Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Sự tham gia của viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự và thực tiễn thực hiện tại tỉnh lạng sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 103 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

VŨ THỊ NGỌC

SỰ THAM GIA CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN
THỰC HIỆN TẠI TỈNH LẠNG SƠN

Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số : 60380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Anh Tuấn

HÀ NỘI – 2016


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Trƣờng Đại học Luật Hà Nội,
các thầy cô Khoa Sau Đại học, Khoa Pháp luật Dân sự và cán bộ nhân viên
Thƣ viện Trƣờng Đại học Luật Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá
trình tôi học tập và nghiên cứu tại trƣờng.
Đặc biệt với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn
chân thành đến Phó giáo sƣ, Tiến sỹ Trần Anh Tuấn ngƣời đã tận tình hƣớng
dẫn tôi thực hiện công trình nghiên cứu này.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới lãnh đạo và các đồng nghiệp tại


Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn đã tạo điều kiện giúp đỡ trong suốt
thời gian vừa qua.
Hà Nội, ngày 02 tháng 8 năm 2016
TÁC GIẢ

Vũ Thị Ngọc


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các phân
tích, đánh giá, nhận định, số liệu, bản án trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ
tin cậy, chính xác và trung thực.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Vũ Thị Ngọc


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTDS
CNSTT
KSV
TAND
TANDTC
TTDS
TTLT 04/2012

Bộ luật tố tụng dân sự
Công nhận sự thỏa thuận
Kiểm sát viên
Tòa án nhân dân

Tòa án nhân dân tối cao
Tố tụng dân sự
Thông tƣ liên tịch số 04/2012/ TTLTVKSNDTC-TANDTC
TTLT 02/2016 Thông tƣ liên tịch số 02/2016/TTLTTANDTC – VKSNDTC
VKSND
Viện kiểm sát
VKSND
Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC
Viện kiểm sát nhân dân tối cao


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU

1

Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SỰ THAM GIA CỦA

7

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1.Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa về sự tham gia của Viện kiểm sát nhân 7
dân trong tố tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm về sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng 7
dân sự
1.1.2. Đặc điểm sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân 9
sự
1.1.3. Ý nghĩa về sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân 11
sự

1.2. Cơ sở của việc xây dựng các quy định về sự tham gia của Viện kiểm sát
nhân dân trong tố tụng dân sự
1.2.1.Về cơ sở lý luận
1.2.2.Về cơ sở thực tiễn
1.3. Lƣợc sử quá trình hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam về sự

12
12
15
18

tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự
1.3.1. Quy định về sự tham gia tố tụng dân sự của Viện kiểm sát nhân dân 18
trong giai đoạn từ năm 1945 đến 1959
1.3.2. Quy định về sự tham gia tố tụng dân sự của Viện kiểm sát trong giai 20
đoạn 1959 đến 1989
1.3.3. Quy định về sự tham gia tố tụng dân sự của Viện kiểm sát nhân dân 21
trong giai đoạn từ năm 1989 đến 2004
1.3.4. Quy định về sự tham gia tố tụng dân sự của Viện kiểm sát nhân dân 22
trong giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2014
1.3.5. Quy định về sự tham gia tố tụng dân sự của Viện kiểm sát nhân dân 24
trong BLTTDS năm 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
26
27
Chƣơng 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ SỰ THAM GIA CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
2.1. Quy định về sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong thủ tục sơ 27



thẩm vụ việc dân sự
2.1.1. Quy định về kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu giải quyết 27
vụ việc dân sự
2.1.2. Quy định về kiểm sát việc thụ lý vụ việc dân sự
2.1.3. Quy định về Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, phiên họp sơ thẩm
2.1.4. Quy định về kiểm sát các bản án, quyết định của Tòa án.

30
32
41

2.2. Quy định về sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong thủ tục giải 48
quyết vụ việc dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm
2.2.1. Quy định về kháng nghị bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật

48

2.2.2. Quy định về kiểm sát việc thông báo thụ lý vụ việc dân sự tại Tòa án 52
cấp phúc thẩm
2.2.3. Quy định về việc nghiên cứu hồ sơ của Viện kiểm sát trong giai đoạn 52
chuẩn bị xét xử phúc thẩm
2.2.4. Quy định về sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong phiên tòa 53
phúc thẩm vụ việc dân sự
2.3. Quy định về sự tham gia của VKSND trong thủ tục xét lại bản án, quyết 55
định đã có hiệu lực pháp luật
2.3.1. Kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
2.3.2. Kiểm sát thụ lý vụ án ở trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm
2.3.3. Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
Chƣơng 3:THỰC TIỄN THAM GIA TỐ TỤNG DÂN SỰ CỦA VIỆN

KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN VÀ KIẾN
NGHỊ
3.1. Thực tiễn tham gia tố tụng dân sự của Viện kiểm sát nhân dân trên địa
bàn tỉnh Lạng Sơn
3.1.1. Khái quát về đặc điểm, tình hình công tác kiểm sát dân sự trên địa bàn
tỉnh Lạng Sơn
3.1.2.Thực tiễn kiểm sát việc thụ lý vụ việc dân sự của các Tòa án trên địa
bàn tỉnh Lạng Sơn
3.1.3. Thực tiễn tham gia phiên tòa, phiên họp của Viện kiểm sát nhân dân

55
59
59
61
62

62
62
64
68

tỉnh Lạng Sơn
3.1.4. Thực tiễn thực hiện việc kiểm sát các bản án, quyết định
72
3.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn tham gia tố tụng 82


dân sự của Viện kiểm sát trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
3.3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả sự tham gia 82
tố tụng dân sự của Viện kiểm sát nhân dân trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn

3.3.1. Các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về kiểm sát việc tuân theo pháp 82
luật trong tố tụng dân sự
3.3.2. Kiến nghị thực nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn về 88
việc tham gia tố tụng của Viện kiểm sát tỉnh Lạng Sơn
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3

90

KẾT LUẬN CHUNG

91


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc về cải cách tƣ pháp, thời
gian qua có nhiều quan điểm cho rằng, trong lĩnh vực tố tụng dân sự không cần
có sự tham gia can thiệp của Viện kiểm sát nhân dân bởi lẽ việc dân sự là cốt ở
đôi bên, họ có quyền tự thỏa thuận, định đoạt theo ý chí của mình, chỉ cần Tòa
án giữ vai trò trọng tài để giải quyết các tranh chấp trên cơ sở thỏa thuận giữa
các bên hoặc dựa vào chứng cứ. Mặt khác, trong vụ việc dân sự, chuyện có kẻ
thắng ngƣời thua là điều tất yếu, nếu có Viện kiểm sát tham gia là vi phạm
nguyên tắc lợi ích tƣ đang đƣợc tố tụng thế giới tôn trọng. Nếu quy định cho
Viện kiểm sát tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm dân sự chỉ để nhận định về
tố tụng xem Tòa án chấp hành đúng hay chƣa đúng thủ tục tố tụng thì không có
ý nghĩa. Trong khi đƣơng sự đã có đầy đủ quyền đƣợc yêu cầu luật sƣ, trợ giúp
pháp lý, thay đổi ngƣời tiến hành tố tụng, kháng cáo, khiếu nại với bản án,
quyết định… nên không cần sự giám sát, hỗ trợ của Viện kiểm sát. Nếu quy

định cho Kiểm sát viên phát biểu về đƣờng lối giải quyết vụ án thì chẳng khác
gì một bên đƣơng sự đã có thêm “đồng minh” là cơ quan nhà nƣớc, làm mất đi
sự bình đẳng trƣớc pháp luật. Đây chính là lý do mà Bộ luật tố tụng dân sự năm
2004 đã hạn chế phạm vi tham gia phiên tòa của Viện kiểm sát nhân dân: Bỏ
quy định về thẩm quyền khởi tố vụ án dân sự của Viện kiểm sát, Viện kiểm sát
thôi không kiểm sát việc lập hồ sơ của Tòa án, không có quyền yêu cầu Tòa án
áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, không có quyền phản đối bằng văn
bản đối với biên bản hòa giải thành của Tòa án.
Sau hơn 5 năm thi hành, bên cạnh những thành tựu đạt đƣợc, Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2004 đã bộc lộ những hạn chế, bất cập, chƣa có cơ chế thích
hợp để VKS thực hiện đƣợc đầy đủ, hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của mình
theo quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân. Trong
khi các tranh chấp dân sự phát sinh ngày càng nhiều với tính chất ngày càng
phức tạp thì vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đƣơng sự,
bảo đảm việc giải quyết các vụ án dân sự đƣợc khách quan, kịp thời và đúng
pháp luật trở thành yêu cầu quan trọng cần đƣợc giải quyết trong quá trình thực
hiện cải cách tƣ pháp.


2

Trong công cuộc đẩy mạnh xây dựng đất nƣớc trong thời kỳ hội nhập kinh
tế quốc tế, để khắc phục những hạn chế, bất cập của Bộ luật tố tụng dân sự
trƣớc đây Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi bổ sung năm 2011, đặc biệt là
BLTTDS 2015 vừa đƣợc quốc hội thông qua có hiệu lực từ ngày 01/7/2016
đã mở rộng phạm vi hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong lĩnh vực dân
sự. Tạo cơ chế thuận lợi để Viện kiểm sát nhân dân thực hiện có hiệu quả
chức năng, nhiệm vụ đƣợc phân công.
Lạng Sơn là một tỉnh miền núi biên giới, có diện tích đất rừng lớn, mật độ
dân số thấp và phân bố không đồng đều, trình độ dân trí còn hạn chế nên bên

cạnh nền kinh tế cửa khẩu năng động mang lại thì tranh chấp dân sự về đất,
rừng hay ly hôn do kết hôn từ tập tục hỏi lấy không qua tìm hiểu là những
nguyên nhân dân dẫn đến các tranh chấp dân sự trên địa bàn ngày càng nhiều
và phức tạp.
Lạng Sơn cũng là nơi có nhiều dân tộc khác nhau hội tụ, làm ăn, sinh sống,
trong đó phần lớn là ngƣời dân tộc thiểu số nhƣ: Kinh, Tày, Nùng, Hoa, Dao,
Mƣờng, Sán Dìu, Sán Chỉ…Ngƣời dân tộc đa phần sinh sống và canh tác ở
các khu rừng núi, vùng sâu, vùng xa. Về mặt bằng chung trình độ dân trí ở
đây còn thấp, nhận thức và hiểu biết pháp luật của ngƣời dân còn hạn chế. Khi
có tranh chấp nảy sinh họ thƣờng không có khả năng tự chứng minh để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình, chƣa có điều kiện mời luật sƣ tham gia
bảo vệ, đội ngũ luật sƣ cũng chƣa đủ để tham gia tất cả các phiên tòa để hỗ trợ
các đƣơng sự, tính đến 31/12/2015 Đoàn Luật sƣ tỉnh Lạng Sơn mới có 22
luật sƣ trên tổng số 757 918 ngƣời dân, trung bình là 1 luật sƣ /37.900 ngƣời,
hoạt động bổ trợ tƣ pháp còn hạn chế tính đến thời điểm hiện tại cả tỉnh mới
chỉ có 7 trợ giúp viên pháp lý trong khi toàn tỉnh có 02/11 huyện nghèo và
111/226 xã đặc biệt khó khăn. Thực tiễn kiểm sát án dân sự tại Viện kiểm sát
nhân dân hai cấp của tỉnh Lạng Sơn cho thấy những sai sót, vi phạm trong quá
trình giải quyết vụ việc dân sự vẫn còn tồn tại, có nhiều vụ việc giải quyết
chƣa bảo đảm tính khách quan, giải quyết kéo dài, gây bức xúc cho đƣơng sự
dẫn đến tình trạng khiếu kiện đông ngƣời làm mất ổn định trật tự xã hội. Do
đó, sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự là thực sự
quan trọng và cần thiết trong điều kiện kinh tế, xã hội hiện nay tại tỉnh Lạng
Sơn nói riêng, của cả nƣớc nói chung.


3

Trƣớc yêu cầu Viện kiểm sát nhân dân phải thực hiện có hiệu quả chức
năng kiểm sát các hoạt động tƣ pháp mà Đảng và Nhà nƣớc giao cho trong

thời kỳ hội nhập kinh tế, quốc tế thì việc nghiên cứu thực trạng các quy định
của pháp luật về sự tham gia của viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự
nhằm làm rõ hơn những thuận lợi cũng nhƣ hạn chế và bất cập trong thực tiễn
thực hiện để từ đó đƣa ra những đề xuất, kiến nghị để khắc phục là rất cần
thiết, có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn.
Với những lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài “Sự tham gia của Viện
kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Lạng
Sơn” để thực hiện Luận văn Thạc sỹ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trƣớc tinh thần cải cách tƣ pháp trong thời kỳ hội nhập, đề tài về vai
trò, chức năng cũng nhƣ sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng
dân sự đã thu hút sự quan tâm bàn luận của các học giả, chuyên gia pháp lý,
những ngƣời hoạt động thực tiễn.Từ tình hình liên quan đến đề tài nêu trên, có
thể liệt kê nhƣ sau:
Nhóm các bài viết liên quan đến sự tham gia của Viện kiểm sát trong tố
tụng dân sự: “Về việc tham gia phiên tòa dân sự của Viện kiểm sát nhân dân”
của tác giả Trần Văn Trung đăng trên tạp chí Luật học số 8 năm 2005, “Vị trí,
vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự theo yêu cầu cải cách
tư pháp” của tác giả Nguyễn Ngọc Khánh đăng trên Tạp chí Kiểm sát số
14,16 năm 2008, “Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng dân sự và
thực tiễn” của tác giả Trần Xuân Hách đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số
19 năm 2012; “Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải
quyết các vụ, việc dân sự” của Phó giáo sƣ, Tiến sĩ Nguyễn Hòa Bình đăng
trên tạp chí Kiểm sát số 7 năm 2016.
Nhóm các Luận văn nghiên cứu về đề tài này: “Vai trò của Viện kiểm
sát nhân dân trong tố tụng dân sự” của tác giả Nguyễn Phƣơng Thúy, Luận
văn Thạc sỹ Luật học, trƣờng Đại học Đại học Luật Hà Nội, năm 1996; “Sự
tham gia tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự Việt Nam”
của tác giả Võ Thị Phƣợng (Luận văn Thạc sĩ Luật học, trƣờng Đại Học Luật
Hà Nội, năm 2011); “Sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng



4

dân sự và thực tiễn thực hiện tại thành phố Hải Phòng” tác giả Bùi Thị
Phƣợng, Luận văn thạc sĩ Luật học, trƣờng Đại Học Luật Hà Nội, năm 2015.
Bài viết từ các công trình nghiên cứu trên, mặc dù đã phân tích, luận giải
tƣơng đối chi tiết các quy định về sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng dân sự, tuy nhiên chƣa có công trình nào nghiên cứu một cách
toàn diện, chuyên sâu về các quy định trong pháp luật tố tụng dân sự, đặc biệt
là Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS năm 2015) về sự tham gia Viện
kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Lạng Sơn.
Vì vậy, tác giả đã thực hiện nghiên cứu chuyên sâu đề tài luận văn của mình
trên cơ sở tham khảo kết quả của các bài viết, công trình nghiên cứu nêu trên.
3. Mục tiêu nghiên cứu của Luận văn
Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm rõ một số vấn đề lý luận về sự tham
gia của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự, các quy định trong các
Bộ luật tố tụng dân sự về vấn đề này, thực tiễn thực hiện pháp luật tại các
Viện kiểm sát nhân dân trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn và đề xuất giải pháp hoàn
thiện các quy định của pháp luật nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện kiểm
sát nhân dân trong tố tụng dân sự.
4. Các câu hỏi nghiên cứu của Luận văn
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu nêu trên, Luận văn phải trả lời đƣợc
một số câu hỏi sau đây:
- Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa về sự tham gia của Viện kiểm sát nhân
dân trong tố tụng dân sự là gì?
- Việc xây dựng các quy định về sự tham gia của Viện kiểm sát nhân
dân trong tố tụng dân sự đƣợc dựa trên cơ sở nào?
- Quy định trong các Bộ luật tố tụng dân sự (2004, 2011, 2015) về sự
tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự nhƣ thế nào? Thực

tiễn về sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự từ năm
2011 đến năm 2015 tại tỉnh Lạng Sơn ra sao? Có những ƣu điểm, hạn chế,
vƣớng mắc gì? Nguyên nhân của thực trạng đó?
- Những vấn đề nào cần kiến nghị để hoàn thiện các quy định của Bộ
luật tố tụng dân sự về sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng
dân sự và đâu là những giải pháp cần phải thực hiện để nâng cao hiệu quả áp
dụng trong thực tiễn tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn?


5

5. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của Luận Văn
* Đối tƣợng nghiên cứu của Luận văn
Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận về sự tham gia của Viện
kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự; các quy định của pháp luật tố tụng
dân sự, trong đó chủ yếu là quy định trong các Bộ luật tố tụng dân sự năm
2004, 2011 và 2015 về sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng
dân sự và thực tiễn về sự tham gia tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân hai cấp
trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
* Phạm vi nghiên cứu của Luận Văn
Để đảm bảo sự phù hợp giữa các chƣơng trong tổng thể luận văn, tác
giả sẽ tập trung phân tích các quy định về sự tham gia tố tụng dân sự của Viện
kiểm sát nhân dân trong các BLTTDS (2004, 2011, 2015). Tuy nhiên, để luận
văn có tính chất chuyên sâu tác giả sẽ không phân tích tất các các quy định
của Bộ luật tố tụng dân sự về sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân mà chỉ
tập trung tập trung phân tích những quy định về sự tham gia của Viện kiểm
sát nhân dân trong các hoạt động tố tụng dân sự bắt đầu từ khi nhận đơn khởi
kiện, đơn yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự, cho đến khi bản án, quyết định
đƣợc đƣa ra thi hành. Vấn đề giải quyết vụ việc dân sự theo thủ tục rút gọn và
kiểm sát thi hành án dân sự sẽ đƣợc tác giả nghiên cứu trong các công trình

khác khi có điều kiện để thực hiện. Bên cạnh đó, tác giả cũng nghiên cứu một
số vấn đề lý luận cơ bản về sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong tố
tụng dân sự nhằm tạo cơ sở cho việc đánh giá luật thực định và đề ra một số
đề xuất, kiến nghị. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài sẽ đƣợc giới hạn trong
phạm vi sau đây:
- Nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa sự tham gia của Viện
kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự.
- Nghiên cứu lịch sử pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về sự tham gia
của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự.
- Nghiên cứu các quy định của các Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam (2004,
2011, 2015) về sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự.
- Nghiên cứu thực tiễn tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong tố
tụng dân sự tại Viện kiểm sát nhân dân hai cấp trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.


6

6. Các phƣơng pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện Luận văn
Đề tài đƣợc thực hiện trên cơ sở lý luận và phƣơng pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc pháp luật. Những quan điểm cơ

bản của Đảng và Nhà nƣớc ta trong sự nghiệp xây dựng, đổi mới và phát triển
đất nƣớc, xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và cải
cách tƣ pháp ở nƣớc ta trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra để thực hiện Luận
văn tác giả sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu nhƣ: Phƣơng pháp nghiên
cứu lịch sử, phƣơng pháp so sánh luật học, phƣơng pháp phân tích, phƣơng
pháp thống kê tổng hợp.
7. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của Luận văn
Về mặt khoa học: Luận văn đã nghiên cứu một cách có hệ thống về lịch
sử hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam về sự tham gia của Viện

kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự. Phân tích một cách toàn diện và sâu
sắc các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (2004,2011,2015) về sự tham gia
của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự. Trên cơ sở nghiên cứu Luận
văn đã chỉ ra những bất cập, vƣớng mắc trong thực tiễn áp dụng và đƣa ra một
số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả sự tham gia tố tụng
của Viện kiểm sát nhân dân trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn nói riêng, trong phạm
vi cả nƣớc nói chung.
Về mặt thực tiễn: Những đề xuất, kiến nghị nêu trong Luận văn sẽ góp
phần nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về sự
tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự trên địa bàn tỉnh
Lạng Sơn nói riêng và cả nƣớc nói chung. Đề tài có thể đƣợc dùng trong
giảng dạy và học tập.
8. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, Kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận
văn đƣợc kết cấu bởi 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về sự tham gia của Viện kiểm sát
nhân dân trong tố tụng dân sự.
Chƣơng 2: Quy định của pháp luật về sự tham gia của Viện kiểm sát
nhân dân trong tố tụng dân sự.
Chƣơng 3: Thực tiễn tham gia tố tụng dân sự của Viện kiểm sát nhân
dân trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn và kiến nghị.


7
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SỰ THAM GIA CỦA VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1.Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa về sự tham gia tố tụng của Viện
kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm về sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng

dân sự
Viện kiểm sát (VKS) hay Viện công tố dù có tên gọi khác nhau nhƣng hầu
hết đều có trong bộ máy nhà nƣớc của tất cả các nƣớc. Tuy cùng mục đích là bảo vệ
pháp chế, bảo vệ lợi ích nhà nƣớc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của
nhân dân, nhƣng việc quy định vị trí, vai trò của cơ quan này ở mỗi quốc gia lại
khác nhau tùy thuộc vào truyền thống văn hóa, hoàn cảnh lịch sử, điều kiện kinh tế,
xã hội, quan điểm về tổ chức quyền lực nhà nƣớc của mỗi nƣớc. Tại các Quốc gia
nhƣ Anh, Mỹ, Phần Lan, Nhật Bản, Viện công tố với chức năng công tố đƣợc đặt
trong hệ thống hành pháp thuộc Chính Phủ. Một số quốc gia Viện công tố đƣợc đặt
trong hệ thống các cơ quan tƣ pháp. Các nƣớc nhƣ Việt Nam, Liên Bang Nga,
Hungari, Bồ Đào Nha thì Viện công tố là cơ quan độc lập, do Quốc Hội thành lập
và chịu sự giám sát của Quốc Hội.
Tiền thân của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) ở Việt Nam là Công tố viện
nằm trong hệ thống Tòa án thuộc cơ quan Tƣ pháp vào những năm 1945 -1958, đến
năm 1960 thì tách ra thành cơ quan độc lập với tên gọi là VKS. Hiến pháp các năm
1959, 1980, 1992, 2002, 2013 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân các năm
1960, 1989, 1992, 2002, 2014 đều khẳng định VKSND là một hệ thống cơ quan có
vị trí độc lập trong bộ máy nhà nƣớc, là một trong bốn hệ thống cơ quan cấu thành
nên bộ máy nhà nƣớc. Với vị trí quan trọng nhƣ vậy, vai trò của VKS ngày càng
đƣợc củng cố và hoàn thiện. VKSND có vai trò trong xây dựng nhà nƣớc pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền con ngƣời, các quyền công dân, bảo vệ an
ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, đấu tranh phòng chống tội phạm.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Hiến pháp năm 2013, và đƣợc cụ thể hóa,
chi tiết tại khoản 1 Điều 2 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 thì “Viện
kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư
pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Nhƣ vậy, ở nƣớc ta VKS có
hai chức năng cơ bản là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tƣ pháp.
Xuất phát từ chức năng chung của ngành, VKSND tham gia vào quá trình
giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án nhân dân (TAND), nhằm kiểm sát việc



8
tuân theo pháp luật (KSVTTPL) trong toàn bộ quá trình tố tụng, bảo đảm tính pháp
chế trong các phán quyết của Tòa án, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các cá nhân, cơ
quan, tổ chức. Sự tham gia của VKSND vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự là tất
yếu và khách quan, nhằm đáp ứng hai yêu cầu cơ bản đó là: “Bảo đảm tính pháp
chế xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ quá trình tố tụng và thể hiện sự can thiệp của
nhà nước vào quá trình tố tụng dân sự”1
Dựa trên nguyên tắc và tổ chức hoạt động của nhà nƣớc ta, TAND và VKSND
đƣợc tổ chức thành hai hệ thống cơ quan có chức năng riêng biệt, độc lập với nhau và
đều chịu sự giám sát của cơ quan quyền lực nhà nƣớc cao nhất là Quốc Hội. Tòa án
xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm
pháp luật đƣợc thực thi trên thực tế. Tuy nhiên, để Tòa án có thể đảm đƣơng tốt chức
năng nhiệm vụ của mình, giải quyết các vụ việc một cách khách quan, công tâm, đảm
bảo sự tuân thủ pháp luật thì cần phải có sự giám sát nhất định từ phía VKS. Với
chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, VKSND tham gia vào quá trình giải
quyết các vụ việc dân sự nhằm tạo ra sự kiềm chế, giám sát đối với cơ quan Tòa án,
bảo đảm cho quá trình tố tụng dân sự (TTDS) đƣợc diễn ra theo đúng các quy định
của pháp luật, các quyền và nghĩa vụ tố tụng của đƣơng sự đƣợc tôn trọng.
Trƣớc đây, VKSND có quyền khởi tố vụ án dân sự, yêu cầu Tòa án áp dụng
các biện pháp khẩn cấp tạm thời, kiểm sát việc lập hồ sơ của Tòa án. Theo Luật tổ
chức VKSND năm 2002 thì VKSND là cơ quan tiến hành tố tụng, đại diện VKS là
ngƣời tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, nhiệm vụ của VKS trong TTDS chủ yếu là thực
hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ việc
dân sự tại Tòa án, nhằm đảm bảo tính có căn cứ và tính hợp pháp trong hoạt động
xét xử của Tòa án. Khi tham gia vào quá trình giải quyết các vụ việc dân sự VKS
thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan tiến hành tố
tụng, ngƣời tiến hành tố tụng và ngƣời tham gia tố tụng trong TTDS. Nhƣ vậy,
trong tố tụng dân sự VKSND chỉ có chức năng duy nhất là KSVTTPL.
Từ những phân tích trên, có thể đƣa ra khái niệm về sự tham gia TTDS của

VKSND nhƣ sau: Sự tham gia tố tụng dân sự của VKSND là việc VKSND tham gia
vào quá trình tố tụng dân sự với tư cách là cơ quan tiến hành tố tụng, có chức năng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật nhằm đảm bảo cho pháp luật được thi hành
nghiêm chỉnh, thống nhất trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự tại Toà án.

1

Nguyễn Phƣơng Thúy (1996), Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự, Luận văn Thạc sĩ,
Trƣờng Đại Học Luật Hà Nội, Hà Nội.


9
Nhƣ vậy, sự tham gia của VKSND vào TTDS góp phần giúp Tòa giải quyết
đúng đắn vụ, việc dân sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ
chức. Đó cũng chính là bảo đảm pháp chế XHCN đƣợc tôn trọng trong toàn bộ quá
trình tố tụng của Toà án.
1.1.2. Đặc điểm sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự
Nét đặc trƣng trong tổ chức và hoạt động của VKSND so với các cơ quan
khác trong bộ máy nhà nƣớc là nguyên tắc tập trung thống nhất theo ngành dọc,
nguyên tắc này trao cho VKSND quyền hoạt động độc lập, không phải chịu sự chi
phối của chính quyền địa phƣơng cũng nhƣ các cơ quan hành chính Nhà nƣớc khác
khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
Trong tố tụng dân sự, Viện kiểm sát là cơ quan tiến hành tố tụng, thực hiện
KSVTTPL trong TTDS. Ngoài những đặc điểm chung về chức năng của VKSND
trong bộ máy nhà nƣớc, trong lĩnh vực tố tụng dân sự VKSND có những đặc điểm
mang tính đặc thù nhƣ sau:
- Thứ nhất, VKSND là cơ quan duy nhất có quyền kiểm sát việc tuân thủ
pháp luật trong tố tụng dân sự.
Theo Hiến pháp và pháp luật, VKSND là cơ quan có chức năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tƣ pháp, thực hiện quyền lực nhà nƣớc,

trực tiếp tham gia giám sát các hoạt động tƣ pháp góp phần bảo vệ pháp chế XHCN,
bảo vệ chế độ XHCN, quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm trật tự xã hội. Là cơ
quan duy nhất đƣợc nhà nƣớc trao quyền kiểm sát hoạt động của Tòa án trong quá
trình giải quyết các vụ việc dân sự. Quyền năng này của VKSND đƣợc ghi nhận
trong các Hiến pháp, BLTTDS, Luật Tổ chức VKSND. Khi thực hiện chức năng
KSVTTPL trong hoạt động giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án nhân dân, VKSND
có đƣợc trao cho các nhiệm vụ, quyền hạn cần thiết để có thể kiểm sát toàn bộ các
hoạt động tố tụng của Tòa án, trong đó có kiểm sát việc ban hành các văn bản tố
tụng, bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của đƣơng sự theo đúng quy
định của pháp luật. Hoạt động tố tụng của VKS vừa thể hiện sự kiểm sát vừa là hỗ
trợ Tòa án trong việc tuân thủ pháp luật. Quan hệ giữa VKS và Tòa án mang tính
chất kiềm chế, đối trọng chứ không mang tính quyền uy, phục tùng nhƣ trong quan
hệ giữa Tòa án và các chủ thể tham gia tố tụng khác.
- Thứ hai, sự tham gia của VKSND trong các hoạt động TTDS phải tuân theo
trình tự, thủ tục do luật định.
Sự tham gia của VKSND trong TTDS nhằm mục đích bảo đảm hoạt động
của Tòa án, đƣơng sự và những ngƣời tham gia tố tụng khác phải tuân thủ theo
đúng quy định của pháp luật. Là hoạt động bảo đảm tính pháp chế xã hội chủ nghĩa


10
nên sự tham gia tố tụng của VKS cũng phải tuân thủ theo đúng quy định của pháp
luật. Đặc điểm này đã thể hiện nội dung của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa một nguyên tắc hiến định đòi hỏi tinh thần thƣợng tôn pháp luật và mọi chủ thể phải
nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Do vậy, sự tham gia của VKSND trong TTDS
phải đƣợc pháp luật quy định một cách cụ thể, rõ ràng và các quy định của pháp luật
phải đƣợc tuân thủ một cách nghiêm chỉnh, thống nhất. Trong trƣờng hợp phát hiện
có sự vi phạm pháp luật, VKS phải sử dụng các quyền hạn đƣợc quy định và tuân
theo các quy trình, thủ tục đã đƣợc quy định để khắc phục những vi phạm đó. Viện
Kiểm sát không thể làm thay công việc xét xử của Tòa án mà chỉ kiểm sát và định
hƣớng hoạt động này theo đúng quy định của pháp luật.

- Thứ ba, VKSND thực hiện sự tham gia TTDS của mình thông qua hoạt
động của Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên và kiểm tra viên.
Nhƣ đã trình bày thì nội dung sự tham gia của VKSND trong TTDS đƣợc
hiểu là quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong TTDS. Tuy
nhiên, VKSND không thể trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn pháp luật
giao cho mà nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong TTDS đƣợc thực hiện thông
qua hoạt động của các chức danh pháp lý cụ thể, đó là Viện trƣởng, Kiểm sát viên
(KSV) và Kiểm tra viên VKSND các cấp.
Là ngƣời chịu trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của
VKSND về kiểm sát việc tuân theo pháp luật tố tụng nên khi tham gia TTDS, Viện
trƣởng VKS có các nhiệm vụ, quyền hạn sau: Tổ chức, chỉ đạo thực hiện công tác
KSVTTPL trong các hoạt động TTDS nhƣ quyết định phân công Kiểm sát viên
kiểm sát việc tuân theo pháp luật và tham gia phiên tòa xét xử vụ án dân sự, phiên
họp giải quyết việc dân sự…Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trƣởng VKSND đƣợc
quy định tại các Điều 44, 51, 285, 307, 395, khoản 2 Điều 44 BLTTDS năm 2004
và BLTTDS sửa đổi năm 2011, nay đƣợc quy định tại các điều 57, 62, 278, 331,
354, khoản 2 Điều 504 và một số điều luật khác trong BLTTDS 2015. Ngoài ra, để
bảo đảm thực hiện đƣợc nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trƣởng VKS, khoản 2 Điều
57 BLTTDS năm 2015 quy định khi Viện trƣởng vắng mặt thì một Phó viện trƣởng
đƣợc Viện trƣởng ủy nhiệm thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của Viện trƣởng.
Là ngƣời tiến hành tố tụng, trực tiếp thực hiện nhiệm vụ KSVTPL đối với
hoạt động tố tụng, khi tham gia vào các hoạt động TTDS Kiểm sát viên có những
nhiệm vụ, quyền hạn sau: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án trong việc
giải quyết vụ việc dân sự nhƣ kiểm sát việc thông báo thụ lý vụ án, các quyết định
tố tụng, bản án, quyết định giải quyết vụ việc dân sự, tham gia phiên tòa xét xử vụ
án dân sự, phiên họp giải quyết việc dân sự, phát biểu ý kiến của VKS về việc giải


11
quyết vụ việc dân sự…Hoạt động của KSV góp phần bảo đảm việc giải quyết đúng

đắn, khách quan các vụ việc dân sự. Để phát huy đƣợc vai trò của KSV trong tố
tụng dân sự, các nhiệm vụ, quyền hạn của KSV đã đƣợc quy định khá đầy đủ tại các
Điều 45, 207, 234, 271 BLTTDS năm 2004 và BLTTDS sửa đổi năm 2011, nay
đƣợc quy định tại các điều 58, 232, 262 và một số điều luật khác trong BLTTDS
năm 2015.
BLTTDS năm 2015 đã bổ sung quy định về chức danh Kiểm tra viên và ghi
nhận cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của chủ thể này tại điểm b, khoản 1 Điều 46

BLTTDS năm 2015. Khi đƣợc phân công, Kiểm tra viên có nhiệm vụ nghiên cứu
hồ sơ vụ việc, báo cáo kết quả với KSV, lập hồ sơ kiểm sát vụ việc dân sự theo sự
phân công của Viện trƣởng hoặc KSV, giúp KSV kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng dân sự (Điều 59 BLTTDS năm 2015).
1.1.3. Ý nghĩa về sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng
dân sự
- Sự tham gia của VKSND trong TTDS có ý nghĩa bảo đảm tính thƣợng tôn pháp
luật. Thông qua việc thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định
của pháp luật, VKSND đảm bảo cho pháp luật đƣợc tuân thủ, bảo đảm cho tiến trình tố
tụng đƣợc tiến hành một cách nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật, bảo đảm các quyền
con ngƣời, quyền công dân đƣợc tôn trọng và thực hiện trên thực tế.
- Sự tham gia của VKSND trong TTDS nhằm phát hiện, hạn chế những sai
lầm, vi phạm của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, đồng thời góp
phần nâng cao tinh thần trách nhiệm của những ngƣời tiến hành tố tụng khi giải
quyết các vụ việc dân sự. Sự tham gia của VKS góp phần kiểm soát sự lạm quyền
của cán bộ Tòa án và các chủ thể khác trong giải quyết vụ việc dân sự, tạo đƣợc
niềm tin của ngƣời dân vào công lý và bảo đảm thực hiện các quyền tố tụng của
đƣơng sự cũng nhƣ quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
Sự tham gia của VKSND trong tố tụng dân sự còn là nền tảng để thực hiện
nguyên tắc Thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử phải độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật. Trong quá trình kiểm sát việc tuân thủ pháp luật trong tố tụng dân sự, VKSND có
thể giám sát, ngăn chặn hoặc phát hiện sự vi phạm nguyên tắc này để có những kiến nghị

nhằm bảo đảm cho nguyên tắc này đƣợc tôn trọng thực hiện trên thực tế.
VKSND thực hiện chức năng KSVTTPL tạo ra cơ chế để việc giải quyết các
vụ việc dân sự ở Tòa án các cấp đƣợc nhanh chóng, khách quan, toàn diện, đảm bảo
tính có căn cứ và đúng pháp luật của các bản án, quyết định, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đƣơng sự.


12
1.2. Cơ sở của việc xây dựng các quy định về sự tham gia của Viện kiểm
sát nhân dân trong tố tụng dân sự
1.2.1.Về cơ sở lý luận
Thứ nhất, xuất phát từ nhu cầu hoạt động kiểm tra, giám sát đối với các cơ
quan Nhà nước trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ.
Nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nƣớc ta“Quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”2. Sự phân công quyền lực nhà
nƣớc là để phân định nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan trong bộ máy nhà
nƣớc, tạo điều kiện để các cơ quan nhà nƣớc thực hiện có hiệu quả chức năng,
nhiệm vụ đƣợc giao, tránh sự lạm quyền, lộng quyền hay sự tha hóa. Việc phân định
rõ ràng nhiệm vụ, quyền hạn cho các cơ quan nhà nƣớc nói trên chính là tạo cơ sở
cho kiểm sát quyền lực nhà nƣớc.
Ở nƣớc ta, bất kỳ cơ quan nhà nƣớc nào cũng tồn tại bộ phận thực hiện chức
năng kiểm tra giám sát mà chúng ta thƣờng gọi là cơ chế tự kiểm tra, giám sát từ
bên trong hệ thống. Tuy nhiên, cơ chế tự kiểm tra, giám sát thƣờng luôn tồn tại sự
chủ quan, bao che, dung túng nên dễ dẫn đến sự lạm dụng quyền. Vì vậy, rất cần có
một cơ chế kiểm tra, giám sát từ bên ngoài, do một cơ quan chuyên trách thực hiện
để đảm bảo sự khách quan trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
Quá trình giải quyết các vụ, việc dân sự của TAND là một trong những hoạt
động tƣ pháp thực hiện quyền lực nhà nƣớc, hoạt động này tác động trực tiếp đến
quyền và lợi ích của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Những sai lầm, vi phạm trong lĩnh

vực này sẽ ảnh gây tổn hại đến lợi ích của nhà nƣớc và nhân dân, giảm niềm tin của
nhân dân vào công lý. Vì vậy, để đảm bảo cho hoạt động giải quyết các vụ, việc dân
sự nhanh chóng, khách quan, kịp thời, có hiệu quả và tuân thủ theo đúng các quy
định của pháp luật thì hoạt động này phải chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ chế
giám sát bên trong và cơ chế giám sát từ bên ngoài. Ở nƣớc ta VKS đƣợc Quốc hội
phân công thực hiện chức năng KSVTTPL trong TTDS. Đây chính là cơ chế giám
sát từ bên ngoài hệ thống, thực hiện giám sát trực tiếp, thƣờng xuyên và mang lại
hiệu quả cao.
Thứ hai, xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của VKSND do pháp luật quy định.
Sự ra đời, tồn tại và phát triển của VKSND ở nƣớc ta gắn với quá trình xây
dựng và phát triển nhà nƣớc Việt Nam. Từ khi VKSND đƣợc thành lập vào năm
1960 đến nay, công tác KSVTTPL trong việc giải quyết các vụ việc dân sự luôn đƣợc
xác định là một trong những khâu công tác trọng tâm thực hiện chức năng của VKS.
2

Điều 2 Hiến Pháp năm 2013.


13
Trải qua các giai đoạn phát triển của đất nƣớc, mặc dù chức năng của VKS
có sự điều chỉnh: Thực hiện chức năng KSVTTPL và thực hành quyền công tố theo
quy định của Hiến pháp 1959, 1980, 1992 và các Luật Tổ chức VKSND 1960,
1981, 1992; Thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tƣ pháp theo Hiến pháp 1992, đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2001, Hiến pháp
năm 2013 và Luật Tổ chức VKSND năm 2002, 2014. Song, yêu cầu kiểm sát hoạt
động tƣ pháp nói chung và trong lĩnh vực dân sự nói riêng luôn đặt ra và đƣợc pháp
luật ghi nhận. Chức năng KSVTTPL và kiểm sát các hoạt động tƣ pháp gắn liền với
quá trình hình thành và phát triển của VKSND.
KSVTTPL trong TTDS chính là cơ chế kiểm soát quyền lực tƣ pháp, bảo đảm
sự kết hợp hài hoà giữa quyền tự định đoạt của đƣơng sự và sự can thiệp của Nhà

nƣớc để bảo vệ công lý, tránh sự lạm quyền, tiêu cực của Tòa án trong quá trình giải
quyết vụ việc dân sự. Quyền và nghĩa vụ tố tụng của đƣơng sự đƣợc tôn trọng.
Thứ ba, xuất phát từ đặc điểm chế độ chính trị và nguyên tắc tổ chức thực
hiện quyền lực Nhà nước ở nước ta.
Bộ máy Nhà nƣớc ta đƣợc tổ chức theo nguyên tắc tập quyền, dƣới sự lãnh
đạo thống nhất của Đảng cộng sản Việt Nam. Quyền lực nhà nƣớc thuộc về nhân
dân, nhân dân thông qua quyền lập hiến trao quyền lực nhà nƣớc của mình cho
Quốc hội. Song, do tính chất của Quốc Hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân
dân; phần lớn đại biểu Quốc Hội làm việc theo chế độ kiêm nhiệm; chế độ làm việc
của Quốc Hội thông qua các kỳ họp v.v…nên Quốc Hội chỉ thực hiện quyền lập
Hiến, lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nƣớc và thực hiện
quyền giám sát tối cao với toàn bộ hoạt động của Nhà nƣớc thông qua hình thức
nghe, xem xét báo cáo (giám sát gián tiếp). Đối với hoạt động tƣ pháp, bao gồm các
lĩnh vực hoạt động tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính giải, và thi
hành án, Quốc Hội phân công cho VKS thực hiện KSVTTPL, bảo đảm cho pháp
luật trong các hoạt động tƣ pháp đƣợc chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Nhƣ
vậy,VKSND thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tƣ pháp nói chung và
KSVTTPL trong việc giải quyết các vụ việc dân sự nói riêng là hoạt động thực hiện
quyền lực nhà nƣớc (quyền giám sát) do Quốc Hội giao cho.
Thứ tư, xuất phát từ chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp.
Hiện nay, Đảng và Nhà nƣớc ta đang chủ trƣơng đẩy mạnh xây dựng Nhà
nƣớc pháp quyền XHCN. Nhà nƣớc quản lý xã hội bằng pháp luật, mọi cá nhân, cơ
quan, tổ chức hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật, mọi hành vi vi phạm pháp
luật đều phải bị xử lý nghiêm minh. Một trong những yêu cầu quan trọng của quá
trình xây dựng và hoàn thiện nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa là phải đảm


14
bảo sự kiểm soát chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nƣớc trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp và tƣ pháp. Vì vậy, duy trì hoạt động KSVTTPL trong TTDS

của VKSND chính là thực hiện cơ chế kiểm tra, kiểm soát thực hiện quyền lực nhà
nƣớc theo yêu cầu xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, sự cụ thể hóa
chủ trƣơng, đƣờng đối của Đảng về cải cách tƣ pháp.
Hiến pháp năm 1959 đƣợc ban hành đánh dấu sự ra đời của một cơ quan nhà
nƣớc mới là VKSND. Hiến pháp các năm 1980, 1992 và 2013 tuy có những bổ
sung, thay đổi về tổ chức, hoạt động của VKSND nhƣng chức năng kiểm sát các
hoạt động tƣ pháp vẫn luôn đƣợc giao cho VKSND.
Trƣớc yêu cầu cấp bách về hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung cũng
nhƣ bộ máy, thủ tục tƣ pháp nói riêng trong điều kiện xây dựng nhà nƣớc pháp
quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ngày 24/5/2005 Bộ Chính trị đã ban
hành Nghị quyết số 48-NQ/TW3 về chiến lƣợc xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hƣớng đến năm 2020, đến ngày 02/6/2005
Bộ Chính trị có Nghị Quyết số 49-NQ/TW4 về chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm
2020. Cả hai Nghị quyết đều xác định nhiều định hƣớng quan trọng, toàn diện cho
việc xây dựng hệ thống pháp luật và chƣơng trình cải cách tƣ pháp đến năm 2020,
trong đó có nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật làm căn cứ cho
hoạt động của VKS trong TTDS, đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng, chống
các vi phạm pháp luật trong tình hình mới, góp phần bảo đảm việc giải quyết các
tranh chấp nảy sinh trong các lĩnh vực dân sự, kinh tế, lao động nhanh chóng, kịp
thời, đúng pháp luật. Chế định VKS trong tố tụng dân sự phải thực sự là công cụ
hữu hiệu bảo vệ chế độ, bảo đảm và tôn trọng công bằng xã hội, quyền tự do dân
chủ của công dân, tổ chức đã đƣợc Hiến pháp và pháp luật quy định, góp phần thúc
đẩy phát triển kinh tế, xã hội5.
Trong kết luận của Bộ chính trị số 230- TB/TW6 ngày 26/3/2009 về sơ kết 3
năm thực hiện Nghị Quyết số 49- NQ/TW ngày 02.6.2005, Bộ chính trị đã nêu rõ
“Tiến độ giải quyết các vụ việc dân sự còn chậm, chất lượng giải quyết các vụ việc
dân sự còn thấp… trong đó có nguyên nhân là chưa có cơ chế giám sát, kiểm sát

3


Bộ chính trị, Nghị Quyết 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam đến năm 202.
4
Bộ chính trị, Nghị Quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
5
Khuất Văn Nga (chủ biên, 2008), Vị trí vai trò Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự theo yêu cầu cải cách tư
pháp, Nxb Tƣ pháp, Hà Nội, tr 192, 196-197.
6
Bộ Chính trị, Thông báo kết luận số 230-TB/TW ngày 26/3/2009 về sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết số
49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.


15
hiệu quả việc giải quyết các vụ án dân sự”. Kết luận số 79- KL/TW7 ngày
28.7.2010 của Bộ chính trị khẳng định: “Viện kiểm sát nhân dân có chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp như hiện nay”. Báo cáo
chính trị tại Đại hội XI yêu cầu “Bảo đảm tốt hơn các điều kiện về Viện kiểm sát
nhân dân thực hiện hiệu quả chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp”. Nhiều đạo luật liên quan đến lĩnh vực tƣ pháp đƣợc sửa đổi, bổ
sung hoặc ban hành mới theo hƣớng tăng cƣờng vai trò giám sát các hoạt động tƣ
pháp của VKSND. Các văn bản pháp luật này đều khẳng định một cách nhất quán
yêu cầu của Đảng, Quốc hội phải tăng cƣờng hơn nữa vai trò, trách nhiệm của
VKSND trong KSVTTPL trên tất cả các lĩnh vực tƣ pháp.
1.2.2.Về cơ sở thực tiễn
- Thứ nhất, xuất phát từ điều kiện kinh tế-xã hội cụ thể của nước ta.
Ở các nƣớc có nền kinh tế phát triển, mặt bằng dân trí cao, ngƣời dân có
nhận thức và hiểu biết pháp luật, họ có điều kiện để tự mình hoặc thuê ngƣời bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho mình trƣớc Tòa án. Nhƣng ở nƣớc ta, xuất phát từ
nƣớc có nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nƣớc (chiếm 80%), vừa thoát khỏi tình
trạng nƣớc có nền kinh tế kém phát triển, trình độ dân trí thấp, đời sống kinh tế còn

nhiều khó khăn, sự nhận thức và hiểu biết pháp luật còn hạn chế, phần lớn ngƣời
dân còn gặp khó khăn trong việc tự bảo vệ hoặc thuê ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho mình trƣớc Tòa án. Hệ thống bổ trợ Tƣ pháp mới chỉ hỗ trợ đƣợc một
bộ phận nhỏ trong nhân dân. Trong khi đó số lƣợng Luật sƣ cũng chƣa đáp ứng
đƣợc nhu cầu tham gia tất cả các phiên tòa.
Theo số liệu báo cáo của Liên đoàn Luật sƣ Việt Nam, tính đến 31/3/2015
tổng số Luật sƣ cả nƣớc là 9436 Luật sƣ trên khoảng 93 triệu dân. Nhƣ vậy tỷ lệ
luật sƣ nƣớc ta trung bình là 1 luật sƣ/10 ngƣời dân. Số lƣợng Luật sƣ phân bổ giữa
các vùng miền, giữa thành thị và nông thôn không đồng đều. Riêng Đoàn Luật sƣ
Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh đã chiếm hơn 2/3 tổng số Luật sƣ của cả nƣớc (Đoàn
luật sƣ Hà Nội là 2476 luật sƣ, Đoàn luật sƣ TP HCM 3756 luật sƣ). Ở các tỉnh
miền núi, vùng sâu, vùng xa số lƣợng Luật sƣ không đủ đáp ứng nhu cầu dịch vụ
pháp lý của nhân dân, ngay cả các vụ bắt buộc phải có Luật sƣ tham gia cũng rất
khó khăn. Tại tỉnh Lạng Sơn tính đến hết 31/12/2015 Đoàn Luật sƣ tỉnh Lạng Sơn
mới có 22 Luật sƣ trên tổng số 757 918 ngƣời dân, nhƣ vậy trung bình là Luật sƣ
trên gần 37.900 ngƣời.Trong điều kiện nhƣ vậy, cần phải có cơ chế kiểm tra, giám

7

Bộ Chính trị, Thông báo kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 về đổi mới tổ chức và hoạt động của
TAND, VKSND và cơ quan điều tra.


16
sát từ bên ngoài hệ thống để bảo đảm cho việc giải quyết các vụ việc dân sự nhanh
chóng, kịp thời, đúng pháp luật, nhằm góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đƣơng sự, đặc biệt là những ngƣời yếu thế. Một trong những cơ chế hữu hiệu,
đó chính là hoạt động KSVTTPL trong TTDS của VKS8.
- Thứ hai, kế thừa và phát huy thành tựu đã đạt được của VKS qua hơn 50
năm xây dựng và trưởng thành.

Tổng kết thực tiễn thi hành cho thấy, việc BLTTDS năm 2004 bãi bỏ thẩm
quyền khởi tố vụ án dân sự của VKS đã tạo ra một khoảng trống pháp luật. Mặc dù
BLTTDS sửa đổi năm 2011 cũng nhƣ BLTTDS năm 2015 có quy định cá nhân,
cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện
để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời khác, lợi ích công
cộng, lợi ích của Nhà nƣớc9. Nhƣng đến nay chƣa có cơ quan, tổ chức nào khởi kiện
nhằm bảo vệ lợi ích chung nêu trên. Trong khi thực tiễn thời gian quan cho thấy
tình trạng vi phạm pháp luật xâm phạm đến lợi ích của Nhà nƣớc, lợi ích công cộng
và trật tự công cộng xảy ra nhiều và phổ biến ở các dạng nhƣ: xâm phạm tài sản nhà
nƣớc; vi phạm trong lĩnh môi trƣờng gây tác hại đến sức khỏe của con ngƣời (nhƣ
gây ô nhiễm môi trƣờng qua khí thải, rác thải, nƣớc thải từ các nhà máy, xí nghiệp,
khu công nghiệp, bệnh viện.., điển hình nhất trong thời gian gần đây là vụ nhà máy
luyện kim FORMOSSA xả thải ra biển làm chết hàng loạt cá ở các tỉnh miền Trung;
vi phạm trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm; xâm phạm đến lợi ích hợp pháp
của ngƣời chƣa thành niên trong quan hệ lao động.v.v...Nghiên cứu lịch sử pháp
luật về quyền khởi tố (khởi kiện) vụ án dân sự của Viện kiểm sát ở Việt Nam cho
thấy, khi quyền khởi tố vụ án dân sự của VKS còn đƣợc ghi nhận, hàng năm VKS
đã khởi tố hàng chục vụ án dân sự, góp phần ngăn chặn vi phạm pháp luật trong
quản lý, sử dụng tài sản Nhà nƣớc, thu hồi cho Nhà nƣớc số lƣợng lớn tài sản bị
8

Số 07/BC-LĐLSVN Báo cáo tổng kết công tác nhiệm kỳ I(2009-2014) và phƣơng hƣớng công tác nhiệm kỳ
II (2014-2019) của Liên đoàn Luật sƣ Việt Nam. ngày 23/4 /2015.
9
Cơ quan quản lý nhà nƣớc về gia đình, cơ quan quản lý nhà nƣớc về trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam
có quyền khởi kiện vụ án về Hôn nhân và gia đình theo quy định tại Điểm b, c, d, Khoản 2 Điều 10; Điểm b,
c, d, Khoản 5 Điều 84; Điểm b, c, d, Khoản 2, Điều 86; Điểm b, c, d, Khoản 3, Điều 102; Điểm b, c, d,
Khoản 2, Điều 119 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
- Cá nhân có quyền khởi kiện vụ án hôn nhân và gia đình để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của ngƣời khác
thoe quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, theo Khoản 2, Điều 51; Điểm a, Khoản 5, Điều 84; Điểm a,

Khoản 2, Điều 86, Điều 92; Điểm a, Khoản 3, Điều 102; Điểm a, Khoản 2, Điều 119 Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014.
- Tổ chức đại diện tập thể lao động có quyền khởi kiện vụ án lao động trong trƣờng hợp cần bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của tập thể ngƣời lao động hoặc khi đƣợc ngƣời lao động ủy quyền theo quy định của pháp
luật, theo quy định tại Khoản 1 Điều 188 BLLĐ năm 2012.
- Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng có quyền đại điện cho ngƣời tiêu dùng khởi kiện
bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng hoặc tự mình khởi kiện vì lợi ích công cộng theo quy định tại Điểm b
Khoản 1 Điều 28 Luật bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng..


17
chiếm dụng bất hợp pháp hoặc gây thiệt hại, góp phần bảo vệ lợi ích Nhà nƣớc, lợi
ích công cộng: Nhƣ năm 2000 khởi tố 56 vụ, năm 2001 khởi tố 45 vụ, năm 2002 đã
khởi tố 55 vụ, và năm 2003 khởi tố 32 vụ; đặc biệt vào thời điểm khởi tố vụ án dân
sự nhiều nhất là năm 1984 khởi tố 1.472 vụ, năm 1985 khởi tố 2.173 vụ. Khi
BLTTDS năm 2004 ra đời thẩm quyền khởi tố vụ án dân sự của VKS bị bãi bỏ và
theo quy định tại Điều 162 thì thẩm quyền đó đƣợc trao cho một số chủ thể, nhƣng
từ đó cho đến nay chƣa có cơ quan, tổ chức nào đứng ra khởi kiện vụ án dân sự
nhằm bảo vệ lợi ích chung.
Từ khi đƣợc hình thành năm 1945, Công tố viện đã đƣợc pháp luật quy định
tham gia vào việc giải quyết các vụ việc dân sự. Hoạt động của Cơ quan Công tố
góp phần bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự đúng đắn, bảo vệ lợi ích của Nhà
nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong bối cảnh chính quyền cách
mạng mới đƣợc thành lập. Trong giai đoạn này Viện công tố luôn khẳng định vai
trò của mình trong công các kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự.
Từ khi cơ quan VKSND đƣợc tách ra thành hệ thống các cơ quan độc lập
(năm 1960), hoạt động kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự của VKS đƣợc
pháp luật quy định đầy đủ và cụ thể hơn trong Luật Tổ chức VKSND qua các thời
kỳ (1960, 1981, 1992, 2002). Các Pháp lệnh TTGQCVADS năm 1989, Pháp lệnh
TTGQCVAKT năm 1994 và Pháp lệnh TTGQCTCLĐ năm 1996 đã ghi nhận

KSVTTPL trong tố tụng dân sự là nguyên tắc của TTDS. Sau đó, BLTTDS năm
2004 hạn chế phạm vi hoạt động kiểm sát, song vẫn ghi nhận nguyên tắc KSVTTPL
trong TTDS. Trên cơ sở quy định của pháp luật, VKSND phát huy vai trò của mình,
quá trình kiểm sát đã phát hiện nhiều vi phạm, nhiều bản án, quyết định của Tòa án
có vi phạm bị kháng nghị.
Thực hiện BLTTDS năm 2004, hoạt động KSVTTPL chủ yếu tập trung kiểm
sát bản án, quyết định của Tòa án, chủ động nắm các khiếu nại của đƣơng sự đối với
việc thu thập chứng cứ của Tòa án để yêu cầu xác minh, thu thập chứng cứ và tham
gia phiên tòa theo quy định của pháp luật. Thông qua công tác kiểm sát việc giải
quyết các vụ việc dân sự Viện kiểm sát đã ban hành nhiều kiến nghị, kháng nghị đối
với các vi phạm của Tòa án.
- Thứ ba, xuất phát từ các tranh chấp dân sự ngày càng gia tăng và phức
tạp, trong khi đó việc giải quyết của Tòa án còn nhiều sai sót cần phải có cơ chế
giám sát, kiểm sát.
Khi đất nƣớc đang thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện và hội nhập kinh tế
quốc tế, các tranh chấp dân sự diễn biến ngày càng phức tạp về tính chất, không


18
ngừng gia tăng về số lƣợng, chủng loại10 vốn đã phức tạp nay lại càng phát sinh
nhiều với tính chất phức tạp hơn. Để đạt đƣợc mục tiêu giải quyết các vụ việc dân
sự một cách nhanh chóng, khách quan, kịp thời đúng pháp luật, bảo đảm quyền và
lợi ích hợp hợp của cá nhân, cơ quan, tổ chức đặc biệt là những ngƣời yếu thế trong
xã hội thì ngoài cơ chế tự kiểm tra, giám sát từ bên trong thì rất cần thiết có cơ chế
kiểm tra giám sát từ bên ngoài để hạn chế những thiếu sót, sai lầm nghiêm trọng của
Tòa án trong quá trình giải quyết các vụ án.
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 thì “Tòa án nhân dân là cơ quan xét
xử của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” (khoản
1 Điều 102). Nhƣ vậy, trong hệ thống các cơ quan Nhà nƣớc chỉ duy nhất Tòa án
mới có chức năng xét xử giải quyết các vụ việc dân sự. Do đó, số lƣợng các vụ án

Tòa án giải quyết luôn quá tải. Số liệu thống kê hàng năm của Tòa án nhân dân tối
cao (TANDTC) cho thấy lƣợng án mà Tòa án giải quyết ngày càng tăng, tỷ lệ các
bản án, quyết định bị hủy, sửa vẫn còn nhiều, số lƣợng đƣơng sự khiếu nại các bản
án, quyết định của Tòa án rất lớn. Điều này chứng tỏ sự thiếu khách quan, sự vi
phạm nghiêm trọng tố tụng trong việc giải quyết các vụ án dân sự vẫn còn tồn tại.
Bên cạnh đó, không loại trừ khả năng còn có những bản án, quyết định của Tòa án
có sai sót nhƣng không bị phát hiện ra. Tình trạng trên do nhiều nguyên nhân khác
nhau, trong đó một nguyên nhân đƣợc coi là quan trọng là thiếu cơ chế giám sát,
kiểm sát. Vì vậy, đòi hỏi phải có cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt động giải quyết các
vụ việc dân sự của Tòa án.
1.3. Lƣợc sử quá trình hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam
về sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự
1.3.1. Quy định về sự tham gia tố tụng dân sự của Viện kiểm sát nhân dân
trong giai đoạn từ năm 1945 đến 1959
Có thể nghiên cứu sự tham gia TTDS của VKSND trong giai đoạn này thông
qua các công cuộc cải cách sau:
Sau khi đất nƣớc giành độc lập dân tộc năm 1945, trong công cuộc cải cách
tƣ pháp lần đầu, hệ thống Tòa án thƣờng (dân sự) đƣợc thiết lập theo Sắc lệnh số
10

Theo thống kê của Vụ kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự, hôn nhân và gia đình (Vụ 9) VKSND tối
cao, trung bình mỗi năm, số lƣợng vụ, việc dân sự mà Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý giải quyết tăng khoảng từ
10,1% đến 16,4%; Số lƣợng vụ việc Tòa án thụ lý giải quyết ở trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái
thảm cũng tăng đáng kể. Vụ việc dân sự phổ biến và phức tạp nhất là tranh chấp về quyền sử đụng đất; về
hợp đồng chuyển nhƣợng, cho thuê, cho mƣợn, tặng cho quyền sử dụng đất; hợp đồng vay tài sản có đối
tƣợng thế chấp là nhà, đất; thừa kế di sản là nhà, đất; tranh chấp về chia tài sản chung khi hết thời hiệu chia di
sản thừa kế…
Trích trong tài liệu Nguyễn Hòa Bình (2016), “Đổi mới và nâng cao chất lƣợng công tác kiểm sát việc giải
quyết các vụ, việc dân sự”, Tạp chí Kiểm sát (7), tr. 10.



×