Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Hòa giải vụ án dân sự và thực tiễn thực hiện tại tòa án nhân dân trên địa bàn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 94 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
----------

PHẠM KIM NGÂN

HÒA GIẢI VỤ ÁN DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN THỰC
HIỆN TẠI TÒA ÁN NHÂN NHÂN TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60.38.01.03

Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Phương Thảo
HÀ NỘI – NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn khoa học của TS. Trần Phương Thảo – Giảng viên Khoa Pháp luật
Dân sự, Trường Đại học Luật Hà Nội.
Những thông tin, số liệu và trích dẫn trong luận văn là hoàn toàn trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và chính xác.

Tác giả luận văn


Phạm Kim Ngân


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

1. BLDS

: Bộ luật dân sự

2. BLTTDS

: Bộ luật Tố tụng dân sự

3. PLTTGQCVADS

: Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự

4. TAND

: Tòa án nhân dân

5. TTDS

: Tố tụng dân sự

6. UBND

: Ủy ban nhân dân



DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU

Bảng
Bảng 3.1. Kết quả giải quyết các vụ án dân sự của hai cấp
Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội (từ năm 2011 đến năm
2015)

Trang
65


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài .....................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài................................................................................2
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn..................................3
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn .....................................................................4
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn.................................................................4
6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.........................................................5
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn .....................................................5
8. Kết cấu của luận văn ..........................................................................................5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÒA GIẢI VỤ ÁN DÂN SỰ .....................7
1.1

Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của hòa giải vụ án dân sự ....................7

1.1.1 Khái niệm hòa giải vụ án dân sự .................................................................7
1.1.2 Đặc điểm của hòa giải vụ án dân sự ..........................................................12
1.1.3 Ý nghĩa của hòa giải vụ án dân sự.............................................................14

1.2

Cơ sở của hòa giải vụ án dân sự ..............................................................17

1.2.1 Cơ sở lý luận..............................................................................................17
1.2.2 Cơ sở thực tiễn...........................................................................................18
1.3

Khái quát sự hình thành và phát triển của pháp luật tố tụng dân sự

Việt Nam về hòa giải vụ án dân sự ...................................................................19
1.3.1 Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989.......................................................19
1.3.2 Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 2005.......................................................23
1.3.3 Giai đoạn từ năm 2005 đến nay.................................................................24
Kết luận Chương 1 .............................................................................................26
Chương 2
HÒA GIẢI VỤ ÁN DÂN SỰ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH.....................................................28
2.1

Nguyên tắc hòa giải vụ án dân sự............................................................28

2.1.1 Nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án.............................................28
2.1.2 Nguyên tắc tiến hành hòa giải ...................................................................29
2.2

Phạm vi các vụ án mà Tòa án tiến hành hòa giải ..................................32


2.2.1 Những vụ án dân sự không được hòa giải .................................................32

2.2.2 Những vụ án không tiến hành hòa giải được.............................................36
2.2.3 Vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn ...............................................39
2.3

Thành phần phiên hòa giải vụ án dân sự ...............................................39

2.3.1 Các chủ thể tiến hành hòa giải...................................................................40
2.3.2 Chủ thể tham gia hòa giải ..........................................................................42
2.4

Thủ tục hòa giải vụ án dân sự..................................................................50

2.4.1 Thủ tục hòa giải trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm ........................50
2.4.2 Thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại phiên tòa sơ thẩm ............................56
2.4.3 Thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại cấp phúc thẩm .................................60
Kết luận Chương 2 .............................................................................................62
Chương 3
THỰC TIỄN THỰC HIỆN HÒA GIẢI VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN
NHÂN DÂN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ MỘT SỐ KIẾN
NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG HÒA GIẢI VỤ
ÁN DÂN SỰ........................................................................................................64
3.1

Thực tiễn thực hiện hòa giải vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân trên địa

bàn thành phố Hà Nội........................................................................................64
3.1.1 Kết quả đạt được........................................................................................64
3.1.2 Những hạn chế, vướng mắc, khó khăn trong thực tiễn hòa giải tại TAND
trên địa bàn thành phố Hà Nội .............................................................................66
3.2


Một số kiến nghị hoàn thiện và thực hiện pháp luật về hoà giải vụ án

dân sự ..................................................................................................................79
3.2.1 Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hoà giải vụ án dân sự ..........................79
3.2.2 Kiến nghị về thực hiện pháp luật hòa giải vụ án dân sự............................82
Kết luận Chương 3 .............................................................................................85
KẾT LUẬN CHUNG .........................................................................................86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế chung của hội nhập toàn cầu, Việt Nam có chủ trương xây
dựng Nhà nước pháp quyền, thực hiện công cuộc cải cách, đổi mới một cách toàn
diện và sâu sắc theo quy luật cạnh tranh của kinh tế thị trường. Sự thay đổi đó tạo
nên một “bộ mặt” mới cho nền kinh tế. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền
kinh tế thị trường thì các tranh chấp dân sự, thương mại, lao động cũng ngày
càng gia tăng nhưng hầu hết mọi người đều tỏ ra e ngại khi phải đưa vụ kiện ra
Tòa án. Đa số họ thích hòa giải hơn là tranh tụng, đặc biệt là đối với các tranh
chấp dân sự bởi hòa giải là một truyền thống tốt đẹp trong việc giải quyết những
mâu thuẫn tranh chấp và hòa giải được xem là một biện pháp giải quyết tranh
chấp được ưa chuộng hơn cả từ trước tới nay. Biện pháp này góp phần hạn chế
tranh chấp phát triển phức tạp, gìn giữ sự hòa thuận cho từng gia đình, bình yên
cho làng xóm, trật tự kỷ cương an toàn xã hội, củng cố khối đoàn kết cộng đồng.
Truyền thống này đã tồn tại và phát huy vai trò của nó trong đời sống xã hội. Nếu
như tranh chấp bị xem như những biểu hiện tiêu cực phá vỡ sự hòa thuận và bình
yên của cộng đồng thì hòa giải lại được xem như mặt tích cực, là sự gìn giữ, củng

cố trật tự công cộng. Hiện nay, nước ta cũng như nhiều nước khác trên thế giới
đang có xu hướng sử dụng hòa giải nhiều hơn, đặc biệt là hòa giải trong tố tụng
tư pháp như một biện pháp giải quyết tranh chấp bởi nó có nhiều ưu điểm hơn so
với các biện pháp giải quyết tranh chấp khác.
Hiện nay, hòa giải vụ án dân sự giải đã được quy định khá đầy đủ, chi tiết
trong Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2004 được sửa đổi, bổ sung năm
2011 và đã trở thành một phương thức hữu hiệu khi giải quyết các vụ án dân sự
tại Tòa án. Tuy nhiên, qua thực tiễn thi hành Bộ luật này trong những năm qua
cho thấy một số quy định của BLTTDS cũng như vấn đề hòa giải đã bộc lộ
những hạn chế, bất cập; có những quy định mâu thuẫn với các văn bản quy phạm
pháp luật khác; có những quy định chưa phù hợp (hoặc không còn phù hợp),
chưa đầy đủ, thiếu rõ ràng và còn có những cách hiểu khác nhau,... Do đó, ngày
25/11/2015 Quốc hội đã thông qua BLTTDS năm 2015 và Luật này có hiệu lực
thi hành từ ngày 01/07/2016. So với BLTTDS năm 2004 được sửa đổi, bổ sung
năm 2011, BLTTDS năm 2015 có nhiều sửa đổi, bổ sung quan trọng nhằm đáp


2

ứng yêu cầu cấp bách của thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự trong giai đoạn
hiện nay.
Với những lý do trên, tôi xin mạnh dạn trình bày đề tài: “Hòa giải vụ án
dân sự và thực tiễn thực hiện tại Tòa án nhân dân trên địa bàn thành phố Hà
Nội” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hòa giải là một vấn đề quan trọng trong việc giải quyết các vụ án dân sự tại
Tòa án. Vì vậy, ngoài việc được Nhà nước quan tâm quy định trong các văn bản
về pháp luật tố tụng dân sự (TTDS) thì cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu
khoa học pháp lý nghiên cứu về vấn đề này. Có thể thống kê một số luận văn,
luận án tiêu biểu sau đây: Luận văn thạc sĩ Luật học: "Hòa giải trong tố tụng dân

sự - thực tiễn và hướng hoàn thiện", của Bùi Đăng Huy, Trường Đại học Luật Hà
Nội, 1996; Luận văn thạc sĩ Luật học: "Hòa giải trong tố tụng dân sự" của
Trương Kim Oanh, Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, Trung tâm Khoa
học xã hội và nhân văn, 1996; Luận án tiến sĩ Luật học: "Hòa giải trong giải
quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án ở Việt Nam", của Đào Thị Xuân Lan, Viện
Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội, 2004; Luận án tiến sĩ Luật học: "Chế
định hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn",
của Trần Văn Quảng, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2004.
Bên cạnh công trình nghiên cứu dưới hình thức luận văn, luận án, thì
vấn đề lý luận về hòa giải cũng được đề cập khái quát trong Giáo trình Luật
TTDS của Trường Đại học Luật Hà Nội, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí
Minh v.v... Ngoài ra, còn có một số bài viết về thực tiễn hòa giải các vụ án dân sự
của các tác giả được đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân (TAND), Tạp chí Nhà
nước và pháp luật; Tạp chí Kiểm sát, Báo Công lý như: "Hoàn thiện chế định hòa
giải trong tố tụng dân sự", của Đào Thị Mai Hường, Tạp chí TAND, số 1,
1998;"Hòa giải và tự thỏa thuận trong tố tụng dân sự, kinh tế và lao động", của
Phan Hữu Thư, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 2, 1999; "Vai trò và thủ tục hòa
giải trong xét xử các tranh chấp lao động", của Lê Văn Luật, Tạp chí TAND, số
16, 2004; "Việc áp dụng các quy định về hòa giải trong tố tụng dân sự", của
Nguyễn Thị Thanh Hương, Tạp chí Kiểm sát, số 5, 2006; "Tòa án ra quyết định
phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các đương sự", của Nguyễn Quốc Phong, Báo


3

Công lý, số 72, ngày 06/9/2008; "Hòa giải trong tố tụng dân sự của Việt Nam và
Nhật Bản nhìn từ góc độ so sánh", của Dương Quỳnh Hoa, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật số 02, 2008.
Mỗi công trình và mỗi bài viết trên nghiên cứu về hòa giải trong TTDS ở
một khía cạnh riêng, nhưng phần lớn các công trình trên đều được tiếp cận

nghiên cứu trước khi BLTTDS được ban hành năm 2015. Hòa giải vụ án dân sự
được hoàn thành trên cơ sở kinh tế - xã hội, phản ánh sâu sắc các yếu tố kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội đương thời. Vì vậy, chế định hòa giải luôn vận động và
phát triển một cách khách quan trước yêu cầu của đời sống xã hội. Việc ban hành
BLTTDS năm 2015 là một bước phát triển vượt bậc của hệ thống pháp luật
TTDS, trong đó có hòa giải vụ án dân sự. Có thể nói, từ khi BLTTDS ra đời đến
nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện và
chuyên sâu về hòa giải vụ án dân sự dưới góc độ là một hoạt động tố tụng do Tòa
án tiến hành để giải quyết tranh chấp giữa các bên. Vì vậy, tác giả mạnh dạn chọn
đề tài “Hòa giải vụ án dân sự và thực tiễn thực hiện tại Tòa án nhân dân trên địa
bàn thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình, với mong muốn
nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện về hòa giải vụ án dân sự, từ đó đưa ra
những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện có hiệu quả hoạt
động hòa giải vụ án dân sự trên thực tế.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận chung về hòa
giải vụ án dân sự; các quy định của BLTTDS về hòa giải vụ án dân sự và thực
tiễn thực hiện.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào một số vấn đề lý luận cơ
bản về hòa giải vụ án dân sự như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của hòa giải vụ án
dân sự, cơ sở của hòa giải vụ án dân sự, những quy định pháp luật về hòa giải vụ
án dân sự trong TTDS… Ngoài ra, khi triển khai nghiên cứu về thực tiễn thực
hiện hòa giải vụ án dân sự, luận văn có những nghiên cứu, đánh giá tổng quan về
thực tiễn thực hiện hoạt động hòa giải vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân (TAND)
trên địa bàn thành phố Hà Nội trong những năm gần đây. Trong phạm vi nghiên
cứu của luận văn, tác giả chỉ nghiên cứu về hòa giải vụ án dân sự dưới góc độ là một
hoạt động giải quyết tranh chấp do Tòa án tiến hành (trong khoa học pháp lý, hòa


4


giải vụ án dân sự có thể được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau: hòa giải vụ án dân
sự có thể là một thủ tục tố tụng hay là một chế định pháp luật hoặc là một hoạt động
do Tòa án tiến hành để giải quyết tranh chấp).
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề về lý luận như khái niệm, ý nghĩa, cơ sở
của hòa giải vụ án dân sự.
- Nghiên cứu làm rõ các quy định của pháp luật TTDS về hòa giải vụ án
dân sự, so sánh những quy định của BLTTDS mới và BLTTDS trước đây và chỉ
ra những hạn chế, bất cập của pháp luật quy định về hòa giải vụ án dân sự nếu có.
- Khảo sát thực tiễn thực hiện hoạt động hòa giải vụ án dân sự và chỉ ra
những hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện hoạt động này trong
thực tiễn.
- Trên cơ sở những hạn chế, bất cập của pháp luật và những hạn chế, khó
khăn, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện hòa giải vụ án dân sự, đề xuất những
phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật và thực hiện
có hiệu quả hoạt động hòa giải vụ án dân sự. Qua đó phát huy vai trò của Tòa án
trong giải quyết các vụ án dân sự trong thời gian tới, bảo đảm cho việc giải quyết
các vụ án dân sự của Tòa án luôn tôn trọng sự tự nguyên thỏa thuận đương sự,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, xã hội và công dân.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung trả lời các câu hỏi nghiên cứu sau:
- Những vấn đề lý luận về hòa giải vụ án dân sự là gì?
- Pháp luật tố tụng dân sự hiện hành quy định như thế nào về hòa giải vụ án
dân sự?
- Khi áp dụng các quy định của pháp luật trên thực tiễn còn gặp phải những
vướng mắc, bất cập gì? Giải pháp nào giúp hoàn thiện pháp luật cũng như bảo
đảm thực hiện các quy định liên quan đến hòa giải vụ án dân sự?



5

6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Luận văn được hoàn thành trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp luật; đường lối
quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin; các khoa học chuyên ngành khác
đặc biệt là khoa học về Lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật, chú trọng đến
phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, kết hợp lý luận và thực tiễn.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Có thể nói, đề tài luận văn là công trình nghiên cứu khoa học khá toàn diện,
có hệ thống và mới nhất ở cấp độ luận văn thạc sĩ về hòa giải vụ án dân sự trong
TTDS. Đề tài luận văn có những đóng góp về mặt khoa học và thực tiễn sau đây:
Làm rõ khái niệm hòa giải vụ án dân sự theo pháp luật trong TTDS và cơ
sở lý luận, cơ sở thực tiễn của hòa giải vụ án dân sự trong TTDS.
Làm rõ nội dung cơ bản của hoạt động hòa giải vụ án dân sự của Tòa án
theo pháp luật thông qua các quy định có liên quan trong BLTTDS năm 2004
được sửa đổi, bổ sung năm 2011 và BLTTDS năm 2015, có sự so sánh các quy
định giữa hai bộ luật này.
Chỉ ra được những hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật hòa giải
vụ án dân sự trong TTDS; những kết quả đạt được và hạn chế, vướng mắc, khó
khăn trong thực tiễn thực hiện hoạt động hòa giải vụ án dân sự.
Đề xuất được những kiến nghị xây dựng, hoàn thiện pháp luật và tổ chức
thực hiện có hiệu quả hoạt động hòa giải vụ án dân sự trong TTDS.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của

luận văn gồm 3 chương:


6

Chương 1: Những vấn đề lý luận về hòa giải vụ án dân sự
Chương 2: Hòa giải vụ án dân sự theo quy định của pháp luật tố tụng dân
sự Việt Nam hiện hành
Chương 3: Thực tiễn thực hiện hòa giải vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân
trên địa bàn thành phố Hà Nội và một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của
hoạt động hòa giải vụ án dân sự


7

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÒA GIẢI VỤ ÁN DÂN SỰ
1.1 Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của hòa giải vụ án dân sự
1.1.1 Khái niệm hòa giải vụ án dân sự
Hòa giải là một phương thức giải quyết tranh chấp truyền thống và phổ
biến trong đời sống xã hội. Trong khoa học pháp lý, hòa giải được hiểu dưới
nhiều góc độ khác nhau.
Dưới góc độ là một thủ tục giải quyết tranh chấp thì thủ tục hòa giải là trình
tự mà các bên tham gia bao gồm các bên tranh chấp và bên trung gian hòa giải
cần tuân theo để đạt được tự nguyện thỏa thuận giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp
đang tồn tại giữa các bên.
Dưới góc độ pháp lý, hòa giải là một chế định pháp luật. Theo Giáo trình
Lý luận Nhà nước và Pháp luật của trường Đại học Luật Hà Nội thì: “Chế định
pháp luật là một tập hợp được cấu trúc từ nhóm các quy phạm pháp luật điều
chỉnh nhóm quan hệ xã hội có liên quan mật thiết với nhau thuộc cùng một loại”

[20]. Theo định nghĩa này, chế định hòa giải là một tập hợp các quy phạm pháp
luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình hòa giải giải quyết
tranh chấp.
Dưới góc độ là một hoạt động giải quyết tranh chấp, hòa giải là hoạt động
của một bên trung gian nhằm giúp đỡ các bên tranh chấp thỏa thuận với nhau về
giải quyết tranh chấp.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, người viết chỉ chú trọng
nghiên cứu hòa giải dưới góc độ là một hoạt động giải quyết tranh chấp. Tuy
nhiên, dù dưới góc độ là một hoạt động giải quyết tranh chấp thì trước đây cũng
như hiện nay có nhiều quan điểm về hòa giải, cụ thể như sau:
Theo Từ điển tiếng Việt, “hòa giải là việc thuyết phục các bên đồng ý chấm
dứt xung đột, xích mích một cách ổn thỏa” [24, tr.430]. Khái niệm này đề cập đến
hành động và mục đích của hòa giải, nhưng chưa nêu được đầy đủ các yếu tố như
bản chất, nội dung, và chủ thể của hòa giải.


8

Theo Từ điển Luật học Anh - Mỹ của Black: “hòa giải là một quá trình
giải quyết tranh chấp mang tính chất riêng tư, trong đó, hòa giải viên là người
thứ ba trung gian giúp các bên tranh chấp đạt được thỏa thuận” [1, tr.350].
Tương tự như vậy, từ điển Luật học cuả Cộng hòa Pháp giải thích: “hòa
giải là phương thức giải quyết tranh chấp với sự giúp đỡ của người trung gian
thứ ba (hòa giải viên) để giúp đưa ra các đề nghị giải quyết một cách thân thiện”
[12, tr.378].
Hai từ điển nêu trên đưa ra định nghĩa về hòa giải khá tương đồng nhau khi
cả hai định nghĩa đều thể hiện ba yếu tố đó là: thứ nhất là có sự tranh chấp giữa
các bên; thứ hai là có sự tham gia của bên thứ ba trung lập để đưa ra ý kiến tư
vấn; thứ ba là có sự thống nhất ý chí giữa các bên để giải quyết tranh chấp.
Ngoài ra, trong khoa học pháp lý, có quan điểm cho rằng: “hòa giải là quá

trình giải quyết những tranh chấp, bất đồng giữa các bên. Trong quá trình hòa
giải cần đến bên thứ ba với vai trò trung lập, làm trung gian giúp các bên tranh
chấp giải quyết được những bất đồng và đạt được một thỏa thuận phù hợp với
quy định của pháp luật, đạo đức xã hội và tự nguyện thực hiện những thỏa thuận
đó” [17]. Theo quan điểm này, hòa giải có mục đích giải quyết thành công tranh
chấp. Tuy nhiên, không phải tất cả các trường hợp hòa giải đều thành công. Khi
đó, dù mâu thuẫn chưa được giải quyết hoàn toàn nhưng các bên tranh chấp cũng
có cơ hội hiểu rõ hơn nội dung tranh chấp, bày tỏ ý chí của mình với đối phương
và cũng được nghe ý kiến của đối phương về vụ tranh chấp. Từ đó, hai bên có thể
phần nào tìm được tiếng nói chung và làm giảm mức độ mâu thuẫn.
Từ các quan điểm trên, có thể khái quát hòa giải là quá trình các bên đàm
phán với nhau để giải quyết tranh chấp với sự giúp đỡ của bên thứ ba. Như
vậy, hòa giải có sự tham gia của hai bên tranh chấp và bên trung gian thứ ba.
Khác với phương thức giải quyết tranh chấp thương lượng, tức là hai bên, bằng
thiện chí của mình, cùng bàn bạc, thảo luận để đi tới một thỏa thuận giải quyết
tranh chấp, thì hòa giải coi trọng vai trò của bên trung gian thứ ba giúp các bên
tranh chấp đưa ra phương hướng giải quyết nhằm dung hòa quyền và lợi ích của
cả hai bên để từ đó các bên bàn bạc, thảo luận đi đến thống nhất phương án giải
quyết tranh chấp.


9

Trong cuộc sống hàng ngày, việc xảy ra mâu thuẫn, xung đột trong giao lưu
dân sự là điều không thể tránh khỏi. Tranh chấp phát sinh từ nhiều quan hệ xã hội
khác nhau như quan hệ dân sự, quan hệ hôn nhân và gia đình, quan hệ kinh
doanh, thương mại, hay quan hệ lao động. Một khi tranh chấp về dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là “tranh
chấp dân sự”) giữa các bên được một bên yêu cầu Tòa án giải quyết thì điều này
có nghĩa là một bên đã chủ động lựa chọn phương thức tố tụng dân sự tại Tòa án

để giải quyết tranh chấp giữa các bên. Khi Tòa án thụ lý giải quyết tranh chấp
dân sự theo yêu cầu của một hoặc nhiều bên thì tranh chấp đó được xác định là
vụ án dân sự. Một khi việc giải quyết tranh chấp có sự tham gia của bên thứ ba là
Tòa án - cơ quan đại diện cho quyền lực nhà nước thì việc giải quyết tranh chấp
đó phải tuân theo hình thức, trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng quy định. Các
quyết định, bản án do Tòa án tuyên tại mỗi giai đoạn của quá trình giải quyết
tranh chấp đều được đảm bảo thi hành bằng quyền lực nhà nước phù hợp với quy
định của pháp luật TTDS và pháp luật về thi hành án. Như vậy, vai trò của bên
thứ ba là Tòa án không chỉ dừng lại ở việc tư vấn, đề xuất phương án giải quyết
tranh chấp như Hòa giải viên, mà pháp luật còn trao cho Tòa án quyền quyết định
cuối cùng đối với vụ kiện nếu như các bên tranh chấp không thể tự thỏa thuận
được, cũng như quyền quyết định các biện pháp cần thiết để đảm bảo thi hành án.
Từ những phân tích ở trên, có thể thấy hòa giải và tố tụng dân sự tại Tòa án
đều là các phương thức độc lập mà các bên tranh chấp có thể lựa chọn để giải
quyết tranh chấp phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự giữa họ. Nhưng khi nói tới
hòa giải vụ án dân sự tức là đã đề cập đến việc sử dụng cả hai phương thức giải
quyết tranh chấp dân sự, trong đó tố tụng dân sự là phương thức chủ đạo còn hòa
giải là phương thức được tích hợp vào quá trình tố tụng dân sự. Việc sử dụng kết
hợp nhiều phương thức giải quyết tranh chấp khác nhau là một hiện tượng bình
thường, xảy ra khá phổ biến và xuất phát từ chính nhu cầu của các bên tranh chấp
là phải tìm mọi cách thích hợp để giải quyết hiệu quả, dứt điểm các xung đột,
vướng mắc gây thiệt hại tới quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Thông
thường, phương thức giải quyết tranh chấp được các bên ưu tiên lựa chọn là
thương lượng. Trong trường hợp thương lượng không thành công, các bên sẽ tìm
đến bên thứ ba để giúp họ tìm ra cách thức giải quyết tranh chấp một cách ổn
thỏa, hợp lý để các bên tự quyết trên cơ sở bình đẳng, đồng thuận và tự nguyện


10


mà không phải nhờ tới “cửa quan”. Nếu hòa giải không thành công, các bên buộc
phải sử dụng đến các phương thức có tính chất hành chính hơn mà ở đó quyền
quyết định sự việc đã thuộc về bên thứ ba như Trọng tài hay Tòa án và các bên
phải chấp nhận, thi hành quyết định đó dù có hài lòng hay không. Tuy nhiên, dựa
trên bản chất của quan hệ pháp luật dân sự là tôn trọng sự thỏa thuận giữa các
bên nên trong quá trình giải quyết tranh chấp bằng thủ tục TTDS, Tòa án vẫn
luôn chủ động dành cơ hội cho các bên tranh chấp thương lượng, đàm phán với
nhau. Tòa án sẽ là bên thứ ba đưa ra những hướng dẫn, tư vấn về điểm mạnh,
điểm yếu của mỗi bên trong tranh chấp cũng như những vấn đề pháp lý của vụ
việc và đặc biệt là hậu quả pháp lý mà mỗi bên phải gánh chịu khi Tòa án ra
quyết định, bản án giải quyết vụ án dân sự. Trên cơ sơ những phân tích, tư vấn
của Tòa án, các bên sẽ có nhận thức rõ ràng hơn về vụ việc và tại các thời điểm
khác nhau của quá trình tố tụng, các bên tranh chấp vẫn luôn được dành quyền
chủ động thỏa thuận về phương án giải quyết tranh chấp hợp tình, hợp lý. Nếu
thỏa thuận đó không trái với quy định pháp luật và đạo đức xã hội, Tòa án sẽ
công nhận thỏa thuận của các bên tranh chấp và bảo đảm hiệu lực pháp luật của
thỏa thuận đó thông qua quyết định, bản án chính thức của Tòa án. Cách thức giải
quyết này được gọi là hòa giải vụ án dân sự.
Hòa giải vụ án dân sự do Tòa án tiến hành là một trong những hình thức
hòa giải. Trên thực tế tồn tại nhiều hình thức hòa giải khác như hòa giải cơ sở,
hòa giải ở Ủy ban nhân dân (UBND),… Do đều là hòa giải nên giữa hòa giải vụ
án dân sự (hay hòa giải trong TTDS) và các hình thức hòa giải khác đều mang
đặc điểm chung của hòa giải. Thứ nhất, các hình thức hòa giải này đều là hình
thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong đời sống dân sự, tức là các bên trong
quan hệ pháp luật nội dung đã có mâu thuẫn về lợi ích. Mối quan hệ giữa họ cần
có một biện pháp đề điều hòa lợi ích giữa các bên. Thứ hai, các hình thức hòa
giải này đều có sự tham gia của chủ thế thứ ba đóng vai trò trung gian giúp đỡ
các bên giải quyết tranh chấp. Thứ ba, các bên tranh chấp có quyền quyết định và
tự định đoạt khi tiến hành giải quyết tranh chấp bằng hòa giải. Tuy vậy, các hình
thức này cũng có những điểm khác biệt nhất định, ví dụ như sau:

Đối với hòa giải vụ án dân sự và hòa giải cơ sở, hai hình thức này có các
điểm khác biệt sau:


11

- Điểm khác biệt đầu tiên là hòa giải cơ sở không phải thủ tục bắt buộc
trong quá trình giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn trong đời sống dân sự. Trong khi
đó, hòa giải vụ án dân sự là một thủ tục bắt buộc khi Tòa án tiến hành giải quyết
tranh chấp, trừ trường hợp không được tiến hành hòa giải và không tiến hành hòa
giải được.
- Điểm khác biệt thứ hai đó là chủ thể thứ ba tiến hành hòa giải trong hai
hình thức này. Chủ thể thứ ba tiến hành hòa giải vụ án dân sự là Tòa án, còn đối
với hòa giải cơ sở là các Hòa giải viên.
- Điểm khác biệt thứ ba giữa hai hình thức hòa giải này là về phạm vi hòa
giải. Hòa giải vụ án dân sự được tiến hành đối với tất cả các loại tranh chấp đã
được khởi kiện và được Tòa án thụ lý giải quyết, bao gồm tranh chấp dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Tuy nhiên, hòa giải cơ sở
thường tiến hành đối với các tranh chấp nhỏ về dân sự và hôn nhân, gia đình.
- Điểm khác biệt cuối cùng là về hiệu lực của kết quả hòa giải thành của
hai hình thức này. Đối với hòa giải cơ sở, việc thi hành thỏa thuận giữa các bên
được thực hiện trên cơ sở tự nguyện giữa các bên là chính. Trong khi đó, quyết
định công nhận sự thỏa thuận của đương sự của Tòa án được đảm bảo thi hành
bởi quyền lực nhà nước.
Đối với hòa giải vụ án dân sự và hòa giải ở UBND, hai hình thức này có
những điểm khác biệt nhất định:
- Thứ nhất, về chủ thể đóng vai trò trung gian hòa giải. Tòa án đóng vai trò
trung gian hòa giải trong hòa giải vụ án dân sự còn UBND là chủ thể đóng vai
trò trung gian hòa giải trong hòa giải ở UBND.
- Thứ hai, về phạm vi hòa giải, hòa giải vụ án dân sự áp dụng đối với hầu

hết các tranh chấp được Tòa án thụ lý giải quyết.Trong khi đó, hòa giải ở UBND
chỉ bắt buộc đối với tranh chấp đất đai, đối với các loại tranh chấp khác thì các
bên cũng có thể yêu cầu UBND hòa giải nhưng đây không phải là thủ tục bắt
buộc.
- Thứ ba, về hiệu lực pháp luật của kết quả hòa giải thành. Đối với hòa
giải vụ án dân sự, kết quả hòa giải thành được Tòa án công nhận và được bảo
đảm thực thi bằng quyền lực nhà nước. Đối với hòa giải ở UBND, kết quả hòa


12

giải thành được thi hành phụ thuộc vào ý chí của các bên, không có cơ chế cưỡng
chế thi hành như đối với kết quả hòa giải thành vụ án dân sự.
Như vậy, từ những phân tích nêu trên có thể đưa ra khái niệm hòa giải vụ
án dân sự dưới góc độ là một hoạt động giải quyết tranh chấp, theo đó, hòa giải
vụ án dân sự là hoạt động tố tụng dân sự với vai trò của Tòa án là bên trung
gian thứ ba giúp đỡ các đương sự thỏa thuận giải quyết tranh chấp dân sự.
1.1.2 Đặc điểm của hòa giải vụ án dân sự
Với khái niệm trên, có thể thấy hòa giải vụ án dân sự là một hoạt động tố
tụng đặc thù của tố tụng dân sự với các đặc điểm riêng biệt như sau:
1.1.2.1 Hòa giải về bản chất là sự thỏa thuận của các đương sự
Mặc dù hòa giải vụ án dân sự là một hoạt động do Tòa án tiến hành nhưng
về bản chất hòa giải vẫn là sự thỏa thuận của các đương sự. Chỉ có các đương sự
mới có quyền hòa giải với nhau về tất cả những vấn đề đang cần giải quyết trong
vụ án, bởi đương sự là những người có quyền lợi đang bị xâm hại hoặc tranh
chấp. Họ là người hiểu rõ hơn ai hết mâu thuẫn của chính họ. Khi tham gia vào
quá trình hòa giải, các đương sự có quyền thương lượng, thỏa thuận với nhau để
giải quyết những bất đồng về quyền lợi của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện ý
chí, thỏa thuận. Mọi sự tác động từ bên ngoài trái với ý muốn của các đương sự
đều bị coi là trái pháp luật và không được công nhận. Không ai, bằng bất kỳ hình

thức nào có thể cưỡng ép, bắt buộc đương sự thỏa thuận với nhau giải quyết
những mâu thuẫn, tranh chấp giữa họ. Khi người đại diện của đương sự tham gia
tố tụng thì họ có quyền thỏa thuận với đương sự phía bên kia về giải quyết vụ án
dân sự trong phạm vi đại diện. Trong trường hợp người đại diện theo pháp luật
của đương sự tham gia tố tụng thì người đại diện của đương sự có toàn bộ các
quyền và nghĩa vụ của đương sự nên người đại diện theo pháp luật của đương sự
có quyền tham gia hòa giải. Song đối với vụ án ly hôn thì người đại diện theo
pháp luật không có quyền hòa giải, bởi quan hệ nhân thân phải do các đương sự
tự quyết định. Trong trường hợp người đại diện theo ủy quyền của đương sự
tham gia tố tụng thì người đại diện của đương sự có các quyền và nghĩa vụ của
đương sự trong phạm vi ủy quyền nên người đại diện theo ủy quyền của đương
sự có quyền tham gia hòa giải nếu được đương sự ủy quyền. Đối với những vụ án


13

do cơ quan, tổ chức khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
khác, cơ quan tổ chức không phải là chủ thể của quan hệ pháp luật tranh chấp nên
không có quyền hòa giải với bị đơn.
Mặc dù các đương sự có quyền tự do, tự nguyện thỏa thuận nhưng thỏa
thuận của các đương sự phải trong khuôn khổ pháp luật nên thỏa thuận của
đương sự chỉ được Tòa án công nhận khi không trái pháp luật, không trái đạo đức
xã hội.
1.1.2.2 Tòa án là chủ thể trung gian tiến hành hòa giải, có vai trò quan
trọng trong việc giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau
Hòa giải về bản chất là sự thỏa thuận của các đương sự nhưng Tòa án là
chủ thể không thể thiếu trong quá trình hòa giải đó. Tòa án tham gia vào quá
trình hòa giải chỉ với vai trò là người tổ chức, xác định thời gian, địa điểm, thành
phần, nội dung hòa giải, giải thích pháp luật và nội dung tranh chấp để các đương
sự thỏa thuận với nhau. Tòa án không can thiệp vào nội dung thỏa thuận của các

bên đương sự.
Mặc dù Tòa án không phải là một chủ thể của hòa giải, nhưng với tư cách
là cơ quan xét xử, Tòa án giữ vai trò trung gian cho quá trình hòa giải giữa các
đương sự. Tòa án có nhiệm vụ tổ chức cho các bên đương sự gặp nhau để thương
lượng, thỏa thuận về quyền lợi của họ. Khi hòa giải, Tòa án chủ động giải thích
pháp luật liên quan đến quan hệ tranh chấp, động viên, khuyên giải, giúp đỡ họ
tháo gỡ những vấn đề vướng mắc trong tâm tư tình cảm của mình để họ thỏa
thuận với nhau giải quyết các vấn đề của vụ việc. Đây chính là những yếu tố
quyết định đến sự thành công hay không của việc hòa giải. Và do vậy, việc hòa
giải giữa các đương sự, mặc dù dựa trên sự tự nguyện và ý chí của đương sự
nhưng lại được bảo đảm phù hợp với pháp luật của Nhà nước, đạo đức xã hội.
Như vậy, Tòa án là một chủ thể không thể thiếu giữ vai trò trung gian giúp đỡ các
đương sự thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ án dân sự. Đặc điểm này là dấu
hiệu để phân biệt hòa giải với trường hợp các đương sự tự thỏa thuận, đây là hai
trường hợp khác nhau trong tố tụng dân sự.
Kết quả tự thỏa thận của đương sự là do các đương sự thực hiện quyền tự
định đoạt của mình và Tòa án không hề tham gia vào hoạt động thỏa thuận đó.


14

Còn đối với trường hợp hòa giải do Tòa án tiến hành, mặc dù các đương sự vẫn là
chủ thể của hòa giải nhưng kết quả hòa giải có vai trò rất lớn của Tòa án. Khi tiến
hành hòa giải giữa các đương sự, Tòa án giữ vị trí đặc biệt quan trọng, Tòa án
như một người “trọng tài” giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau trong việc
chủ động xác định thời gian, địa điểm, thành phần, nội dung hòa giải, số lần hòa
giải, giải thích pháp luật, nội dung tranh chấp, quyền và nghĩa vụ của các
bên…để từ đó các đương sự nhận thức được các quyền và nghĩa vụ của mình và
đi đến thỏa thuận.
1.1.2.3 Hòa giải vụ án dân sự phải được tiến hành theo thủ tục do pháp

luật tố tụng dân sự quy định
Hòa giải vụ án dân sự, cũng như các thủ tục tố tụng khác do Tòa án tiến
hành trên cơ sở quy định của pháp luật. Việc quy định thủ tục hòa giải vụ án dân
sự nhằm bảo đảm tính khách quan, công bằng, bảo đảm sự bình đẳng của các
đương sự trong quá trình giải quyết vụ án. Không những việc quy định thủ tục
thực hiện hòa giải vụ án dân sự đảm bảo sự công bằng cho chính các đương sự
của cùng một vụ án mà còn đảm bảo sự công bằng đối với các đương sự ở các vụ
án khác nhau thể hiện ở việc mọi vụ án dân sự khi tiến hành thủ tục hòa giải thì
đều phải tuân theo các quy định về thủ tục hòa giải do pháp luật quy định. Các
quy định của pháp luật TTDS về thủ tục hòa giải là cơ sở để tiến hành hòa giải
các vụ án dân sự và bắt buộc Tòa án và những người khác tham gia hòa giải vụ
án dân sự phải tuân thủ các quy định về thủ tục triệu tập các đương sự tham gia
hòa giải, thông báo hòa giải, trình tự tiến hành hòa giải và thủ tục ra quyết định
công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
1.1.3 Ý nghĩa của hòa giải vụ án dân sự
Hòa giải vụ án dân sự là một hoạt động có ý nghĩa vô cùng quan trọng như
sau:
Thứ nhất, hòa giải vụ án dân sự đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự
trong quá trình giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án
Khi tranh chấp được đưa ra Tòa thì toàn bộ quy trình, thủ tục giải quyết vụ
án sẽ phải tuân theo các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Trong quy trình
đó, Tòa án đại diện cho quyền lực Nhà nước sẽ đưa ra các quyết định có liên


15

quan cũng như đưa ra phán quyết cuối cùng để giải quyết vụ án. Dường như
trong tố tụng dân sự có rất ít chỗ cho quyền tự định đoạt của đương sự. Tuy
nhiên, trên thực tế, hòa giải là một nguyên tắc, thủ tục của tố tụng dân sự thì
quyền tự định đoạt của đương sự được Tòa án bảo đảm trong suốt quá trình giải

quyết tranh chấp [9, tr.41].
Hòa giải vụ án dân sự bảo đảm được quyền tự định đoạt của đương sự, là
cơ hội để các đương sự có thể bàn bạc, thỏa thuận với nhau về cách giải quyết
tranh chấp. Thông qua việc giải thích pháp luật của Tòa án, các đương sự sẽ hiểu
biết và thông cảm với nhau, giải quyết được những vướng mắc trong tâm tư, tình
cảm của các đương sự, đồng thời nắm rõ được các quy định của pháp luật liên
quan đến quan hệ đang tranh chấp, hiểu được quyền và nghĩa vụ hợp pháp của
mình. Trên cơ sở đó, họ hành động phù hợp với quy định của pháp luật. Trong
trường hợp không hòa giải thành cũng giúp cho các đương sự kiềm chế mâu
thuẫn và không làm cho tranh chấp phát triển phức tạp.
Thứ hai, ý nghĩa đối với Tòa án
Xét xử đúng đã là tốt nhưng không phải xét xử mà vẫn giải quyết được
tranh chấp còn tốt hơn, vì vậy hòa giải luôn được khuyến khích khi giải quyết vụ
án dân sự. Trong trường hợp hòa giải thành, Tòa án giảm bớt được nhiều thời
gian, công sức, tiền của cho việc giải quyết vụ án dân sự. Việc hòa giải thành
được thực hiện trước khi mở phiên tòa sẽ giúp cho Tòa án giảm bớt được nhiều
thủ tục tố tụng phức tạp và khó khăn như phiên tòa sơ thẩm, thủ tục phúc thẩm,
thủ tục giám đốc thẩm hoặc thủ tục tái thẩm và các thủ tục tố tụng quay lại và
giai đoạn thi hành án. Mặt khác, các quyết định của Tòa án công nhận sự thỏa
thuận của các đương sự thường được thực hiện dứt điểm. Việc khiếu nại, kháng
nghị quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự ít khi xảy ra. Trong
thực tiễn, nhiều vụ án đưa ra xét xử đã bị kháng cáo, kháng nghị, khiếu nại nhiều
lần. Việc giải quyết những vụ án này kéo dài rất phức tạp, tốn kém tiền của, công
sức, thời gian của Nhà nước và đương sự. Thực tiễn cho thấy, thông qua hòa giải
một số lượng lớn các vụ án dân sự đã được giải quyết. Mặt khác, trong trường
hợp hòa giải thành, các đương sự đã thuận được với nhau về nội dung tranh chấp
nên cũng thường tự nguyện thi hành các nghĩa vụ của mình. Do đó, việc thi hành


16


án dân sự cũng được thực hiện thuận lợi hơn, góp phần giảm thiểu những vụ việc
thi hành án tồn đọng.
Nếu trong trường hợp hòa giải vụ án dân sự không thành thì việc hòa giải
cũng giúp Tòa án có điều kiện để tìm hiểu kỹ hơn nội dung của vụ án với những
tình tiết liên quan, nắm vững nội dung tranh chấp, hiểu rõ hơn tâm tư, tình cảm,
nguyện vọng của đương sự cũng như những vướng mắc trong suy nghĩ của họ.
Từ đó, Thẩm phán củng cố hồ sơ vụ việc, xác định đường lối xét xử đúng đắn
trong quá trình giải quyết vụ án, hiệu quả xét xử được nâng cao.
Thứ ba, ý nghĩa về mặt kinh tế - xã hội
Tòa án hòa giải thành vụ án dân sự giúp các bên đương sự tự nguyện thỏa
thuận với nhau về cách giải quyết tranh chấp mà không cần phải mở phiên tòa xét
xử vụ án góp phần làm giảm bớt số lượng vụ việc mà Tòa án phải giải quyết,
giúp tiết kiệm được thời gian, tiền của, công sức cho cơ quan Nhà nước, cũng
như cho nhân dân, hạn chế được việc phải sử dụng sức mạnh cưỡng chế Nhà
nước trong công tác thi hành án.
Nhiều trường hợp hòa giải thành đã nhanh chóng khắc phục được bất đồng,
giảm bớt mâu thuẫn và hậu quả khác do tranh chấp gây ra, ngăn ngừa tội phạm
có nguồn gốc từ tranh chấp dân sự phát sinh, đồng thời khôi phục được lòng tin,
củng cố đoàn kết trong nội bộ nhân dân, thúc đẩy giao lưu dân sự tiếp tục phát
triển. Hòa giải góp phần quan trọng vào việc khơi dậy, phát huy truyền thống
đoàn kết của dân tộc ta, nâng cao nhận thức và hiểu biết về chính sách, pháp luật
của Đảng và Nhà nước, nâng cao trình độ dân trí, giáo dục nếp sống và làm việc
theo pháp luật trong nhân dân. Hòa giải thành còn giúp cho việc thi hành án
thuận lợi. Đối với những vụ án phải đưa ra xét xử thì việc thực hiện các bản án,
quyết định của Tòa án không phải lúc nào cũng suôn sẻ, thuận lợi. Những phán
quyết của Tòa án không phải là những cam kết tự nguyện của các đương sự, do
đó nhiều người đã cố tình chống đối, kéo dài, gây khó khăn không chịu thi hành
án. Nhưng ở các trường hợp hòa giải thành thì tình trạng trên không xảy ra, các
đương sự tự nguyện thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ án, nên họ tự giác thi

hành các cam kết với ý thức tự nguyện cao, mà không cần có sự tác động của cơ
quan Nhà nước, và do đó việc thi hành án trở nên đơn giản dễ dàng, nhanh gọn
không có những hậu quả đáng tiếc xảy ra.


17

Như vậy, hòa giải góp phần vào việc giữ gìn an ninh, trật tự công bằng xã
hội, làm cho mối quan hệ xã hội phát triển không phải bằng mệnh lệnh, mà bằng
giáo dục thuyết phục và sự cảm thông của các thành viên trong xã hội.
1.2 Cơ sở của hòa giải vụ án dân sự
1.2.1 Cơ sở lý luận
Xuất phát từ việc giải quyết hài hòa các mối quan hệ xã hội là mục đích cao
nhất trong xã hội văn minh đề cao quyền con người thì phương thức thỏa thuận
giải quyết tranh chấp là phương thức văn minh nhất và được các chủ thể trong
quan hệ xã hội hướng tới. Bản chất của quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và gia
đình, kinh doanh, thương mại, lao động là sự tự nguyện, bình đẳng, tự thỏa thuận
và tự chịu trách nhiệm giữa các chủ thể khi tham gia vào các giao dịch dân sự;
không bên nào được lừa dối, ép buộc, cưỡng ép bên kia xác lập, thực hiện các
giao dịch trái với ý chí chủ quan của họ. Trong quan hệ pháp luật này thì chính
các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật có quyền và lợi ích về dân sự do vậy họ
có quyền thương lượng, thỏa thuận với nhau về việc giải quyết quyền và lợi ích
hợp pháp của mình khi có tranh chấp. Đồng thời, phạm vi ảnh hưởng của các
quan hệ này chỉ mang tính riêng biệt đối với những đương sự có quyền và lợi ích
liên quan, và vị thế của các chủ thể là bình đẳng với nhau mà hòa giải vụ án dân
sự là một đặc trưng của luật TTDS, được pháp luật TTDS quy định mà không
được pháp luật tố tụng hình sự và pháp luật tố tụng hành chính quy định. Sở dĩ có
sự khác nhau này là vì trong tố tụng hình sự, quan hệ pháp luật được giải quyết
trong vụ án là quan hệ hình sự giữa Nhà nước với bị can, bị cáo (người thực hiện
hành vi phạm tội); còn trong tố tụng hành chính, mối quan hệ pháp luật cần giải

quyết trong vụ án là mối quan hệ hành chính giữa các cá nhân, cơ quan, tổ chức
bị quản lý với các cơ quan Nhà nước thực hiện quyền quản lý Nhà nước có quyết
định hành chính, hành vi hành chính bị kiện. Do đó mà trong quan hệ hình sự và
quan hệ hành chính, mối quan hệ giữa các chủ thể là bất bình đẳng nên không thể
có việc thỏa thuận với Nhà nước về việc bồi thường hoặc áp dụng một chế tài nào
khác, càng không có chuyện hòa giải giữa Nhà nước với công dân vi phạm pháp
luật.
Vai trò của Nhà nước là bảo đảm và duy trì trật tự xã hội. Một khi tranh
chấp được một trong các bên yêu cầu Tòa án – cơ quan đại diện quyền lực Nhà


18

nước đứng ra dàn xếp, giải quyết thì Tòa án có nhiệm vụ xét xử và giải quyết
tranh chấp nhằm bảo vệ có hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, thiết
lập lại trật tự của các quan hệ pháp luật. Để thực hiện được nhiệm vụ này thì Tòa
án có nhiệm vụ giúp đỡ các bên đương sự tìm kiếm một giải pháp ít tốn kém và
hiệu quả nhất trong việc thực hiện các quyền dân sự theo nghĩa rộng. Giải pháp ít
tốn kém và hiệu quả nhất chính là hòa giải. Khi tiến hành hòa giải, Tòa án phải
tạo mọi điều kiện cần thiết, hướng dẫn, giúp đỡ các bên có thể thỏa thuận với
nhau trên cơ sở bảo đảm quyền lợi cho bên. Tuy nhiên, trong suốt quá trình hòa
giải, Tòa án luôn phải tôn trọng quyền quyết định và tự định đoạt của các bên
đương sự. Quyền định đoạt này bảo đảm sự tự nguyện đích thực, thể hiện sự
dung hòa ý chí và nguyện vọng của các đương sự. Do vậy, Tòa án không thể tự
mình quyết định giải quyết vụ việc hoặc áp đặt ý chí đối với các đương sự khi
tiến hành hòa giải vụ án dân sự. Xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án
luôn phải tôn trọng sự thỏa thuận của các đương sự và không được áp đặt ý chí
đối với các đương sự nếu các đương sự đạt được sự thỏa thuận giải quyết vụ án
mà thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật và đạo đức xã hội.
Như vậy, xuất phát từ sự bình đẳng giữa các bên trong quan hệ pháp luật

dân sự, đồng thời xuất phát từ vai trò của Nhà nước trong việc đứng ra dàn xếp
các tranh chấp trong đời sống xã hội để bảo đảm trật tự xã hội và quyền tự định
đoạt của các đương sự trong TTDS mà hòa giải vụ án dân sự được quy định là
hoạt động bắt buộc của tòa án trong việc giải quyết các vụ án dân sự.
1.2.2 Cơ sở thực tiễn

Hòa giải là một biện pháp truyền thống để giải quyết các tranh chấp phát
sinh trong đời sống xã hội. Phương thức hòa giải đã hình thành một cách khách
quan trước yêu cầu của đời sống kinh tế xã hội và chịu sự tác động sâu sắc của
các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội, tập quán trong từng giai đoạn phát triển lịch
sử. Các tranh chấp được giải quyết bằng hòa giải thường có tình có lý, đảm bảo
quyền lợi của các bên và đặc biệt hòa giải là phương thức hàn gắn tình cảm và
giữ gìn tình đoàn kết của các bên có tranh chấp. Do vậy mà phương thức hòa giải
đã thể hiện được truyền thống đoàn kết từ lâu đời của dân tộc ta. Xuất phát từ sự
tồn tại thực tế của hòa giải và tính hiệu quả của phương thức giải quyết tranh
chấp bằng hòa giải, Nhà nước đã thừa nhận và luật hóa các quy định về hòa giải


19

trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật và trong đó, phải kể đến việc hòa giải đã
trở thành một nguyên tắc trong pháp luật TTDS, mọi quan hệ phát sinh trong quá
trình hòa giải các vụ án dân sự đều được pháp luật điều chỉnh.Vì vậy hòa giải là
một vấn đề nhất thiết phải được đặt ra trong TTDS, điều đó vừa phù hợp với mục
tiêu chính trị của nhà nước, vừa phù hợp với truyền thống đạo đức của dân tộc.
Thêm vào đó, việc luật hóa các quy định về hòa giải là phù hợp với xu thế
chung của thời đại. Trong điều kiện hội nhập khu vực và quốc tế diễn ra mạnh
mẽ, giao lưu dân sự kinh tế ngày càng phát triển đa dạng, đan xen và phức tạp,
việc giải quyết các tranh chấp nói chung và các vụ án dân sự nói riêng bằng biện
pháp hòa giải đã được nhiều nước trên thế giới áp dụng để giải quyết hòa bình,

thân thiện các tranh chấp, góp phần bảo đảm cho các quan hệ dân sự, kinh tế phát
triển và bền vững. Đồng thời, một trong những nhiệm vụ của Tòa án là bảo vệ
quyền con người nên trong thủ tục TTDS, pháp luật nhiều nước đặt ra vấn đề hòa
giải cùng những quy định về phạm vi áp dụng, thủ tục áp dụng và những biện
pháp nhất định. Việc tôn trọng các quyền cơ bản của con người thực tế đã trở
thành một nguyên tắc cơ bản của luật Quốc tế hiện đại, đây cũng là điều kiện
quan trọng để bảo đảm hòa bình, an ninh cho mỗi quốc gia và cả cộng đồng quốc
tế. Để hòa đồng với pháp luật thế giới, căn cứ vào truyền thống dân tộc và thực
tiễn xét xử các vụ án dân sự, việc quy định hòa giải trong thủ tục TTDS nước ta
đã trở thành một yêu cầu tất yếu, khách quan và là một vấn đề cần được quan
tâm, hoàn thiện hơn nữa.
1.3 Khái quát sự hình thành và phát triển của pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam về hòa giải vụ án dân sự
1.3.1 Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989
Cách mạng Tháng Tám thành công đã xóa bỏ chính quyền Nhà nước thực
dân phong kiến, lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là Nhà nước độc lập,
dân chủ thực sự của nhân dân, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử phát triển
của nước ta. Trong những ngày đầu tiên của chính quyền cách mạng non trẻ, việc
soạn thảo văn bản pháp luật nói chung và văn bản pháp luật tố tụng nói riêng để
cơ quan tư pháp áp dụng là không thể thực hiện được. Vì vậy, ngày 10/10/1945
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 47/SL về việc giữ tạm thời các luật lệ
hiện hành ở Bắc, Trung, Nam bộ cho đến khi ban hành những Bộ luật pháp duy


×