Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

NHÂN vật TRONG TRUYỆN NGẮN MAUPASSANT, TCHÉKHOV, O’HENRY dưới góc NHÌN SO SÁNH (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (377.44 KB, 14 trang )

NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN MAUPASSANT, TCHÉKHOV,
O’HENRY DƯỚI GÓC NHÌN SO SÁNH

Dương Thị Ánh Tuyết
Trường Đại học Quảng Bình

Tóm tắt. Maupassant, Tchékhov, Ơ Henry là ba bậc thầy truyện ngắn nổi
tiếng của các quốc gia Pháp, Nga, Mỹ, thế kỷ XIX. Kỹ thuật viết truyện ngắn của
họ có ảnh hưởng sâu rộng đến các thế hệ nhà văn sau này. Bài viết tập trung tìm
hiểu nhân vật trong sáng tác của ba bậc thầy truyện ngắn dưới góc nhìn so sánh,
nhằm chỉ ra quy luật phổ biến, cũng như điểm đặc thù trong cách xây dựng nhân
vật của ba nhà văn. Từ đó, góp phần xác định phong cách của từng tác giả cũng
như đặc điểm chung của những sáng tác thuộc trào lưu hiện thực chủ nghĩa ở các
nước Âu Mỹ.
Con người vừa là chủ thể sáng tạo, vừa là đối tượng nhận thức phản ánh của
văn nghệ. Vấn đề con người trong văn học là vấn đề vĩnh cửu. Và trong một tác
phẩm văn học thì nhân vật là yếu tố hàng đầu. Nhân vật là hình thức thể hiện quan
điểm của nhà văn về con người. “Nhân vật là nơi tập trung mọi giá trị tư tưởng
nghệ thuật”; Nhân vật là “công cụ khái quát hiện thực và phương tiện để tác giả
hiện thực hóa quan niệm nghệ thuật về con người dưới một hình thức biểu hiện
tương ứng” [5, tr. 365]. Mỗi kiểu nhân vật có tính quy luật, logic của nó, nằm
trong khuôn khổ ý chí của tác giả, nhưng tác giả không thể vi phạm một cách tùy
tiện. “Một khi đã lựa chọn trung tâm miêu tả nhân vật, tác giả bị ràng buộc bởi
logic nội tại của cái được chọn lựa, cái logic mà tác giả phải khám phá trong quá
trình miêu tả. Logic của tự ý thức chấp nhận những phương thức nghệ thuật nhất
định để khám phá và miêu tả nó” [3, tr. 272]. Nghiên cứu thế giới nhân vật trong
truyện ngắn của Maupassant, Tchékhov, Ơ Henry dưới góc nhìn đối sánh, chúng
tôi thấy nổi lên những vấn đề cơ bản sau:
1. CHÚ TRỌNG CON NGƯỜI NHỎ BÉ



Nhìn lại phương thức miêu tả nhân vật trong tiến trình lịch sử văn chương ta
thấy, nếu chủ nghĩa cổ điển có khuynh hướng lý tưởng hóa và nhấn mạnh ở tính
cách nhân vật những nét cao cả, thậm chí còn cao thượng hóa những đặc tính tiêu
cực trong bản tính của nó, chủ nghĩa lãng mạn nhấn mạnh tính chất khác thường
của các nhân vật thì chủ nghĩa hiện thực lại quan tâm miêu tả những con người nhỏ
bé, con người bình thường trong xã hội. Chủ nghĩa hiện thực với tư cách là một
phương pháp sáng tác, là sự tái hiện cuộc sống trong hình thái bản thân cuộc sống,
trong muôn ngàn mối tương quan chằng chịt với nhau và với môi trường cụ thể
xung quanh. Tái hiện “những tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình” điều
đó cũng có nghĩa là chủ nghĩa hiện thực phê phán phản ánh xã hội trong tính cụ thể
và tính lịch sử của nó. Chủ nghĩa hiện thực hoàn toàn xuất phát từ hiện thực “nó
không thay thế cái hiện có bằng cái mong ước, mà làm nổi bật cái mong ước từ cái
hiện có”.
Với tấm lòng nhân đạo, với lương tâm trách nhiệm của người nghệ sĩ,
Maupassant, Tchékhov, Ơ Henry không thể thờ ơ với hiện thực cuộc sống của
những người dưới đáy xã hội, cả những con người đang tự đánh mất dần phần
Người của mình. “Cái hiện có” mà cả ba nhà văn đều mong muốn thay đổi là cuộc
sống của những con người nhỏ bé. Hoặc là nhỏ bé về vị thế xã hội khiến con người
bị vật hóa, hoặc là nhỏ bé về tâm hồn khiến họ cam chịu cuộc sống mòn mỏi. Cả
hai trường hợp đều được ba nhà văn quan tâm, thể hiện với những phương cách
khác nhau.
1.1. Con người nhỏ bé trong truyện Maupassant là con người tha hóa, thú vật
hóa
Con người nhỏ bé về vị thế xã hội trong truyện của Maupassant là thằng ăn
mày, kẻ lang thang, là cô hầu, là cô gái điếm… Một thanh niên lương thiện, chăm
chỉ, lang thang 40 ngày để kiếm việc làm cuối cùng “anh chỉ còn khoanh đôi cánh
tay lực lưỡng lại mà đành chịu thúc thủ”. Mọi nỗ lực dù để kiếm 20 xu đối với anh
cũng khó có thể. Đang cơn đói khát, gặp được con bò cái bầu vú sữa căng mọng,
anh liền mút lấy mút để. Đó là một chi tiết chẳng thơ chút nào nhưng nó có ý nghĩa
tố cáo xã hội sâu sắc. Con vật còn không nỡ lòng với người đang cơn đói khát, vậy

mà con người, xã hội lại làm ngơ bỏ mặc đồng loại. Chính xã hội là thủ phạm đẩy
con người thấp cổ bé họng đến những hành động bản năng “ít tính người”. Một số
truyện khác của Maupassant đề cập đến những cô hầu gái bị lừa dối, bị phỉnh nịnh,


để cuối cùng phải mang nặng “những khối tình con” (Cô Rozali Druy-băng, Một
đứa con).
Bị đè bẹp về thân xác chưa đáng ngại bằng sự tha hóa, đánh mất nhân phẩm.
Maupassant ái ngại cho sự biến chất của con người trong xã hội phi nhân tính. Bởi
vậy tác giả mạnh dạn phơi bày sự thật nghiệt ngã về các nhân vật của mình. Đó là
những con người bị vật hóa, hành động theo bản năng. Thằng bé ăn mày ném chết
con gà vì cảm giác trong cơn đói “rằng đem nướng một con gà kia trên đống lửa
củi cành rồi ăn thì chắc là ngon lắm”. Cũng vì quá đói mà Răng đen đã ăn nghiến
ngấu như một con vật, và cái men rượu làm anh nhảy xổ vào cô gái “vì một thứ
điên cuồng khác còn mãnh liệt hơn cái đói”. Cuộc sống đói nghèo đã khiến con
người đánh mất nhân phẩm và hành động như một con vật. Đáng sợ hơn là một
người mẹ rất thương yêu con lại phải giết con vì một bản năng sợ sệt nô lệ cố hữu.
Hành động giết con vô ý thức của cô Pruy-đăng có khác gì với hành động của
người bố trong truyện Mò sâm banh của Nam Cao. Có thể nói rằng cái đói, miếng
ăn và sự tha hóa của con người là điểm gặp nhau giữa các nhà văn hiện thực
Maupassant, Tchékhov, O’Henry và Nam Cao… Cái đói, miếng ăn oằn trên đôi
vai của những người dân nghèo khổ trong xã hội lúc bấy giờ, và cũng trĩu nặng
cuộc đời các văn nghệ sĩ, khiến Nam Cao phải chua chát thốt lên “Giá người ta
không ăn thì đời thật giản dị biết bao”.
Bên cạnh những con người nhỏ bé về vị thế xã hội Maupassant còn lên án gay
gắt những con người nhỏ bé về tâm hồn. Tác giả miêu tả những dạng vẻ khác nhau
của sự thoái hóa nhân cách do sức cám dỗ của vật chất, của lối sống trưởng giả
hưởng lạc, dâm ô. Đó là sự sa đọa của ông Viện sĩ Hàn lâm trong truyện Một đứa
con. Đó là sự giằng xé xung đột giữa đạo đức thông thường và lòng tham, để cuối
cùng công chức Lesaf đầu hàng trong nỗi hân hoan ô nhục trong Món gia tài. Sự

tha hóa của con người được tác giả thể hiện xuất sắc trong truyện Món tư trang.
Cái giả, cái thật ở đây được hoán vị cho nhau. Đồ nữ trang bấy lâu tưởng giả hóa ra
thật; đức hạnh, tài đảm đang của vợ bấy lâu tưởng thật lại hóa giả. Lòng tham vật
chất lấn át lương tâm. Bán những đồ nữ trang mà vợ đổi bằng phẩm giá, Lantin
đồng thời bán danh dự người chồng. Đằng sau tiếng cười châm biếm truyện phảng
phất một nỗi phiền muộn chua chát. Ngòi bút của Maupassant dành nhiều cho cuộc
đời của các viên chức nghèo. Họ sống một cuộc sống trống rỗng và nhàm tẻ. Họ
sống ngoan ngoãn, câm lặng, phục tùng, tăm tối. Khi họ thức tỉnh nhận ra cảnh ngộ
của đời mình thì tất cả đã kết thúc. Đi dạo là một truyện ngắn về thời gian, là sự


thất bại của con người trước thời gian. Thời gian trôi qua chỉ để lại những cay
đắng, tan rữa trong các trang văn xuôi của Maupassant.
1.2. Con người nhỏ bé trong truyện Tchekhov là con người sống mòn
Thân phận con người nhỏ bé trong truyện Tchékhov được thể hiện sâu sắc
qua các nhân vật trẻ em. Và chính vì thế mà sức tố cáo xã hội càng thêm sâu sắc.
Trong truyện ngắn Cầu phúc, Lỗ Tấn đã kêu gọi: “Hãy cứu lấy trẻ em”, Tchékhov
tuy không trực tiếp phát biểu như thế, nhưng những gì mà tác giả trình bày cũng
nhức nhối không kém. Nhiều truyện của Tchékhov (Vanka, Buồn ngủ…) đã tái
hiện thân phận côi cút của những đứa trẻ Nga lúc bấy giờ. Từ nhỏ đã phải đi ở, làm
con sen, ăn không đủ no, ngủ không đủ giấc, lại còn luôn phải hứng chịu những
trận đòn roi vô cớ của ông bà chủ. Người đọc rơi nước mắt trước những lời tâm
tình của cậu bé Vanka với ông của mình trong đêm Giáng Sinh “Ông thương lấy
cháu mồ côi mồ cút khổ sở, người ta cứ đánh cháu mà cháu thèm được ăn lắm…
Đời cháu khổ quá, khổ hơn cả con chó…”. Hành động giết người của Vanka là
hành động bản năng tất yếu để loại trừ nguyên nhân ngăn cản giấc ngủ của nó. Đó
là đỉnh cao của sự tha hóa. Bàn tay của Vanka đã sớm vấy máu từ khi còn bé, và
đau khổ hơn là nó không ý thức được hành động của mình. Sức tố cáo xã hội của
tác phẩm chính là ở chỗ, xã hội đẩy những đứa trẻ ngây thơ thành kẻ sát nhân.
Không thờ ơ trước số phận của những người dân thấp cổ bé họng, Tchekhov

cũng quan tâm thể hiện sự nhỏ bé tâm hồn của những người tri thức. Đây là điểm
gặp gỡ giữa Maupassant và Tchékhov. Nếu cho rằng Maupassant là bậc thầy trong
nghệ thuật dò xét bóng tối trong cuộc đời các viên chức thì Tchékhov cũng xứng
đáng với địa vị ấy. Tác giả lật tẩy triệt để thói tầm thường dung tục, cuộc sống tiểu
tư sản ngột ngạt, tù đọng. Đó là lão quản Prisưbeep hằn học với mọi biểu hiện tự
nhiên của con người, là Con kỳ nhông uốn éo, đổi thay theo hoàn cảnh, nịnh trên
nạt dưới. Tác giả phơi bày thói nô lệ, nhẫn nhục hạ mình – một căn bệnh nặng nề
của xã hội Nga lúc bấy giờ. Vì thói nô lệ hạ mình mà anh gầy “rúm ró” khi gặp anh
béo, viên chức “chết đưa ra ngoài đồng” chỉ vì một cái hắt hơi vô tình vào gáy của
một viên tướng. Nô lệ trước quyền uy, hạng người này cũng nô lệ trước của cải,
tiền tài. Vì sức mạnh tiền bạc mà năm vị trí thức phải khép nép trước nhà triệu phú
(Mặt nạ), bác sĩ Ionuts từ bỏ tình yêu, danh vọng chỉ lo tích cóp làm giàu (Ionưts),
hai vợ chồng Ivan to tiếng cãi nhau dù chỉ là tưởng tượng về vé trúng thưởng (Vé
trúng số).


Thói tầm thường dung tục, tự bằng lòng thỏa mãn với cuộc sống tẻ nhạt vô vị
cũng là cái mà Tchékhov phê phán gay gắt. Cả cuộc đời của Nicolai Ivannứts trôi
đi vô nghĩa chỉ để có một trang ấp nhỏ với khóm phúc bồn tử của riêng mình. Cuối
cũng lão cũng đạt được ước mơ tầm thường đó nhưng lão đã trở thành một kẻ hoàn
toàn sa đọa về tinh thần. Tchékhov lên án gay gắt hành động trốn vào “bao” của trí
thức. Không dám đấu tranh, sợ cái mới, thu mình trong vỏ ốc là một phương châm
sống của nhiều vị trí thức trong truyện của Tchékhov. Cuộc sống ngưng đọng, ngột
ngạt, tù túng bởi vì con người không dám đổi thay. Bằng lời của người kể chuyện,
tác giả bày tỏ quan điểm của mình “con người không chỉ cần ba ác sin đất, chỉ cần
một trang trại, mà cần cả địa cầu, cả thiên nhiên…”. Không thể tiếp tục sống như
thế này, phải cải cách xã hội, vấn đề là cải cách như thế nào? Tchékhov chống
những chính sách giả tạo, chống “ thuyết việc nhỏ”, chủ trương “trị bệnh phải trị
nguyên nhân chứ đừng nhè triệu chứng mà chữa”. Tchékhov cũng chống cái
“bệnh hoạn của thế kỷ” đang thâm nhập vào giới trí thức - thứ triết lí siêu nhân,

biện bạch cho sự lẩn trốn khỏi cuộc sống. Truyện ngắn “Nhà tu hành vận đồ đen”
đã thể hiện một cách xuất sắc vấn đề này.
1.3. Con người nhỏ bé trong truyện O’Henry là con người cao thượng
Truyện ngắn của Tchékhov thiên về thể hiện con người nhỏ bé về tâm hồn, về
đời sống tinh thần thì truyện của O’Henry lại thiên về thể hiện những con người
nhỏ bé về địa vị xã hội. Nhà nghiên cứu Lê Huy Bắc đã thật có lí khi cho rằng:
“Thế giới của O’Henry cơ bản là thế giới của những người nghèo. Nghèo đến tận
cùng xã hội. Nhưng đấy là thế giới thấm đẫm tình thương, giàu lòng vị tha và sẵn
sàng làm điều tốt cho nhau”[2, tr. 115]. Quả thật, nhân vật của O’Henry dù thuộc
hạng người nào cũng luôn cao thượng trong mọi hoàn cảnh. Là nghệ sĩ thì dù
nghèo đến mấy, họ vẫn không bán đi lương tâm nghề nghiệp và luôn sẵn sàng hi
sinh bản thân mình vì nghệ thuật và vì người khác (Behrman, Sudie, Della, Joe,…).
Là vợ chồng thì luôn hi sinh bản thân mình vì tình yêu, hạnh phúc (Món quà
Giáng sinh, Một sự giúp đỡ của tình yêu). Những cô gái nghèo, dù thiếu thốn
vẫn không đánh mất nhân phẩm của mình (Buồng tầng thượng, Câu chuyện dở
dang, Gương mặt trông nghiêng kỳ diệu). Những kẻ lang thang, lừa bịp thì trong
sâu thẳm tâm hồn vẫn tiềm ẩn những khát vọng giản dị, rất đáng chia sẻ và trân
trọng (Tên cướp và bản thánh ca, Sự hóa thân của Timmy Valentine, Người
đánh giá sự thành công). Có thể nói, các nhân vật ở O’Henry tuy nhỏ bé về địa vị
xã hội nhưng hầu như không hề nhỏ bé về tâm hồn. Xét theo quan điểm nghệ thuật


về con người, ta có thể gọi kiểu nhân vật của O’Henry là con người cao thượng.
Người đọc cảm phục trước sự hy sinh của họa sĩ Behrman, chấp nhận cái chết để
tuổi trẻ tái sinh, để vì nghệ thuật chân chính. Della sẵn sàng bán đi mái tóc, đồng
nghĩa với bán đi sắc đẹp của mình để làm cho người chồng hạnh phúc. Đi tìm sự
cao thượng trong tâm hồn của những người công dân bình thường chưa đủ,
O’Henry còn truy tìm sự cao thượng ấy trong tâm hồn của những kẻ phá két sắt và
những người đại diện cho công lý. Dùng tình yêu thương để cảm hóa con người,
Ben Praisee là mẫu người thực hiện công lí cao thượng, mẫu thám tử lý tưởng. Tự

thức tỉnh lương tâm trước tình yêu, trước cái đẹp, Jimmy là mẫu tội phạm cao
thượng. Đó cũng là sự thức tỉnh của nhân vật Haytinh Môli khi nhìn thấy cô bạn
trong trắng, ngây thơ cùng học hồi phổ thông. Để cuối cùng một kẻ lừa đảo trắng
trợn như Môli cũng phải thốt lên “trời ơi, tôi chỉ muốn chết thôi”. Có thể nói rằng
truyện O’Henry có kiểu con người tự thú, thức tỉnh. Cái thức tỉnh được tác giả
thể hiện trong những khoảnh khắc thần tình, trong “chốc lát” (moment). Bởi vậy,
nếu Maupassant và Tchékhov là những bậc thầy trong nghệ thuật dò xét bóng tối
cuộc đời các viên chức, trí thức, thì O’Henry là bậc thầy trong nghệ thuật dò tìm
ánh sáng trong cuộc đời của “những kẻ lừa đảo lương thiện”. Chính điều này làm
cho sáng tác của ƠHenry thấm đẫm tinh thần nhân đạo cao cả.
Tóm lại, cùng phơi bày những sự thật trần trụi về cuộc sống xã hội và con
người đương thời, cả ba tác giả đều quan tâm thể hiện những con người nhỏ bé.
Tuy nhiên tính chất, mức độ và cách xử lý của ba nhà văn ở đây cũng đi theo
những khuynh hướng khác hẳn nhau. Nếu ở truyện Maupassant con người nhỏ bé
về vị thế xã hội và con người nhỏ bé về tâm hồn đều được quan tâm thể hiện, thì
Tchékhov lại chủ yếu thiên về thể hiện sự nhỏ bé trong tâm hồn con người và
O’Henry lại chủ yếu thiên về những con người nhỏ bé về địa vị xã hội. Mặt khác,
nếu con người nhỏ bé của Maupassant và Tchékhov được thể hiện nhiều dưới dạng
con người tha hóa, con người sống mòn, thì con người nhỏ bé của O’Henry hầu
như không bị tha hóa, hoặc họ cố vươn lên cao thượng trong mọi hoàn cảnh. Vì
vậy, bước vào thế giới nhân vật của Maupassant và Tchékhov là bước vào một thế
giới u ám, đầy nước mắt, gợi lên cảm giác bi quan. Ngược lại thế giới nhân vật của
O’Henry lại hồn hậu, thủy chung và tràn đầy tinh thần lạc quan. Chính vì thế mà cả
hai chiều hướng đã bị quy kết hoặc là “bi quan quyết liệt” hoặc là “quá ảo tưởng”.
Tất nhiên, cả hai cách đánh giá này đều thiển cận. Văn chương có nhiều cách để
“thanh lọc tâm hồn con người”. Phơi bày cái xấu, cái ác để cảnh tỉnh, răn đe con


người. Hoặc thể hiện cái tốt, cái thiện để cảm hóa, nêu gương con người.
Maupassant và Tchékhov đã chọn con đường thứ nhất, còn O’Henry lại đi vào con

đường thứ hai.
2. ĐẶT CON NGƯỜI NHỎ BÉ VÀO CUỘC SỐNG ĐỜI THƯỜNG
2.1. Điều đầu tiên đập vào mắt độc giả khi đọc tác phẩm của Maupassant,
Tchékhov, O’Henry là họ đều viết về những điều vặt vãnh của đời sống hàng ngày.
Đặt nhân vật vào những mối quan hệ hết sức bình thường, ba nhà văn đều muốn
khái quát những bi kịch đời thường thành bi kịch vĩnh cửu. Truyện của họ hầu như
ít đề cập đến những vấn đề lớn lao. Ở người này là một vụ lừa dối, một chuyện
ngoại tình, một niềm hối tiếc, một đám tang, một cuộc trò chuyện, một cuộc mua
bán… Ở người nọ là một vụ mất cắp, lá thư của thằng bé đi ở, vụ xử kiện con chó
cắn bậy, một lời nói dối, một lời tỏ tình, một cái hắt hơi… toàn là “những chuyện
vặt vãnh”… Ở người kia là chuyện tặng quà, chuyện ăn uống, chuyện kinh doanh,
những mẩu bánh mỳ, một cái hôn tỏ tình, một niềm xao xuyến… Ngay cả khi viết
về những vấn đề trọng đại, các nhà văn cũng có xu hướng đời thường hóa. Chiến
tranh Pháp – Phổ là một biến động lớn của xã hội nước Pháp nhưng Maupassant
cũng đời thường hóa chiến tranh bằng ứng xử của con người, bằng thái độ của các
tầng lớp trong xã hội, bằng những sinh hoạt hàng ngày của con người. Với “Đôi
bạn”, “ Viên mỡ bò”, “Cô Fifi” có thể nói Maupassant đã tái hiện sâu sắc hậu
phương của cuộc chiến với một cảm quan độc đáo. Thực chất cuộc chiến đối với
những tên lính Phổ tàn bạo chỉ là gái điếm và những “con cá chiên”. Thực chất bọn
giai cấp tư sản, quý tộc Pháp là một lũ hèn nhát, bạc nhược. Chỉ có những người
dân Pháp bình thường, thậm chí là những người dưới đáy xã hội (gái giang hồ) mới
có lòng yêu nước và ý thức dân tộc.
Tchékhov khi viết về đề tài cải cách xã hội chống lại “thuyết việc nhỏ”, chống
sự lẩn trốn cố “thu mình trong bao”, chống tư tưởng “triết lí siêu nhân” cũng đời
thường hóa bằng cách khéo léo lồng vào những tình cảm đời thường của con
người: tình yêu, tình vợ chồng, tình cảm bạn bè, đồng nghiệp… Các truyện Ngôi
nhà có căn gác xép, Người trong bao, Nhà tu hành vận đồ đen… đã thể hiện
sâu sắc vấn đề này. Đặc biệt trong truyện Nhà tu hành vận đồ đen, triết lí siêu
nhân, con người mắc bệnh vĩ cuồng đã bị đánh gục, đồng thời với một bi kịch tình
cảm vợ chồng chua xót. Chất trữ tình đậm đà trong những truyện mang tính tư

tưởng, triết lý của Tchékhov.


2.2. Xuất phát từ sự trần trụi của cuộc sống là một đặc điểm trong nguyên tắc thi
pháp của ba nhà văn. Tuy nhiên vượt lên trên các nhà tự nhiên chủ nghĩa, họ quan
tâm đến những điều vặt vãnh ấy không chỉ để mà quan tâm. Cái cốt lõi trong sáng
tác của họ là ở cách hiểu cuộc sống phức tạp hơn, biện chứng hơn. Trong những
bức tranh đời thường, họ tìm thấy tính liên hoàn tạo nên dòng chảy cuộc đời.
“Khắc phục được tính ước lệ, miêu tả đời thường hàng ngày có thể đạt được ý
nghĩa nghệ thuật với điều kiện đằng sau cái đời thường phải làm rõ tính lịch sử
của cuộc sống, có nghĩa là phải xâm nhập được vào bản chất của nó”[1, tr. 52].
Truyện của họ đã làm được điều này.
Tính khái quát, phê phán sắc bén trong truyện của Maupassant xuất phát từ tài
quan sát và lột tả bản chất của những việc hết sức bình thường. Chỉ trên một
chuyến xe ngựa mà tập trung cả một xã hội thu nhỏ (Viên mỡ bò). Chỉ qua một
cuộc mua bán trao đổi, mà tác giả vạch trần bản chất xã hội, người với người là
lang sói (Cái thùng con). Qua cuộc trò chuyện giữa hai vị tai to mặt lớn mà tác giả
vạch trần bản chất hưởng lạc, sa đọa của tầng lớp quý tộc tư sản (Đứa con bỏ rơi).
Đằng sau những việc đơn giản là những bi kịch ngấm ngầm. Âm điệu phê phán tố
cáo toát lên chủ yếu trong tác phẩm. Ngay cả những kiểu truyện “tâm thần phân
lập” viết về cái kinh dị hoang tưởng của Maupassant ở cuối đời, yếu tố hiện thực
đời thường vẫn rất rõ nét. Bởi cái kinh dị ma quái của Maupassant không đâu xa lạ
mà bắt đầu từ cái bình thường hàng ngày. Và kết thúc các truyện kiểu này là một
cái kết rất hiện thực. Xác chết của người đàn bà (Trên mặt nước) giải tỏa không
khí ma quái rùng rợn từ đầu truyện. Ai dám bảo rằng xã hội Pháp lúc bấy giờ
không có những cái chết như vậy.
Ở O’Henry cái đời thường hàng ngày được chọn lọc kỹ càng và dày công sắp
xếp để gây hiệu quả bất ngờ. Thủ pháp tăng cấp, cái chốc lát được tác giả sử dụng
thành công làm nảy sinh những liên tưởng bất ngờ, hấp dẫn. Cái nhìn nhân sinh
của tác giả ẩn dưới những bi kịch đời thường là cái nhìn lạc quan, tin yêu con

người. Bên cạnh âm điệu tố cáo là âm điệu ngợi ca. Và chính vì âm điệu ngợi ca
này mà cái bình thường hàng ngày trong truyện O’Henry được dồn nén, thăng hoa.
Về điểm này O’Henry có phần khác với Tchékhov.
Đọc truyện Tchékhov ta có cảm giác cái bình thường hằng ngày của cuộc
sống cứ thế ùa vào trang sách. Không cầu kỳ, đẽo gọt. Lối miêu tả khách quan,
dửng dưng, lạnh lùng là một đặc điểm trong phong cách nghệ thuật của Tchékhov.


Từ những truyện hài hước đả kích đơn giản ở giai đoạn đầu, đến những truyện trữ
tình manh tính nghệ thuật cao ở giai đoạn sau, cái vặt vãnh đời thường vẫn là
những cái mà ngòi bút Tchékhov luôn quan tâm. Đa số các tác phẩm đã thực sự
xâm nhập vào bản chất những điều vặt vãnh thông qua việc miêu tả tâm trạng, quá
trình diễn biến tâm lí phức tạp, qua đó làm nổi bật tính chất bi kịch của đời thường.
Chỉ một lời nói đùa, tác giả khơi gợi cảm xúc của độc giả, nỗi buồn man mác tiếc
thương cho cái đẹp đang bị vùi dập giữa vô vàn cuộc sống vẩn đục, thô trần héo
hắt. Chỉ một cuộc gặp gỡ tình cờ trên bãi biển làm nổi lên bi kịch của tình yêu, hôn
nhân, hạnh phúc. Chỉ qua “những buổi học đắt tiền”, qua sở thích “chui vào bao”
tác giả phơi trần căn bệnh của toàn xã hội Nga lúc đó - thói tiểu thị dân - mà
Tchékhov đấu tranh suốt đời không khoan nhượng.
Có thể nói rằng dưới ngòi bút của ba nhà văn “bi kịch đời thường” đã được
nâng lên thành bi kịch vĩnh cửu, bởi họ bắt những điều vặt vãnh nhất cũng phải nói
lên tiếng nói của mình về ý nghĩa của cuộc sống con người. Ở Việt Nam, truyện
ngắn của Nam Cao cũng được triển khai theo xu hướng này.
3. CẢM HỨNG BI - HÀI KỊCH LÀ CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO TRONG XÂY
DỰNG NHÂN VẬT
“Cảm hứng chủ đạo là trạng thái tình cảm mãnh liệt say đắm xuyên suốt tác
phẩm nghệ thuật, gắn liền với một tư tưởng xác định, một sự đánh giá nhất định,
gây tác động đến cảm xúc của người tiếp nhận tác phẩm” [5, tr. 32]. Cảm hứng
chủ đạo là một yếu tố của bản thân nội dung nghệ thuật, của thái độ xúc cảm ở
nghệ sĩ đối với thế giới được mô tả. Và như vậy cảm hứng chủ đạo thống nhất với

đề tài và tư tưởng của tác phẩm, đem lại cho tác phẩm một không khí xúc cảm tinh
thần nhất định thống nhất với tất cả các cấp độ và yếu tố của nội dung tác phẩm.
Trên tinh thần này, có thể nói rằng cảm hứng bi kịch, bi hài kịch là cảm hứng
chủ đạo trong truyện ngắn của Maupassant, Tchékhov, O’Henry. Đó cũng chính là
cảm hứng chủ đạo trong khi xây dựng nhân vật của ba bậc thầy truyện ngắn.
3.1. Không ở đâu chất bi hài kịch lại được thể hiện một cách mạnh mẽ, quyết liệt
và sâu sắc như trong các trang viết của Maupassant. Có lẽ vì thế mà tác giả được
mệnh danh là tài năng “bi quan quyết liệt nhất trong lịch sử văn chương Pháp”.
Mỗi truyện ngắn của Maupassant là một số phận con người được đặt vào một thời
điểm nào đó sáng chói, có khi nhiều bão tố tai biến, nhưng cũng có khi nhẹ nhàng


xúc động như những áng thơ văn xuôi. Nó là “cánh cửa bí ẩn những đau khổ tinh
thần” để lại một nỗi buồn man mác sâu xa trong lòng người đọc. Các nhân vật của
Maupassant sinh ra như một “sai lầm của định mệnh”, phải sống chết trong đau
khổ, buồn chán, cô đơn, kể cả những ngẫu nhiên tai ác bi thảm. Nỗi cô đơn luôn
ám ánh nhức nhối trong các nhân vật của Maupassant. Tác giả ái ngại cho sự bất
lực của ngôn từ, sự yếu đuối của thể xác. Nhân vật dẫu là ai thì bản chất cô đơn
vẫn hiện rõ, cái tốt của người này hoặc bị hiểu lầm hoặc bị lợi dụng; cái xấu xa nhơ
bẩn tồi tệ của kẻ khác; bên cạnh lòng tham, thói vị kỷ tàn nhẫn cũng còn sự yếu
đuối nghèo nàn về tinh thần của chính con người. Với hơn 300 truyện ngắn, chỉ có
mảng truyện viết về cuộc chiến tranh Pháp – Phổ hiện lên như một khoảng sáng
đặc biệt với gam màu trong trẻo rất Pháp ở tấm lòng yêu nước, ở những chiến công
bình dị của người dân Pháp bình thường, thậm chí là những cô gái giang hồ. Còn
lại các nhân vật của Maupassant hầu như chìm trong màu xám xịt, tội lỗi. Kết thúc
truyện của Maupassant rất ít khi có hậu. Nhân vật hoặc là chết (Cô Harriet, Sợi
dây, Điên, Đi dạo, Bà Báp – tít) hoặc là thoái hóa về nhân cách, sa đọa về tinh
thần (Món tư trang, Món gia tài, Một đứa con, Marôca). Rất nhiều truyện của
Maupassant đi sâu phân tích tâm lí tình yêu hôn nhân, những ám ánh tính dục, để
cuối cùng là những tan vỡ ảo ảnh về hạnh phúc. Theo nhà nghiên cứu Đào Duy

Hiệp, trong sáng tác của Maupassant “Tiếng cười hướng vào mọi khía cạnh của
đời sống: tình yêu, hôn nhân, hạnh phúc, bất hạnh, sự hân hoan và cả nỗi xót xa
cay đắng. Tiếng cười thông cảm ái ngại, tiếng cười châm biếm chế giễu và đằng
sau nó là cả một nỗi chua chát xót xa. (…) Hình thức của cái khôi hài trong sáng
tác của Maupassant mang trong nó ý nghĩa triết lí sâu sắc về cuộc đời về con
người: Khắp nơi cấu trúc là như nhau, một cấu trúc bên ngoài giản dị, mà, để
mang lại sự bất ngờ còn nguyên vẹn, nó không đưa cả nhân vật lẫn độc giả vào sự
cảnh giác, và một cấu trúc bên trong bởi cái trống rỗng “[6, tr. 122]. Cái trống
rỗng của sự biểu hiện có dụng ý trả lời cho cái hư vô của cuộc đời. Qua thế giới
nhân vật này, Maupassant hoài nghi tất cả: Chúa trời, tôn giáo, niềm tin, tình yêu,
sự tiến bộ… bởi vì con người vốn đã không thể hiểu nhau. Cảm hứng bi hài chi
phối, khiến các nhân vật của Maupassant phần lớn là những nhân vật nghịch dị, cả
về thể chất lẫn tâm hồn. “Cái giọng mảnh và khẽ kêu lên sự tan vỡ cuộc đời” trong
thế giới nhân vật của Maupassant dẫu bi quan song vẫn mang tính cảnh báo và
không phải không có tính thời sự.


3.2. Cùng chung cảm hứng, nhưng cách xử lý của Tchékhov khác với Maupassant.
Chất bi kịch, bi hài trong truyện của Tchékhov không căng thẳng, nổi cộm trên
trang sách như ở Maupassant. Cái bi kịch ở Tchékhov ẩn chìm bên dưới câu chữ,
người đọc phải xuyên qua lớp vỏ ngôn từ, xuyên qua những sự việc đơn giản mới
nắm bắt được. Đó chính là “mạch ngầm văn bản”, một đặc điểm cơ bản trong
phong cách nghệ thuật của Tchékhov. Các nhân vật của Tchékhov vì vậy mà
không có nhiều “bão tố”, “tai biến”, chỉ là những hành động bình thường, những
suy nghĩ rời rạc, những tâm trạng vẩn vơ… Nhưng chính những cái vô vị, buồn tẻ
đó nói lên sự nhạt nhẽo, tầm thường, tan vỡ của cuộc đời. Dưới ngòi bút của tác
giả, những điều xấu xa hèn hạ trở nên ghê tởm gấp ngàn lần. Nhà văn ái ngại cho
những quái thai ở những con người thoạt nhìn tưởng như bình thường. Nhân vật
dầu là ai thì thói tầm thường, dung tục, tiểu thị dân vẫn hiện rõ: nô lệ, hèn nhát, lẩn
tránh cuộc sống, bất lực, lừa dối, thô bạo, chạy theo những hư danh phù phiếm, coi

thường dẫm đạp những giá trị cao đẹp. Cái nhìn thấu thị, tinh tường giúp Tchékhov
có khả năng hiếm hoi, thấy được những điều ẩn náu dưới bề sâu của sự vật. Đằng
sau lời nói đùa nho nhỏ là sự tan vỡ về tình yêu, hạnh phúc. Đằng sau “chuyện đời
vặt vãnh” là lời nói dối thô bạo làm vẩn đục tâm hồn trẻ thơ. Đằng sau phòng số 6,
căn gác xép là một xã hội nước Nga – nhà tù với những chủ trương giả dối để lẩn
tránh trách nhiệm. Đằng sau cuộc gặp gỡ tình cờ trên bãi biển là bi kịch về một
cuộc tình vô vọng không lối thoát. Không chỉ dừng lại ở bi kịch đời thường,
Tchékhov còn đi vào những bi kịch tư tưởng mang tầm nhân loại. Một nhà khoa
học sống bằng những ảo tưởng triết lí siêu nhân, sống bằng bệnh vĩ cuồng, dám coi
khinh những hạnh phúc đời thường nho nhỏ để cuối cùng phải chết trong niềm ân
hận muộn màng. Kết thúc truyện của Tchékhov cũng ít có hậu, nhiều khi lơ lửng.
Hoặc là bằng cái chết (Cái chết của một viên chức, Một tấn kịch, Nhà tu hành
vận đồ đen, Người đàn bà phù phiếm), hoặc chẳng hé lộ điều gì tươi sáng
(Người đàn bà có con chó nhỏ, Những người đàn bà, Hai kẻ thù, Mưa dầm,
Cơn bệnh thần kinh…) Thế giới nhân vật của Tchékhov vì vậy đầy đau khổ, bệnh
hoạn. Với Tchékhov “Đời dữ dội văn học không thể bằng phẳng, tẻ nhạt. Đời gồ
ghề, gai góc, văn học không thể đi mây về gió”[4, tr. 11]. Truyện của Tchékhov
làm cho độc giả khắc khoải bởi những bi kịch ẩn chìm dưới bút pháp khách quan,
lạnh lùng, mổ xẻ tận gốc rễ những vấn đề đặt ra trong xã hội, trong thế giới nội tâm
của con người. Chất đa thanh, mạch ngầm văn bản, sự phân thân đến mức đớn đau
của những nhân vật mang gánh nặng không cùng của tư tưởng,… là những cái mà
Tchékhov đã kế thừa ở các bậc tiền bối và đẩy lên một sự sáng tạo cao hơn.


3.3. Cảm hứng chủ đạo trong thế giới nhân vật của O’Henry vẫn là cảm hứng bi, bi
hài kịch. Nói vậy liệu có mâu thuẫn chăng khi số phận các nhân vật của O’Henry
vẫn đồng hành với những cái kết có hậu, với tinh thần lạc quan yêu đời. Vấn đề
không đơn giản như vậy. Đọc kỹ tác phẩm của O’Henry, ta thấy đó chỉ là cái bề
ngoài, là mong ước chủ quan của nhà văn. Còn theo logic phát triển của tính cách
trong mối quan hệ với hoàn cảnh, thì số phận các nhân vật không thể tránh khỏi

những bi kịch. Truyện của O’Henry vẫn đầy rẫy những cái chết. Có cái chết mang
ý nghĩa thăng hoa (Chiếc lá cuối cùng), có cái chết mang tính trừ khử (Câu
chuyện tỉnh lẻ), và phần đông là những cái chết chua xót (Bên bị, Căn buồng có
sẵn đồ cho thuê, Vì truyền thống…). Bởi vậy đằng sau những cái kết có hậu,
đằng sau tiếng cười hạnh phúc, thế giới nhân vật của O’Henry phần lớn vẫn chìm
đắm trong bi kịch cuộc sống. Đó là bi kịch của những thân phận con người không
có địa vị xã hội. Để vượt lên đời sống vật chất như một cơn ác mộng, O’Henry để
cho các nhân vật của mình gieo ước mơ, khát vọng lên mảnh đất tinh thần màu mỡ.
Điều đó giải thích vì sao, các nhân vật O’Henry tuy nhỏ bé về vị thế xã hội nhưng
là những con người có tâm hồn cao thượng. Nhưng liệu tinh thần của họ có trụ lại
trước sự khắc nghiệt của cuộc sống hay không, và những ước mơ của họ có trở
thành hiện thực chăng? Truyện của O’Henry tuy có kết cục vui nhưng âm hưởng,
dư vị lan tỏa lại buồn. Người đọc xót xa vì bàn tay bị bỏng của Delia, có nghĩa
tương lai âm nhạc của cô bị cắt đứt. Bên cạnh những biểu tượng về sự hi sinh cao
đẹp vì tình yêu, Món quà giáng sinh day dứt người đọc về một sự tính toán đến
tội nghiệp của những cặp vợ chồng nghèo khổ. Trong các truyện về những kẻ lang
thang, lừa đảo, tác giả đã rất thành công khi sử dụng cái chốc lát (moment) để nhân
vật làm một cuộc lột xác trong tâm hồn, trở về với cái nguyên sơ lương thiện của
con người. Song thực tế Soapy, Molli có thực hiện được sự hoàn lương trong tâm
hồn khi mà cánh cửa cuộc đời hầu như đóng im ỉm, khi xã hội không cho họ những
cơ hội. Những tình huống bất ngờ, oái ăm trong truyện Tên cớm và bản thánh ca
đã thể hiện sâu sắc bi kịch cuộc đời của những con người nhỏ bé. Khi muốn vào tù
để tránh đói, tránh rét thì mọi cách vẫn không thể, và khi muốn trở về cuộc sống
lương thiện thì lại phải vào tù. Đó cũng là bi kịch của Chí Phèo trong truyện ngắn
cùng tên của Nam Cao. Cái nhìn của O’Henry đối với thế giới con người cũng thật
nhiều cung bậc. Yêu thương hết mình và căm thù tột độ, bên cạnh âm điệu ngợi ca
là âm điệu phê phán vừa “sắc nhọn vừa mỉa mai”, “vừa dịu dàng trìu mến” thấm
đẫm chất bi nhưng cũng tràn đầy tinh thần lạc quan, yêu đời. Truyện của O’Henry
là một sự giải bày, mà nói như P.H Lawvence “người ta giãi bày những nỗi đau



lên trang sách, lặp lại và trình bày những cảm xúc là để làm chủ được chúng”.
Với những gì được đưa lên trang viết, O’Henry thực sự đã làm chủ ngòi bút của
mình.
Tóm lại, dù ở những mức độ và cách thể hiện khác nhau, các nhân vật của
Maupassant, Tchékhov, O’Henry vẫn được xây dựng trên cảm hứng bi kịch, bi –
hài kịch. Chính cảm hứng này thống nhất đề tài (con người nhỏ bé) tư tưởng (nhân
đạo) và chi phối phương thức xây dựng nhân vật của ba tác giả. Nhìn chung, nghĩa
là bỏ qua những ngoại lệ, các nhân vật của O’Henry là kiểu con người cao thượng,
mang tính chất nêu gương, giáo huấn; các nhân vật của Maupassant được thể hiện
“với tất cả sự cao quý và hèn hạ” của con Người; các nhân vật của Tchékhov lại
“mang gánh nặng không cùng của những tư tưởng”, mang ý nghĩa triết lý nhân
sinh, nó gợi mở những suy nghĩ về thân phận con người. Đây chính là điểm làm
cho Tchékhov gần gũi với các nhà văn thế kỷ XX. Với việc thể hiện con người tâm
trạng, con người tự ý thức, bút pháp lạnh lùng khách quan dò tìm những bí ẩn trong
tâm hồn con người, đã làm cho truyện của Tchékhov khác về bản chất so với
truyện ngắn truyền thống và gần gũi với truyện ngắn hiện đại.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Đào Tuấn Ảnh (1992), “Tchékhov và Nam Cao - Một sáng tác hiện thực kiểu
mới”, Tạp chí văn học số 1.
[2] Lê Huy Bắc (2000), ƠHenry Chiếc lá cuối cùng, Nxb Văn học.
[3] M. Bakhtine (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Trường viết văn Nguyễn
Du.
[4] Phan Hồng Giang (dịch), (1994), Tuyển tập truyện ngắn Tchékhov, Nxb Văn
học, Hà Nội.
[5] Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên), (1992), Từ điển
thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục.
[6] Đào Duy Hiệp (2000), “Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Maupassant”,
Tạp chí Văn học nước ngoài, số 4.



[7] Trần Đình Sử (chủ biên), (1987), Lý luận văn học, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.

THE CHARACTER IN MAUPASSANT TCHEKHOV, O’HENRY SHORT
STORIES UNDER THE CONSIDERATION OF COMPARISONS

Duong Thi Anh Tuyet
Quang Binh University
Abstract. Maupassant, Tchékhov, Ơ Henry are three famous leading authors
of short stories in France, Russia and United States in 19 th century. Their
composing techniques have largely influenced on young authors at that time. This
article focuses on understanding the characters in their compositions in term of
comparison in order to show the popular rules and typical characteristics as well
in the way of their building characters. Hence, the research result is contributed to
confirm each author’s style and common characteristics of compositions belonging
to the realistism in western American countries.

Cùn



×