Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất nông nghiệp và thực tiễn áp dụng tại địa bàn tỉnh lạng sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (701.21 KB, 101 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

VI THỊ YẾN QUỲNH

PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

VI THỊ YẾN QUỲNH

PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI ĐỊA BẢN TỈNH LẠNG SƠN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60380107

Người hướng dẫn khoa học: TS.TRẦN QUANG HUY


HÀ NỘI, NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn tốt nghiệp: "Pháp luật về giải quyết tranh
chấp quyền sử dụng đất nông nghiệp và thực tiễn áp dụng tại địa bàn tỉnh
Lạng Sơn" là công trình nghiên cứu của bản thân. Những phần sử dụng tài
liệu tham khảo trong luận văn đã được nêu rõ trong danh mục tài liệu tham
khảo. Các kết quả trình bày trong luận văn là hoàn toàn trung thực, nếu sai tôi
xin chịu hoàn toàn trách nhiệm trước khoa và nhà trường.
Tác giả
VI THỊ YẾN QUỲNH


LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành tốt luận văn này, em xin chân thành gửi lời cảm
ơn tới TS.Trần Quang Huy, người đã hướng dẫn tận tình và giúp đỡ em rất
nhiều trong quá trình thực hiện luận văn của mình.
Em chân thành cảm ơn các thầy, cô trong khoa Sau đại học, các thầy cô
của Trường Đại học Luật Hà Nội đã truyền đạt kiến thức trong thời gian qua.
Với vốn kiến thức được tiếp thu trong quá trình học không chỉ là nền tảng cho
quá trình nghiên cứu luận văn mà còn là hành trang quí báu để em bước vào
đời một cách vững chắc và tự tin.
Em xin chân thành cảm ơn


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

LĐĐ


Luật Đất đai

TCĐĐ

Tranh chấp đất đai

QSDĐ

Quyền sử dụng đất

UBND

Uỷ ban nhân dân


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài ..........................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu ..............................................................................................2
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ..............................................................................3
4. Mục tiêu nghiên cứu ...............................................................................................4
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................5
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn ...........................................................5
7. Bố cục của luận văn ................................................................................................5
Chương 1. CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG
ĐẤT NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP Ở NƯỚC TA ....................................7
1.1. Những vấn đề lý luận chung về tranh chấp quyền sử dụng đất nông nghiệp .....7
1.1.1. Khái niệm tranh chấp đất đai, tranh chấp quyền sử dụng đất nông
nghiệp ............................................................................................................ 7

1.1.2. Phân loại tranh chấp quyền sử dụng đất nông nghiệp.......................... 13
1.1.3. Đặc điểm của tranh chấp quyền sử dụng đất nông nghiệp ................... 15
1.1.4. Nguyên nhân, hậu quả của tranh chấp quyền sử dụng đất nông nghiệp
..................................................................................................................... 18
1.2. Những vấn đề lý luận chung về pháp luật giải quyết tranh chấp quyền sử dụng
đất nông nghiệp .........................................................................................................24
1.2.1. Khái niệm pháp luật giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất nông
nghiệp .......................................................................................................... 24
1.2.2. Pháp luật giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất nông nghiệp của các
thời kỳ .......................................................................................................... 26


Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP TẠI TỈNH LẠNG
SƠN.......................................................................................................................... 34
2.1. Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất nông
nghiệp .......................................................................................................... 34
2.1.1. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất nông nghiệp .... 34
2.1.2. Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp QSDĐ nông nghiệp ................ 36
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất nông
nghiệp trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn ............................................................................47
2.2.1. Tình hình tranh chấp quyền sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh
Lạng Sơn ...................................................................................................... 47
2.2.2. Những thuận lợi và khó khăn trong giải quyết tranh chấp quyền sử dụng
đất nông nghiệp tại địa bàn tỉnh Lạng Sơn.................................................... 50
2.2.3. Thực tiễn áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất
nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn ....................................................... 53
Chương 3 . NHỮNG VƯỚNG MẮC PHÁT SINH TỪ THỰC TIỄN GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP VÀ MỘT

SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP ............................................. 68
3.1. Đánh giá chung về tình hình giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất nông
nghiệp trong thời gian qua ........................................................................................68
3.2. Những khó khăn, vướng mắc phát sinh từ thực tiễn giải quyết tranh chấp quyền
sử dụng đất nông nghiệp ...........................................................................................69
3.2.1. Về lãnh đạo, chỉ đạo ........................................................................... 69
3.2.2. Bất cập trong quy định của pháp luật .................................................. 69
3.2.3. Việc hòa giải còn mang tính hình thức................................................ 72


3.2.4. Vướng mắc trong cơ chế phối hợp giữa các cơ quan........................... 73
3.2.5. Khó khăn trong việc tổ chức thực hiện ............................................... 74
3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giải quyết tranh chấp quyền sử
dụng đất nông nghiệp................................................................................................79
3.3.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự giám sát của cơ quan dân cử ... 79
3.3.2. Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất nông
nghiệp………………………………………………………………………..79
3.3.3. Tăng cường bồi dưỡng trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ thực
hiện công tác giải quyết tranh chấp đất đai ................................................... 82
3.3.4. Tổ chức tuyên truyền pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng
dất nông nghiệp ............................................................................................ 86
3.3.5. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan .......................................... 87
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 89


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thực tiễn xã hội ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ trên
các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, tất yếu cũng nảy sinh nhiều sự vụ,

sự việc bức xúc, phức tạp liên quan đến những vấn đề quan trọng trong đời
sống hàng ngày của mỗi người dân chúng ta. Trong đó, có những vấn đề nổi
cộm và tồn đọng kéo dài, liên quan đến công tác đầu tư xây dựng cơ bản và
quản lý sử dụng đất đai, việc giải quyết tranh chấp đất đai, là công việc cấp
bách cần giải quyết kịp thời và đúng quy định của pháp luật. Những năm gần
đây tình hình tranh chấp đất đai ngày càng gia tăng về số lượng và phức tạp
về tính chất. Các dạng tranh chấp đất đai phổ biến trong thực tế là: tranh chấp
hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp quyền sử
dụng đất, tranh chấp do lấn, chiếm đất; tranh chấp quyền sử dụng đất và tài
sản gắn liền với đất; tranh chấp đất đai trong các vụ án ly hôn...Có thể liệt kê
nhiều nguyên nhân dẫn đến tranh chấp đất đai như: Việc quản lý đất đai còn
nhiều thiếu sót, sơ hở; việc giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất tiến hành chậm; việc lấn chiếm đất đai diễn ra ngày càng phổ biến nhưng
không được ngăn chặn, xử lý kịp thời; đất đai từ chô chưa được thừa nhận có
giá trị nay trở thành tài sản có giá trị cao.
Ở Việt Nam, Nhà nước là chủ sở hữu duy nhất đối với đất đai nhưng
không trực tiếp khai thác, sử dụng đất mà trao quyền sử dụng cho các tổ chức,
hộ gia đình, cá nhân. Trên thực tế, trong khi sở hữu toàn dân được duy trì như
một khái niệm chính trị, quyền của chủ sử dụng đất đã ngày càng trở thành
quyền tài sản có giá trị thượng mại, dễ dàng giao dịch. Đối với đất nông
nghiệp, quyền của nông dân với đất nông nghiệp cũng ngày càng được ổn
định, thời hạn sử dụng kéo dài tới 50 năm và có thể được gia hạn. Chính vì
vậy cùng các loại tranh chấp khác, tranh chấp về quyền sử dụng đất nông
nghiệp xảy ra khá phổ biến hiện nay. Thực tế trong những năm qua, tranh
chấp quyền sử dụng đất nông nghiệp là vấn đề phức tạp, nổi cộm ở nhiều địa
phương đặc biệt làm ở những vùng chuyên canh sản xuất nông nghiệp. Ở
1


vùng nông thôn nơi mà đa phần người dân sống bằng nghề nông thì đất đai

không chỉ là tài sản có giá trị cao mà còn là tư liệu sản xuất quan trọng.
Nhà nước rất quan tâm đến vấn đề này, và đã có nhiều dành nhiều thời
gian chỉ đạo, xem xét, giải quyết và giải quyết dứt điểm được nhiều vụ việc
tranh chấp đất đai. Tuy nhiên trên thực tế vẫn tồn tại bất cập trong quá trình
giải quyết tranh chấp làm cho vụ việc tranh chấp trở nên phức tạp, khó khăn,
bị dây dưa, kéo dài trong nhiều tháng, nhiều năm vụ việc không giải quyết dứt
điểm làm ảnh hưởng nhiều đến hiệu lực quản lý nhà nước và quyền lợi ích
hợp pháp chính đáng của công dân bị tổn thương, xâm hại.
2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu và các bài viết liên
quan đến đề tài tranh chấp đất đai dưới nhiều góc độ tiếp cận khác nhau, mục
đích nghiên cứu khác nhau và dẫn đến quan điểm khác nhau, kết quả nghiên
cứu khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu, cách tiếp cận vấn đề. Có
rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về tranh chấp đất đai như:
Các luận văn, luận án: “Pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất theo
Luật Đất đai năm 2003 và Bộ luật Dân sự năm 2005”, Luận văn thạc sỹ luật
học của Nguyễn Văn Phước (2007), Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh.
Luận án tiến sĩ của Mai Thị Tú Oanh với đề tài “Tranh chấp đất đai và giải
quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta” năm 2013.
Các bài báo cáo tham luận: Bài viết “Các giải pháp nhằm hạn chế tranh
chấp phát sinh khi thu hồi đất nông nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa,
đô thị hóa hiện nay” của tác giả Lê Đức Thịnh. Báo cáo tham luận “Tranh
chấp đất đai và khiếu kiện kéo dài: Những nguyên nhân có tính lịch sử” của
TS. Nguyễn Quang Tuyến tại hội thảo “Tình trạng tranh chấp và khiếu kiện
đất đai kéo dài.
Các bài đăng trên tạp chí: Bài viết “Bàn về khái niệm tranh chấp đất đai
trong Luật đất đai 2003” đăng trên Tạp chí Khoa học pháp luật số 2 (33) năm
2006 của Lưu Quốc Thái, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh.

2



“Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Toàn án nhân dân”, Tạp chí
Toà án nhân dân của TS. Trần Quang Huy (2004),
Các báo cáo nghiên cứu: Báo cáo nghiên cứu Hòa giải tranh chấp đất
đai tại Việt Nam phân tích pháp luật hiện hành, các thực tiễn và khuyến nghị
cho cải cách tác giả Nguyễn Quang Tuyến, Nguyễn Hải An, Nguyễn Thị
Hường và các công sự (2013), Giải quyết tranh chấp trong thu hồi đất nông
nghiệp của tác giả Phạm Duy Nghĩa (2014).
Tuy có nhiều các công trình nghiên cứu và bài viết về tranh chấp đất
đai và giải quyết tranh chấp đất đai nhưng chưa có bài viết, công trình nghiên
cứu nào riêng về tranh chấp quyền sử dụng đất nông nghiệp. Bên cạnh đó đa
số các bài biết chủ yếu chỉ xem xét dưới góc độ giải quyết tranh chấp bằng
Tòa án mà không đề cập nhiều đến giải quyết tại cơ quan hành chính nhà
nước. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về tranh chấp đất đai và giải
quyết tranh chấp đất đai đã làm giàu thêm kiến thức lý luận và thực tiễn về
vấn đề tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai. Tuy nhiên, vấn đề
giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất nông nghiệp ở Việt Nam chưa được
nghiên cứu một cách chuyên sâu. Do đó, trên cơ sở các công trình nghiên cứu
về tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai nói chung, tác giả đi sâu
vào nghiên cứu tranh chấp đối với quyền sử dụng đất nông nghiệp từ thực tiễn
tại tỉnh Lạng Sơn. Chính vì như vậy, tác giả lựa chọn đề tài nghiên cứu trên
gắn với thực tiễn tại tỉnh Lạng sơn làm luận văn nghiên cứu của mình.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Luận văn có đối tượng nghiên
cứu là các văn bản quy phạm pháp luật có nội dung về tranh chấp quyền sử
dụng đất nông nghiệp; thực tiễn công tác giải quyết tranh chấp quyền sử dụng
đất nông nghiệp tại tỉnh Lạng Sơn thông qua một số vụ án cụ thể trong những
năm gần đây.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu các tranh

chấp về quyền sử dụng đất nông nghiệp, các loại tranh chấp đất đai khác sẽ

3


không được đề cập đến trong luận văn, tuy nhiên cũng có sự so sánh giữa
tranh chấp quyền sử dụng đất nông nghiệp với các loại tranh chấp khác để
làm nổi bật đặc điểm của tranh chấp quyền sử dụng đất nông nghiệp.
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về tranh chấp quyền sử
dụng đất nông nghiệp trên cơ sở nền tảng lý luận về tranh chấp đất đai đã có
và các công trình nghiên cứu có liên quan.
Luận văn nghiên cứu các quy định về tranh chấp quyền sử dụng đất
nông nghiệp trong Luật đất đai qua các thời kỳ, văn bản hướng dẫn thi hành
Luật đất đai qua các thời kỳ. Bên cạnh đó, Bộ Luật dân sự và Bộ luật tố tụng
dân sự cũng được nghiên cứu để giải quyết những mục tiêu của luận văn.
Thực trạng giải quyết tranh chấp quyền dụng đất nông nghiệp sẽ được
xem xét và nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
4. Mục tiêu nghiên cứu
- Thứ nhất, nghiên cứu làm rõ khái niệm tranh chấp đất đai, tranh chấp
quyền sử dụng đất nông nghiệp và giải quyết tranh chấp về QSDĐ nông
nghiệp cũng như các khái niệm khác có liên quan, để từ đó phân tích đặc điểm
của tranh chấp quyền sử dụng đất nông nghiệp, nguyên nhân và hậu quả của
tranh chấp đất đai và xác định vai trò giải quyết tranh chấp của các cơ quan.
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền sử dụng đất nông nghiệp, tranh
chấp QSDĐ và cơ chế giải quyết tranh chấp.
- Thứ hai, nghiên cứu các yếu tố chi phối việc giải quyết tranh chấp
QSDĐ nông nghiệp, căn cứ đánh giá hiệu quả và các yếu tố quyết định hiệu
quả của việc giải quyết tranh chấp đất đai tại toà án.
- Thứ ba, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về giải quyết tranh
chấp QSDĐ nông nghiệp hiện nay. Nghiên cứu và đánh giá thực tiễn áp dụng

pháp luật để giải quyết tranh quyền sử dụng đất trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn từ
đó chỉ ra những khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết tranh chấp
đất đai của tòa án hiện nay.

4


- Thứ tư, nêu các phương hướng và đề xuất các giải pháp cụ thể, thích
hợp góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp
QSDĐ, giúp các cơ quan chức năng giải quyết các tranh chấp này một cách
có hiệu quả, tránh việc khiếu kiện kéo dài gây ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt
của đời sống xã hội.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài vận dụng các phương pháp của Chủ nghĩa duy vật biện chứng
Mác – Lênin và các phương pháp chuyên ngành khoa học pháp lý để giải
quyết những vấn đề lý luận và pháp lý liên quan đến quy định về giải quyết
trnah chấp quyền sử dụng đất nông nghiệp. Ngoài ra, phương pháp nghiên
cứu lý thuyết, phương pháp phân tích quy phạm, chứng minh, luật học so
sánh, thống kê, tổng hợp được sử dụng để nhằm giải quyết vấn đề một cách
hợp lý và rõ ràng nhất.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực tranh chấp
đất đai nhưng chưa có đề tài nào tập trung chuyên sâu về tranh chấp quyền sử
dụng đất nông nghiệp. Các kết quả nghiên cứu của đề tài này có thể được sử
dụng làm tài liệu tham khảo ở các cơ sở đào tạo và nghiên cứu về luật học.
Những kết luận và đề xuất, kiến nghị mà luận văn nêu ra đều có cơ sở khoa
học và thực tiễn, vì vậy chúng có giá trị tham khảo trong việc sửa đổi pháp
luật và trong công tác giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất nông nghiệp
của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
7. Bố cục của luận văn


Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về tranh chấp quyền sử dụng đất nông
nghiêp và pháp luật giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất nông nghiệp
Chương 2: Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử
dụng đất nông nghiệp và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Lạng Sơn

5


Chương 3: Những vướng mắc phát sinh từ thực tiễn giải quyết tranh
chấp quyền sử dụng đất nông nghiệp và một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu
quả giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất nông nghiệp

6


Chương 1. CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP QUYỀN
SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP Ở NƯỚC TA
1.1. Những vấn đề lý luận chung về tranh chấp quyền sử dụng đất
nông nghiệp
1.1.1. Khái niệm tranh chấp đất đai, tranh chấp quyền sử dụng đất
nông nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm tranh chấp đất đai
TCĐĐ là một hiện tượng mâu thuẫn, xung đột nhau về quyền chiếm
hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt về đất đai trong đời sống xã hội. Tuỳ
thuộc vào bản chất của xã hội ở mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau mà TCĐĐ giữa
các chủ thể cũng khác nhau. Trong xã hội tồn tại lợi ích giai cấp đối kháng thì

TCĐĐ mang màu sắc chính trị, đất đai luôn là đối tượng tranh chấp giữa giai
cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột. Ở xã hội không tồn tại mâu thuẫn về lợi ích
giai cấp đối kháng, TCĐĐ thường là xung đột về lợi ích kinh tế, quyền và
nghĩa vụ của các bên. Việc giải quyết TCĐĐ do các bên tự tiến hành thông
qua con đường thương lượng, hòa giải hoặc do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền thực hiện dựa trên việc áp dụng các quy định của pháp luật.
Đối với khái niệm TCĐĐ, hiện nay có rất nhiều cách hiểu khác nhau.
Do đó, làm rõ khái niệm TCĐĐ có ý nghĩa thực tiễn quan trọng chứ không
chỉ là vấn đề mang tính học thuật. Về mặt nội dung, việc làm này giúp xác
định chính xác đối tượng tranh chấp trong TCĐĐ, giúp việc nghiên cứu và áp
dụng pháp luật một cách chính xác và thống nhất hơn. Về mặt phương pháp
luận, nó sẽ giúp tránh được trường hợp quy định của luật này chồng lấn lên
luật kia, giúp hoàn thiện pháp luật đất đai nói riêng và hệ thống pháp luật Việt
Nam nói chung.
Có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm TCĐĐ. Có quan điểm cho
rằng, TCĐĐ chỉ là những tranh chấp liên quan đến QSDĐ. Lại có quan điểm
cho rằng, TCĐĐ mọi tranh chấp phát sinh trong quan hệ đất đai bao gồm

7


tranh chấp về QSDĐ, tranh chấp về tài sản gắn liền với đất, tranh chấp liên
quan đến địa giới hành chính, mục đích sử dụng đất. Các luồng quan điểm
dưới các góc nhìn khác nhau đều có sự hợp lý và đúng đắn.
Với ý kiến cho rằng, chỉ nên hiểu TCĐĐ là tranh chấp về quyền sử
dụng đất đai tác giả đưa ra lý lẽ: Một là, xuất phát từ chế độ sở hữu toàn dân
đối với toàn bộ đất đai, NSDĐ chỉ có quyền sử dụng đối với đất đai, vì vậy,
cái mà họ xung đột chỉ có thể là các mâu thuẫn, xung đột về QSDĐ; Hai là,
các thuật ngữ TCĐĐ và tranh chấp QSDĐ đã được sử dụng như những thuật
ngữ thay thế nhau kể từ LĐĐ 1987 đến nay mà không hề có sự phân biệt. Hơn

nữa, các tranh chấp có liên quan đến QSDĐ của NSDĐ (gồm tranh chấp tài
sản gắn liền với đất, tranh chấp hợp đồng giao dịch QSDĐ) cũng đã từng
được định danh cụ thể trong một số văn bản hướng dẫn về thẩm quyền giải
quyết tranh chấp liên quan đến đất đai với tên gọi là “tranh chấp liên quan đến
QSDĐ”, chứ không phải là TCĐĐ một cách chung chung1.
Quan điểm cho rằng TCĐĐ là mọi tranh chấp phát sinh trong quan hệ
đất đai bao gồm tranh chấp về QSDĐ, tranh chấp về tài sản gắn liền với đất,
tranh chấp liên quan đến địa giới hành chính, mục đích sử dụng đất... Quan
điểm này được nhiều cơ quan có thẩm quyền giải quyết chấp nhận, vì quan
điểm nay phù hợp với các quy định về tranh chấp đất đai và giải quyết tranh
chấp đất đai ở nước ta hiện nay2.
Theo Giáo trình Luật đất đai của Trường Đại học Luật Hà Nội thì:
“Tranh chấp đất đai là sự bất đồng, mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, về
quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật đất
đai”. Theo Sổ tay Thuật ngữ Pháp lý thông dụng: “Tranh chấp đất đai:
Tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật đất đai về
quyền và nghĩa vụ trong quá trình quản lý và sử dụng đất đai”. Như vậy, xét
1
Lưu Quốc Thái (2006), “Bàn về khái niệm tranh chấp đất đai trong Luật đất đai năm 2003”, Tạp chí Khoa
học pháp luật (4), tr.33.
2
Trương Thế Côn (2012), “Những bất cập trong quy định của pháp luật về tranh chấp và giải quyết tranh
chấp đất đai”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (3), tr.46.

8


về mặt học thuật, các nhà nghiên cứu nước ta quan niệm TCĐĐ là những bất
đồng, mâu thuẫn về quyền và nghĩa vụ sử dụng đất trong quá trình sử dụng
đất giữa những người sử dụng đất với nhau hoặc giữa họ với tổ chức, cá nhân

khác.
Khái niệm TCĐĐ lần đầu tiên được luật hóa trong Luật Đất đai 2003.
Trước đó, cần phải thông qua các quy định pháp luật về giải quyết TCĐĐ
người ta mới có thể hiểu về khái niệm này. Tại khoản 26, Điều 4 của Luật Đất
đai 2003 đã định nghĩa: “Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền và nghĩa
vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai”.
Quy định này vẫn được giữ nguyên tại Khoản 24, Điều 3 Luật Đất đai 2013.
Như vậy, dưới góc độ pháp lý, thì TCĐĐ là khái niệm lớn bao hàm cả
tranh chấp về QSDĐ, tranh chấp về tài sản gắn liền với đất, tranh chấp về địa
giới hành chính... Đối tượng của TCĐĐ là các quyền và nghĩa vụ của người
sử dụng đất, có nghĩa là trong quá trình quản lý và sử dụng đất, người sử dụng
đất làm phát sinh tranh chấp với người khác khi sử dụng những quyền và
nghĩa vụ của mình. Còn chủ thể của TCĐĐ có thể là giữa các chủ thể sử dụng
đất với nhau hoặc giữa người sử dụng đất với bất kỳ bên thứ ba nào khác
trong quan hệ đất đai. Chính vì vậy, pháp luật về đất đai đã phân ra hai hệ
thống cơ quan khác nhau có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai đó là hệ
thống cơ quan xét xử (Tòa án nhân dân) và hệ thống cơ quan quản lý hành
chính nhà nước (Ủy ban nhân dân)3.
Tuy nhiên, cách định nghĩa TCĐĐ tại khoản 24 Điều 3, Luật Đất đai
2013 chưa thực sự khoa học bởi vì: quy định trên đã lấy một thuật ngữ đang
cần làm rõ nội hàm là cụm từ “tranh chấp” để định nghĩa cho một khái niệm
có nội hàm tương tự TCĐĐ. Khách quan cũng phải thừa nhận rằng, định
nghĩa TCĐĐ theo quy định pháp luật hiện hành chưa rõ ràng, phải thông qua
các quy định pháp luật khác mới có thể nắm được rõ nội hàm của khái niệm
3

Trương Thế Côn (2012), “Những bất cập trong quy định của pháp luật về tranh chấp và giải quyết tranh
chấp đất đai”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (3), tr.45-49.

9



này. Việc quy định thiếu cụ thể như vậy khiến nhiều trường hợp nhầm lẫn
giữa tranh chấp với khiếu nại, tố cáo đất đai.
Để phân biệt rõ TCĐĐ với khiếu nại, tố cáo về đất đai, có thể định
nghĩa: Tranh chấp đất đai là sự bất đồng, mâu thuẫn hay xung đột về lợi
ích, về quyền và nghĩa vụ phát sinh giữa các chủ thể tham quan hệ pháp
luật đất đai.
Các dạng TCĐĐ hiện nay rất phong phú, đa dạng, nhiều khi đan xen
lẫn nhau. TCĐĐ có thể chia làm hai loại lớn là đất đang có tranh chấp cần xác
định ai là người có quyền sử dụng hợp pháp và TCĐĐ trong đó người sử
dụng đất đã sử dụng hợp pháp, tranh chấp phát sinh trong quá trình người đó
thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Nhưng trong thực tế thì ngoài việc
tranh chấp phát sinh từ quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất còn có cả
các tranh chấp phát sinh từ các tài sản gắn liền với đất, tranh chấp hợp đồng,
giao dịch khác về QSDĐ, tranh chấp về mục đích sử dụng đất, tranh chấp về
địa giới hành chính. Nhìn chung, có thể hiểu TCĐĐ ở nước ta gồm tranh chấp
QSDĐ và các tranh chấp tài sản liên quan đến QSDĐ. Hiện nay ngành tòa án
nước ta vẫn thống kê các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất vào mục
TCĐĐ nói chung.
1.1.1.2. Khái niệm tranh chấp quyền sử dụng đất nông nghiệp
TCĐĐ gồm tranh chấp QSDĐ và tranh chấp tài sản liên quan đến
QSDĐ. Tuy nhiên, trong Luật Đất đai năm 2013 lại không có khái niệm hay
định nghĩa nào về tranh chấp về QSDĐ, cho nên thế nào là tranh chấp về
QSDĐ là hoàn toàn phụ thuộc vào cách hiểu của các bên có liên quan và đặc
biệt là của cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Trước hết, để có thể hiểu rõ về nội hàm của khái niệm tranh chấp
QSDĐ cần biết được QSDĐ là gì và được pháp luật quy định như thế nào? Ở
nước ta, Luật Đất đai năm 2013 khẳng định quan điểm đất đai thuộc sở hữu
toàn dân, do Nhà nước đại diện và thống nhất quản lý. Nguyên tắc đất đai

thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản

10


lý được ghi nhận tại Điều 53, 54 Hiến pháp 2013; Điều 4 Luật Đất đai năm
2013. Nội dung của nguyên tắc được thể hiện: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân,
do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý nhà nước về đất đai.
Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu, tuy
nhiên Nhà nước không trực tiếp sử dụng mà trao QSDĐ cho các tổ chức và cá
nhân thông qua các hình thức nhận giao đất không thu tiền, giao đất có thu
tiền, cho thuê đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất. Theo từ điển giải thích
Luật học thì: “Quyền sử dụng đất của Nhà nước là quyền khai thác các thuộc
tính có ích từ đất để phục vụ cho các mục đích phát triển kinh tế và đời sống
xã hội. Nhà nước thực hiện quyền sử dụng đất một cách gián tiếp thông qua
việc giao đất cho các tổ chức, cá nhân sử dụng. Các tổ chức, cá nhân này khi
sử dụng có nghĩa vụ đóng góp vật chất cho Nhà nước dưới dạng thuế sử dụng
đất, tiền sử dụng đất” 4. Theo định nghĩa này thì QSDĐ của Nhà nước không
được thực hiện trực tiếp bởi Nhà nước mà gián tiếp thực hiện qua chủ thể là
người sử dụng đất. Như vậy, chủ thể thực hiện QSDĐ với tư cách là chủ thể
sử dụng đất chứ không phải với tư cách chủ sở hữu. Với tư cách là người đại
diện chủ sở hữu, Nhà nước thống nhất quản lí đất đai thông qua các quyền
năng được pháp luật ghi nhận và đảm bảo thực hiện, đó là: quyền chiếm hữu,
quyền sử dụng và quyền định đoạt. Tuy nhiên, không phải tự bản thân nhà
nước trực tiếp chiếm hữu, sử dụng đất đai để khai thác những thuộc tính vốn
có của đất mà. Nhà nước giao cho NSDĐ sử dụng tức là giao cho NSDĐ một
trong 3 quyền năng của mình đó là QSDĐ. Nắm trong tay QSDĐ diện tích đất
mà nhà nước giao cho, bên cạnh QSDĐ ổn định, lâu dài, NSDĐ còn được
thực hiện các giao dịch QSDĐ của mình như chuyển đổi, chuyển nhượng, cho
thuê, thế chấp, góp vốn,.. bằng giá trị QSDĐ nhằm đảm bảo quyền lợi thiết

thực cho mình. Để đảm bảo các quyền trên của NSDĐ được thực hiện trên

4

Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học. Nxb Công an nhân dân, Hà Nội,
tr. 59.

11


thực tế, pháp luật nước ta cũng xác lập tiền đề và điều kiện để QSDĐ của mỗi
người dân được đảm bảo.
Nhìn chung, có thể hiểu QSDĐ là chỉ những khả năng của một chủ thể
được thực hiện hoặc được hưởng những quyền nhất định khi khai thác và sử
dụng đất để phục vụ cho các nhu cầu khác nhau của đời sống xã hội. Những
quyền đó được pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện trên thực tế. Luật Đất
đai 2013 có ghi nhận các quyền của người sử dụng đất trong đó có những
quyền chung và quyền riêng, cụ thể:
Tại Điều 166, Luật Đất đai 2013 quy định những quyền chung của
người sử dụng đất, theo đó thì người có QSDĐ hợp pháp có quyền khai thác
công dụng và hiệu quả của đất. Họ được hưởng thành quả lao động, kết quả
đầu tư trên đất được Nhà nước hỗ trợ (thông qua việc hưởng lợi từ các công
trình Nhà nước); Nhà nước hướng dẫn, giúp đỡ trong việc cải tạo, bồi bổ đất;
đồng thời được Nhà nước bảo hộ QSDĐ khi bị người khác xâm phạm đến
quyền sử dụng đất hợp pháp của mình. Điều 167, Luật Đất đai 2013 quy định
về những quyền cụ thể người sử dụng đất có thể có được, đó là quyền chuyển
đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho QSDĐ; quyền
thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng QSDĐ; được quyền bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất. Như vậy, khi có tranh chấp về những quyền nêu trên thì đó
là tranh chấp về QSDĐ.

Do vậy, tranh chấp về QSDĐ có thể hiểu là tranh chấp giữa các chủ thể
(thỏa mãn các điều kiện theo quy định của pháp luật) về quyền sử dụng đối
với một diện tích đất nhất định mà họ không thể tự giải quyết được với nhau
và đã có đơn yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết. Tranh chấp
QSDĐ nông nghiệp không có gì khác hơn ngoài việc QSDĐ đó là quyền sử
dụng đối với đất nông nghiệp. Có thể định nghĩa, tranh chấp quyền sử dụng
đất nông nghiệp là các mâu thuẫn, bất đồng ý kiến giữa các chủ thể về
những quyền sử dụng đã được pháp luật ghi nhận đối với đất nông nghiệp.

12


Để xác định được rõ loại tranh chấp nào là tranh chấp QSDĐ nông
nghiệp cần nhận biết được nhóm đất nông nghiệp gồm những loại theo. Giải
quyết vấn đề này pháp luật đất đai hiện cũng đã quy định rõ những loại đất
nào được coi là đất nông nghiệp. Căn cứ theo Điều 10, Luật Đất đai 2013, căn
cứ vào mục đích sử dụng nhóm đất nông nghiệp bao gồm các loại sau đây:
Đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đất rừng sản xuất, đất rừng
phòng hộ, đất rừng đặc dụng, đất nuôi trồng thủy sản; đất làm muối; đất nông
nghiệp khác gồm đất sử dụng để xây dựng nhà kính và các loại nhà khác phục
vụ mục đích trồng trọt, kể cả các hình thức trồng trọt không trực tiếp trên đất;
xây dựng chuồng trại chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại động vật khác
được pháp luật cho phép; đất trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản cho
mục đích học tập, nghiên cứu, thí nghiệm; đất ươm tạo cây giống, con giống
và đất trồng hoa, cây cảnh.
1.1.2. Phân loại tranh chấp quyền sử dụng đất nông nghiệp
Tranh chấp liên quan đến QSDĐ sẽ bao gồm tranh QSDĐ và tranh
chấp về tài sản trên đất5. Tại thông tư 02 cũng chỉ rõ các tranh chấp liên quan
đến QSDĐ thuộc thẩm quyền của Tòa án gồm bốn loại sau:
- Tranh chấp về việc ai là người có QSDĐ;

- Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê
lại QSDĐ và thế chấp hoặc bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị QSDĐ;
- Tranh chấp về thừa kế QSDĐ;
- Tranh chấp về tài sản gắn liền với việc sử dụng đất.
Như vậy theo suy luận logic thì tranh chấp về QSDĐ sẽ bao gồm ba
loại:
- Tranh chấp về việc ai là người có QSDĐ (thực chất là tranh chấp
QSDĐ hay cụ thể hơn là kiện đòi đất đang bị người khác chiếm giữ, tranh
chấp mốc giới);
5

Tưởng Duy Lượng (2007), “Giải quyết ở cơ sở khi có tranh chấp quyền sử dụng đấp theo Luật đất đai năm
2003”, Tạp chí Tòa án nhân dân (4), tr.23-26

13


- Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê
lại QSDĐ và thế chấp hoặc bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị QSDĐ;
- Tranh chấp thừa kế QSDĐ.
Việc hiểu và vận dụng thuật ngữ “tranh chấp về quyền sử dụng đất”
theo hướng này là hợp lý cả về vấn đề logic ngôn ngữ và thực tiễn. Tuy nhiên,
trên thực tế có thể thấy tranh chấp QSDĐ bao gồm những loại phổ biến sau:
- Thứ nhất, tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ: tranh chấp này
là loại tranh chấp phổ biến, có số lượng nhiều và phức tạp nhất. Có rất nhiều
nguyên nhân dẫn đến tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ, thường là
do hợp đồng chuyển nhượng không được xây dựng chặt chẽ, đất không được
phép chuyển nhượng, một hoặc cả hai bên không thực hiện đúng các điều
khoản của hợp đồng.
- Thứ hai, tranh chấp về ranh giới giữa những thửa đất được phép quản

lý và sử dụng: tranh chấp này phát sinh là do các bên sử dụng đất không thoả
thuận được với nhau hoặc là do một bên tự ý thay đổi ranh giới sử dụng trong
quá trình đất đai được chuyển nhượng qua tay nhiều người, cho thuê, cho thuê
lại, cũng có thể là do sai sót từ phía cơ quan nhà nước trong quá trình đo đạc,
cấp giấy chứng nhận QSDĐ.
- Thứ ba, tranh chấp QSDĐ trong quan hệ thừa kế: tranh chấp này phát
sinh do người chết không để lại di chúc, những người có quyền thừa kế lại
không thể tự thỏa thuận chia thừa kế nên dẫn đến tranh chấp.
- Thứ tư, tranh chấp QSDĐ khi vợ chồng ly hôn: quyền sử dụng đất là
tài sản chung của vợ chồng, khi ly hôn hai người không thể thỏa thuận được
dẫn đến tranh chấp.
- Thứ năm, tranh chấp đòi lại QSDĐ. Loại tranh chấp này phát sinh
trong trường hợp trước đây người có QSDĐ đã cho mượn, cho thuê đất, cho ở
nhờ nhưng nay những người mượn, thuê không chịu trả, hoặc do theo chính
sách pháp luật của Nhà nước đất đã được chia, cấp cho người khác nên nay họ

14


khởi kiện để đòi lại, hoặc đất đã được tặng cho nhưng nay vì nhiều lý do khác
nhau, người đã tặng cho đòi lại đất…
- Thứ sáu, tranh chấp giữa các đơn vị hành chính cấp tỉnh, huyện, xã
với nhau. Đây thường là những tranh chấp diễn ra ở các khu vực có vị trí
thuận lợi cho phát triển kinh tế địa phương nhưng tại đây sự phân chia ranh
giới hành chính chưa rõ ràng dẫn đến tranh chấp phát sinh. Đây là tranh chấp
giữa những người được Nhà nước giao quản lý đất đai.
- Tranh chấp giữa đồng bào dân tộc địa phương với đồng bào đi xây
vùng kinh tế mới, với các lâm trường, nông trường và các tổ chức sử dụng đất
khác.
1.1.3. Đặc điểm của tranh chấp quyền sử dụng đất nông nghiệp

Quan hệ đất đai là một dạng đặc biệt của quan hệ dân sự nên bên cạnh
những đặc điểm chung của một tranh chấp dân sự, TCĐĐ còn mang những
đặc trưng riêng khác với tranh chấp dân sự, tranh chấp lao động, tranh chấp
kinh tế…Sự khác biệt đó thể hiện ở những điểm chủ yếu sau đây:
- Thứ nhất, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước đại diện sở hữu.
Đối tượng của TCĐĐ là quyền quản lý, quyền sử dụng và những lợi ích phát
sinh từ quá trình sử dụng một loại tài sản đặc biệt không thuộc quyền sở hữu
của các bên tranh chấp. Chủ thể của TCĐĐ chỉ có thể là chủ thể của quyền
quản lý và QSDĐ mà không phải là chủ thể của quyền sở hữu đất đai. QSDĐ
của các chủ thể được xác lập dựa trên quyết định giao đất, cho thuê đất của
Nhà nước hoặc được Nhà nước cho phép nhận chuyển nhượng từ các chủ thể
khác hoặc được Nhà nước thừa nhận quyền sử dụng hợp pháp đối với diện
tích đất đang sử dụng. Như vậy, chủ thể của TCĐĐ là các tổ chức, hộ gia
đình, cá nhân tham gia với tư cách là người quản lý hoặc sử dụng đất.
- Thứ hai, nội dung của TCĐĐ rất đa dạng và phức tạp. Hoạt động
quản lý và sử dụng đất trong nền kinh tế thị trường diễn ra rất đa dạng, phong
phú với việc sử dụng đất và nhiều mục đích khác nhau, với diện tích, nhu cầu
sử dụng khác nhau. Trong nền kinh tế thị trường, việc quản lý và sử dụng đất

15


không đơn thuần chỉ là việc quản lý và sử dụng một tư liệu sản xuất. Đất đai
đã trở thành một loại hàng hóa đặc, biệt, có giá trị thương mại, giá đất lại biến
động theo quy luật cung cầu trên thị trường nên việc quản lý và sử dụng nó
không đơn thuần chỉ là việc khai thác giá trị sử dụng mà còn bao gồm cả giá
trị sinh lời của đất (thông qua các hành vi kinh doanh QSDĐ). Tất nhiên, khi
nội dung quản lý và sử dụng đất phong phú và phức tạp hơn thì những mâu
thuẫn, bất đồng xung quanh việc quản lý và sử dụng đất đai cũng trở nên gay
gắt và trầm trọng hơn.

- Thứ ba, TCĐĐ luôn gắn liền với quá trình sử dụng đất của các chủ thể
cho nên không chỉ ảnh hưởng đến lợi ích trực tiếp của các bên tham gia tranh
chấp mà còn ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước.
- Thứ tư, TCĐĐ xảy ra tác động không nhỏ đến tâm lý, tinh thần của
các bên, gây nên tình trạng mất ổn định, bất đồng trong nội bộ nhân dân, làm
cho những quy định của pháp luật về đất đai cũng như những chính sách của
nhà nước không được thực hiện một cách triệt để. Giải quyết TCĐĐ, với ý
nghĩa là một nội dung của quản lý nhà nước đối với đất đai, là hoạt động của
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhằm tìm ra các giải pháp đúng đắn
trên cơ sở pháp luật, giải quyết các bất đồng, mâu thuẫn giữa các bên, khôi
phục lại quyền lợi cho bên bị xâm hại. Đồng thời xử lý đối với các hành vi vi
phạm pháp luật đất đai.
Bên cạnh những đặc điểm chung của TCĐĐ, tranh chấp QSDĐ nông
nghiệp có một số đặc trưng cơ bản sau :
- Đối tượng của tranh chấp QSDĐ nông nghiệp là các quyền của người
sử dụng đối với đất nông nghiệp. Bên cạnh đó do đặc thù của đất nông nghiệp
nên chủ thể trong quan hệ tranh chấp chủ yếu là nông dân và xảy ra ở vùng
nông thôn, vùng ven đô ngoại thành, vùng chuyên canh tác lúa nước, nuôi
trông thủy sản…
- So với các loại tranh chấp khác, tranh chấp QSDĐ nông nghiệp có tỉ
lệ hòa giải thành cao. Bởi vì tranh chấp QSDĐ nông nghiệp chủ yếu xảy ra ở

16


vùng nông thôn, trong khi đó ở nông thôn các mối quan hệ gia đình, dòng họ,
làng xóm được người dân rất coi trọng giữ gìn vào bảo vệ. Khi tranh chấp
phát sinh người dân hướng tới hòa giải để giữ gìn tình đoàn kết xóm làng.
Hơn nữa, các thiết chế đạo đức, văn hóa, phong tục, tập quán truyền thống chi
phối ảnh hưởng mạnh mẽ đến toàn bộ đời sống người dân nên khi có tranh

chấp đất đai việc hòa giải được ưu tiên và cũng đạt được tỉ lệ hòa giải cao do
áp dụng những tâp quán, đạo đức đó vào việc hòa giải6.
- Người sử dụng đất nông nghiệp có xu hướng lựa chọn giải quyết tranh
chấp ở cơ quan hành chính trước khi khiếu kiện ra Tòa án. Nguyên nhân một
phần là do việc khởi kiện ra Tòa án sẽ phải mất án phí, hoặc mất thêm chi phí
thuê luật sư. Việc chi một khoản tiền để giải quyết tranh chấp đất đai đối với
nhiều người nông dân là việc tương đối khó khăn, do đó người sử dụng đất
nông nghiệp thường có xu hướng lựa chọn cơ quan hành chính Nhà nước là
UBND để giải quyết tranh chấp để tránh mất nhiều chi phí, trong trường hợp
tranh chấp bắt buộc phải ra Tòa án, họ mới quyết định lựa chọn con đường tố
tụng.
- Tranh chấp QSDĐ nông nghiệp khó giải quyết do đa phần các tranh
chấp xảy ra là tranh chấp đòi lại đất cũ trước kia của ông cha. Sau cải cách
ruộng đất, nông nghiệp, nông thôn bước vào thời kỳ hợp tác hóa nông nghiệp.
Đặc biệt từ năm 1958, phong trào hợp tác hóa nông nghiệp theo mô hình sản
xuất tập thể, quản lý tập trung. Ruộng đất và các tư liệu sản xuất của nông dân
được tập trung vào hợp tác xã. Sau này, khi Hợp tác xã tan rã, người dân tranh
giành nhau lại đất đã góp vào hợp tác xã, do trải qua nhiều thời kỳ thực hiện
chính sách đất đai, hồ sơ tài liệu phân tán, hiện trạng đất thay đổi nên rất khó
để giải quyết tranh chấp thuộc dạng này. Bên cạnh đó, đất nông nghiệp ở
nông thôn thường hay đến mồ mả, nhà thờ dòng họ…do đó việc giải quyết
tranh chấp trở nên rất nhạy cảm, khó giải quyết và bị khiếu kiện nhiều lần.
6

Nguyễn Quang Quyến, Nguyễn Hải An, Nguyễn Thị Hường và các công sự (2013), Báo cáo nghiên cứu
Hòa giải tranh chấp đất đai tại Việt Nam phân tích pháp luật hiện hành, các thực tiễn và khuyến nghị cho cải
cách, tr.21.

17



×