Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra theo quy định của pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (921.32 KB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LÊ THỊ HẢI YẾN

TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP
ĐỒNG DO NGƯỜI MẤT NĂNG LỰC HÀNH VI DÂN SỰ
GÂY RA THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60380103

Người hướng dẫn khoa học: TS. Vương Thanh Thúy

Hà Nội – 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những số liệu,
trích dẫn trong luận văn là chính xác và trung thực. Các kết luận khoa học trong
luận văn chưa từng được ai công bố trong các công trình nghiên cứu khác. Tôi xin
chịu trách nhiệm hoàn toàn về công trình nghiên cứu của mình.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Lê Thị Hải Yến



LỜI CẢM ƠN
Trước hết, em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến TS. Vương
Thanh Thúy, người đã tận tính giúp đỡ, chỉ bảo, đôn đốc em trong suốt thời gian
em thực hiện Luận văn này.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban giám hiệu, các thầy, cô
giáo của Trường Đại học Luật Hà Nội đã nhiệt tình giảng dạy cho chúng em trong
suốt thời gian qua. Đồng thời, em xin được cảm ơn gia đình, người thân, và các
bạn bè đã luôn ở bên, động viên, tạo điều kiện cho em trong suốt quá trình học tập
và nghiên cứu.
Mặc dù đã cố gắng nghiên cứu, triển khai và hoàn thành luận văn nhưng
chắc chắn công trình này sẽ không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Em rất
mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo của quý thầy, cô giáo và người đọc để luận văn
được hoàn thiện hơn.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2016

Học viên

Lê Thị Hải Yến


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ..................................................................................................... 1
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG DO NGƯỜI MẤT NĂNG LỰC
HÀNH VI DÂN SỰ GÂY RA ............................................................................. 7

1.1. Khái quát chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do
người mất năng lực hành vi dân sự gây ra .......................................................... 7
1.1.1. Khái quát về người mất năng lực hành vi dân sự .................................. 7
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra ............................................... 10
1.2. Ý nghĩa quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra........................................... 21
1.3. Sơ lược quá trình phát triển quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra............. 23
1.3.1. Giai đoạn trước năm 1995 .................................................................. 23
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1995 đến nay .......................................................... 27
CHƯƠNG II: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ TRÁCH NHIỆM
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG DO NGƯỜI MẤT NĂNG
LỰC HÀNH VI DÂN SỰ GÂY RA .................................................................. 30
2.1. Quy định về trường hợp phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người
mất năng lực hành vi dân sự gây ra .................................................................. 30
2.1.1. Về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất
năng lực hành vi dân sự gây ra .................................................................... 30
2.1.2. Về nguyên tắc bồi thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân
sự gây ra ...................................................................................................... 50
2.1.3. Về chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiêt hại và cơ chế sử dụng tài
sản để bồi thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra .... 55
2.2. Quy định về các trường hợp không phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra.............................................. 64
2.2.1. Do sự kiện bất khả kháng.................................................................... 66


2.2.2. Do gây thiệt hại trong giới hạn phòng vệ chính đáng.......................... 67
2.2.3. Do phải hành động trong yêu cầu của tình thế cấp thiết ..................... 69
2.2.4. Hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại .............................................. 70

CHƯƠNG III: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
DO NGƯỜI MẤT NĂNG LỰC HÀNH VI DÂN SỰ GÂY RA....................... 72
3.1. Một số vụ án liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất
năng lực hành vi dân sự gây ra ........................................................................ 72
3.2. Những hạn chế của quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra .................................................. 75
3.3. Định hướng hoàn thiện quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra ............................................ 80
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 85


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một chế định có
lịch sử phát triển lâu dài trong pháp luật thế giới nói chung cũng như pháp luật của
Việt Nam nói riêng. Đây là một trong những chế định đóng vai trò quan trọng
trong việc bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng của các chủ thể trong xã hội, đồng
thời tạo cơ chế cho việc giải quyết các tranh chấp về bồi thường một cách thuận lợi
và hiệu quả.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân sự gây
ra là một trong những trường hợp bồi thường thiệt hại do hành vi của con người
gây ra, đồng thời là một trường hợp cụ thể của trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng. Việc nghiên cứu những khía cạnh pháp lý đặc trưng của vấn đề
này là một việc làm cần thiết. Bên cạnh đó, trong những năm gần đây, trên các
phương tiện thông tin đại chúng xuất hiện rất nhiều tin tức về các vụ án hình sự
liên quan đến người gây thiệt hại là người mắc bệnh tâm thần. Trong trả lời phỏng
vấn Báo Người đưa tin của Hội luật gia Việt Nam ngày 27/12/2012, phó giám đốc

Công an tỉnh Vĩnh Phúc – Đại tá Đỗ Văn Hoành cho biết: “Số vụ án giết người do
nguyên nhân xã hội hiện nay đang có chiều hướng gia tăng. Đáng báo động là tình
trạng người tâm thần phạm tội. Người mắc bệnh này thường phạm tội nghiêm
trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Nguy hiểm hơn là chủ yếu gây án với người thân
và gây án với nhiều người một lúc. Hậu quả để lại vô cùng nặng nề”. Theo đó,
Bệnh viện Tâm thần Trung ương I cho biết hàng năm “tiếp đón” hàng chục bệnh
nhân tâm thần, đồng thời cũng là đối tượng trong nhiều vụ trọng án phải vào viện
theo diện “bắt buộc chữa bệnh”. Xét dưới góc độ dân sự, việc giải quyết trách
nhiệm bồi thường thiệt hại trong những trường hợp này gặp nhiều vướng mắc và
khó khăn do những người này thực tế hoàn toàn mất khả năng nhận thức và làm
chủ hành vi của mình tại thời điểm gây thiệt hại, nhưng về mặt pháp lý chưa được
xem xét là người mất năng lực hành vi dân sự. Quy định pháp luật về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại trong trường hợp này bộc lộ không ít những điểm hạn chế, cần


2

thiết phải được nghiên cứu một cách nghiêm túc và tìm ra hướng hoàn thiện phù
hợp, sao cho những quy định pháp luật có thể áp dụng được hiệu quả trong thực
tiễn đời sống.
Hiện nay, quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người
mất năng lực hành vi dân sự gây ra đã được ghi nhận và quy định trong Bộ luật
dân sự năm 2005 trong Phần Quy định chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng về chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường. Ngoài ra, những nội dung
pháp lý khác liên quan đến vấn đề này nằm rải rác trong tất cả các quy định về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung. Việc nghiên cứu một
cách toàn diện những nội dung pháp lý về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
người mất năng lực hành vi dân sự gây ra giúp nhận thức một cách cụ thể những
vấn đề lý luận riêng biệt liên quan đến trường hợp này. Đồng thời, việc nghiên cứu
thực tiễn áp dụng quy định pháp luật thông qua các bản án cụ thể giúp đánh giá

một cách chân thực hơn tính hợp lý của các quy định pháp luật, qua đó có những
kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này phù hợp với đòi hỏi của thực tế đời
sống xã hội. Từ những lý do trên, việc lựa chọn đề tài “Trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra theo quy
định của pháp luật Việt Nam” là hoàn toàn cấp thiết, có ý nghĩa cả về mặt lý luận
và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua quá trình tìm hiểu và sưu tầm tài liệu cho thấy trước đây đã có rất nhiều
công trình nghiên cứu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói
chung, có thể kể đến các công trình nghiên cứu như: luận văn thạc sĩ luật học của
Lê Mai Anh “Nhữngvấn đề cơ bản về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng trong Bộ luật dân sự”; luận văn thạc sĩ luật học của Lê Thị Bích Lan “Một số
vấn đề về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm và uy tín”; đề tài nghiên cứu khoa học của PGS.TS. Phùng
Trung Tập “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm các quyền nhân thân
của cá nhân”. Ngoài ra, còn có thể kể tới rất nhiều bài viết đăng trên các tạp chí


3

chuyên ngành luật về những nội dung liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng, có thể kể đến như: bài viết của tác giả Nguyễn Văn Hợi “Điều
kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra trong Bộ luật dân
sự” đăng trên Tạp chí Luật học, bài viết của tác giả Nguyễn Trung Tín “Trách
nhiệm bồi thường thiệt hại của cha, mẹ trong trường hợp người chưa thanh niên
cùng người khác gây thiệt hại” đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân tối cao...
Liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng lực hành
vi dân sự hành vi gây ra, các công trình nghiên cứu dưới dạng luận án tiến sĩ hay
luận văn thạc sĩ mới chỉ tiếp cận vấn đề ở một vài khía cảnh đơn lẻ, với ý nghĩa bổ
trợ cho nội dung chính của các công trình đó, có thể kể đến như luận văn thạc sĩ

của Nguyễn Minh Thư “Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng của cá nhân - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, hay luận văn thạc sĩ của
Cao Cẩm Nhung cũng nghiên cứu về nội dung này “Năng lực chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân theo pháp luật Việt Nam”... Những
công trình này có đề cập một phần rất khiêm tốn đến nội dung năng lực chịu trách
nhiệm bồi thường trong trường hợp người mất năng lực hành vi dân sự gây ra, với
mức độ rất khái quát. Bên cạnh đó, một số bài viết đăng trên các tạp chí chuyên
ngành luật về những nội dung liên quan đến người mất năng lực hành vi dân sự
như: bài viết của tác giả Phan Thị Hồng “Người mất năng lực hành vi dân sự theo
quy định của Bộ luật dân sự năm 2005” đăng trên Tạp chí Nghề Luật, bài viết của
tác giả Nguyễn Phương Lan “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái
pháp luật của người được giám hộ gây ra” đăng trên Tạp chí Luật học, hay bài
viết của Nguyễn Thị Hạnh “Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về cử người
giám hộ cho người mất năng lực hành vi dân sự không có người giám hộ đương
nhiên” đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân tối cao...
Tóm lại, những công trình nghiên cứu liên quan đến trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra chỉ đề cập đến những khía
cạnh khác nhau của vấn đề này mà chưa có công trình nào nghiên cứu một cách
tổng thể và toàn diện. Có thể nói, luận văn “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại


4

ngoài hợp đồng do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra theo quy định của
pháp luật Việt Nam” là công trình đầu tiên tập trung nghiên cứu chuyên sâu về vấn
đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Với mong muốn nghiên cứu một cách tổng thể và toàn diện vấn đề, qua đó
tìm ra được những điểm hạn chế trong quy định của pháp luật khi áp dụng giải
quyết các tình huống phát sinh trong thực tiễn đời sống, luận văn tập trung nghiên

cứu quy định pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất
năng lực hành vi dân sự gây ra trên cơ sở có sự so sánh, đối chiếu với quy định tại
Bộ luật dân sự năm 2015 (có hiệu lực thi hành 01/01/2017). Qua đó có cái nhìn
vấn đề một cách tổng quát về những nội dung cần nghiên cứu, giúp đưa ra những
định hướng hoàn thiện pháp luật một cách cụ thể và hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, với thực tế đã ban hành và chưa có hiệu lực của Bộ luật Dân sự
năm 2015, cùng với những bất cập về cả lý luận và thực tiễn đối với vấn đề nghiên
cứu, luận văn tập trung vào phân tích và nêu lên các vấn đề bất cập, gây vướng
mắc trong thực tiễn, từ các quy định của pháp luật hiện hành, trong sự so sánh, đối
chiếu với BLDS mới. Do đó, sau khi BLDS năm 2015 đi vào đời sống, tác giả hy
vọng sẽ có điều kiện tiếp tục nghiên cứu những vấn đề phát sinh mới trong các
công trình nghiên cứu trong thời gian tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mac – Lênin và Tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, đồng thời sử dụng và kết hợp một
cách hợp lý các phương pháp nghiên cứu khoa học như: phương pháp phân tích,
phương pháp lịch sử, phương pháp tổng hợp, suy luận logic, phương pháp so
sánh... nhằm chứng minh các luận điểm đưa ra trong luận văn. Bên cạnh đó, tác giả
còn sử dụng một số vụ án, vụ việc trên thực tế nhằm minh họa cho những nhận
định, đánh giá được đưa ra trong luận văn.


5

5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài với mục đích là rõ những vấn đề về lý luận, nội dung
quy định pháp luật hiện hành về chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra. Qua đó, nhìn nhận được
những điểm hạn chế, thiếu sót trong quy định của pháp luật khi áp dụng vào giải
quyết các tình huống phát sinh trong thực tiễn, đồng thời đưa ra được những định

hướng hoàn thiện quy định pháp luật về vấn đề này. Thông qua luận văn, tác giả
mong muốn góp một cái nhìn tổng thể và toàn diện nhất về bồi thường thiệt hại do
người mất năng lực hành vi dân sự gây ra.
Để đạt được mục đích trên, luận văn tốt nghiệp đặt ra những nhiệm vụ cụ
thể cần thực hiện sau:
- Khái quát được những nội dung lý luận có liên quan đến trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra, sơ lược quá trình phát triển
các quy định pháp luật trong pháp luật Việt Nam về vấn đề này.
- Phân tích, làm rõ các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra
- Tìm hiểu thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra thông qua các vụ án, vụ việc có
thực, qua đó thấy được một cách cụ thể, chính xác những hạn chế trong quy định
của pháp luật về nội dung nghiên cứu
- Đưa ra được những định hướng cơ bản góp phần hoàn thiện quy định pháp luật
về nội dung nghiên cứu căn cứ trên những điểm hạn chế đã được chỉ ra.
6. Những điểm mới của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học có tính hệ thống những vấn đề
liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân sự
gây ra so với những công trình nghiên cứu khác về nội dung này. Những điểm mới
được thể hiện trong luận văn so với những công trình nghiên cứu khác bao gồm:
- Đưa ra được khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất
năng lực hành vi dân sự gây ra


6

- Phân tích được một cách hệ thống những quy định pháp luật về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra, qua đó
thấy được những điểm đặc thù của trách nhiệm này so với trách nhiệm bồi thường

thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung.
- Trong bối cảnh Bộ luật dân sự năm 2015 đã được ban hành và có hiệu lực
ngày 01/01/2017, luận văn đã đưa ra được những đánh giá nhất định về sự sửa đổi
những quy định liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng
lực hành vi dân sự gây ra
- Đưa ra được các bản án, vụ việc cụ thể về nội dung nghiên cứu, chỉ ra được
những hạn chế trong quy định pháp luật hiện hành, và đề xuất một số định hướng
hoàn thiện vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do người mất
năng lực hành vi dân sự gây ra.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn được kết cấu gồm 3 phần:
Phần 1: Lời nói đầu
Phần 2: Phần nội dung, bao gồm 3 chương:
 Chương I: Một số vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra
 Chương II: Quy định pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra
 Chương III: Thực tiễn áp dụng và định hướng hoàn thiện quy định pháp luật
về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân sự
gây ra
Phần 3: Kết luận


7

CHƯƠNG I:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG DO NGƯỜI MẤT NĂNG LỰC
HÀNH VI DÂN SỰ GÂY RA
1.1.


Khái quát chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra

1.1.1. Khái quát về người mất năng lực hành vi dân sự
Cá nhân là chủ thể phổ biến nhất tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự.
Khi xem xét tư cách chủ thể của cá nhân thì điều kiện cần và đủ là cá nhân đó phải
có năng lực chủ thể phù hợp với quan hệ pháp luật mà họ tham gia. Ở những mức độ
năng lực chủ thể khác nhau,cá nhân tham gia vào các quan hệ pháp luật với những
tư cách khác nhau, đồng thời việc hưởng những quyền và thực hiện những nghĩa vụ
mà pháp luật quy định cũng khác nhau. Năng lực chủ thể của cá nhân được xác định
bởi hai yếu tố là năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự.
Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng khách quan của cá nhân
được hưởng quyền dân sự và thực hiện nghĩa vụ dân sự. Những quyền và nghĩa vụ
này được quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành. Cá nhân có năng lực pháp luật dân sự từ khi sinh ra
và bình đẳng như nhau về khả năng hưởng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ
này. Nói cách khác, các cá nhân không phân biệt độ tuổi, địa vị xã hội, giới tính...
đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau. Yếu tố thứ hai cấu thành nên năng lực
chủ thể của cá nhân là năng lực hành vi dân sự. Nếu năng lực pháp luật dân sự của
cá nhân là khả năng khách quan của cá nhân được hưởng quyền và thực hiện
những nghĩa vụ do pháp luật quy định thì năng lực hành vi dân sự là khả năng chủ
quan của mỗi cá nhân bằng hành vi của chính mình để xác lập, thực hiện những
quyền và nghĩa vụ cụ thể. Mỗi cá nhân lớn lên trong những môi trường sống, được
nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trong những điều kiện vật chất và tinh thần khác
nhau, do đó những suy nghĩ, mong muốn bên trong (ý chí) và sự nhận thức chủ
quan bên ngoài (lý trí) cũng khác nhau. Khi chủ thể có lý trí để có thể kiểm soát


8


hành vi của mình thì khi đó chủ thể được xem là đã có năng lực hành vi dân sự.
Dưới góc độ khách quan, sự nhận thức này của cá nhân sẽ phát triển ở những mức
độ nhất định căn cứ vào độ tuổi và sự phát triển bình thường về mặt thể chất của
họ. Nói cách khác, khi đạt đến một độ tuổi nhất định (với sự phát triển bình thường
về mặt thể chất và tinh thần), cá nhân sẽ dần hoàn thiện về mặt nhận thức và có thể
làm chủ, kiểm soát được mọi hành vi của mình. Tóm lại, năng lực hành vi dân sự
của mỗi cá nhân khác nhau là khác nhau và việc xác định các mức độ năng lực
hành vi dân sự của cá nhân được căn cứ trên cở sở: độ tuổi và khả năng nhận thức,
làm chủ hành vi của cá nhân đó.
Mất năng lực hành vi dân sự là một tình trạng năng lực hành vi dân sự của
cá nhân, bởi lẽ việc xác định một cá nhân rơi vào tình trạng này không căn cứ trên
cơ sở sự nhận thức tương ứng với độ tuổi của cá nhân đó mà căn cứ trên những
tiêu chí khác. Dưới góc độ ngôn ngữ học, “mất” được hiểu là “không tồn tại nữa”,
“không còn là của mình, thuộc về mình nữa” [25]. Như vậy, rõ ràng tình trạng mất
năng lực hành vi dân sự đặt ra với những cá nhân đã có năng lực hành vi dân sự,
nhưng vì những nguyên nhân nhất định mà được xác định là không còn khả năng
tự mình xác lập các quyền và thực hiện các nghĩa vụ dân sự nữa. Nguyên nhân này
liên quan trực tiếp đến sự phát triển về mặt thể chất của cá nhân - cụ thể là khi cá
nhân bị mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác dẫn đến mất khả năng nhận thức và
làm chủ hành vi của mình.
Bệnh tâm thần được hiểu là bệnh do rối loạn hoạt động não bộ gây nên
những biến đổi bất thường về lời nói, ý tưởng, hành vi, tác phong, tình cảm...
Triệu chứng bệnh tâm thần có thể ảnh hưởng đến cảm xúc, suy nghĩ và hành vi.
Các bệnh tâm thần điển hình thường gặp như trầm cảm, rối loạn lo âu, tâm thần
phân liệt, rối loạn ăn uống... [26]. Tùy theo từng mức độ rối loạn hoạt động của hệ
thần kinh trung ương (não bộ) mà các cá nhân mắc bệnh có khả năng nhận thức và
kiểm soát hành vi của mình một cách khác nhau. Theo Bảng phân loại bệnh quốc
tế lần thứ 10 về Các rối loạn tâm thần và hành vi do Tổ chức y tế thế giới xuất bản
năm 1992, hiện nay có đến hơn 300 loại rối loạn tâm thần và hành vi khác nhau.



9

Tuy nhiên không phải mọi loại rối loạn này đều làm cho cá nhân mắc bệnh rơi vào
tình trạng mất khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của mình. Để xác định chính
xác về tình trạng của cá nhân mắc bệnh thì cần thiết phải có sự tham gia của tổ
chức giám định có chức năng giám định pháp y tâm thần. Khi đó, kết luận y học
cũng như kết luận về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của cá nhân sẽ
được thể hiện cụ thể trong kết luận giám định của giám định viên thuộc các tổ chức
có chức năng giám định pháp y tâm thần theo quy định của pháp luật. Bên cạnh
trường hợp mắc bệnh tâm thần thì cá nhân rơi vào tình trạng mất khả năng nhận
thức và làm chủ hành vi của mình có thể từ nguyên nhân mắc những bệnh khác (ví
dụ như cá nhân bị mắc bệnh hiểm nghèo giai đoạn cuối dẫn đến tình trạng “sống
thực vật”, không còn khả năng nhận biết về thế giới xung quanh...).
Bên cạnh tiêu chí về mặt thể chất thì một cá nhân được xác định là mất năng
lực hành vi dân sự còn căn cứ vào: yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan
và một quyết định có hiệu lực của Tòa án về việc tuyên bố cá nhân đó mất năng
lực hành vi dân sự. Một cá nhân không đương nhiên bị coi là rơi vào tình trạng
không có khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của mình, trong khi trên thực tế
những cá nhân khác ở độ tuổi tương ứng lại được xác định là có khả năng xác lập
các quyền và thực hiện các nghĩa vụ nhất định. Cá nhân có thể mắc những bệnh
nhất định dẫn đến sự khiếm khuyết về mặt thể chất, tuy nhiên điều đó không có
nghĩa cá nhân đó mất đi hoàn toàn sự nhận thức về hành vi và hậu quả của hành vi
mà mình thực hiện. Như đã phân tích ở trên, kết luận về khả năng nhận thức và
điều khiển hành vi của cá nhân khi cá nhân mắc phải một số rối loạn về tâm thần
cần có sự tham gia của tổ chức giám định pháp y tâm thần. Trên cơ sở kết luận của
tổ chức này, cùng với đơn yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan (người có
mối quan hệ về nhân thân hoặc tài sản với người bị mắc bệnh), Tòa án có thẩm
quyền sẽ ra quyết định tuyên bố cá nhân đó rơi vào tình trạng mất năng lực hành vi

dân sự. Khi đó, cá nhân không còn tư cách chủ thể để tham gia vào các quan hệ
pháp luật nói chung, cũng như quan hệ pháp luật dân sự nói riêng.


10

Tóm lại, mất năng lực hành vi dân sự là một tình trạng năng lực hành vi dân
sự của cá nhân. Các điều kiện để xác định một cá nhân rơi vào tình trạng này bao
gồm: (i) cá nhân mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác dẫn đến mất khả năng
nhận thức và làm chủ hành vi của mình; (ii) có kết luận của tổ chức giám định
pháp y tâm thần về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của cá nhân đó; (iii)
có đơn yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan về việc tuyên bố mất năng
lực hành vi dân sự đối với cá nhân; (iv) có quyết định có hiệu lực pháp luật của
Tòa án có thẩm quyền về việc tuyên bố cá nhân mất năng lực hành vi dân sự. Khi
cá nhân rơi vào tình trạng mất năng lực hành vi dân sự, cá nhân đó được xác định
là mất khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của mình, không có tư cách tham
gia các quan hệ pháp luật. Việc xác lập quyền cũng như thực hiện nghĩa vụ của cá
nhân này sẽ do người giám hộ của họ thực hiện. Tuy nhiên, khi không còn căn cứ
để xác định cá nhân rơi vào tình trạng mất năng lực hành vi dân sự (cụ thể là khi
người đó chữa khỏi bệnh) thì họ lại có thể “trở lại” mức độ năng lực hành vi dân
sự phù hợp với độ tuổi và khả năng nhận thức của họ.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do
người mất năng lực hành vi dân sự gây ra
1.1.2.1.

Khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do người
mất năng lực hành vi dân sự gây ra

 Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Trách nhiệm dân sự nói chung cũng như trách nhiệm bồi thường thiệt hại

nói riêng là một trong những chế định ra đời rất sớm và có ý nghĩa quan trọng của
pháp luật dân sự. Trách nhiệm dân sự có thể hiểu một cách khái quát là hậu quả
pháp lý bất lợi mà người vi phạm nghĩa vụ phải thực hiện, là chế tài của Nhà nước
áp dụng đối với các chủ thể này. Hậu quả pháp lý bất lợi này được hiểu là những
nội dung mà pháp luật quy định hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền yêu cầu
thực hiện, thông qua đó gây ảnh hưởng đến tài sản, công việc của chủ thể phải
gánh chịu. Trách nhiệm dân sự được hiểu là “trách nhiệm pháp lý mang tính tài
sản được áp dụng đối với người vi phạm pháp luật dân sự nhằm bù đắp về tổn thất


11

vật chất, tinh thần cho người bị thiệt hại” [7; tr.800]; hay trong cuốn Các thuật
ngữ cơ bản trong luật dân sự Việt Nam, tác giả Ngô Văn Thâu và Nguyễn Hữu
Đắc cũng đã viết: “Trách nhiệm dân sự là việc bắt buộc phải sửa chữa một thiệt
hại do không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự [6; tr.70-71].
Mỗi người sống trong xã hội đều phải tôn trọng những quy tắc chung thuộc
về đạo đức xã hội cũng như thuộc về những quy định pháp luật, không thể vì lợi
ích của mình mà xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của những chủ thể
khác. Khi một người vi phạm những nghĩa vụ pháp lý của mình và gây tổn hại đến
người khác về mặt vật chất cũng như mặt tinh thần thì chính người đó phải chịu sự
“bất lợi” nhất định do hành vi của mình mang lại. Trong trường hợp cụ thể này,
hậu quả pháp lý bất lợi được nhắc đến ở phần trên được hiểu chính là việc bù đắp
những tổn thất mà người bị thiệt hại phải gánh chịu. Và hậu quả pháp lý này được
hiểu là trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Như vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại
chính là một loại trách nhiệm dân sự mà theo đó, khi một người vi phạm những
nghĩa vụ pháp lý của mình, gây tổn hại về mặt vật chất cũng như mặt tinh thần cho
chủ thể khác thì phải thực hiện việc bồi thường để bù đắp những tổn thất mà mình
đã gây ra.
Khác với những loại trách nhiệm pháp lý khác (như trách nhiệm hành

chính, trách nhiệm hình sự), trách nhiệm dân sự không chỉ phát sinh trên cơ sở do
pháp luật quy định mà còn có thể phát sinh trên cơ sở sự thỏa thuận của các bên.
Do đó, tiếp cận dưới góc độ nguồn gốc phát sinh trách nhiệm thì trách nhiệm bồi
thường thiệt hại được phân thành hai loại: trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo
hợp đồng và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Có thể nói đây là
cách phân loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại cơ bản nhất, bởi lẽ khi cơ sở phát
sinh trách nhiệm khác nhau thì những vấn đề thuộc về cách thức giải quyết bồi
thường cũng sẽ rất khác nhau. Khi nói đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo
hợp đồng thì cơ sở phát sinh trách nhiệm phải căn cứ trên một hợp đồng đã được
xác lập từ trước và căn cứ trên hành vi vi phạm (không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng) nghĩa vụ thỏa thuận trong hợp đồng. Nếu giữa các bên tồn tại quan hệ


12

hợp đồng nhưng hành vi gây thiệt hại không phải do vi phạm hợp đồng thì trách
nhiệm phát sinh sẽ không thể là trách nhiệm theo hợp đồng được. Trái lại, trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh trên cơ sở do pháp luật quy
định, theo đó không có một hợp đồng nào được giao kết từ trước hoặc giữa các bên
có quan hệ hợp đồng nhưng việc bồi thường thiệt hại phát sinh không căn cứ trên
thỏa thuận trong hợp đồng. Tóm lại, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng là loại trách nhiệm dân sự áp dụng đối với chủ thể có hành vi vi phạm nghĩa
vụ do pháp luật quy định, xâm phạm đến những giá trị được pháp luật ghi nhận và
bảo vệ, yêu cầu chủ thể đó hoặc chủ thể khác theo quy định của pháp luật phải
thực hiện việc bù đắp đối với thiệt hại đã gây ra trên thực tế.
Khi xem xét những vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng thì không thể không nghiên cứu đến các điều kiện phát sinh trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Đây được xem là cơ sở lý luận quan trọng
làm nền tảng cho việc phân tích và đánh giá những quy định pháp luật về vấn đề
này trong những phần tiếp theo của luận văn.

Khái niệm “điều kiện” có thể được định nghĩa trong nhiều tài liệu khác
nhau nhưng điểm chung nhất khi xem xét về điều kiện là việc nhận thức điều kiện
chính là “những yếu tố, những cái cần phải có” để có thể làm phát sinh một hệ quả
nào đó [18, tr.47]. Như vậy, điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng có thể hiểu là những yếu tố cần phải có (không thể thiếu) để phát
sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại giữa các chủ thể không có quan hệ hợp đồng,
hoặc có quan hệ hợp đồng nhưng việc bồi thường thiệt hại phát sinh không căn cứ
trên thỏa thuận trong hợp đồng. Để trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng phát sinh, về cơ bản cần đáp ứng các điều kiện sau: (i) có thiệt hại xảy ra; (ii)
có hành vi gây thiệt hại trái pháp luật; (iii) có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại
và hành vi gây thiệt hại; (iv) có lỗi của người gây thiệt hại.
Thiệt hại là điều kiện đầu tiên và là tiền đề để phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Trong cuốn Nghĩa vụ dân sự trong luật dân sự
Việt Nam của mình, tác giả Nguyễn Mạnh Bách cũng đã viết: “Trong trách nhiệm


13

hợp đồng, trái chủ chỉ được bồi thường nếu đã bị thiệt hại, và sự bồi thường này
trên nguyên tắc chỉ vừa đúng với thiệt hại gây ra. Đối với trách nhiệm ngoài hợp
đồng cũng vậy, sự thiệt hại là một điều kiện tất yếu của sự bồi thường, nếu không
bị thiệt hại tất nhiên đơn kiện đòi bồi thường sẽ không có lý do và không được
chấp nhận.” [1; tr. 237]. Điều này hoàn toàn dễ hiểu,bởi lẽ suy cho cùng, ý nghĩa
của việc quy định trách nhiệm bồi thiệt hại ngoài hợp đồng là để nhằm khắc phục
và bù đắp những tổn thất nhất định về mặt vật chất cũng như về mặt tinh thần cho
người bị thiệt hại.Dưới góc độ khoa học pháp lý, thiệt hại được giải thích là “tổn
thất về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền và lợi ích
hợp pháp khác của cá nhân; tài sản, danh dự, uy tín của pháp nhân hoặc chủ thể
khác được pháp luật bảo vệ” [7; tr.713]. Pháp luật Việt Nam ghi nhận hai loại thiệt
hại mà người bị thiệt hại có thể được bồi thường, đó là: thiệt hại về vật chất và

thiệt hại về tinh thần.
Hành vi trái pháp luật gây thiệt hại được hiểu là những xử sự của con người
dưới dạng hành động hoặc không hành động trái với các quy định của pháp luật.
Cần phân biệt giữa hành vi trái pháp luật với hành vi vi phạm điều cấm của pháp
luật. Ở đây, điều cấm của pháp luật được hiểu là những quy định của pháp luật
không cho phép chủ thể được thực hiện những hành vi nhất định. Khi chủ thể thực
hiện những hành vi mà theo quy định của pháp luật là những hành vi không được
thực hiện thì khi đó được coi là chủ thể đó có hành vi vi phạm điều cấm của pháp
luật. Nhưng đối với trường hợp có hành vi trái pháp luật thì không cần phải có một
quy phạm cấm nào của pháp luật, mà chỉ cần chủ thể thực hiện những hành vi
không đúng, không phù hợp với nội dung mà quy phạm pháp luật đề cập tới thì đã
được coi là có hành vi trái pháp luật. Ví dụ: pháp luật ghi nhận và bảo vệ quyền sở
hữu tài sản của chủ sở hữu, khi đó không cần phải có quy phạm pháp luật quy định
những hành vi nào chủ thể không được làm gây ảnh hưởng đến quyền sở hữu này
(điều cấm) mà chỉ cần chủ thể có một hành vi bất kỳ xâm phạm đến quyền sở hữu
(lấy cắp tài sản, hủy hoại tài sản...) thì hành vi của chủ thể đó được xác định là
hành vi trái pháp luật. Phạm vi của hành vi trái pháp luật ở đây không chỉ là trái


14

pháp luật dân sự mà có thể là trái với quy định pháp luật của những ngành luật
khác, như luật hành chính, luật hình sự... Dưới góc độ là một trong những điều
kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trong một số
trường hợp việc gây ra thiệt hại không xuất phát từ một “hành vi” của con người
mà có thể xuất phát từ một “sự kiện gây thiệt hại” nhất định (ví dụ: xe máy đang đi
với tốc độ bình thường nhưng bị đứt phanh và gây thiệt hại, cây cối do mục ruỗng
nên đổ, gẫy và gây thiệt hại...).
Mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật gây thiệt hại
cũng là một trong những điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài

hợp đồng.Triết học đã chỉ ra rằng, phạm trù nguyên nhân và kết quả phản ánh mối
quan hệ sản sinh ra nhau giữa các sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan
[2; tr.233]. Mối quan hệ nhân quả này thể hiện ở chỗ: hành vi trái pháp luật đóng
vai trò là nguyên nhân, phải là cái có trước, thiệt hại xảy ra chính là kết quả và là
cái có sau. Sẽ có những trường hợp hành vi trái pháp luật và thiệt hại tạo thành một
chuỗi những nguyên nhân, kết quả liên tiếp nhau, do đó việc xác định hành vi nào
là nguyên nhân gây ra thiệt hại và thiệt hại nào là kết quả được tạo ra bởi hành vi
trái pháp luật là một vấn đề quan trọng để xác định chính xác trách nhiệm bồi
thường. Mặt khác, một kết quả có thể tạo nên từ nhiều nguyên nhân, cũng như từ
một nguyên nhân có thể tạo ra nhiều kết quả khác nhau, do đó cũng cần xác định
hành vi trái pháp luật nào là nguyên nhân trực tiếp (hoặc nguyên nhân gián tiếp)
gây ra thiệt hại và thiệt hại nào là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật đã thực
hiện, qua đó mới có cơ sở xác định trách nhiệm bồi thường một cách khách quan.
Lỗi cũng là một trong những điều kiện quan trọng phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng và được xem xét cho chính chủ thể có trách nhiệm
bồi thường. Tùy từng trường hợp mà chủ thể có trách nhiệm bồi thường đồng thời
là chủ thể có hành vi gây ra thiệt hại hoặc ngược lại.Lỗi theo truyền thống khoa
học luật dân sự được hiểu là yếu tố chủ quan nói lên trạng thái tâm lý của con
người có khả năng đánh giá và nhận thức được hành vi của mình là đúng hay sai
và hậu quả của hành vi đó. Một hành vi gây thiệt hại cho xã hội sẽ bị coi là có lỗi


15

nếu hành vi đó là kết quả của sự tự lựa chọn và quyết định của chủ thể trong khi
chủ thể có đủ điều kiện khách quan và chủ quan để tự do lựa chọn và quyết định
một xử sự khác phù hợp với lợi ích của xã hội, Nhà nước, và các chủ thể khác. [10;
tr.69]. Như vậy, vấn đề lỗi chỉ được đặt ra đối với những cá nhân có nhận thức và
có khả năng đánh giá được hành vi của mình.
 Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi

dân sự gây ra
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân sự gây
ra là một trường hợp cụ thể của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng lực
hành vi dân sự gây ra về cơ bản giống với các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung. Bên cạnh đó, vì là một trường hợp cụ
thể của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nên những “yếu tố cần
thiết” này cũng có những điểm đặc trưng nhất định.
Điều kiện về thiệt hại xảy ra: Thiệt hại vẫn là điều kiện đầu tiên cần phải có
để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân sự
gây ra. Về cơ bản, những thiệt hạinày được xác định bao gồm: thiệt hại về vật chất
và thiệt hại về tinh thần.Trong đó, thiệt hại về vật chất được hiểu là những tổn thất
thực tế mà người bị thiệt hại phải gánh chịu, làm cho những lợi ích vật chất nhất
định của người bị thiệt hại bị giảm sút theo những cách thức khác nhau.Thiệt hại
về vật chất có thể tính toán được thành một khoản tiền cụ thể, bao gồm: (i) thiệt
hại do tài sản bị mất mát, hư hỏng, hủy hoại; lợi ích gắn liền với việc khai thác, sử
dụng tài sản; chi phí để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại; (ii) khi sức khỏe
bị xâm phạm thì những thiệt hại vật chất được xác định bao gồm: chi phí hợp lý
cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe; thu nhập thực tế bị mất hoặc bị
giảm sút...; (iii) khi tính mạng bị xâm phạm thì những thiệt hại về vật chất được
xác định gồm: chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị
thiệt hại trước khi chết; chi phí cho việc mai táng; tiền cấp dưỡng cho người mà
người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng; (iv) khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị


16

xâm phạm thì những thiệt hại vật chất được xác định bao gồm: chi phí cho việc
hạn chế, khắc phục thiệt hại; thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút. Bên cạnh đó,
thiệt hại về tinh thần được hiểu là những đau đớn, buồn tủi, xấu hổ hay mặc cảm

mà người bị thiệt hại hoặc người thân thích của họ phải gánh chịu. Trong những
trường hợp thiệt hại xảy ra do sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị
xâm phạm thì ngoài những thiệt hại về vật chất, người bị thiệt hại hoặc những
người thân thích của người bị thiệt hại còn được xác định thêm một khoản bù đắp
tổn thất về tinh thần. Khác với những thiệt hại vật chất có thể tính toán thành một
khoản tiền cụ thể để thực hiện việc bồi thường thì những thiệt hại về tinh thần thực
chất không thể tính toán thành những con số chính xác. Bởi vì những giá trị tinh
thần không phải là những đại lượng ngang giá với tiền và không thể định giá được
thành tiền. Thông thường, để thuận lợi cho việc bồi thường thì những thiệt hại về
tinh thần này có thể được định lượng thành một khoản tiền nhất định với mục đích
để an ủi, động viên, bù đắp một phần những tổn thương, đau đớn, mất mát mà
người bị thiệt hại hoặc người thân thích của họ phải gánh chịu do hành vi trái pháp
luật của người gây thiệt hại gây nên. Trong một số trường hợp khác, ngoài việc bù
đắp bằng một khoản tiền, các bên trong quan hệ bồi thường thiệt hại có thể thỏa
thuận hình thức của việc bồi thường bằng việc thực hiện một công việc, hoặc
không thực hiện một công việc nhất định.
Điều kiện về hành vi trái pháp luật gây thiệt hại: Hành vi trái pháp luật gây
thiệt hại cũng vẫn được hiểu một cách chung nhất là những xử sự của con người,
nhưng những xử sự này đi ngược lại với những nội dung được quy định trong các
quy phạm pháp luật. Hành vi trái pháp luật đóng vai trò là một trong những điều
kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi gây
ra phải là hành vi do chính người mất năng lực hành vi dân sự thực hiện. Dù người
này được xác định là không có khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của mình
nhưng việc xâm phạm đến những giá trị đã được pháp luật ghi nhận và bảo vệ như
tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, uy tín, nhân phẩm của cá nhân; tài sản, danh
dự, uy tín của pháp nhân, tổ chức khác thì những hành vi đó vẫn được xác định là


17


hành vi trái pháp luật, và sẽ phát sinh trách nhiệm bồi thường nếu việc xâm phạm
đó gây ra thiệt hại. Một điểm đặc biệt trong trường hợp trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do người mất năng lực hành vi gây ralà: trong những hoàn cảnh, điều kiện
cụ thể, ngoài hành vi của người mất năng lực hành vi dân sự trực tiếp gây ra thiệt
hại thìhành vi quản lý không tốt của những người có trách nhiệm quản lý người
mất năng lực hành vi dân sự, để người này có điều kiện gây thiệt hại cho chủ thể
khác, cũng là một trong những điều kiện, căn cứ để phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại, xác định chủ thể có trách nhiệm bồi thường. Bởi trong nhiều
trường hợp, việc quản lý người mất năng lực hành vi dân sự hợp lý và hiệu quả sẽ
làm cho người này không có điều kiện để có những xử sự trái với quy định của
pháp luật.
Điều kiện về mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi gây thiệt hại
trái pháp luật: mối quan hệ nhân quả được hiểu là mối quan hệ giữa các sự vật,
hiện tượng sản sinh ra nhau -trong đó một hiện tượng đóng vai trò là nguyên nhân,
và một hiện tượng đóng vai trò là kết quả tất yếu được tạo ra từ nguyên nhân đó.
Nguyên nhân là cái luôn có trước kết quả. Khi nói đến nguyên nhân của một thiệt
hại thì nguyên nhân đó được hiểu là cái mà trong điều kiện bình thường tất yếu sẽ
sinh ra kết quả (thiêt hại ấy).Trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất
năng lực hành vi dân sự gây ra, yếu tố nguyên nhân ở đây trước tiên được hiểu là
hành vi gây thiệt hại trái pháp luật của người mất năng lực hành vi dân sự.Như đã
phân tích các yếu tố liên quan đến người mất năng lực hành vi dân sự, rõ ràng
người này về mặt nhận thức là không còn có thể nhận thức và làm chủ được hành
vi của mình, do đó họ cần có người thường xuyên ở bên cạnh để quản lý, chăm
sóc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Việc những người có trách nhiệm quản lý
người mất năng lực hành vi dân sự không làm tốt trách nhiệm của họtrong những
trường hợp nhất định có thể tạo điều kiện cho người mất năng lực hành vi dân sự
gây thiệt hại cho các chủ thể khác, làm cho thiệt hại có khả năng xảy ra một cách
dễ dàng hơn.Tóm lại, để thỏa mãn điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường về
“mối quan hệ nhân – quả” thì hành vi của người mất năng lực hành vi dân sự phải



18

là nguyên nhân gây ra thiệt hại, và thiệt hại xảy ra là kết quả tất yếu do hành vi của
người mất năng lực hành vi tác động đến tài sản, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,
uy tín của những chủ thể khác.
Điều kiện về yếu tố lỗi: phần lớn các trường hợp phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại đều cần quan tâm đến yếu tố lỗi. Lỗi được hiểu là trạng thái tâm lý
của con người có khả năng đánh giá và nhận thức được hành vi của mình cũng như
hậu quả của hành vi do mình thực hiện. Trạng thái tâm lý này có thể được thể hiện
dưới hai dạng: một là, nhận thức rất rõ được hành vi của mình chắc chắn sẽ gây ra
hệ quả không tốt nhưng vẫn thực hiện và mong muốn để hậu quả xảy ra, hoặc mặc
kệ hậu quả xảy ra; hai là, tự đánh giá một cách chủ quan hành vi của mình không
gây ra hệ quả xấu (mặc dù hoàn toàn có điều kiện thấy trước hậu quả của hành vi
đó), hoặckhông thấy trước hành vi của mình có thể gây hệ quả xấu (mặc dù trong
những điều kiện, hoàn cảnh bình thường thì cá nhân nào cũng phải biết hoặc hoàn
toàn có thể biết về hậu quả của hành vi đó).Với cách hiểu này, lỗi chỉ đặt ra với
những người có khả năng nhận thức và có khả năng đánh giá được hành vi của
mình là đúng hay sai so với đòi hỏi của xã hội. Nói cách khác, những người có
nhận thức chưa phát triển hoặc đã có nhận thức nhưng sau đó lại rơi vào trạng thái
mất khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của mình thì không bị coi là có lỗi khi
thực hiện một hành vi nhất định. Điều này cũng có nghĩa, khi người mất năng lực
hành vi dân sự có hành vi gây thiệt hại cho các chủ thể khác thì người nàykhông bị
coi là có lỗi khi gây ra thiệt hại.
Như đã phân tích, người mất năng lực hành vi dân sự vì không có khả năng
nhận thức và làm chủ hành vi của mình nên việc chăm sóc, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho người này thuộc trách nhiệm của người giám hộ của người đó.Ngoài
ra, người mất năng lực hành vi dân sự còn có thể được đặt dưới sự quản lý của
bệnh viện hoặc tổ chức khác trong thời gian chữa bệnh để khôi phục lại khả năng
nhận thức và làm chủ hành vi ban đầu của họ. Người giám hộ, bệnh viện, tổ chức

khác chữa bệnh cho người này cần phải có trách nhiệm thực hiện việc quản lý đối
với chủ thể không có khả năng nhận thức và làm chủ hành vi. Trách nhiệm quản lý


19

này hướng tới mục đích đảm bảo sức khỏe, đời sống của chính những người mất
năng lực hành vi dân sự; đồng thời, cũng hướng tới việc đảm bảo an toàn đối với
các chủ thể khác có khả năng bị ảnh hưởng bởi hành vi của người không có khả
năng nhận thức tác động lên. Chính vì yếu tố này, khi người mất năng lực hành vi
dân sự gây thiệt hại, xét về nguyên tắc, các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại đối với họ là không đầy đủ, họ không phải thực hiện việc bồi
thường. Tuy nhiên, trách nhiệm này phát sinh đối với người giám hộ, bệnh viện, tổ
chức chữa bệnh. Bởi vì, những người này được xác định là có lỗi do không làm tốt
nghĩa vụ quản lý người mất năng lực hành vi dân sự, để người này gây thiệt hại
cho chủ thể khác. Tương ứng, nếu các chủ thể quản lý chứng minh được việc quản
lý của mình là tốt, phù hợp, không có lỗi liên quan đến việc gây thiệt hại của người
mất năng lực hành vi dân sự thì họ cũng không đương nhiên phải thực hiện trách
nhiệm bồi thường.
Từ sự phân tích trên về điều kiện lỗi làm phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng có thể thấy sự khác biệt rất rõ giữa yếu tố lỗi trong trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của con người gây ra nói chung so với yếu
tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân sự
gây ra nói riêng. Cụ thể: yếu tố lỗi trong trường hợp bồi thường thiệt hại do hành
vi của con người gây ra luôn gắn với hành vi gây thiệt hại trái pháp luật của chính
người gây thiệt hại. Nói cách khác, người có hành vi gây thiệt hại trái pháp luật
được suy đoán là có lỗi vì đã không lựa chọn một xử sự khác phù hợp hơn với đòi
hỏi của xã hội. Tuy nhiên, đối với trường hợp người mất năng lực hành vi dân sự
gây thiệt hại, dù hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật do xâm phạm đến
những giá trị được pháp luật bảo vệ (như tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, uy

tín nhân phẩm của cá nhân và tổ chức) nhưng hành vi này được thực hiện không
do yếu tố lỗi của chính người thực hiện hành vi. Yếu tố lỗi ở đây, được xác định
cho người có trách nhiệm quản lý người đã thực hiện hành vi gây thiệt hại trái
pháp luật. Đây là điểm khác biệt rất lớn khi xem xét về điều kiện phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung và về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
người mất năng lực hành vi dân sự gây ra nói riêng.


20

Từ việc nghiên cứu những điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra có thể xây dựng một khái niệm về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra như
sau: “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do người mất năng lực
hành vi dân sự gây ra là một loại trách nhiệm dân sự mà theo đó người giám hộ
hoặc bệnh viện, tổ chức khác trực tiếp quản lý người mất năng lực hành vi dân sự
phải bồi thường thiệt hại về mặt vật chất và tinh thần mà người bị thiệt hại phải
gánh chịu do hành vi trái pháp luật của người mất năng lực hành vi dân sự gây ra,
trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
1.1.2.2.

Đặc điểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do người
mất năng lực hành vi dân sự gây ra

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do người mất năng lực
hành vi dân sự gây ra là một loại trách nhiệm pháp lý, do đó nó mang đầy đủ đặc
điểm của trách nhiệm pháp lý nói chung như: (i) do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền áp dụng; (ii) luôn mang đến hậu quả bất lợi cho người bị áp dụng; (iii) được
đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế của Nhà nước. Bên cạnh đó, với tư cách là một
loại trách nhiệm dân sự, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do người

mất năng lực hành vi dân sự gây ra cũng mang tính chất tài sản. Điều này thể hiện
ở chỗ, nó luôn mang đến một hậu quả bất lợi về tài sản cho người có trách nhiệm
bồi thường. Bởi lẽ, khi có hành vi trái pháp luật gây tổn thất cho người khác thì tổn
thất đó phải tính toán được bằng tiền hoặc phải được pháp luật quy định là một đại
lượng vật chất nhất định, nếu không, sẽ không thể thực hiện được việc bồi thường.
Do đó, những thiệt hại liên quan đến yếu tố tinh thần dù không thể tính toán được
một cách ngang giá thành tiền nhưng cũng sẽ được xác định theo quy định của
pháp luât với mục đích bù đắp một phần nào những tổn thất mà người bị thiệt hại
hay thân nhân của người bị thiệt hại phải gánh chịu [4; tr.9].
Bên cạnh những đặc điểm chung, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra còn có đặc điểm riêng thể
hiện ở nội dung chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường. Thông thường, đối với


×