Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

TĂNG CƯỜNG rèn LUYỆN kỹ NĂNG SỐNG CHO học SINH, SINH VIÊN QUA HOẠT ĐỘNG GIÁO dục PHÁP LUẬT TRONG NHÀ TRƯỜNG (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.5 KB, 8 trang )

TĂNG CƯỜNG RÈN LUYỆN KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH, SINH
VIÊN QUA HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRONG NHÀ
TRƯỜNG
Trần Thị Sáu
Trường Đại học Quảng Bình
Tóm tắt: Giáo dục pháp luật cho học sinh, sinh viên trong nhà trường là sự tác động bằng hệ
thống phương pháp sư phạm nhằm trang bị cho người học tri thức pháp luật, xây dựng niềm tin, tình cảm
pháp luật đúng đắn, rèn luyện kỹ năng sống và xử sự theo những chuẩn mực pháp luật. Với mong muốn
nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của GDPL trong việc rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh, sinh
viên, bài viết phân tích vai trò và kiến nghị những giải pháp cơ bản giúp hoạt động giáo dục pháp luật
trong nhà trường trở nên hiệu quả, qua đó tăng cường kỹ năng sống cho học sinh, sinh viên.
Từ khóa: Giáo dục pháp luật; Kỹ năng sống

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Giáo dục pháp luật (GDPL) trong nhà trường đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong đời
sống xã hội, góp phần tích cực trong việc thực hiện mục tiêu của giáo dục là đào tạo con người
Việt Nam phát triển toàn diện, hình thành và bồi dưỡng nhân cách thế hệ trẻ trở thành công dân
mẫu mực, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực của
nền kinh tế tri thức và hội nhập toàn cầu. Giáo dục pháp luật cũng như giáo dục nói chung không
chỉ hướng vào mục tiêu tạo ra nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội mà còn
hướng tới mục tiêu phát triển đầy đủ giá trị của mỗi cá nhân giúp con người có năng lực để cống
hiến đồng thời có năng lực để sống một cuộc sống có chất lượng và hạnh phúc. Đó là cuộc sống
tự do hành động trong hành lang pháp lý, biết sử dụng pháp luật để bảo vệ mình và lựa chọn,
quyết định cho mình cách ứng xử tích cực trước muôn nẻo đường của cuộc sống. Để đạt được
mục tiêu trên ngoài việc trang bị tri thức, giáo dục thái độ, niềm tin, thúc đẩy hành vi pháp luật,
GDPL còn nâng cao kỹ năng sống cho thế hệ trẻ.
Có nhiều quan điểm khác nhau về kỹ năng sống (life skills) và mỗi quan niệm được diễn
đạt theo cách khác nhau. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cho rằng kỹ năng sống là những kỹ năng
mang tính tâm lý xã hội và kỹ năng giao tiếp được vận dụng trong những tình huống hằng ngày
để tương tác một cách hiệu quả với người khác và giải quyết tốt những tình huống khác nhau nảy
sinh trong cuộc sống. Theo tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục (UNESCO) của Liên hợp


quốc thì kỹ năng sống là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào
cuộc sống hàng ngày [1, tr.11]. Như vậy, có thể thấy so với quan niệm của WHO thì UNESCO
đã đưa ra cách tiếp cận đầy đủ và chính xác hơn, thể hiện kỹ năng sống bao hàm cả năng lực
(tổng hòa của kiến thức, thái độ, hành vi) và khả năng tâm lý xã hội. Đó là khả năng nhận biết,
áp dụng hiểu biết đó để giải quyết những vấn đề của cuộc sống, giúp họ có cuộc sống an toàn,
khỏe mạnh và hiệu quả. Và được thể hiện qua khả năng ứng xử đúng đắn, phù hợp khi tương tác


với người khác hoặc trong những tình huống khác nhau của môi trường xã hội. Dưới góc độ này
kỹ năng sống bao gồm kỹ năng chung và những kỹ năng cụ thể. Kỹ năng chung thể hiện qua kỹ
năng nhận thức, kỹ năng đương đầu với xúc cảm, kỹ năng xã hội. Kỹ năng cụ thể thể hiện trong
việc đối diện và ứng phó với những vấn đề khác nhau trong đời sống xã hội như vấn đề về vệ
sinh, vệ sinh thực phẩm, sức khỏe, dinh dưỡng; Các vấn đề về giới, giới tính, sức khỏe sinh sản;
Ngăn ngừa và chăm sóc người bệnh HIV/AIDS; Phòng, chống rượu, ma túy, thuốc lá, trò chơi
điện tử...Ngăn ngừa thiên tai, rủi ro và bạo lực; Hòa bình và giải quyết xung đột; Gia đình và
cộng đồng; Giáo dục công dân; Bảo vệ thiên nhiên và môi trường; Phòng tránh buôn bán trẻ em
và phụ nữ...
Trong phạm vi bài viết này chúng tôi sử dụng khái niệm kỹ năng sống theo góc độ tiếp cận
của UNESCO. Theo đó giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, sinh viên qua hoạt động GDPL
được hiểu là việc chủ thể GDPL tác động một cách có tổ chức, có hệ thống nhằm rèn luyện năng
lực sống và ứng xử với những tình huống khác nhau trong cuộc sống phù hợp với chuẩn mực
pháp luật và các quy tắc xã hội, qua đó hỗ trợ, củng cố và phát huy tác dụng của GDPL trong nhà
trường.
2. VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRONG VIỆC NÂNG CAO KỸ NĂNG
SỐNG CHO HỌC SINH, SINH VIÊN
Một trong những sứ mệnh quan trọng của GDPL trong nhà trường là tăng cường kỹ năng
sống cho học sinh, sinh viên. Điều đó được thể hiện ở những khía cạnh sau:
Thứ nhất, GDPL trang bị kiến thức và nâng cao năng lực nhận thức pháp luật cho học sinh,
sinh viên, giúp các em ứng xử đúng pháp luật, tránh xa hành vi vi phạm. Trong những năm qua,
cùng với sự phát triển về kinh tế - xã hội, đời sống vật chất và tinh thần được cải thiện thì hành vi

vi phạm pháp luật trong học sinh, sinh viên cũng có xu hướng gia tăng cả về số lượng và mức độ
nguy hiểm. Theo thống kê của Ủy ban an toàn giao thông quốc gia có đến 40% vụ tai nạn giao
thông mỗi năm liên quan đến lứa tuổi thanh thiếu niên, hơn 400 thanh thiếu niên bị tử vong do
tai nạn giao thông mỗi tháng, trong đó 70% vụ liên quan đến việc điều khiển xe máy (VTV1,
19h35 ngày 7.3.2011). Ngoài vi phạm pháp luật về an toàn giao thông, việc học sinh, sinh viên vi
phạm các qui định về thi, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập và rèn luyện được nhận định là khá
phổ biến. Sự gia tăng đột biến của tệ nạn ma túy học đường đang ngày càng trở thành vấn đề
nhức nhối, nếu năm 2004 chỉ có 600 học sinh, sinh viên nghiện ma túy thì đến 2007 con số này
là 1.234 học sinh, sinh viên [2, tr.23]. Theo số liệu thống kê mới đây của các cơ quan chức năng,
trên địa bàn cả nước có hơn 146.000 người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý, trong đó đáng báo
động là cứ 100 người nghiện thì có tới 70 người ở tuổi vị thành niên. Tình trạng học sinh, sinh
viên nghiện mạng, chát tăng mạnh và ngày càng phức tạp. Việc học sinh, sinh viên sử dụng công
nghệ cao tấn công các trang web để ăn cắp tiền, tống tiền qua điện thoại tăng nhanh. Nguy hiểm
hơn, thời gian gần đây xuất hiện ngày càng nhiều hành vi của các học sinh, sinh viên tự tổ chức
các cuộc bắt cóc giả để tống tiền chính bố mẹ đẻ của mình. Tình trạng bạo lực học đường, vi


phạm văn hóa học đường cũng đang trở thành nổi bức xúc trong xã hội. Đánh giá mức độ
nghiêm trọng của bạo lực học đường, báo cáo của ngành Giáo dục đã chỉ rõ năm học 2009 2010 toàn quốc có khoảng trên 1.600 vụ việc liên quan đến học sinh đánh nhau trong và ngoài
trường học. Hình thức xử lý được các trường đưa ra có 881 học sinh bị khiển trách, 1.558 học
sinh bị cảnh cáo, 735 học sinh bị buộc thôi học từ 3 ngày đến 1 năm. Bình quân cứ 5.260 học
sinh thì xảy ra một vụ đánh nhau; cứ 9 trường thì xảy ra một vụ học sinh đánh nhau. Trung bình
cứ 10.000 học sinh có một học sinh bị kỷ luật khiển trách. Đặc biệt năm học 2009 - 2010 có 7 vụ
việc học sinh đánh nhau bằng hung khí dẫn đến chết người [4, tr.3-4]. Nguyên nhân của thực
trạng trên là tổ hợp của nhiều yếu tố trong đó sự thiếu hụt nghiêm trọng kiến thức pháp luật và
kỹ năng vận dụng xử lý tình huống theo pháp luật được đặt lên hàng đầu. Do đó, giáo dục học
sinh, sinh viên biết sống đúng pháp luật, sống an toàn, có ý nghĩa là trách nhiệm của công tác
GDPL trong nhà trường;
Thứ hai, GDPL giúp học sinh THPT hình thành kỹ năng giao tiếp và thiết lập các mối quan
hệ xã hội lành mạnh, đúng chuẩn mực pháp luật đồng thời biết tự bảo vệ bản thân trước bạo lực,

ép buộc, cưỡng hiếp và những tình huống bất ngờ, nguy hiểm khác có thể xảy ra trong cuộc
sống. Tại hội thảo quốc gia phòng chống bạo lực, xâm hại trẻ em do liên Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội và Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Qũy nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF)
tổ chức tại Hà Nội ngày 24/9/2010, đại diện Bộ Công an cho biết năm qua có 1.200 vụ xứ lý hình
sự, xử lý hành chính 248 vụ bạo hành trẻ em, hơn 600 trẻ bị bắt cóc ra nước ngoài. Hàng năm có
trên 100 vụ giết trẻ em, 800 vụ xâm hại tình dục với gần 900 nạn nhân [8]. Trước thực tế đó,
GDPL trang bị cho các em những kiến thức về biểu hiện của hành vi lạm dụng, lợi dụng, xâm
hại, nắm được qui định của pháp luật về việc bảo vệ các em trước những hành vi nguy hiểm và
quan trọng nhất là giúp các em biết giải quyết vấn đề đó một cách hiệu quả và đúng pháp luật.
Khi được giáo dục kỹ năng sống các em biết cách lựa chọn, xác lập các mối quan hệ lành mạnh,
điều chỉnh hành vi của mình phù hợp với giá trị cuộc sống đồng thời chia sẻ, động viên và
khuyến khích bạn bè, người khác thực hiện đúng pháp luật, sống có trách nhiệm với bản thân và
cộng đồng. Bên cạnh đó GDPL tăng cường khả năng kiềm chế bản thân, tránh xa những cám dỗ
từ internet, tình dục, cờ bạc, các loại hình phản văn hóa, sự rủ rê, lôi kéo của bạn bè, người lớn,
sự tác động của phim ảnh, tiểu thuyết và ứng phó hiệu quả với sức ép và sự lôi kéo của kẻ xấu,
phòng ngừa những hành vi có hại về thể chất và tinh thần đối với bản thân, gia đình và xã hội.
Như vậy, GDPL trang bị cho học sinh, sinh viên kỹ năng và phương pháp tránh xa những yếu tố
tiêu cực ảnh hưởng tới quá trình phát triển và trưởng thành, qua đó hình thành thói quen, niềm
đam mê cái đẹp, biết yêu bản thân và cuộc sống, có lối sống trong sáng, biết tạo dựng sự thành
công và cống hiến;
Thứ ba, biết cách chung sống, đương đầu với những biến cố của cuộc đời như sự đổ vỡ của
gia đình, sự thất bại, mất cân bằng về tình cảm, khó khăn trong cuộc sống là vai trò to lớn mà
GDPL mang lại cho học sinh, sinh viên. Hoạt động GDPL rèn luyện ý chí và kiên trì bồi đắp
nghị lực giúp các em biết cách đương đầu và vượt qua những thách thức trong cuộc sống. Kết


quả cuộc điều tra do Viện Khoa học pháp lý phối hợp với UNICEF thực hiện đối với 190 người
chưa thành niên vi phạm pháp luật ở trường giáo dưỡng số 1, số 4, người chưa thành niên vi
phạm pháp luật ở Thanh Hóa, học sinh tỉnh Thanh Hóa và thành phố Hồ Chí Minh đã cho thấy lý
do để người chưa thành niên uống rượu là vui cùng bạn bè (36%), nhằm quên đi khó khăn thực

tại (16%), bắt chước người khác (16%), thích mùi vị của rượu (8%), thích cảm giác khi uống
rượu (8%), thất vọng về chuyện học hành (4%), thể hiện bản tính nam giới (4%), mệt mỏi (4%),
để say (4%). Còn lý do sử dụng ma túy là bắt chước người khác (36%), bị bạn bè lôi kéo (25%),
thích cảm giác ngất ngây (23%), quên đi khó khăn thực tại (7%), quên đi khó khăn gia đình
(7%), để vui vẻ (2%). Với câu hỏi làm gì khi cảm thấy buồn chán thì câu trả lời nhận được là
uống rượu với bạn bè (20%), đi chơi với bạn bè (19%), dùng ma túy (16%), không trả lời (13%),
ăn trộm (10%)... [7, tr.154-156]. Kết quả trên cho thấy khả năng làm chủ bản thân, làm chủ hoàn
cảnh của học sinh, sinh viên hiện nay rất hạn chế. Đặc biệt, dưới tác động của xã hội hiện đại với
hệ thống truyền thông mạng rộng mở, sự du nhập các luồng văn hóa bên ngoài, áp lực học tập,
thi cử, thiếu vắng sự chăm sóc của gia đình và sự quan tâm của xã hội...đã làm cho một bộ phận
giới trẻ thiếu định hướng giá trị và hành vi đã dẫn đến sự rối nhiễu cảm xúc và rối nhiễu hành vi.
Cuộc điều tra của Viện Chiến lược và chính sách y tế thuộc Bộ Y tế phối hợp với Tổng cục
Thống kê (SAVY 2) được thực hiện với 10.044 vị thành niên và thanh niên trong độ tuổi từ 14 25, tại 63 tỉnh, thành trong cả nước. Khi tìm hiểu về "sự buồn chán và dồn nén" của giới trẻ, có
đến 4,1% các bạn trẻ được hỏi đã từng nghĩ đến chuyện tự tử. Trong số những người nghĩ đến
giải pháp tồi tệ này thì tỷ lệ nữ giới cao hơn, chiếm hơn 2 lần so với nam giới. Trong tổng số
những người nghĩ đến chuyện tự tử thì có đến 25% bạn trẻ đã từng tìm cách để kết thúc cuộc
sống của mình. Cuộc điều tra còn chỉ ra rằng: 73% số người được hỏi khẳng định đã trải qua cảm
giác buồn chán, 26,7% người trẻ đã rơi vào trạng thái rất buồn hoặc thấy mình là người không có
ích đến nỗi không muốn hoạt động như bình thường [5]. Hậu quả là nhiều em đã rơi vào tình
trạng "khủng hoảng" tinh thần và xuất hiện bạo lực, hiếp dâm, bỏ nhà đi "bụi", "sex chat", "nude
chat"...để thoát khỏi hiện tại hoặc tìm riêng cho mình niềm vui mà theo các em là niềm vui "thực
sự". Đối diện với những vấn đề này chúng ta không thể đổ lỗi hoàn toàn cho các em và trước khi
lên án chúng ta hãy cho các em cơ hội được hiểu và biết cách xoay xở cũng như làm chủ hoàn
cảnh của mình. Do đó, qua hoạt động GDPL giáo dục kỹ năng sống giúp các em biết tự bảo vệ
bản thân, biết làm chủ hoàn cảnh chính là giải pháp tốt nhất và bền vững nhất;
Thứ tư, GDPL rèn luyện cho học sinh, sinh viên khả năng phản biện, nghĩa là giáo dục cho
các em phương pháp tư duy về những vấn đề đặt ra trong cuộc sống. Con người với đặc điểm
sinh học luôn có khuynh hướng phát triển, tuy nhiên để trở thành một chủ thể có năng lực, có
phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị, ý thức pháp luật cao thì phải thông qua quá trình giáo dục
và tự giáo dục. Cùng với việc trang bị kiến thức, giáo dục kỹ năng xử lý tình huống pháp luật,

GDPL còn rèn luyện cho học sinh, sinh viên năng lực phản biện, qua đó nâng cao tính tích cực
và trách nhiệm của các em trong việc đấu tranh chống các hành vi vi phạm pháp luật trong nhà
trường và xã hội.


3. NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRONG NHÀ TRƯỜNG NHẰM TĂNG
CƯỜNG KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH, SINH VIÊN
Nhằm tăng cường vai trò của GDPL trong việc nâng cao kỹ năng sống cho học sinh, sinh
viên theo chúng tôi cần thực hiện đồng bộ những giải pháp cơ bản sau:
3.1. Đổi mới tư duy GDPL
Đổi mới tư duy GDPL là giải pháp mang tính chiến lược không chỉ phục hưng nền giáo
dục quốc dân mà còn nâng cao hiệu quả hoạt động GDPL cho học sinh, sinh viên. Sự đổi mới
này trước hết thể hiện ở sự thay đổi tư duy về mục đích GDPL. Đó là giáo dục con người phát
triển toàn diện, nghĩa là không chỉ trang bị tri thức mà còn phát huy năng lực và kỹ năng cho
người học, đào tạo học sinh, sinh viên trở thành những con người hiện đại, biết chung sống và
ứng phó với những thách thức của cuộc sống. Tiếp đến là thay đổi tư duy về nội dung GDPL.
Thay vì nhồi nhét khối lượng tri thức khổng lồ, bao cấp kiến thức chúng ta cung cấp cho người
học những vấn đề cơ bản, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi và nhu cầu phát triển xã hội. Phương
pháp giáo dục cần chuyển từ đem kiến thức cho học sinh sang dạy cho học sinh phương pháp đi
tìm kiến thức, cần đoạn tuyệt tư duy đề cao trí dục, coi nhẹ đức dục, coi trọng việc dạy, coi nhẹ
việc học, coi trọng nội khóa, coi nhẹ ngoại khóa, thực hành; coi trọng điểm số, coi nhẹ năng lực
và coi trọng dạy kiến thức hơn là dạy làm người. Xây dựng một nền giáo dục thực chất hướng tới
giáo dục và rèn luyện kỹ năng sống cho người học.
3.2. Đổi mới chương trình, nội dung GDPL
Giáo dục pháp luật ở nhà trường không chỉ thông qua môn học Giáo dục công dân, pháp
luật mà còn chú trọng các hoạt động GDPL ngoài giờ lên lớp. Định hướng đổi mới nội dung
GDPL cho học sinh, sinh viên trên cơ sở chuẩn kiến thức bao gồm hai tầng kiến thức. Tầng thứ
nhất là về đạo đức, giúp học sinh, sinh viên nắm vững các chuẩn về đạo đức. Tầng kiến thức thứ
hai là chuẩn về pháp luật. Trên cơ sở chuẩn về đạo đức, chuẩn pháp luật được thực thi trong cuộc
sống. Qua kiến thức đạo đức, pháp luật giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, sinh viên. Chuẩn

kiến thức đạt được bao gồm khái niệm về chuẩn mực, lý giải sự cần thiết phải thực thi chuẩn
mực đó, biểu hiện của nó trong cuộc sống và suy nghĩ, tình cảm, hành động của người học nhằm
thực hiện chuẩn mực thông qua các tiêu chí pháp luật. Trong mỗi bài học, pháp luật được gắn kết
thành chuẩn mực cuối cùng của hành vi. GDPL trong nhà trường cần giảm thiểu những vấn đề
cao xa, lớn lao, thay vào đó bồi đắp tinh thần thượng tôn pháp luật, nếp nghĩ và lối sống lành
mạnh, trọng đạo lý, sống có kỷ luật. Bốn trăm năm trước Công nguyên, khi được hỏi học sinh
nên được dạy điều gì, triết gia Aristippus của Hi Lạp đã khẳng định cần dạy những điều mà họ sẽ
sử dụng khi họ trở thành người lớn. Có những nội dung rất quan trọng và hiển nhiên đối với
người dạy nhưng rất có thể với học sinh, sinh viên lại không có nhiều ý nghĩa cho tương lai các
em, do đó phải lựa chọn nội dung thiết thực, xuất phát từ thực tiễn. Bên cạnh đó, tăng cường thời
gian thực hành, ngoại khóa nhằm kết nối kiến thức lý thuyết với cuộc sống sôi động, tạo cơ hội
cho người học tiếp cận, rèn luyện các kỹ năng ứng xử và giải quyết các tình huống pháp luật.


3.3. Đổi mới phương pháp GDPL
Phương pháp GDPL phải coi trọng thực hành, tránh lối dạy thiên về lý thuyết, khô khan, xa
rời thực tế và vốn sống bản thân học sinh, sinh viên. Tôn trọng qui luật của nhận thức đi từ trực
quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến hoạt động thực tiễn. Sở dĩ như
vậy vì "Nhà giáo dục lớn nhất vẫn là thực tiễn, nhà trường lớn nhất vẫn là cuộc đời. Không có gì
làm mất uy tín của nhà giáo dục hơn là sự tách rời giữa lời nói và việc làm, giữa lý luận và việc
làm" [6, tr.109]. Phương pháp GDPL phải đáp ứng yêu cầu rèn luyện thái độ, bổn phận, niềm tin
và trau dồi các kỹ năng cần thiết cho cuộc sống, giúp các em thực hành các chuẩn mực giá trị và
mẫu hành vi tích cực mà bài học đặt ra. Sử dụng phối hợp một cách linh hoạt, hợp lý nhiều
phương pháp và hình thức tổ chức dạy học làm giờ học sinh động, hấp dẫn, giàu cảm xúc và
hướng vào việc phát triển tính tích cực trong nhận thức của học sinh, sinh viên, đồng thời rèn
luyện các kỹ năng cho các em trong từng bài học. Giúp hình thành kỹ năng học tập, thái độ tự
giác, chủ động, khả năng độc lập bằng cách tổ chức cho học sinh, sinh viên phát hiện và tự giải
quyết các vấn đề do bài học đặt ra, khắc phục tính áp đặt, đơn điệu, thụ động. Nhà Giáo dục Nga
vĩ đại V.A. Xukhômlinxki khẳng định, nếu chỉ giáo dục bằng một cách thức nào đó thôi thì cũng
giống như cố chơi bản giao hưởng "Anh hùng" của Bettoven trên một phím đàn. Ông nhấn mạnh

chỉ có hài hòa mới giáo dục được. Cách luyện tập này không những củng cố kiến thức pháp luật
cho học sinh, sinh viên mà còn rèn luyện cho các em kỹ năng thích ứng với những tình huống
xảy ra trong cuộc sống, đặc biệt tạo cho các em niềm hứng thú, say mê học tập. Ngay từ thời cổ
đại Khổng Tử đã nói "Biết mà học không bằng thích mà học", Paxcan cũng nhấn mạnh "Ta hiểu
chân lý chẳng phải chỉ nhờ bộ óc mà còn nhờ con tim nữa" [3, tr.78].
3.4. Đổi mới sách giáo khoa, giáo trình phục vụ GDPL
Như chúng ta đã biết sách giáo khoa, giáo trình là văn bản cụ thể hóa chương trình môn
học, thể hiện yêu cầu về mục tiêu, nội dung, định hướng phương pháp dạy học của môn học.
Sách giáo khoa, giáo trình có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với người dạy và người học, cung
cấp lượng kiến thức cơ bản, hướng dẫn hoạt động học tập, ôn tập, kiểm tra kiến thức. Việc nâng
cao chất lượng sách giáo khoa, giáo trình đồng nghĩa với việc nâng cao chất lượng dạy học và
hiệu quả GDPL cho học sinh, sinh viên. Nhằm biên soạn sách giáo khoa, giáo trình có chất lượng
cần bám sát mục tiêu, nội dung, chương trình giáo dục nhằm đáp ứng cung cấp vừa đủ kiến thức,
chú trọng củng cố niềm tin, thái độ tích cực, rèn luyện các kỹ năng và hình thành thói quen xử sự
theo các chuẩn mực pháp luật. Đảm bảo nội dung tinh giản, sát với thực tế, phù hợp khả năng
nhận thức của học sinh, sinh viên, đồng thời phát huy khả năng làm việc độc lập và sáng tạo của
người học ở hiện tại và sau khi ra trường. Sách giáo khoa, giáo trình không nên ôm đồm những
kiến thức cụ thể, bởi lẽ kiến thức cụ thể ngày nay rất nhanh bị lỗi thời và quá trình này còn tiếp
tục với tốc độ ngày càng lớn hơn. Tạo điều kiện trực tiếp nhằm giúp học sinh, sinh viên nâng cao
năng lực tự học và nhà giáo đổi mới phương pháp dạy học tích cực. Cách trình bày đơn giản
nhưng có trọng tâm, ngôn ngữ tường minh, trong sáng, văn phong dễ hiểu đối với học sinh, sinh
viên mọi vùng miền. Coi trọng cả kênh chữ và kênh hình, đặc biệt kênh hình phải góp phần kích


thích và phát triển tư duy học sinh, sinh viên chứ không đơn thuần mang tính chất minh họa. Giá
cả được tính toán hợp lý, tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên nghèo có thể trang bị đủ tài liệu
học tập. Bên cạnh sách giáo khoa cần đa dạng hóa tài liệu GDPL cho học sinh. Ngoài những tài
liệu, thiết bị được Bộ Giáo dục và Đào tạo trang bị phục vụ hoạt động GDPL trong trường, cần
đầu tư xây dựng bộ phim ngắn, các vở kịch về tình huống pháp luật để sử dụng vào giờ sinh hoạt
lớp. Đặc biệt, xây dựng tài liệu tuyên truyền GDPL cho học sinh, sinh viên dưới hình thức tờ rơi,

tờ gấp, truyện đọc để các em có thể đọc, xem vào thời gian rảnh rỗi hoặc sinh hoạt lớp là hình
thức rất có hiệu quả. Việc thiết kế tờ rơi, tờ gấp có nội dung ngắn gọn, dễ hiểu, gần gũi và thiết
thực với người học, cách trình bày đơn giản, đẹp và hướng đến mục tiêu vừa cung cấp kiến thức
vừa định hướng hành vi và trang bị kỹ năng chứ không đơn thuần chỉ là liệt kê điều luật.
3.5. Kiện toàn bộ máy và đội ngũ làm công tác GDPL
Con người là nhân tố quyết định đến sự thành công của các hoạt động thực tiễn. Muốn
nâng cao hiệu quả hoạt động GDPL cho học sinh, sinh viên giải pháp không kém phần quan
trọng là xây dựng đội ngũ những nhà GDPL vừa đủ về số lượng vừa mạnh về chất lượng, vừa có
năng lực chuyên môn cao vừa có nhân cách mẫu mực. Ngoài đội ngũ nhà giáo, nhà quản lý, việc
bố trí người chuyên trách công tác GDPL trong nhà trường là rất cần thiết nhằm đảm bảo hoạt
động GDPL được tiến hành thường xuyên, chuyên sâu và thông suốt. Mỗi trường học cần bố trí
một người phụ trách công tác GDPL làm đầu mối với tiêu chuẩn là có trình độ đại học hoặc sau
đại học chuyên ngành Luật, Giáo dục chính trị, Giáo dục công dân trở lên và được bồi dưỡng
nghiệp vụ GDPL. Người làm công tác này phải có nhiệt tình, tâm huyết, tận tụy với công việc,
có khả năng sư phạm, hòa đồng và giao tiếp tốt, đồng thời có kiến tức tâm lý lứa tuổi, tâm lý
giáo dục cũng như năng lực nắm bắt, phân tích và đánh giá đúng đắn những vấn đề kinh tế, chính
trị, xã hội diễn ra trong nước và trên thế giới.
4. KẾT LUẬN
Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, sinh viên là giáo dục hành vi, thói quen ứng xử xã hội
có văn hóa, hiểu biết và tôn trọng luật pháp, đó chính là giáo dục làm người - những con người
có thể đương đầu, thích ứng với nhiều hoàn cảnh và đòi hỏi khác nhau của cuộc sống. Do vậy,
tăng cường rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh, sinh viên qua việc nâng cao hiệu quả GDPL
trong trường học là trọng trách của nhà trường và những nhà GDPL trong nhà trường. Nhằm
thực hiện mục tiêu trên cần tập trung hoàn thiện mặt bên trong (tư duy, chương trình nội dung
GDPL), mặt bên ngoài (hình thức, phương pháp, phương tiện) và đội ngũ những người làm công
tác GDPL, bao hàm cả sự tác động và phối hợp tác động giữa nhà trường, gia đình và xã hội.
Việc thực hiện nhất quán, đồng bộ các giải pháp tạo sức mạnh cộng hưởng hướng tới giáo dục
toàn diện năng lực và phẩm chất công dân Việt Nam trong xã hội văn minh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Thanh Bình (2009), Giáo trình chuyên đề Giáo dục kỹ năng sống, Nxb Thanh niên, Hà Nội.



[2] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010), Kỷ yếu hội thảo Đánh giá thực trạng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
trong nhà trường, Hà Nội.
[3] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Tài liệu hội thảo Đổi mới phương pháp dạy học và phương pháp đánh giá đối với
giáo dục phổ thông, cao đẳng và đại học sư phạm, Hà Nội.
[4] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010), Tài liệu hội thảo Giải pháp phòng ngừa từ xa và ngăn chặn tình trạng học sinh
đánh nhau, Hà Nội.
[5] Bộ Y tế - Tổng cụ thống kê (2011), Báo cáo Điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam, Hà Nội
[6] Nguyễn Ngọc Long (1987), (Quán triệt mối quan hệ giữa kinh tế với đạo đức trong đổi mới tư duy), Tạp chí
Nghiên cứu giáo dục.
[7] Viện khoa học pháp lý (2005), Nghiên cứu, đánh giá, phân tích tình hình người chưa thành niên vi phạm pháp
luật và hệ thống xử lý tại Việt Nam, Hà Nội.
[8] Vietnamnet.vn

STENGTHENING LIFE-SKILL TRAINING
FOR STUDENTS AND PUPILS THROUGH
LAW EDUCATIONAL ACTIVIES IN SCHOOLS
Tran Thi Sau
Quang Binh University
Abstract: Educating law for students at schools acts on the pedagogical method systems in order
to equip the learners knowledge of law, build the faith and feeling to the judicious law as well as their
life skills and their behavior base on Vietnamese law standards. This article mentioned the important
role of educating law and suggested some basic solutions to help effectively the law educating activities
at schools in order to improve the students’s life skills.
Keywords: Educating law, life skills




×