lực thù địch.
11


Tài liệu tham khảo:
1. Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng (2002), Chủ tịch Hồ Chí
Minh với Công tác tư tưởng, lý luận (Kỷ yếu hội thảo khoa học), Nxb
Chính trị Quốc gia.
2. Nguyễn Đình Đài (2006), Nguyễn Ái Quốc sự sáng tạo trong thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam, giá trị lịch sử và hiện thực, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
3. ThS. Văn Thị Thanh Mai (2007), Góp phần tìm hiểu tư tưởng và đạo đức
Hồ Chí Minh (sách tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 10, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Phạm Quốc Thành (2014), Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong sự sáng lập
Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
Tác giả: Trần Hoài Vũ, Sinh viên khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn - ĐHQG TP. Hồ Chí Minh.
Địa chỉ: 692 Nguyễn Duy Trinh, P.Bình Trưng Đông, Q.2, TP.Hồ Chí Minh.
Điện thoại: 0963236108

Email:


12



×