Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Trách nhiệm vật chất đối với quan chức theo pháp luật thời nguyễn ở việt nam (giai đoạn 1802 – 1884)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (975.36 KB, 98 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LẠI SƠN TÙNG

TRÁCH NHIỆM VẬT CHẤT ĐỐI VỚI QUAN CHỨC THEO
PHÁP LUẬT THỜI NGUYỄN Ở VIỆT NAM
(GIAI ĐOẠN 1802 – 1884)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Văn Động

HÀ NỘI – NĂM 2016


LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, cho phép tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc
tới các thầy cô giáo của trường Đại học Luật Hà Nội, đặc biệt là các thầy cô
trong tổ bộ môn Lý luận nhà nước và pháp luật đã truyền đạt những kiến thức
quý báu cho tôi trong suốt thời gian học tập và rèn luyện tại trường. Đặc biệt, tôi
xin được gửi lời cảm tạ sâu sắc nhất tới PGS. TS. Nguyễn Văn Động - người đã
tận tình hướng dẫn, động viên tôi trong suốt thời gian hoàn thành luận văn thạc
sĩ của mình. Tôi xin bày tỏ sự biết ơn chân thành, kính chúc thầy sức khỏe và
công tác tốt.


Đồng thời, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè đã luôn ủng hộ
nhiệt thành trong suốt quãng thời gian học tập tại Trường Đại học Luật Hà Nội,
để tôi có thể hoàn thiện luận văn thạc sĩ của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn !

Hà Nội, ngày 2 tháng 8 năm 2016

Tác giả

Lại Sơn Tùng


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự
hướng dẫn khoa học của PGS. TS. Nguyễn Văn Động. Những số liệu trong các
bảng biểu phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu
thập từ các nguồn khác nhau có ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo. Ngoài ra,
trong luận văn còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số liệu của các
tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc.
Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm
về nội dung luận văn của mình.

Hà Nội, ngày 2 tháng 8 năm 2016
Tác giả

Lại Sơn Tùng


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài Luận văn ....................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn ....................................... 3
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn....................................... 4
5. Cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu của Luận văn .. 5
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận văn ............................................. 5
7. Kết cấu của Luận văn ................................................................................ 6
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA TRÁCH NHIỆM VẬT CHẤT ĐỐI
VỚI QUAN CHỨC THEO PHÁP LUẬT THỜI NGUYỄN Ở VIỆT NAM
(GIAI ĐOẠN 1802-1884) ................................................................................. 7
1.1. Bối cảnh nhà Nguyễn khi thiết lập vương triều ...................................... 7
1.2. Tiền đề tư tưởng của trách nhiệm vật chất đối với quan chức theo pháp
luật thời Nguyễn ở Việt Nam (giai đoạn 1802-1884) ....................................... 9
1.2.1. Sự tiếp thu tư tưởng từ Trung Quốc về trách nhiệm vật chất đối với
quan chức .................................................................................................. 10
1.2.2. Sự kế thừa tư tưởng pháp lý về trách nhiệm vật chất đối với quan chức
từ triều Lê Sơ ............................................................................................. 18
1.3. Tiền đề thực tiễn của trách nhiệm vật chất đối với quan chức theo pháp
luật thời Nguyễn ở Việt Nam (giai đoạn 1802-1884) ..................................... 21
1.4. Khái niệm, đặc điểm và phân loại trách nhiệm vật chất đối với quan
chức theo pháp luật thời Nguyễn ở Việt Nam (giai đoạn 1802-1884) ............ 24
1.4.1. Khái niệm và đặc điểm trách nhiệm vật chất đối với quan chức ....... 24
1.4.2. Phân loại trách nhiệm vật chất đối với quan chức theo pháp luật thời
Nguyễn ở Việt Nam (giai đoạn 1802-1884) ................................................... 30
CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT THỜI NGUYỄN Ở VIỆT NAM (GIAI ĐOẠN
1802-1884) VỀ TRÁCH NHIỆM VẬT CHẤT ĐỐI VỚI QUAN CHỨC .... 34
2.1. Hình thức của pháp luật thời Nguyễn ở Việt Nam (giai đoạn 1802-1884)
về trách nhiệm vật chất đối với quan chức ..................................................... 34
2.2. Nội dung của pháp luật thời Nguyễn ở Việt Nam (giai đoạn 1802-1884)

về trách nhiệm vật chất đối với quan chức ..................................................... 37


2.2.1. Các quy định pháp luật về trách nhiệm vật chất đối với quan chức khi
lạm dụng chức quyền nhằm bớt xén chiếm đoạt tài sản công ..................... 37
2.2.2. Các quy định pháp luật về trách nhiệm vật chất đối với quan chức khi
trì hoãn làm chậm trễ, sai lệch công vụ hoặc thiếu tinh thần trách nhiệm gây
thiệt hại về tài sản công.............................................................................. 41
2.2.3. Các quy định pháp luật về trách nhiệm vật chất đối với quan chức khi
gây thiệt hại về tài sản, sức khỏe và tính mạng của người dân ................... 46
2.2.4. Trình tự, thủ tục và chủ thể áp dụng trách nhiệm vật chất đối với quan
chức theo pháp luật thời Nguyễn ở Việt Nam (giai đoạn 1802-1884) ......... 53
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÁCH NHIỆM VẬT CHẤT ĐỐI
VỚI QUAN CHỨC THEO PHÁP LUẬT THỜI NGUYỄN (GIAI ĐOẠN
1802-1884) VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ THAM KHẢO ĐỐI VỚI VIỆT NAM
HIỆN NAY ...................................................................................................... 61
3.1. Thực tiễn áp dụng trách nhiệm vật chất đối với quan chức theo pháp luật
thời Nguyễn ở Việt Nam (giai đoạn 1802-1884)............................................ 61
3.2. Những giá trị tham khảo trong việc hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực
hiện pháp luật về trách nhiệm vật chất đối với cán bộ, công chức, viên chức ở
Việt Nam hiện nay ........................................................................................ 75
3.2.1. Những giá trị tham khảo trong việc hoàn thiện các quy định pháp luật
về trách nhiệm vật chất đối với cán bộ, công chức, viên chức ở Việt Nam
hiện nay ..................................................................................................... 77
3.2.2. Những giá trị tham khảo trong việc tổ chức thực pháp luật về trách
nhiệm vật chất đối với cán bộ, công chức, viên chức .................................. 80
KẾT LUẬN CHUNG ..................................................................................... 88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...........................................................



1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Duy trì công bằng xã hội là điều nên làm và buộc phải làm của một nhà
nước dân chủ, chân chính. Người gây ra thiệt hại phải bồi thường cho người bị
thiệt hại, điều đó phù hợp với đạo lý, phong tục tập quán của người Việt Nam.
Đương nhiên, cán bộ, công chức, viên chức không nằm ngoài quỹ đạo đó,
nhưng tìm ra phương thức xử lý đối với cán bộ, công chức, viên chức trong khi
thi hành công vụ sao cho phù hợp, vừa thể hiện công bằng, vừa thể hiện chính
sách bảo hộ chế độ công vụ, giúp họ yên tâm, chủ động, mạnh dạn trong khi thi
hành công vụ là điều cần thiết. Xã hội muốn phát triển bền vững phải được tạo
dựng bởi những con người hết lòng trung thành, có trí tuệ và năng lực. Pháp
luật về trách nhiệm vật chất đối với cán bộ, công chức, viên chức là một trong
những yếu tố góp phần nâng cao tinh thần trách nhiệm của họ.
Tuy nhiên, hiện nay vấn đề trách nhiệm vật chất đối với cán bộ, công
chức, viên chức gây thiệt hại trong khi thi hành công vụ chưa được đánh giá
đúng mức, mặc dù rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật được ban hành trong
thời gian gần đây điều chỉnh vấn đề này, tiêu biểu là Luật Cán bộ, công chức
năm 2008, Luật Viên chức năm 2010 và Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước
năm 2009.
Do vậy, để hoạt động thực thi công vụ ngày càng hiệu quả hơn trên thực
tế, bên cạnh việc nghiên cứu cách thức tổ chức, hoạt động của các quốc gia có
nền văn hóa pháp lý cao thì việc nghiên cứu một cách hệ thống những kinh
nghiệm xây dựng pháp luật cũng như áp dụng pháp luật về trách nhiệm vật chất
đối với quan chức của ông cha ta, nhằm kế thừa những yếu tố tinh túy, hợp lý
phù hợp với nền văn hóa, lối sống và phong tục tập quán của dân tộc là điều
hết sức cần thiết. Trong các triều đại phong kiến Việt Nam thì hệ thống các văn
bản quy phạm pháp luật dưới triều Nguyễn quy định về trách nhiệm vật chất
của quan chức rất phong phú. Bên cạnh đó, các vụ án xảy ra trên thực tế cũng

được các sử gia ghi chép cẩn thận.


2

Ngoài mục đích “ôn cố tri tân”, tìm hiểu quá khứ để phục vụ hiện tại, tác
giả Luận văn cũng muốn làm sáng tỏ hơn một trong những “góc khuất” của
lịch sử triều Nguyễn - vấn đề quan chức gây thiệt hại trong khi thi hành công
vụ và cách phòng, chống hành vi đó của Triều đình - để nhận diện cụ thể hơn
về lịch sử vương triều và vị trí của triều đại này trong tiến trình lịch sử dân tộc,
góp phần đánh giá triều Nguyễn một cách khách quan và chân thực hơn.
Trên cơ sở nhận thức đó, để có cái nhìn đầy đủ và toàn diện hơn về vấn đề
này, tôi đã chọn vấn đề “Trách nhiệm vật chất đối với quan chức theo pháp luật
thời Nguyễn ở Việt Nam (giai đoạn 1802-1884)” làm đề tài luận văn thạc sĩ
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu các vấn đề có liên quan tới đề tài Luận văn
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về triều Nguyễn trên hầu hết các lĩnh
vực như chính trị, kinh tế, tôn giáo, quân sự, luật pháp, nghệ thuật, văn
học…Có không ít các cuộc hội thảo trong và ngoài nước về chúa Nguyễn và
Vương triều Nguyễn trong lịch sử dân tộc. Các đề tài đã khai thác các góc độ
khác nhau về thời Nguyễn từ quá trình ra đời, phát triển đến giai đoạn suy tàn.
Hệ thống tư liệu gốc về triều đại này rất phong phú. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều
mảng đề tài vẫn chưa khai thác triệt để về mặt tư liệu, trong đó có vấn đề trách
nhiệm vật chất đối với quan chức theo pháp luật triều Nguyễn (giai đoạn 18021884). Đây là một hướng nghiên cứu khá mới mẻ, chưa có nhiều bài viết, công
trình đề cập.
Vấn đề trách nhiệm của quan chức nói chung và trách nhiệm vật chất đối
với quan chức trong pháp luật thời Nguyễn nói riêng được đề cập trong một số
công trình nghiên cứu cũng như trong một số sách, tài liệu tham khảo, chuyên
khảo như: “Nghiên cứu pháp luật hành chính và quân sự triều Nguyễn (1802 –
1884)”, Báo cáo tổng kết đề tài khoa học và công nghệ cấp Bộ, Đại học Sư

phạm, Đại học Huế năm 2012; “Về pháp luật dành cho quan lại thời Nguyễn
(1802-1883)”, Trần Thị Thanh Thanh, Hội thảo quốc tế về Việt Nam học,
Trung tâm KHXH&NV quốc gia, Nxb. Thế Giới, Hà Nội, 1998; “Các biện
pháp chế tài để điều tiết cực quyền của bộ máy nhà nước tập quyền triều


3

Nguyễn” và “Các biện pháp phòng chống tham nhũng của triều Nguyễn trong
việc xây dựng Kinh đô Huế: Tác dụng và bài học kinh nghiệm”, trong “Thuận
Hóa – Phú Xuân – Thừa Thiên Huế: 700 năm hình thành và phát triển”, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010; “Một số vấn đề quan chế triều Nguyễn”,
Nxb. Thuận hóa, Huế, 1998; “Mấy vấn đề về quản lý nhà nước và củng cố
pháp quyền trong lịch sử Việt Nam”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995;
“Nhà nước và pháp luật thời phong kiến Việt Nam những suy ngẫm” của Bùi
Xuân Đính, Huỳnh Công Bá, 2012,…
Nội dung về trách nhiệm vật chất đối với quan chức chỉ là một khía cạnh
nhỏ trong các công trình nghiên cứu này. Còn đối với trách nhiệm vật chất nói
chung đối với cán bộ, công chức hiện nay thì chưa có nhiều công trình nghiên
cứu sâu về vấn đề này, chỉ có một số ít đề tài như Luận án tiến sĩ luật học
“Trách nhiệm vật chất đối với công chức theo pháp luật Việt Nam hiện nay”
của Trần Thị Hiền, Trường đại học Luật Hà Nội, 2008.
Tóm lại, cho đến nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách
đầy đủ, toàn diện về trách nhiệm vật chất đối với quan chức theo pháp luật
triều Nguyễn (giai đoạn 1802-1884).
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là các quy định pháp luật về trách
nhiệm vật chất đối với quan chức trong một số văn bản pháp luật triều Nguyễn
như: Hoàng Việt luật lệ, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ,…; thực trạng áp
dụng các quy định pháp luật về trách nhiệm vật chất đối với quan chức ở bộ

chính sử Đại Nam thực lục trong giai đoạn độc lập, có chủ quyền của Vương
triều Nguyễn.
Phạm vi nghiên cứu của Luận văn là giai đoạn từ năm 1802 đến năm 1884
của Vương triều Nguyễn. Sở dĩ tác giả Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu
là Vương triều Nguyễn bởi lẽ: triều Nguyễn là một hiện tượng lịch sử khá đặc
biệt trong thời kì phong kiến Việt Nam nói riêng và lịch sử Việt Nam nói
chung. Đặc biệt ở chỗ, đây là triều đại phong kiến cuối cùng “là phép cộng dồn
của lịch sử thế kỉ XIX” thể hiện được một cách đầy đủ nhất đặc trưng và bản


4

chất của chế độ phong kiến Việt Nam. Nghiên cứu về triều Nguyễn sẽ làm sáng
tỏ nhiều vấn đề của lịch sử Việt Nam thời kì trước đó. Đồng thời, đây cũng là
triều đại phong kiến gần chúng ta nhất về mặt thời gian. Những dấu ấn của thời
Nguyễn đối với xã hội ngày nay hiện hữu đậm nét hơn bất kì một triều đại
phong kiến nào. Bên cạnh đó, trong tình hình hạn chế về tư liệu lịch sử thời
phong kiến của nước ta hiện nay, hệ thống tài liệu đồ sộ và đa dạng mà chúng
ta có được về triều Nguyễn sẽ thuận lợi hơn cho quá trình nghiên cứu so với
các triều đại khác. Qua đó, tìm ra những giá trị của nội dung này trong các văn
bản pháp luật giai đoạn trước, để từ đây làm cơ sở rút ra những giá trị tham
khảo cho hiện nay.
Triều Nguyễn có 13 đời vua, kéo dài từ năm 1802 đến năm 1945, nhưng
đến năm 1884, sau khi ký Hiệp ước Patonot (6-6-1884), nước An Nam đã hoàn
toàn nằm trong quyền bảo hộ của Pháp, Nhà nước phong kiến Nguyễn bắt đầu
lệ thuộc vào chính quyền thực dân Pháp, khiến cho chính sách của triều đình
phong kiến, trong đó có hệ thống pháp luật mất đi tính tự chủ. Do đó, hệ thống
pháp luật triều Nguyễn thể hiện đặc trưng, với những đóng góp lớn lao nhất
trong khoảng thời gian từ 1802 đến năm 1884. Trong 82 năm từ năm đó, triều
Nguyễn trải qua 7 đời vua: Gia Long (1802-1819), Minh Mệnh (1802-1840),

Thiệu Trị (1841-1847), Tự Đức (1848-1883), Dục Đức (làm vua 3 ngày), Hiệp
Hoà (6/1883-11/1883), Kiến Phúc (12/1883-8/1884). Luận văn tập trung chủ
yếu vào 4 đời vua đầu triều Nguyễn là Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự
Đức. Những đời vua sau đó trị vì trong thời gian hết sức ngắn ngủi và không có
đóng góp đáng kể cho Vương triều Nguyễn nên chúng tôi không đề cập đến
trong Luận văn.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn
Mục đích của Luận văn là nghiên cứu về trách nhiệm vật chất đối với
quan chức trong pháp luật phong kiến thời Nguyễn (giai đoạn 1802-1994)
nhằm tìm ra những bài học kinh nghiệm, những giá trị lịch sử và đương đại có
thể vận dụng sáng tạo vào công cuộc cải cách Nhà nước, pháp luật, cải cách


5

nền hành chính ở Việt Nam, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam hiện nay.
Để đạt được mục đích đó, Luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu cơ sở lý luận
của trách nhiệm vật chất đối với quan chức theo pháp luật thời Nguyễn ở Việt
Nam (giai đoạn 1802 – 1884); phân tích hình thức, nội dung pháp luật thời
Nguyễn ở Việt Nam (giai đoạn 1802-1884) về trách nhiệm vật chất đối với
quan chức; phân tích thực tiễn áp dụng trách nhiệm vật chất đối với quan chức
theo pháp luật thời Nguyễn (giai đoạn 1802-1884) và rút ra những giá trị tham
khảo đối với việc hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về trách
nhiệm vật chất đối với cán bộ, công chức, viên chức ở Việt Nam hiện nay.
5. Cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu của Luận
văn
Ngoài các phương pháp nghiên cứu có tính chất cơ sở phương pháp luận
cho các ngành khoa học xã hội nói chung như phương pháp duy vật biện
chứng, phương pháp duy vật lịch sử, chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước, pháp luật
luận văn còn sử dụng các phương pháp đặc thù như thống kê, so sánh, phân
tích, tổng hợp để đưa ra nhận định, đánh giá đối với các quy định pháp luật của
nhà Nguyễn, rút ra những kinh nghiệm có thể tham khảo cho ngày nay.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận văn
Qua việc tìm hiểu các quy định pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng pháp
luật thời Nguyễn giai đoạn 1802-1884 về trách nhiệm vật chất đối với quan
chức, tác giả nêu lên những thành tựu cũng như hạn chế của các quy định pháp
luật đó. Kết quả nghiên cứu này góp phần nhất định vào việc làm phong phú
thêm hệ thống tri thức khoa học về trách nhiệm vật chất đối với quan chức theo
pháp luật thời Nguyễn (giai đoạn 1802-1884).
Về mặt thực tiễn, trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu cơ sở xây dựng pháp
luật về trách nhiệm vật chất đối với quan chức thời Nguyễn giai đoạn 18021884, đánh giá về những điểm tiến bộ và rút ra giá trị tham khảo cho việc hoàn


6

thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về trách nhiệm vật chất đối với
cán bộ, công chức, viên chức ở Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận chung, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận
văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của trách nhiệm vật chất đối với quan chức theo
pháp luật thời Nguyễn ở Việt Nam (giai đoạn 1802-1884)
Chương 2: Pháp luật thời Nguyễn ở Việt Nam (giai đoạn 1802-1884) về
trách nhiệm vật chất đối với quan chức
Chương 3: Thực tiễn áp dụng trách nhiệm vật chất đối với quan chức theo
pháp luật thời Nguyễn (giai đoạn 1802-1884) và những giá trị tham khảo đối
với Việt Nam hiện nay



7

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA TRÁCH NHIỆM VẬT CHẤT
ĐỐI VỚI QUAN CHỨC THEO PHÁP LUẬT THỜI NGUYỄN Ở VIỆT
NAM (GIAI ĐOẠN 1802-1884)
1.1. Bối cảnh nhà Nguyễn khi thiết lập vương triều
Năm 1802, sau khi đánh bại triều Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã lập ra nhà
Nguyễn, tự đặt niên hiệu là Gia Long. Thành lập và thống trị trong thế kỉ XIX,
nhà Nguyễn thừa hưởng được thành quả to lớn của phong trào nông dân Tây
Sơn trong sự nghiệp thống nhất đất nước, làm chủ một lãnh thổ trải dài từ Ải
Nam Quan đến mũi Cà Mau bao gồm cả Đàng Trong và Đàng Ngoài cũ. Cũng
bởi mặc cảm với vị trí của mình, năm 1803, Gia Long cử sứ bộ do Lê Quang
Định đứng đầu, sang nhà Thanh xin quốc hiệu và đầu năm 1804 chính thức
công bố tên nước là Việt Nam. Do phản ứng của nhân dân, năm 1813, Gia
Long cho trở lại tên Đại Việt. Năm 1838, Minh Mệnh bất bình đã khẳng định
lại quốc hiệu là Đại Nam và cấm nhân dân “không được nói lại hai chữ Đại
Việt”. Kinh đô đóng ở Phú Xuân (Huế) 40, tr. 437.
Về chính trị, khác với các vương triều trước, nhà Nguyễn giành vương
quyền bằng việc tiêu diệt nhà Tây Sơn, một vương triều tiến bộ đã lập được hai
võ công hiển hách đối với dân tộc là đánh bại quân xâm lược Xiêm và Mãn
Thanh. Thế nên, mặc dù là một Hoàng đế sáng nghiệp nhưng, Gia Long không
những ít được thiện cảm của nhân dân mà còn bị phê phán là kẻ “cõng rắn cắn
gà nhà”, câu kết với giặc ngoại xâm, phản bội lợi ích của dân tộc. Do đó, mâu
thuẫn nảy sinh giữa dân tộc – nhân dân và ngôi vị Hoàng đế của Gia Long. Từ
mâu thuẫn này đã dẫn đến tình trạng làm suy yếu sức đề kháng của dân tộc
dưới thời nhà Nguyễn trị vì là điều dễ hiểu. Trong hơn 80 năm thống trị của
nhà Nguyễn, đã có hơn 500 cuộc khởi nghĩa của nhân dân dưới danh nghĩa phù
Lê, phù Trịnh hoặc chống tham quan ô lại. Bên cạnh đó, sự xâm thực của các
thế lực tư bản phương Tây, nhất là của người Pháp ngày càng gia tăng mạnh

mẽ. Các lực lượng Cờ Đen, Cờ Vàng và nạn giặc cướp trên đất liền, trên biển
cũng gây áp lực không nhỏ đối với triều Nguyễn 47, tr. 277.


8

Về kinh tế, nhà Nguyễn phải gánh chịu những hậu quả nặng nề do kinh tế
nông nghiệp bị đình đốn, tàn phá vì nội chiến kéo dài hàng thế kỷ. Đồng thời,
mâu thuẫn giữa chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất với chế độ ruộng đất tư
ngày càng chiếm ưu thế đã ở mức cao nhất (khoảng 83% tổng diện tích ruộng
đất toàn quốc) cũng đòi hỏi nhà Nguyễn phải có chính sách giải quyết phù hợp.
Những biểu hiện của tính chất hàng hóa trong sản xuất nông nghiệp, thủ
công nghiệp và sự hiện hữu của hệ thống các chợ nhỏ phồn thịnh trong nửa đầu
thế kỉ XIX đang đòi hỏi sự thống nhất, sự liên hệ thường xuyên để lưu thông
hàng hóa, tiến tới hình thành thị trường trong nước. Từ thế kỉ trước và ngay
trong nửa đầu thế kỉ XIX, nhiều nước phương Tây như Bồ Đào Nha, Hà Lan,
Anh, Mỹ, Đức, Pháp, Tây Ban Nha đã đến xin đặt quan hệ thông thương với
Việt Nam. Trong điều kiện trong nước và quốc tế như trên, nhưng nhà Nguyễn
đã không có được những chính sách kinh tế phù hợp ở tầm vĩ mô để mở đường
cho sản xuất phát triển, ổn định tình hình chính trị, bảo vệ sự thống nhất đất
nước và củng cố nền độc lập dân tộc trước sự xâm lược của người Pháp mà vẫn
thi hành những chính sách cai trị lỗi thời 47, tr. 278.
Về xã hội, thì cũng như các triều đại trước, dưới thời Nguyễn, xã hội Việt
Nam chia thành hai giai cấp lớn: thống trị và bị trị. Giai cấp thống trị bao gồm
vua, quan, lại trong hệ thống chính quyền và giai cấp địa chủ. Với vị thế của
mình, họ trở thành lớp người đối lập với nhân dân, hạch sách, bóc lột nhân dân.
Tất nhiên, trong số họ cũng có cũng người thanh liêm, trung thực, biết lo lắng
cho cuộc sống của nhân dân, sự ổn định của xã hội. Còn giai cấp bị trị là tuyệt
đại đa số cư dân như là nông dân, dân bản mường, plây ở vùng dân tộc ít
người. Họ có ít nhiều ruộng đất tư để cày cấy, sinh sống. Thêm vào đó là khẩu

phần ruộng công nhỏ nhoi vừa xa, vừa xấu. Nhiều người phải chạy vạy buôn
bán ở các chợ làng, chợ huyện hoặc làm thủ công, gánh vác thuê cho các nhà
buôn bán. Họ là lớp người gánh chịu mọi tai họa của tự nhiên, mọi thiệt thòi,
bất công của xã hội 40, tr. 454. Thế nên, đời sống nhân dân vô cùng cực khổ,
mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt. Các cuộc đấu tranh cũng do đó mà bùng
lên, như nửa đầu thế kỉ XIX đã có 400 cuộc khởi nghĩa nổ ra trên khắp toàn


9

quốc nhằm chống lại ách áp bức bóc lột của tầng lớp thống trị dưới triều
Nguyễn.
Nhà Nguyễn ra đời và tồn tại không những trong một bối cảnh rất bất lợi
của đất nước. Một trong những khó khăn nan giải nhất đó chính là tệ quan liêu,
tham nhũng được đẩy lên cao nhất trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam.
Chính vì thế, ngay từ buổi đầu, việc áp dụng các chế tài pháp luật trong đó có
trách nhiệm vật chất nhằm răn đe, hạn chế tình trạng quan liêu, lộng quyền
đang xảy ra cũng như để chấn chỉnh đội ngũ quan chức và xây dựng bộ máy
nhà nước trong sạch, đủ sức gánh vác các trọng trách lịch sử của đất nước
chính là một trong những yêu cầu cấp thiết nhất bấy giờ.
1.2. Tiền đề tư tưởng của trách nhiệm vật chất đối với quan chức
theo pháp luật thời Nguyễn ở Việt Nam (giai đoạn 1802-1884)
Tư tưởng về đường lối trị nước là sự phản ánh ý chí, chủ trương của các
triều đại phong kiến trong lịch sử, đồng thời quyết định sự tồn vong của mỗi
triều đại. Trong lịch sử Việt Nam gắn với các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý,
Trần, tư tưởng về đường lối trị nước được hình thành và phát triển cùng với sự
hoàn thiện của bộ máy nhà nước phong kiến. Luật pháp được xem là mấu chốt
cho việc trị quốc, giữ vững cơ nghiệp của các triều đại. Đến giai đoạn 18021884, khi nhà Nguyễn đang nắm quyền trị vì đất nước và chưa bị sự đô hộ của
thực dân Pháp, đường lối cai trị đã được thể chế thành các quy định pháp luật
trong các văn bản như Hoàng Việt luật lệ, Khâm định Đại Nam hội điển sự

lệ,… Các văn bản trên của nhà Nguyễn ra đời trên cơ sở kinh tế và kết cấu giai
tầng của xã hội lúc bấy giờ. Vì thế, “là công cụ trong tay giai cấp phong kiến
thống trị, pháp luật là ý chí của giai cấp địa chủ phong kiến được nâng lên
thành luật pháp mà nội dung của ý chí đó được quy định bởi điều kiện sinh
hoạt vật chất của giai cấp phong kiến.” [13, tr. 201]. Là một bộ phận của hệ
thống pháp luật triều Nguyễn, các quy định pháp luật về trách nhiệm vật chất
đối với quan chức cũng đã được xây dựng dựa trên tư tưởng của giai cấp thống
trị. Tư tưởng đó chính là sự tiếp thu có chọn lọc từ Trung Hoa cũng như kế
thừa từ các triều đại trước nhà Nguyễn, tiêu biểu là nhà Lê Sơ.


10

1.2.1. Sự tiếp thu tư tưởng từ Trung Quốc về trách nhiệm vật chất đối
với quan chức
Năm 1802, vua Gia Long sau khi nhận thụ phong của triều đình Mãn
Thanh, trong vấn đề xây dựng các điển chương chế độ của vương triều mình đã
mô phỏng theo nhà Thanh. Tức là xây dựng nền chính trị theo chuẩn mực của
Nho giáo. Nhà Nguyễn đề cao Nho giáo với vai trò độc tôn trong quản lý và
xây dựng đất nước. Điều này đồng nghĩa với việc triều Nguyễn cai trị đất nước
chủ yếu dựa vào Đức trị và Nhân trị (quan điểm trị nước của Nho giáo). Tuy
nhiên, để bảo vệ vương quyền và xây dựng một nhà nước phong kiến trung
ương tập quyền chuyên chế cao độ, buộc nhà Nguyễn phải sử dụng đến công
cụ pháp luật. Đó là sự kết hợp giữa đề cao tư tưởng đức trị của Nho giáo và tư
tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử. Nho giáo đã cùng với pháp luật ổn định trật tự
kỷ cương xã hội, đảm bảo cho sự phát triển của đất nước trong giai đoạn này.
Có thể nói rằng sự ra đời của các quy định pháp luật về trách nhiệm vật chất
đối với quan chức chính là một minh chứng cho phương pháp cai trị mới của
nhà Nguyễn, có sự kết hợp giữa pháp trị của Hàn Phi Tử với đức trị, nhân trị
của Nho gia. Tiền đề tư tưởng của các quy định pháp luật đó thể hiện ở những

điểm cơ bản sau:
Một là, quan chức phải trung thành với vua và tận tụy phục vụ nhà nước,
nhân dân
Lên ngôi sau sự sụp đổ của một dòng họ phong kiến khác, vua Gia Long
hoàn toàn ý thức được tầm quan trọng của việc xây dựng hình ảnh một vị vua
hiền cùng với các quan liêm khiết trong mắt dân chúng. Vậy nên đường lối
chính trị của triều Nguyễn có nguồn gốc từ các học thuyết Nho giáo và đều
được các vua triều Nguyễn am hiểu và sùng bái. Sau khi lật đổ nhà Tây Sơn lập
ra nhà Nguyễn, vua Gia Long tiếp tục học theo Lê Thái Tổ chọn Nho giáo làm
hệ tư tưởng chính thống. Đến thời Minh Mệnh tiếp tục khẳng định và nâng cao
hơn nữa vị trí của Nho giáo. Tự Đức là nhà một nhà Nho uyên bác, tinh thông
văn học lịch sử cổ kim. Ông đã đề xướng nhiều hoạt động học thuật của Nho
gia nhằm khẳng định hơn nữa vị trí, vai trò của Nho học trong xã hội. Với


11

mong muốn duy trì dài lâu sự tồn tại của nền quân chủ chuyên chế, nhà
Nguyễn đã tìm mọi cách thực thi đường lối đức trị, vận dụng các nguyên tắc
đạo đức như “tam cương, ngũ thường”, nguyên tắc chính danh, tôn quân
quyền,… để xây dựng một xã hội hoà mục, trị bình theo đúng lý tưởng của
Nho giáo. Với tư cách là học thuyết chính trị - xã hội đã được các triều đại
phong kiến Việt Nam từ thế kỷ XV đến nửa đầu thế kỷ XIX vận dụng, Nho
giáo đã được sử dụng làm hệ tư tưởng chính trị, là công cụ để xây dựng, quản
lý và bảo vệ triều đại từ thời Lê sơ đến thời Nguyễn. Tính từ khi tiêu diệt triều
Tây Sơn lập nên nhà Nguyễn đến trước khi thực dân Pháp hoàn thành quá trình
xâm lược Việt Nam, triều Nguyễn đã tạo ra những điều kiện hết sức thuận lợi
cho sự độc tôn và thực hiện Nho giáo hoá toàn bộ đời sống xã hội để duy trì
quốc gia và địa vị thống trị của mình [60].
Nho giáo đề cao mối quan hệ tam cương ngũ thường, trong đó mối quan

hệ vua-tôi được đặc biệt quan trọng bởi vì nó gắn với vận mệnh đất nước, được
các nhà Nho chú ý bàn nhiều nhất. Quan điểm Thiên mệnh của Nho giáo cho
rằng Trời là đấng hóa công sinh ra muôn vật, sinh ra dân: “Trời giúp kẻ hạ
dân, dựng ra vua”. Vua là người đại diện cho Thượng đế (Trời) cai trị dân –
“thay trời hành đạo”, đồng thời là người đại diện cho dân trước Thượng đế.
Cơ sở lý luận của triết lý phương Đông dựa trên thuyết Thiên – Địa – Nhân.
Các Hoàng đế cho rằng, chính mình thay Trời để cai trị thiên hạ nên gọi đó là
Thiên Mệnh, chữ “Hoàng” và chữ “Đế” đều chỉ về Trời cả. Có thể nói, nhà vua
lĩnh thiên mệnh và được trời trao cho địa vị làm chủ thiên hạ. Tuy nhiên, vua
thừa hành thiên đạo phải thông qua hệ thống văn võ bá quan. Các quan là
những người giúp vua thi hành thiên đạo. Theo Khổng Tử, để cai trị đất nước,
Thiên tử toàn quyền đặt ra bộ máy giúp việc, bao gồm các viên quan có vai trò
lớn trong đạo trị nước của thiên tử: “Đùi và bắp tay mạnh thì người khỏe, bề
tôi giỏi giúp vua thì vua hóa bậc Thánh nhân” 48, tr. 380. Các quan là chân
tay, tai mắt của vua, là người áp dụng, thi hành những mệnh lệnh của vua đối
với dân, đường lối cai trị của vua được thực thi đến đâu tùy thuộc vào các
quan. Tuân Tử có nói: “Trời sinh dân không phải vì vua, trời sinh vua chính là


12

vì dân”, vua đặt ra quan chức là vì dân. Các quan lại đại diện cho vua, thay vua
chăm lo cho dân chúng do đó, “Nước trị hay loạn cốt ở trăm quan, được người
giỏi thì nước trị, dùng người xấu thì nước loạn. Các bậc đế vương đời trước sở
dĩ hưng được nghiệp là nhờ dùng người quân tử, bị mất nước là vì dùng kẻ tiểu
nhân” [6, tr. 111]. Bởi vậy, vua thường xuyên ban chiếu, sắc để răn quan lại
phải tu thân, làm tròn nghĩa vụ với vua, với dân chúng.
Trong đạo làm tôi, Khổng Tử đề cao chữ “Trung”, nhấn mạnh lòng biết
ơn, sự phục tùng, tinh thần phục vụ hết lòng hết sức của bề tôi đối với vua, với
quốc gia. Theo ông, người làm tôi, làm quan trước hết phải là người có đức

trong mọi hành động, có thái độ hành xử đúng mực ở mọi nơi, mọi lúc, chứ
không phải khi nhận chức tước mới là làm quan. “Làm tôi thì ở cho trung. Chớ
ở hai lòng mà hóa dở dang” 48. Khổng Tử luôn khẳng định về việc cần thiết
phải có sự tôn trọng của người dưới với người trên. Nếu quan lại làm đúng
chức trách bổn phận của mình “Làm tôi trên phải vì vua dưới phải vì dân”,
giúp vua giáo hóa dân chúng, giữ yên phép nước thì nhà nước thịnh trị, vua giữ
được thiên mệnh, mang tiếng thơm muôn đời.
Thực hành đạo trung của phận làm tôi không phải một chốc, một lát, cũng
không phải chỉ ở trước mặt mà phải có “tâm trung” trong suốt cuộc đời. Khổng
Tử yêu cầu bề tôi thờ vua phải “Dốc một niềm phụng sự bề trên/ Tận trung lúc
bước chân lên. Sử mình khi xuống, nghĩ bền lòng tôi” [3, tr. 87] và “Thờ vua
thì phải tận tâm tận lực làm tốt trọng trách của mình sau mới nghĩ đến bổng
lộc” [41, tr. 455]. Nghĩa là nhận được chức trách vua ban thì trước phải dốc
lòng trung làm cho tốt, sau mới nghĩ đến bổng lộc của bản thân. Học với mục
đích để ra làm quan, giúp triều đình nhưng nếu có tài mà chưa được cắt cử giữ
trọng trách thì quyết không được vì thế mà bất trung. Nhưng thế nào là người
trung? Điều này không được Khổng Tử trình bày thành nguyên tắc mà thường
được nêu ra trong trường hợp cụ thể. Chẳng hạn:
“- Tử Trương hỏi rằng: Quan lệnh doãn Tử Văn, ba lần làm chức lệnh
doãn, không có sắc mặt vui mừng, ba lần thôi chức ấy, không có sắc mặt oán


13

giận. Lại đem việc của lệnh doãn cũ nói cho lệnh doãn mới biết. Người như thế
ra sao?
- Khổng Tử nói: Người trung vậy.
- Tử Trương hỏi: Có phải người nhân chăng?
- Khổng Tử đáp: Chưa biết, sao được là người nhân?” [45, tr. 175].
Qua đây có thể thấy trong quan điểm Khổng Tử người trung chưa chắc đã

là người nhân. Người có nhân “trước hết phải làm những việc khó, sau mới
hưởng thành quả mới có thể gọi là nhân” [45, tr. 217]. Người nhân có thể sống
trong bất kỳ hoàn cảnh nào, khác với những người bất nhân: “người bất nhân
không thể ở lâu trong cảnh cùng khốn, cũng không thể ở lâu trong cảnh khoái
lạc” [45, tr. 122].
Như vậy “trung” trong quan niệm của Khổng Tử phải xuất phát từ “tâm
trung”. Khi có “tâm trung” sẽ dốc lòng phụng sự bề trên mà không vụ vì bổng
lộc, chức tước. Người trung sẽ gắng sức khuyên can vua khi vua lầm đường lạc
lối, dẫn vua theo đường nhân chính đồng thời cũng làm cho những người xung
quanh có lòng trung như mình. Trung theo quan điểm này của Khổng Tử có
tính mềm dẻo, linh động và cũng phân ra cấp độ khác nhau tuỳ vào từng ông
vua 10, tr. 39
Mặt khác, theo quan điểm của những nhà Nho thì nếu quan chức cậy
quyền thế, làm những việc sai trái, chỉ chăm chú về lộc vị, chỉ vơ vét cho đầy
túi tham, làm lòng dân oán thán, thì oán khí sẽ xông lên trời, âm dương bất
hòa, ắt sinh tai biến. Vây nên theo quan điểm của các nhà Nho, Nhà nước cần
làm một việc nghĩa cao cả: đó chính là lo cho dân được sống trong hòa bình, lo
cho dân giàu, lo cho dân có học hành và có công bằng 43, tr. 77. Nho gia cho
rằng một quốc gia muốn ổn định, thịnh trị và vững bền thì người cầm quyền
phải được lòng dân, phải trọng dân, lấy dân làm gốc. Khổng Tử tin rằng, trong
ba thứ thiết yếu cho sự trường tồn của một quốc gia là lương thực, binh lực và
lòng tin của dân, bất đắc dĩ phải bỏ một thứ thì có thể bỏ binh lực và lương
thực, còn lòng tin của dân là cái quan trọng nhất, nhất thiết không thể bỏ. Muốn
vậy, phải đặt lợi ích của thiên hạ lên trên lợi ích của vua quan.


14

Có thể nói rằng hệ thống quan chức có vai trò và vị trí không hề nhỏ đối
với đời sống của nhân dân. Người làm quan cần hiểu rõ và kịp thời dân tình

cũng như phải làm tròn trách nhiệm đối với an ninh và cuộc sống của nhân dân.
Tuy nhiên, vẫn xuất hiện bộ phận quan chức tham nhũng, cậy quyền thế ức
hiếp nhân dân. Khổng Tử và Mạnh Tử thường nhắc nhở người cầm quyền
không được lạm dụng, phí phạm sức lực, tài sản của dân. Khi muốn sử dụng
sức dân vào việc gì thì phải chú ý tới thời vụ (sử dân dĩ thời), tránh làm ảnh
hưởng đến công việc sản xuất của dân, phải hết lòng phục vụ dân, đừng đòi hỏi
đãi ngộ. Nho giáo coi những người làm quan mà ức hiếp dân chúng, tham
nhũng là những kẻ độc ác, những kẻ đội lốt thú ăn thịt người. Thậm chí, vua
tàn bạo thì dân có thể giết vua như giết một tên thất phu, một kẻ tàn giặc. [49,
tr. 66]. Do vậy, quan chức trong triều đình cần ra sức tích đức, tu thân để vừa
giúp vua đảm nhiệm việc nước vừa là tấm gương đạo đức để nhân dân noi
theo. Tư tưởng cai trị này chính là một trong những nguyên nhân lý giải đường
lối trừng trị nghiêm khắc và triệt để các hành vi phạm tội của quan chức thời
Nguyễn (giai đoạn 1802-1884) trong đó có các quy định về trách nhiệm vật
chất đối với người làm quan.
Hai là, pháp luật là công cụ để quản lý và điều chỉnh hành vi của quan
chức
Triều Nguyễn được thành lập sau một thời kỳ nội chiến kéo dài từ giữa
thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVIII và thực trạng đó dẫn tới hậu quả là kỷ cương
xã hội lỏng lẻo. Vì vậy, nếu chỉ dùng đức và lễ nghĩa cai trị hệ thống quan chức
thì chưa đủ mà phải có một nền pháp luật vững mạnh, thống nhất. Đây cũng là
tư tưởng phù hợp với quan điểm Nho giáo do Mạnh Tử và Tuân Tử bổ sung và
khắc phục từ những tư tưởng, giáo lý ban đầu của Khổng Tử. Mạnh Tử quan
niệm nhân nghĩa là tiền đề đầu tiên để giúp nhà vua cai trị tốt, song như vậy là
chưa đủ mà nhà vua cần phải dựa vào luật pháp nghĩa là kết hợp đức trị với
pháp trị trong việc quản lý hệ thống quan chức triều đình. Ông cho rằng: “Hiện
nay có nhiều vị Quốc trưởng đủ lòng nhân và được tiếng nhân, nhưng chẳng
chịu ban bố ân huệ cho dân nhờ, những vị ấy không thể làm khuôn mẫu cho



15

đời sau, như thế, tức là không thi hành nền đạo lý của các bậc Thiên tử thủa
xưa vậy
Cho nên người ta thường nói rằng: “Chỉ có lòng thiện mà thôi thì chẳng
đủ sức cai trị, chỉ có luật pháp mà thôi thì luật pháp chẳng đủ sức làm cho
người ta tuân theo. Mà nhà cầm quyền phải làm theo lòng thiện của mình và
phải thi hành luật pháp mới được
… Nếu bề trên chẳng theo đạo lý mà xét nét, bề dưới chẳng theo pháp luật
mà giữ gìn, trong triều đình người ta chẳng tường đạo nghĩa, ngoài châu quận
người ta chẳng tường pháp độ, quân tử có trí thức thì phạm nghĩa tiết, tiểu
nhân vô học vấn thì phạm hình luật. Một quốc gia như thể mà được tồn tại đó
là may mắn lắm vậy” [50, tr. 9]
Còn Tuân Tử thì chủ trương trị nước bằng pháp luật, pháp luật có thưởng
phạt phân minh nhưng thưởng không quá đức, phạt không quá tội. Ông coi
hình luật là điều tất nhiên, nhưng không chỉ có mục đích xử tội kẻ làm quan
phạm pháp mà có ý nghĩa sâu xa là giáo dục, ngăn cấm sự vi phạm tái diễn.
Nhìn chung, nếu lấy tính thực tiễn là tiêu chuẩn thì tư tưởng chính trị của Tuân
Tử và Mạnh Tử đã có bước tiến bộ quan trọng so với Khổng Tử.
Thậm chí theo quan điểm của Hàn Phi tử - Pháp gia thời Chiến quốc viết
tại Thiên Ngoại trừ thuyết hữu hạ - Kinh 4 rằng: “Văn hữu lại tuy loạn nhi hữu
độc thiện chi dân, bất văn hữu dân loạn nhi hữu độc trị chi lại, cố minh chủ trị
lại bất trị dân”. (Nghĩa là chỉ từng nghe quan lại tuy loạn mà vẫn có hạng dân
hiền lành, chứ chưa từng nghe quan lại cai trị tốt mà dân nổi loạn. Vì vậy bậc
minh chủ trị quan lại chứ không (trực tiếp) trị dân). Bởi vậy, trong “Định pháp”
Hàn Phi viết: “Nhà vua không có thuật trị nước thì trên bị che đậy, còn bề tôi
mà không có pháp luật thì cái loạn sinh ra ở dưới” [29, tr. 479]. Vậy nên pháp
luật trước tiên là cần quản lý hệ thống quan chức, cần đưa họ vào quy củ trước
khi thực hiện giáo hóa dân chúng.
Khi thực hiện việc tiếp quản đất nước, đi đôi với việc củng cố bộ máy

nhà nước, Gia Long rất coi trọng hình luật nên ông đã chỉ thị biên soạn bộ luật
của triều Nguyễn gọi là Hoàng Việt luật lệ vào năm 1815. Vua Gia Long chủ


16

trương dùng pháp luật để cai trị đất nước và quản lý xã hội sau thời gian dài
chiến tranh liên miên. Ngay sau khi lên ngôi hoàng đế, ông đã cho xây dựng
một bộ luật mới của triều đại mình dựa trên tinh thần kế thừa, phát triển và
hoàn thiện bộ Luật Hồng Đức cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đất
nước lúc bấy giờ.
Gia Long cho rằng: “Trẫm nghĩ bậc thánh nhân trị vì thiên hạ, hình phạt
cùng với đức hoá chưa hề bỏ lệch bên nào. Bởi vì nhân sinh nhiều ham muốn,
việc đời không bờ bến, phải dùng hình phạt để ngăn ngừa, không thể nào dựa
vào giáo hoá mà làm cho dân biết được. Cho nên nói rằng hình phạt là công
cụ giúp cho bình trị, há có phải là rỗng suông đâu. Luật lệnh là điều lệ để phán
đoán hình phạt…” [5, tr. 318]. “Vậy ra lệnh cho đình thần, chuẩn theo lệnh
điển các triều, tham khảo luật Hồng Đức và Đại Thanh, lấy bỏ cân nhắc, cốt
sao cho chính đáng, biên tập thành sách. Trẫm thân tự sửa chữa, ban hành ra
thiên hạ, khiến cho biết phép lớn phòng cấm sáng rõ như mặt trời mặt trăng,
không giấu giếm. Lời răn bảo, điều nghiêm cấm mạnh như sấm sét, không ai
được phạm đến…” [5, tr. 319]. Hoàng Việt luật lệ đã kế thừa những nội dung
đức trị của Nho giáo kết hợp với pháp trị. Thế nên, nội dung của Hoàng Việt
luật lệ nói riêng và pháp luật thời Nguyễn nói chung, bên cạnh việc đề cao vị
thế của nhà vua thì còn dùng để quản lý hệ thống quan chức phong kiến, những
người trực tiếp thi hành mệnh lệnh, ý nguyện của nhà vua. Thông qua đó, pháp
luật sẽ giúp đảm bảo trật tự xã hội và bảo vệ quyền thống trị của vương triều.
Ba là, quan chức khi gây thiệt hại cho nhà nước và nhân dân thì phải bồi
thường thiệt hại.
Dưới triều Nguyễn giai đoạn 1802-1884, đối với việc quản lý quan chức

trong việc thi hành công vụ, thì các nhà vua đề cao tư tưởng thưởng phạt công
minh thông qua việc tiếp thu quan điểm của Hàn Phi Tử về “Thuật” trong trị
nước.
“Thuật” là cách thức, là phương pháp, mưu lược, thủ đoạn…trong việc
tuyển người, dùng người, giao việc, xét đoán…mà nhờ nó, pháp luật được thực
hiện và nhà vua có thể “trị quốc, bình thiên hạ”. Tóm lại, “thuật” là nghệ thuật


17

cai trị của nhà vua. Nhiệm vụ chủ yếu của thuật cai trị là phân biệt rõ những
quan lại trung thành, tận tâm và những quan lại xu nịnh, thử năng lực của họ,
kiểm tra công trạng và những sai lầm của họ với mục đích thanh lọc, tăng
cường bộ máy cai trị trên cơ sở luật pháp và chế độ chuyên chế. Để thực hiện
được nhiệm vụ này “thuật” phải được giữ kín, không muốn cho người khác
thấy,… dùng thuật thì những kẻ yêu mến, thân cận cũng không được nghe.
“Thuật”, trước hết, thể hiện ở “là thuật trị quan lại và trừ gian tà”. Trong
sách “Hàn Phi Tử” có hàng chục chương bàn về việc trị quan như: Bát thuyết,
Bát gian, Bát kinh, Nam diện, Gian kiếp thí thần… và các thiên: Ngoại trữ
thuyết thượng, Ngoại trừ thuyết hạ. Hàn Phi Tử cho rằng, cái lợi của vua chúa
và bề tôi khác nhau, mà trong xã hội ai cũng có tư lợi, vì vậy, muốn kiềm chế
hạng người có địa vị cao, có quyền hạn lớn, đặc biệt đối với kẻ tham lam thì
phải tước lộc thật hậu để an định họ. Tước lộc ở đây chính là tước đi những
bổng lộc mà quan chức được nhận từ vua, tước đi những lợi ích vật chất mà họ
nhận được khi thực hiện những hành vi tham lam, nhũng nhiễu khi thi hành
công vụ, buộc phải bồi thường đối với những tổn thất về tài sản cho nhà nước
và nhân dân. Đây chính là nền tảng bước đầu cho việc xây dựng các quy định
về trách nhiệm vật chất của quan chức triều Nguyễn sau này.
“Thuật” còn thể hiện trong “thuật dùng người” (tâm thuật). Nguyên tắc cơ
bản của thuật này là “chính danh”, “hình danh” hay “thực danh”, tức “theo

danh mà trách thực”. “Danh” và “thực” hợp nhau thì là “chính danh”, ngược lại
là không “chính danh”. Khi phải – trái, đúng – sai đã phân định thì cứ theo đó
mà thưởng, phạt một cách nghiêm minh. Chính vì vậy, mọi người trong xã hội
đều nhất nhất làm tròn bổn phận, chức vụ của mình, không ai dám làm trái hay
làm quá danh phận đã định. Vậy nên như một lẽ dĩ nhiên là nếu như quan chức
không làm đúng phận sự của mình thì họ sẽ bị trừng phạt. Trong trường hợp
quan chức trì hoãn làm chậm trễ, sai lệch công vụ hoặc thiếu tinh thần trách
nhiệm gây thiệt hại về tài sản của nhà nước và nhân dân thì bên cạnh những
chế tài hình sự thì cũng phải có trách nhiệm bồi thường cho những tổn thất của


18

họ gây ra. Điều này sẽ giúp răn đe, giáo dục quan chức buộc họ phải hành động
theo chức phận của mình.
Để chọn đúng người, giao đúng việc thì vua cần phải dùng “thuật”: “Bề
tôi muốn làm gì thì vua sẽ theo lời mà trao việc, cứ theo việc mà trách công.
Công xứng việc, việc xứng lời thì thưởng. Công không xứng việc, việc không
xứng lời thì phạt” (Hàn Phi Tử, Nhị bính). Theo đó, người tham danh vọng mà
không có đủ tài đức cũng không dám đảm nhận chức vụ. Vì vậy, vua sẽ chọn
được người đủ tài đức để trao quyền hành, công việc. Để vua biết được thế nào
là hình hợp với danh mà thưởng cho đúng công, phạt cho đúng tội, Hàn Phi Tử
đưa ra phép “tham nghiệm” theo hai cách: Một là, vua đem kết quả trực tiếp
kiểm tra và thử lại. Hai là, vua dùng người khác để kiểm tra thểm định lại kết
quả, và người thay vua kiểm tra cũng bị ràng buộc bởi bổn phận, trách nhiệm
cụ thể tương ứng với chức vụ địa vị của mình. Đây cũng chính là cơ sở để các
vua triều Nguyễn thiết lập hệ thống các cơ quan kiểm tra giám sát quan lại,
nhằm qua đó đảm bảo việc thi hành công vụ một cách nghiêm túc và đúng đắn
nhất.
Từ những điều trên, ta có thể thấy rằng, Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc

các luồng tư tưởng từ Trung Hoa, đặc biệt là tư tưởng Đức trị của Nho giáo,
Pháp trị của Hàn Phi Tử. Các vua triều Nguyễn đã thấy được ưu điểm của Pháp
trị, biết lấy Đức trị để khắc phục nhược điểm của Pháp trị, và đã vận dụng một
cách tài tình trong quản lý, sử dụng quan chức. Từ những điều này, đã tạo ra
những bước tiền đề tư tưởng cho việc xây dựng các quy định pháp luật về trách
nhiệm vật chất đối với quan chức trong giai đoạn 1802-1884.
1.2.2. Sự kế thừa tư tưởng pháp lý về trách nhiệm vật chất đối với quan
chức từ triều Lê Sơ
Nhà Nguyễn là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam nên
ngay từ khi nắm quyền cai trị đất nước, các vua Nguyễn đã thực hiện sự kết
hợp giữa đức trị với pháp trị trong việc quản lý hệ thống quan chức đồng thời
tiếp tục phát triển đường lối trị nước của thời Lê Sơ. Bởi khi đó nhà Nguyễn,
đứng đầu là Nguyễn Ánh dù được người Pháp giúp đỡ lật đổ nhà Tây Sơn,


19

nhưng không vì thế mà khiến ông học tập và xây dựng mô hình nhà nước
phương Tây. Việc Nguyễn Ánh ra lệnh cho các quần thần biên soạn bộ Hoàng
Việt luật lệ (Luật Gia Long) trên cơ sở kế thừa Luật Hồng Đức và tham khảo
luật lệ nhà Thanh cho thấy ảnh hưởng của đường lối cai trị nước thời Lê sơ đối
với triều Nguyễn đến mức nào. Thậm chí chính vua Minh Mạng cũng mong
muốn trở thành một vua Lê Thánh Tông thứ hai sau khi nắm quyền quản lý đất
nước. Và như một lẽ dĩ nhiên, tư tưởng pháp lý về trách nhiệm vật chất đối với
quan chức thời Nguyễn đã mang đậm nét tư tưởng của nhà Lê Sơ mà cụ thể là
ở thời Lê Thánh Tông.
Hoạt động lập pháp nhằm duy trì trật tự xã hội và kỷ cương phép nước
được xem là công việc hệ trọng nhất của các bậc vua chúa. Bên cạnh việc củng
cố bộ máy nhà nước, Lê Thánh Tông rất coi trọng tới việc xây dựng thể chế
pháp luật. Ông chủ trương dùng pháp luật để cai trị đất nước cũng như quản lý

hệ thống quan chức. Điều ấy thể hiện ở nhiều chỉ dụ cho văn võ bá quan như:
Tháng 7 năm Quang Thuận thứ 5 (1464), khi biếm chức Binh bộ Tả Thị
lang vì mắc lỗi tham tang, vua dụ chung các quan: "Pháp luật là phép công của
nhà nước, ta cùng các ngươi phải tuân theo.” [15, tr. 189].
Tháng 8 năm Hồng Đức thứ 2 (1471), nhân ban hành Hiệu định quan chế,
thực chất là cuộc cải tổ chính trị, sắp xếp lại một cách có hệ thống bộ máy Nhà
nước quân chủ tập quyền, vua dụ các quan và trăm họ rằng đặt ra pháp luật là
“để lớn nhỏ cùng ràng buộc với nhau, khinh trọng để cùng kiềm chế nhau. Uy
quyền không bị lợi dụng, thế nước vậy là khó lay. Thành thói quen theo đạo giữ
phép, không có lỗi trái nghĩa phạm hình.” [52, tr. 13,14].
Trong sắc dụ quan lại cả nước vào tháng 9 năm Hồng Đức thứ 5 (1474),
vua lại khẳng định: “Đặt luật là để trừ gian, sao dung được bọn coi thường
pháp luật” [15, tr. 251].
Với quan điểm nhất quán trên, Lê Thánh Tông luôn quan tâm đến việc
soạn thảo và ban hành các văn bản pháp luật liên quan đến quản lý quan lại.
Theo thống kê từ Đại Việt sử ký toàn thư cho thấy, trong 38 năm trị vì trên
ngai vàng, Lê Thánh Tông đã ban bố 83 sắc lệnh, chỉ dụ liên quan đến công


20

việc hành chính và thể chế quan chức, 8 sắc chỉ liên quan đến quyền, nghĩa vụ,
trách nhiệm của quan lại trông coi pháp luật, 11 sắc chỉ về chống tham tang,
buôn lậu, hối lộ và móc ngoặc. Đặc biệt là vào năm 1483, Quốc triều hình luật
mà ta quen gọi là Bộ luật Hồng Đức chính thức được han hành. Các văn bản
này đã lồng ghép các quy định về trách nhiệm vật chất đối với quan chức gây
thiệt hại về tài sản khi thi hành công vụ, nhằm hạn chế hành hành vị lạm quyền
nhũng nhiễu của đội ngũ quan lại, từ đó tạo đà cho sự ổn định và phát triển xã
hội.
Từ những chính sách đã đề ra, nước Đại Việt thời Lê Thánh Tông được

xem là giai đoạn đỉnh cao của chế độ phong kiến Việt Nam. Từ đó trở thành
giá trị tham khảo để vua quan triều Nguyễn làm cơ sở để xây dựng các quy
định về trách nhiệm vật chất trong luật pháp, để qua đó thể hiện thái độ rất
nghiêm khắc của vua triều Nguyễn đối với những hành vi phạm pháp của quan
chức, bất kể họ ở cương vị nào trong bộ máy nhà nước.
Có thể thấy rằng trong nhà nước phong kiến, bổn phận thiên chức của
quan chức nhằm thiết lập, duy trì trật tự xã hội. Khi thi hành công vụ, quan
chức với danh nghĩa đại diện cho nhà nước để thi hành quyền lực công. Trong
quá trình đó, không thể loại trừ tuyệt đối khả năng xâm hại đến quyền và lợi
ích hợp pháp của các chủ thể khác một cách vô tình hay cố ý. Mặt khác, theo
đạo lý từ xưa đến nay thì gây thiệt hại là phải bồi thường. Đó là một quy ước
hình thành từ lâu gắn liền với các quan hệ tài sản cũng như nhân thân. Vây nên
với sự tiếp thu tư tưởng trong và ngoài nước về pháp luật thì Minh Mệnh đã
khẳng định: “Kỷ cương phải cho nghiêm minh, thưởng người có công mà răn
kẻ có tội, một khi có tội thời không cứ vị quan lớn hay nhỏ đều phải theo pháp
luật làm việc...lúc phạt là để chúng tự xét mình, mà lúc tha là để chúng biết đổi
lỗi, như thế cũng là trong oai mà biết ơn, ngoài pháp luật mà ngụ điều nhân”
[63]. Trong nhà nước phong kiến, các quyết định của đội ngũ quan chức được
ban hành có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống xã hội, có thể tạo động lực hoặc
ngược lại kìm hãm sự phát triển của xã hội. Vậy nên dù là quan lớn hay nhỏ
nếu gây thiệt hại trong quá trình thi hành công vụ thì vẫn phải có trách nhiệm


×