Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Pháp luật về kết hôn có yếu tố nước ngoài và thực tiễn thi hành tại tỉnh bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (863.87 KB, 92 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
----------

NGUYỄN THỊ ĐÀ

PHÁP LUẬT VỀ KẾT HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI TỈNH BẮC GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
----------

NGUYỄN THỊ ĐÀ

PHÁP LUẬT VỀ KẾT HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI TỈNH BẮC GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60380103

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Lan

HÀ NỘI – NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài luận văn thạc sĩ: “Pháp luật về kết hôn có yếu
tố nước ngoài và thực tiễn thi hành tại tỉnh Bắc Giang” là công trình nghiên
cứu của mình. Các dẫn chứng có nguồn gốc rõ ràng, tuân thủ đúng nguyên tắc
và kết quả trình bày trong luận văn là trung thực chưa từng được ai công bố
trước đây.
Tôi xin chịu trách nhiệm trước pháp luật về nghiên cứu của mình.
Xác nhận của giảng viên hướng dẫn

Học viên

Nguyễn Thị Đà


LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến tập thể các thầy, cô giáo đang
công tác, giảng dậy tại trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa sau Đại học, Thư
viện trường đã cung cấp cho em những kiến thức pháp lý nâng cao, tài liệu và
điều kiện cần thiết trong thời gian học tập tại trường.
Em xin gửi lời cảm ơn đặc biệt nhất đến TS Nguyễn Thị Lan, là người
đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ em hoàn thành luận văn thạc sỹ
này.

Xin chúc các thày cô dồi dào sức khỏe, thành công trong công việc và
hạnh phúc trong cuộc sống.
Em xin chân thành cảm ơn!

Hà nội, ngày 25 tháng 7 năm 2016
Học viên
Nguyễn Thị Đà


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ KẾT HÔN CÓ YẾU
TỐ NƯỚC NGOÀI ...................................................................................... 7
1.1. Khái niệm chung về kết hôn có yếu tố nước ngoài............................... 7
1.1.1. Khái niệm kết hôn ................................................................................ 7
1.1.2. Kết hôn trái pháp luật ........................................................................... 8
1.1.3. Kết hôn có yếu tố nước ngoài ............................................................... 9
1.2. Pháp luật điều chỉnh kết hôn có yếu tố nước ngoài ........................... 12
1.2.1. Nguyên tác áp dụng luật ..................................................................... 12
1.2.2. Thẩm quyền giải quyết kết hôn có yếu tố nước ngoài ......................... 19
1.2.3. Điều kiện kết hôn ............................................................................... 23
1.2.4. Trình tự, thủ tục đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền của Việt
Nam ............................................................................................................. 28
1.2.5. Hủy việc kết hôn trái pháp luật có yếu tố nước ngoài ......................... 35
Chương 2: THỰC TRẠNG KẾT HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC GIANG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KẾT HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI ...... 40
2.1. Thực trạng kết hôn có yếu tố nước ngoài trên địa bàn tỉnh Bắc Giang
giai đoạn 2010 đến nay ............................................................................... 40
2.1.1. Tình hình kết hôn giữa phụ nữ Bắc Giang với đàn ông Trung Quốc, Đài

Loan, Hàn Quốc và một số nước khác .......................................................... 40
2.1.2. Kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài ở nước ngoài....... 41
2.1.3. Kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam .............................. 43
2.2. Nguyên nhân của kết hôn có yếu tố nước ngoài trên địa bàn tỉnh Bắc
Giang ........................................................................................................... 45


2.2.1. Nguyên nhân chủ quan ....................................................................... 46
2.2.2. Nguyên nhân khách quan.................................................................... 48
2.3. Hệ quả của việc kết hôn có yếu tố nước ngoài trên địa bàn tỉnh
Bắc Giang.................................................................................................... 50
2.3.1. Hệ quả xã hội...................................................................................... 50
2.3.2. Hệ quả về mặt pháp lý ........................................................................ 51
2.4. Khó khăn, vướng mắc của việc kết hôn hôn có yếu tố nước ngoài trên
địa bàn tỉnh Bắc Giang .............................................................................. 58
2.4.1. Khó khăn trong việc áp dụng các quy định của pháp luật về kết hôn có
yếu tố nước ngoài ......................................................................................... 58
2.4.2. Khó khăn thực tiễn ............................................................................. 67
2.5. Một số giải pháp hoàn thiện việc kết hôn có yếu tố nước ngoài ........ 72
2.5.1. Hoàn thiện quy định pháp luật ............................................................ 72
2.5.2. Những giải pháp hoàn thiện khác........................................................ 75
KẾT LUẬN ................................................................................................. 81


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính thế cấp thiết của đề tài
Trong xu thế hội nhập quốc tế, việc giao lưu quan hệ về kinh tế, văn
hóa, giáo dục, an ninh, quốc phòng nói chung và quan hệ về hôn nhân nói

riêng giữa các nước là điều tất yếu và ngày càng phát triển. Vì vậy, để quản lý
xã hội, cần có các quy định pháp luật để điều chỉnh quan hệ có yếu tố nước
ngoài, trong đó có quan hệ về hôn nhân. Cùng với tiến trình lịch sử của đất
nước, quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài được phát luật quy định ở từng
thời kỳ khác nhau là khác nhau, phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội, văn
hóa, chính trị của từng thời kỳ. Hiện nay, nước ta đã tham gia ký kết rất nhiều
Hiệp định tương trợ tư pháp với các nước để giải quyết các vấn đề về kết hôn
có yếu tố nước ngoài như Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Liên
Bang Nga năm 1981, giữa Việt Nam và Lào năm 1998, hay Hiệp định lãnh sự
giữa Việt Nam và Trung Quốc năm 1998...
Đối với các văn bản trong nước điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố
nước ngoài ngày càng hoàn thiện, đáp ứng quan xu thế phát triển về kết hôn
có yếu tố nước ngoài ngày càng đa dạng và phức tạp. Hiện nay, việc kết hôn
có yếu tố nước ngoài được điều chỉnh bởi hai đạo luật quan trọng, đó là Luật
Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Luật Hộ tịch năm 2014 và rất nhiều văn bản
hướng dẫn khác. Sự ra đời của hai đạo luật này là bước tiến nhằm khắc phục
những hạn chế, bất cập của các quy định về hôn nhân và gia đình nói chung
và quy định kết hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng. Tuy nhiên, một số quy
định về kết hôn có yếu tố nước ngoài còn bất cập, hạn chế, thiếu sót, chưa rõ
ràng, chưa phù hợp với thực tiễn, dẫn đến trong quá trình áp dụng các quy
định của pháp luật gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, thiếu thống nhất.
Mặt khác, thực trạng kết hôn có yếu tố nước ngoài nói chung và trên
địa bàn tỉnh Bắc Giang nói riêng, còn có nhiều yếu tố phức tạp, thực tế không
ít những trường hợp kết hôn với người nước ngoài, đặc biệt là phụ nữ Việt
Nam kết hôn vì mục đích kinh tế, kết hôn khi chưa viết người bạn đời của


2

mình là ai? Dẫn đến nhiều nơi ồ ạt đua nhau lấy chồng nước ngoài đặc biệt là

lấy chồng Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan, hiện tượng môi giới hôn nhân
phát triển mạnh, các công ty môi giới có thể có giấy phép về hoạt động môi
giới hợp pháp, cũng có thể là ẩn nấp dưới dạng các văn phòng, công ty luật để
tư vấn, tìm đối tác cho ai có nhu cầu kết hôn với người nước ngoài, nhiều
trường hợp lợi dụng việc mô giới để thực hiện hành vi buôn bán phụ nữ, trẻ
em, đặc biệt là một số vùng biên giới. Việc kết hôn giữa công dân với người
nước ngoài không có tình yêu, vì nhiều mục đích khác nhau nên tiềm ẩn nhiều
rủi ro, nhiều trường hợp phụ nữ Việt Nam khi lấy chồng nước ngoài, sang
nước ngoài bị lừa bán vào các nhà chứa, bị lạm dụng tình dục, một số phụ nữ
lấy người chồng là những người già, yếu, vũ phu nên bị hành hạ cả về thể xác
lẫn tinh thần, hậu quả về tài sản, con cái đối với những trường hợp đưa con về
Việt Nam cư trú là bài toán nan giải cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Nhận thức được vấn đề về các quy định của pháp luật và thực trạng kết
hôn có yêu tố nước ngoài nên tác giả muốn tìm hiểu, nghiên cứu đề tài “Pháp
luật về kết hôn có yếu tố nước ngoài và thực tiễn thi hành tại tỉnh Bắc
Giang”, với mong muốn đề xuất một số kiến nghị nhằm đóng góp một phần
công sức của mình để hoàn thiện những quy định của pháp luật, đồng thời đưa
ra những biện pháp có thể hạn chế tối đa những hậu quả xấu phát sinh đối với
trường hợp kết hôn có yếu tố nước ngoài.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Có rất nhiều đề tài nghiên cứu về kết hôn có yếu tố nước ngoài như:
công trình nghiên cứu của TS. Nông Quốc Bình, TS. Nguyễn Hồng Bắc với
đề tài “Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong
thời kỳ hội nhập quốc tế”, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội. Luận án TS.
Nguyễn Hồng Bắc với đề tài “Pháp luật điều chỉnh quan hệ gia đình có yếu tố
nước ngoài ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới”. Bài viết của tác giả TS.
Nguyễn Hồng Bắc với đề tài “Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước
ngoài, những vấn đề lý luận và thực tiễn”, … Tác giả TS. Nguyễn Thị Lan với



3

bài viết “Mô hình cơ quan tư vấn, hỗ trợ kết hôn có yếu tố nước ngoài”, đăng
tạp chí Luật học số 04/2008. Luận văn Thạc sỹ Nhâm Ngọc Hiển với đề tài
“Kết hôn có yếu tố nước ngoài – Thực trạng và thực tiễn áp dụng pháp luật
trên địa bàn thành phố Hải Phòng” năm 2010, Luận văn Thạc sỹ Tạ Tùng Hoa
với đề tài “Vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam, một số vấn đề
lý luận và thực tiễn” năm 2014, Luận văn Thạc sỹ Nguyễn Đức Việt với đề tài
“Kết hôn giữa công dân Việt Nam với công dân Trung Quốc, Đài Loan tại
Việt Nam” năm 2014, Luận văn Thạc sỹ Phouttavy Inthalangsy với đề tài
“Quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam
và kinh nghiệm đối với xây dựng pháp luật Lào”, năm 2015 ….
Các đề tài nghiên cứu, bài viết của các tác giả nghiên cứu về quan hệ
hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, đề cập vấn đề trong tư pháp quốc
tế, giải quyết xung đột pháp luật, hoặc bàn về quy phạm pháp luật dưới góc
độ quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình mang tính chất lý luận
chung, khái quát, phạm vi nghiên cứu rộng, chỉ có luận văn Thạc sỹ của
Nhâm Ngọc Hiển có nghiên cứ cả về lý luận và thực tiễn áp dụng quy định về
kết hôn có yếu tố nước ngoài trên địa bàn nhất định.
Tuy nhiên, các đề tài nghiên cứu chủ yếu đề cập đến Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2000, Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính
phủ. Kể từ khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Luật Hộ tịch năm 2014
có hiệu lực, chưa có một đề tài nào nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc,
đầy đủ và có hệ thống các quy định về kết hôn có yếu tố nước ngoài theo quy
định Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Luật Hộ tịch năm 2014. Do vậy,
đề tài nghiên cứu luận văn này của tác giả hoàn toàn có tính mới và không
trùng lặp về mặt nội dung với các công trình nghiên cứu trước đây.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng và phạm vi đề tài nghiên cứu rất rộng, tuy nhiên trong giới
hạn, phạm vi bài luận văn này tác giả nghiên cứu các quy định pháp luật hiện

hành của Việt Nam về kết hôn có yếu tố nước ngoài, thực trạng phụ nữ Việt


4

Nam kết hôn với người đàn ông Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc và một số
nước khác trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, những nguyên nhân, hậu quả, khó
khăn, vướng mắc của việc kết hôn có yếu tố nước ngoài. Từ đó đề xuất những
giải pháp kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật và cơ chế hoàn
thiện việc kết hôn có yếu tố nước ngoài.
4. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau cho đề tài:
- Phương pháp duy vật biện chứng: Tác giả đã nghiên cứu, nhìn nhận
việc kết hôn có yếu tố nước ngoài trong mối liên hệ với lĩnh vực khác, tất cả
ảnh hưởng và rằng buộc lẫn nhau, tạo thành thể thống nhất trong hệ thống
pháp luật. Đồng thời, từ thực trạng về kết hôn có yếu tố nước ngoài địa bàn
một tỉnh, có thể rút ra những nguyên nhân, hậu quả, đề ra biện pháp hạn chế,
khắc phục, để đảm bảo việc kết hôn có yếu tố nước ngoài trên cả nước được
phát triển lành mạnh.
- Phương pháp lịch sử: Luận văn có nghiên cứu một số quy định về kết
hôn có yếu tố nước ngoài theo quá trình lịch sử của nước ta, từ Luật Hôn nhân
và gia đình năm 1959, 1986, 2000, để thấy được khái niệm, chế định về kết
hôn qua các thời kỳ khác nhau.
- Phương pháp phân tích: Nội dung các vấn đề tác giả đặt ra, có sự phân
tích, đánh giá cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn để từ đó thấy rõ tính khoa
học của việc điều chỉnh kết hôn có yếu tố nước ngoài.
- Phương pháp tổng hợp: Sau khi phân tích, đánh giá quy định pháp
luật và thực tiễn, tác giả rút ra những vấn đề cơ bản về mặt lý luận, thực tiễn,
tìm ra những ưu điểm, nhược điểm của các quy định pháp luật và thực tiễn thi
hành trong việc kết hôn có yếu tố nước ngoài.

- Phương pháp so sánh: Tác giả so sánh một số quy định của pháp luật
Việt Nam với Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan và một số nước khác, trong
việc kết hôn có yếu tố nước ngoài, sử dụng phương pháp này thấy được xung
đột pháp luật, từ đó chúng ta hoàn thiện quy định của pháp luật để giải quyết


5

xung đột pháp luật, để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của người Việt Nam
khi kết hôn với người nước ngoài. So sánh các quy định của pháp luật về kết
hôn có yếu tố nước ngoài trước thời điểm Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014, Luật Hộ tịch 2014 có hiệu lực với quy định pháp luật hiện hành.
- Phương pháp thống kê: Luận văn đã sử dụng thống kê những số liệu
thực tế, đầy đủ để chứng minh cho các nội dung đã trình bày trong luận văn
một cách khách quan, trung thực và khoa học.
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Làm sáng tỏ những quy định về kết hôn có yếu tố nước ngoài theo quy
định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Luật Hộ tịch năm 2014, các
văn bản hướng dẫn. Đánh giá ưu, nhược điểm về các quy định pháp luật về
kết hôn có yếu tố nước ngoài, thực trạng giải quyết việc kết hôn có yếu tố
nước ngoài trên địa bàn tỉnh Bắc Giang. Quá trình nghiên cứu, tác giả đưa ra
những kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiên quy định pháp luật và cơ chế
thực hiện việc kết hôn có yếu tố nước ngoài.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của việc nghiên cứu
Với đề tài nghiên cứu này: Về lý luận tác giả nghiên cứu có hệ thống và
toàn diện các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về kết hôn có yếu tố
nước ngoài, đánh giá những ưu, nhược điểm của các quy định pháp luật từ đó
muốn góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về kết hôn có yếu tố
nước ngoài để phù hợp với thực tiễn nước ta và xu thế phát triển chung của
thế giới.

Về thực tiễn, luận văn phân tích thực trạng kết hôn có yếu tố nước
ngoài tại địa phương nơi tác giả công tác đó là tỉnh Bắc Giang, để thấy được
những thuận lợi, khó khăn trong việc kết hôn có yếu tố nước ngoài, từ đó đưa
ra những giải pháp kiến nghị nhằm hạn chế hậu quả xấu xảy ra trong trường
hợp kết hôn có yếu tố nước ngoài.


6

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn bao gồm có 02 chương:
Chương 1: Pháp luật hiện hành về kết hôn có yếu tố nước ngoài
Chương 2: Thực trạng kết hôn có yếu tố nước ngoài trên địa bàn tỉnh
Bắc Giang và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về kết hôn có yếu tố nước
ngoài


7

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ KẾT HÔN CÓ YẾU TỐ
NƯỚC NGOÀI
1.1. Khái niệm chung về kết hôn có yếu tố nước ngoài
1.1.1. Khái niệm kết hôn
Kết hôn, một thuật ngữ gần gũi với mỗi con người, thể hiện sự kết hợp
giữa hai người với nhau và để xác lập quan hệ vợ chồng giữa họ.
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học: Kết hôn là việc nam và nữ
chính thức lấy nhau, làm vợ, chồng theo quy định của pháp luật [281].
Theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp: Kết

hôn là việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng khi thỏa mãn các điều kiện kết
hôn và thực hiện đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền theo quy định
của pháp luật [29].
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam: Kết hôn là sự kết hợp hai
người khác giới để lập gia đình, sinh con đẻ cái, thực hiện chức năng sinh học
và các chức năng khác của gia đình [57].
Theo quy định tại Điều 24, Điều 39 Bộ luật Dân sự năm 2005, Điều 39
Bộ luật Dân sự năm 2015: Kết hôn là quyền dân sự của cá nhân được quy
định trong Bộ luật dân sự, theo đó nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy
định của pháp luật về hôn nhân và gia đình có quyền tự do kết hôn. Việc tự do
kết hôn giữa những người thuộc các dân tộc, tôn giáo khác nhau, giữa những
người theo tôn giáo và không theo tôn giáo, giữa công dân Việt Nam với
người nước ngoài được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, Luật Hôn nhân và gia đình năm
1986 quy định về chế định kết hôn, tuy nhiên không giải thích thế nào là kết
[28] Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học 1999, Trường Đại học Luật Hà nội, NXB. Công an nhân dân, Hà
Nội.
[29] Từ điển Luật học, Viện khoa học pháp lý, NXB Tư pháp, Hà Nội.
[57] Từ điển bách khoa toàn thư, Viện Từ điển và Bách khoa toàn thư Việt Namwww.bachkhoatoanthu.gov.vn.


8

hôn. Đến Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định về kết hôn như sau:
Kết hôn là việc nam, nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp
luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn. Tiếp tục kế thừa các quy định
của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014 quy định kết hôn tại khoản 5 Điều 3 như sau: Kết hôn là việc nam và nữ
xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều kiện
kết hôn và đăng ký kết hôn.

Như vậy, quan hệ vợ chồng được hình thành trên cơ sở của việc kết
hôn, tức phải thỏa mãn điều kiện về nội dung là đủ điều kiện kết hôn và điều
kiện về nghi thức là phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền,
nên trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng không đăng
ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì quan hệ hôn nhân đó
không được Nhà nước công nhận.
Quyền kết hôn là quyền nhân thân gắn với mỗi con người, không thể
chuyển giao hay ủy quyền cho người khác được. Các bên muốn đăng ký kết
hôn, phải tự mình đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền, khai vào tờ khai
đăng ký kết hôn và ký trước mặt người có thẩm quyền đăng ký kết hôn, điều
đó thể hiện ý chí, sự tự nguyện của mình trong việc xác lập quan hệ hôn nhân
giữa hai người. Việc kết hôn là hợp pháp khi có sự ghi nhận của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, thể hiện việc đăng ký kết hôn, thông qua việc đăng ký
kết hôn, Nhà nước quản lý trật tự xã hội.
1.1.2. Kết hôn trái pháp luật
Kết hôn trái pháp luật là một thuật ngữ pháp lý dùng để chỉ việc nam,
nữ xác lập quan hệ vợ chồng có đăng ký kết hôn nhưng vi phạm điều kiện kết
hôn do pháp luật quy định. Cụ thể, vi phạm điều kiện tuổi kết hôn, sự tự
nguyện hoặc vi phạm điều cấm kết hôn.
Như vậy, việc kết hôn trái pháp luật, Nhà nước không thừa nhận và dựa
vào dấu hiệu vi phạm các điều kiện kết hôn, Tóa án sẽ tiến hành xử hủy việc
kết hôn trái pháp luật. Theo đó, trên cơ sở yêu cầu của người có quyền khởi


9

kiện, Tòa án buộc các bên chấm dứt quan hệ vợ chồng, vấn đề tài sản giải
quyết theo nguyên tắc tài sản riêng của ai thì thuộc quyền sở hữu của người
đó, tài sản chung được chia theo thỏa thuận các bên, nếu trong trường hợp các
bên không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết, khi đó Tòa án xem

xét dựa trên công sức đóng góp của mỗi bên. Đối với vấn đề về quyền lợi của
con chung được giải quyết như trường hợp cha mẹ ly hôn.
1.1.3. Kết hôn có yếu tố nước ngoài
Kết hôn có yếu tố nước ngoài là việc nam, nữ xác lập quan hệ vợ chồng
theo những quy định của pháp luật về các điều kiện kết hôn và đăng ký kết
hôn có yếu tố nước ngoài.
Theo quy định tại 758 Bộ luật Dân sự năm 2005, Điều 663 Bộ luật Dân
sự năm 2015 như sau: “Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân
sự có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước
ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc là các quan hệ dân sự giữa
các bên tham gia là công dân, tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác định,
thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước
ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài”.
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định quan hệ hôn nhân và
gia đình có yếu tố nước ngoài tại khoản 25 Điều 3 như sau:
Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn
nhân và gia đình mà ít nhất một bên tham gia là người nước ngoài, người Việt
Nam định cư ở nước ngoài; quan hệ hôn nhân và gia đình giữa các bên tham
gia là công dân Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan
hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên
quan đến quan hệ đó ở nước ngoài.
Như vậy, kết hôn có yếu tố nước ngoài gồm có những trường hợp sau:
- Quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài hoặc
giữa người nước ngoài với nhau cư trú tại Việt Nam. Theo đó, trong quan hệ
này thì một bên là công dân Việt Nam, một bên là người nước ngoài. Công


10

dân Việt Nam khi tham gia quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài phải có đầy

đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi theo pháp luật Việt Nam, còn
người nước ngoài phải có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi theo
quy định của nước mà người đó là công dân hoặc nước người đó đang thường
trú, đồng thời họ phải đảm bảo đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi
theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Căn cứ vào khoản 5 Điều 3 Luật Quốc tịch năm 2008: Người nước
ngoài là người có quốc tịch nước ngoài hoặc người không quốc tịch.
Theo quy định tại Điều 673 Bộ luật Dân sự năm 2015: Người nước
ngoài có năng lực pháp luật dân sự tại Việt Nam như công dân Việt Nam, trừ
trường hợp pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quy định khác.
Theo quy định tại Điều 674 Bộ Luật Dân sự 2015: Năng lực hành vi
dân sự của cá nhân là người nước ngoài được xác định theo pháp luật của
nước mà người đó là công dân, trừ trường hợp pháp luật Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam có quy định khác.
- Quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ để xác
lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc tài sản liên
quan đến quan hệ đó ở nước ngoài.
Các chủ thể tham gia quan hệ kết hôn, họ đều mong muốn việc kết hôn
của mình được pháp luật công nhận, muốn việc kết hôn là hợp pháp thì phải
thỏa mãn các điều kiện về kết hôn và nghi thức kết hôn, tức là việc kết hôn đó
phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký và cấp Giấy chứng nhận
kết hôn, đồng thời hai bên nam, nữ cùng ký vào Giấy chứng nhận kết hôn và
Sổ đăng ký kết hôn hoặc nếu việc kết hôn được tiến hành theo pháp luật nước
ngoài, việc kết hôn đó muốn được công nhận tại Việt Nam thì phải ghi chú
vào Sổ đăng ký kết hôn nếu thỏa mãn điều kiện của pháp luật Việt Nam.
Tại Điều 34 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của
Chính phủ, quy định về điều kiện ghi vào Sổ hộ tịch việc kết hôn của công


11


dân Việt Nam đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài ở
nước ngoài như sau:
Việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau hoặc với người nước
ngoài đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài ở nước
ngoài được ghi vào Sổ hộ tịch nếu tại thời điểm kết hôn, các bên đáp ứng đủ
điều kiện kết hôn và không vi phạm điều cấm theo quy định của Luật Hôn
nhân và gia đình Việt Nam. Nếu vào thời điểm đăng ký tại cơ quan có thẩm
quyền nước ngoài, việc kết hôn không đáp ứng điều kiện kết hôn, nhưng
không vi phạm điều cấm theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, nhưng
vào thời điểm yêu cầu ghi vào Sổ hộ tịch việc kết hôn, hậu quả đã được khắc
phục hoặc việc ghi chú kết hôn là nhằm bảo vệ quyền lợi của công dân Việt
Nam và trẻ em, thì việc kết hôn cũng được ghi vào Sổ hộ tịch.
Như vậy, đối với trường hợp này các chủ thể tham gia quan hệ kết hôn
đều là công dân Việt Nam, tuy nhiên căn cứ làm phát sinh quan hệ này là việc
đăng ký kết hôn tiến hành ở nước ngoài, theo pháp luật nước ngoài thì được
coi là quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài. Việc hai công dân Việt Nam
đăng ký kết hôn với nhau tại Đại sứ Quán hoặc Lãnh sự quán của Việt Nam ở
nước ngoài (cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài) thì có được coi là
đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài hay không? Trường hợp này, không
được coi là quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài, đối với việc kết hôn trong
trường hợp này, luật áp dụng là Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Luật
Hộ tịch năm 2014, Nghị định 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015. Như trường
hợp sau được coi là kết hôn có yếu tố nước ngoài: Trường hợp công dân Việt
Nam cùng nhau định cư ở Anh, chưa nhập quốc tịch Anh, tuy nhiên làm thủ
tục đăng ký kết hôn với nhau tại cơ quan có thẩm quyền của Anh và theo
pháp luật của nước Anh, trong những trường hợp này có sự xung đột pháp
luật, việc kết hôn này muốn được công nhận tại Việt Nam thì phải được ghi
chú vào Sổ đăng ký kết hôn và thỏa mãn điều kiện về pháp luật Việt Nam.



12

- Quan hệ kết hôn, cả hai bên nam nữ là công dân Việt Nam, nhưng có
ít nhất một bên đang định cư ở nước ngoài tại thời điểm đăng ký kết hôn.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 3 Luật Quốc tịch năm 2008: “Người
Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam và người gốc Việt Nam
cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài”.
Ví dụ: Trường hợp anh A là công dân Việt Nam, đang định cư tại Hàn
Quốc, quen biết và yêu chị B là công dân Việt Nam đang du học tại Hàn
Quốc, sau đó cả hai trở về Việt Nam đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm
quyền của Việt Nam, trong trường hợp này thì quan hệ kết hôn giữa anh A và
chị B được coi là quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài.
1.2. Pháp luật điều chỉnh kết hôn có yếu tố nước ngoài
1.2.1. Nguyên tác áp dụng luật
1.2.1.1. Nguyên tắc chung
Thứ nhất: Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quan hệ kết hôn có yếu tố
nước ngoài ở Việt Nam phù hợp với pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc
tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập
Ở nước ta, kết hôn có yếu tố nước ngoài thực hiện theo quy định của
pháp luật sẽ được tôn trọng và bảo vệ bằng nhiều biện pháp khác nhau, khi
quyền của các chủ thể tham gia quan hệ kết hôn bị xâm phạm, họ có thể yêu
cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ hoặc dùng các biện pháp pháp
luật cho phép để bảo vệ cho mình. Điều này thể hiện rõ tại khoản 1 Điều 121
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài được tôn
trọng và bảo vệ phù hợp với các quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước
quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”.
Tuy nhiên, các biện pháp bảo vệ quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài
tại Việt Nam phải phù hợp với pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế

mà Việt Nam tham gia hoặc ký kết. Trong trường hợp pháp luật Việt Nam và
các điều ước quốc tế quy định cùng một vấn đề mà có sự mâu thuẫn với nhau


13

thì ưu tiên áp dụng điều ước quốc tế, điều này được thể hiện tại khoản 1 Điều
122 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Trong trường hợp điều
ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy
định khác với quy định của Luật này thì áp dụng quy định của điều ước quốc
tế đó”.
Thứ hai: Nguyên tắc bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
Việt Nam ở nước ngoài phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật nước sở
tại, pháp luật và tập quán quốc tế
Trong quá trình giao lưu quốc tế, công dân Việt Nam kết hôn với người
nước ngoài, có thể đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam, có thể
đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài ở nước ngoài. Sau khi kết
hôn, công dân Việt Nam có thể vẫn ở trong nước, cũng có trường hợp ra nước
ngoài cùng gia đình sinh sống, có những trường hợp thôi quốc tịch Việt Nam,
nhưng cũng không ít trường hợp vẫn có quốc tịch Việt Nam. Quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến người Việt Nam định cư ở nước
ngoài, coi đây là một bộ phận không thể tách rời của cộng đồng dân tộc Việt
Nam, Nhà nước luôn khuyến khích và tạo điều kiện cho người Việt Nam định
cư ở nước ngoài giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, giữ
quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương. Tại khoản 3 Điều 212 Luật Hôn
nhân và gia đình quy định: “ Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam ở nước ngoài trong
quan hệ hôn nhân và gia đình phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật
nước sở tại, pháp luật và tập quán quốc tế”.
Việc bảo về quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam ở nước

ngoài thông qua các cơ quan đại diện ngoại giao và lãnh sự của Việt Nam ở
nước ngoài. Pháp luật Việt Nam còn bảo vệ người nước ngoài tại Việt Nam,
điều này thể hiện tại khoản 2 Điều 121 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014:
“Trong quan hệ hôn nhân và gia đình với công dân Việt Nam, người nước


14

ngoài tại Việt Nam có các quyền, nghĩa vụ như công dân Việt Nam, trừ
trường hợp pháp luật Việt Nam có quy định khác”.
Thứ ba: Nguyên tắc áp dụng pháp luật nước ngoài đối với quan hệ kết
hôn có yếu tố nước ngoài không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật
Việt Nam về hôn nhân và gia đình
Ở nước ta, theo quy định tại khoản 2, 3 Điều 122 Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014: Trong trường hợp Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, các
văn bản pháp luật khác của Việt Nam có dẫn chiếu về việc áp dụng pháp luật
nước ngoài thì pháp luật nước ngoài được áp dung, nếu việc áp dụng đó
không trái với nguyên tắc cơ bản được quy định tại Điều 2 của Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2014. Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có dẫn chiếu về việc áp dụng pháp
luật nước ngoài thì pháp luật nước ngoài được áp dụng.
Việc áp dụng pháp luật nước ngoài để điều chỉnh quan hệ kết hôn có
yếu tố nước ngoài là cần thiết nhằm đảm bảo tính khách quan, quyền, lợi ích
hợp pháp của các bên tham gia quan hệ, tạo sự bình đẳng, thúc đẩy quan hệ
dân sự quốc tế phát triển. Tuy nhiên, việc pháp luật nước ngoài được dẫn
chiếu áp dụng nếu quy định đó không trái nguyên tắc cơ bản của Luật Hôn
nhân và gia đình Việt Nam, các nguyên tắc của Luật Hôn nhân và gia đình
Việt Nam gồm các nguyên tắc sau: Nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ
một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng; Hôn nhân giữa công dân Việt Nam
thuộc các dân tộc, tôn giáo, giữa người theo tôn giáo với người không theo

tôn giáo, giữa người có tín ngưỡng với người không có tín ngưỡng, giữa công
dân Việt Nam với người nước ngoài được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ;
xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc, các thành viên gia đình có nghĩa
vụ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, không phân biệt đối xử giữa
các con; Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, hỗ trợ trẻ em,
người cao tuổi, người khuyết tật thực hiện các quyền về hôn nhân và gia đinh,
giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ, thực hiện


15

kế hoạch hóa gia đình; kế thừa và phát huy truyền thống văn hóa, đạo đức tốt
đẹp của dân tộc Việt Nam về hôn nhân và gia đình.
Như vậy, pháp luật nước ngoài không được dẫn chiếu áp dụng khi quy
định của pháp luật nước ngoài trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt
Nam, việc không áp dụng nước ngoài trong trường hợp trên là hợp lý, bởi nếu
pháp luật nước ngoài áp dụng sẽ gây hậu quả xấu, tiêu cực, ảnh hưởng đến
nền tảng chính trị, đạo đức, truyền thống của nước ta.
Thứ tư: Nguyên tắc áp dụng pháp luật về hôn nhân và gia đình của
Việt Nam đối với quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài
Theo quy định khoản 1 Điều 122 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
quy định: Các quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được áp dụng đối với quan hệ hôn nhân và gia
đình có yếu tố nước ngoài, trừ trường hợp Luật Hôn nhân và gia đình có quy
định khác. Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là thành viên có quy định khác với Luật Hôn nhân và gia đình thì
áp dụng quy định của điều ước quốc tế.
Quy định trên sẽ tạo điều kiện cho các cơ quan có thẩm quyền giải
quyết việc kết hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam nhanh chóng, đảm bảo
quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia quan hệ kết hôn, cũng như đảm

bảo lợi ích trong quản lý nhà nước.
1.2.1.2. Nguyên tắc cụ thể
Thứ nhất: Nguyên tắc áp dụng luật nơi tiến hành kết hôn
Quan hệ kết hôn phát sinh hệ quả pháp lý quan trọng đối với mỗi chủ
thể, như về quan hệ nhân thân giữa hai người, con cái và tài sản, làm thay đổi
vấn đề nhân thân của chủ thể tham gia quan hệ hôn nhân đó. Do vậy, việc kết
hôn được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước nào thì phải
tuân theo quy định pháp luật của nước đó.
Cơ sở của nguyên tắc này là “Luật nơi thực hiện hành vi”, theo đó hành
vi pháp lý phải tuân thủ các điều kiện về hình thức theo pháp luật của nước


16

nơi thực hiện hành vi, sự kiện kết hôn là một hành vi pháp lý. Theo nguyên
tắc chung giải quyết xung đột pháp luật về hình thức của hành vi pháp lý, các
nước thường áp dụng luật nơi thực hiện hành vi tức là nơi thực hiện việc kết
hôn để áp dụng việc kết hôn giữa hai bên, việc áp dụng luật nơi thực hiện việc
kết hôn thể hiện sự tôn trọng pháp luật nước sở tại, tôn trọng văn hóa, thể hiện
sự tôn trọng và hòa nhập vào môi trường xã hội của vợ, chồng. Vì vậy, pháp
luật nhiều nước đều công nhận hiệu lực về hình thức hôn nhân phù hợp theo
pháp luật nơi tiến hành kết hôn nhưng có thể không phù hợp với pháp luật mà
họ có quốc tịch.
Việc quy định khác nhau về nghi thức kết hôn của các nước nên xảy ra
sự xung đột pháp luật về nghi thức kết hôn. Trong thực tiễn giải quyết các
xung đột pháp lý về vấn đề này, các nước thường áp dụng luật nơi tiến hành
kết hôn nhằm xác định tính hợp pháp về nghi thức kết hôn có yếu tố nước
ngoài, theo đó thì việc kết hôn được tiến hành ở nước nào thì phải tuân theo
quy định về nghi thức kết hôn của nước đó. Chẳng hạn, pháp luật của Pháp
quy định công dân Pháp kết hôn với người nước ngoài thì bên cạnh việc tuân

thủ quy định của pháp luật nơi tiến hành kết hôn, công dân Pháp phải thông
báo việc kết hôn này về nước cho cơ quan có thẩm quyền. Theo quy định của
Đức thì quy định kết hôn có yếu tố nước ngoài nếu không phù hợp với pháp
luật nơi tiến hành kết hôn, nhưng phù hợp với pháp luật quốc tịch của đương
sự thì cuộc hôn nhân đó vẫn được coi là hợp pháp.
Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình nước ta chỉ quy định
điều chỉnh việc giải quyết xung đột về điều kiện kết hôn, chưa quy định việc
lựa chọn áp dụng luật để điều chỉnh nghi thức kết hôn có yếu tố nước ngoài,
nhưng tại khoản 1 Điều 16 Nghị định 24/2013/NĐ-CP ngày 28/3/2013 của
Chính phủ quy định:
Việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau hoặc với người nước
ngoài đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài ở nước
ngoài, phù hợp với pháp luật của nước đó thì được công nhận tại Việt Nam,


17

nếu vào thời điểm kết hôn, công dân Việt Nam không vi phạm quy định của
pháp luật Việt Nam về điều kiện kết hôn. Trường hợp có vi phạm pháp luật
Việt Nam về điều kiện kết hôn, nhưng vào thời điểm yêu cầu công nhận việc
kết hôn, hậu quả của vi phạm đó đã được khắc phục hoặc việc công nhận kết
hôn là có lợi để bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em thì việc kết hôn đó
cũng được công nhận tại Việt Nam.
Theo đó, việc kết hôn được tiến hành tại cơ quan có thẩm quyền của
nước ngoài phù hợp với quy định về điều kiện kết hôn và nghi thức kết hôn
của nước đó thì được công nhận tại Việt Nam. Như vậy pháp luật nước ta
thừa nhận việc áp dụng luật nơi tiến hành kết hôn để thừa nhận nghi thức tiến
hành kết hôn, nghi thức kết hôn là nghi thức dân sự, việc kết hôn phải được
đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Ở nước ta việc giải quyết xung đột về hình thức hôn nhân cũng áp dụng

nguyên tắc áp dụng luật nơi tiến hành kết hôn, việc kết hôn tại Việt Nam tuân
theo nghi thức, trình tự, thủ tục của pháp luật Việt Nam.
Tại Điều 126 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: Trong
việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên phải
tuân theo pháp luật của nước mình về điều kiện kết hôn; nếu việc kết hôn
được tiến hành tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thì người nước ngoài
còn phải tuân theo các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình về điều kiện
kết hôn; Việc kết hôn giữa những người nước ngoài thường trú ở Việt Nam
tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam phải tuân theo các quy định của Luật
Hôn nhân và gia đình Việt Nam về điều kiện kết hôn.
Trong các Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và các nước,
cũng thống nhất thừa nhận nguyên tắc này, cụ thể: Tại khoản 2 Điều 24 Hiệp
định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Nga quy định: “Hình thưc kết hôn
tuân theo pháp luật của bên ký kết nơi tiến hành kết hôn”. Điều này cũng
được quy định tại khoản 2 Điều 25 Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt


18

Nam và Lào, khoản 1 Điều 31 Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và
Hunggary….
Thứ hai: Nguyên tắc áp dụng Luật nhân thân (Luật quốc tịch)
Nguyên tắc áp dụng Luật nhân thân gồm hai hệ luật: Hệ thuốc Luật
quốc tịch và Hệ thuộc luật nơi cư trú của đương sự:
Việc áp dụng Luật quốc tịch phối hợp với luật nơi cư trú nhằm tôn
trọng pháp luật nơi cư trú, nơi công dân có quốc tịch, đồng thời thể hiện sự
tôn trọng văn hóa, phong tục của nơi công dân có quốc tịch và cư trú.
Nguyên tắc này được ghi nhận hầu hết trong các hiệp định tương trợ tư
pháp giữa Việt Nam và các nước, tại Điều 126 Luật Hôn nhân và Gia đình
năm 2014. Như vậy, người nước ngoài kết hôn với công dân Việt Nam thì họ

phải tuân theo quy định pháp luật của nước mà họ mang quốc tịch, nếu việc
kết hôn đó được thực hiện tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thì người
nước ngoài đó còn phải tuân theo quy định của pháp luật Việt Nam về điều
kiện kết hôn.
Đối với trường hợp người không có quốc tịch, điều kiện kết hôn được
thực hiện theo luật nơi cư trú của người đó. Đối với người nước ngoài có hai
hay nhiều quốc tịch, theo quy định tại Điều 672 Bộ luật Dân sự năm 2015:
Trường hợp pháp luật được dẫn chiếu đến là pháp luật của nước mà cá
nhân có quốc tịch nhưng cá nhân đó là người không quốc tịch thì pháp luật áp
dụng là pháp luật của nước nơi người đó cư trú vào thời điểm phát sinh quan
hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Nếu người đó có nhiều nơi cư trú hoặc không
xác định được nơi cư trú vào thời điểm phát sinh quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngoài thì pháp luật áp dụng là pháp luật của nước nơi người đó có mối
liên hệ gắn bó nhất. Trường hợp pháp luật được dẫn chiếu đến là pháp luật
của nước mà cá nhân có quốc tịch nhưng cá nhân đó là người có nhiều quốc
tịch thì pháp luật áp dụng là pháp luật của nước nơi người đó có quốc tịch và
cư trú vào thời điểm phát sinh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Nếu
người đó có nhiều nơi cư trú hoặc không xác định được nơi cư trú hoặc nơi cư


19

trú và nơi có quốc tịch khác nhau vào thời điểm phát sinh quan hệ dân sự có
yếu tố nước ngoài thì pháp luật áp dụng là pháp luật của nước mà người đó có
quốc tịch và có mối liên hệ gắn bó nhất. Trường hợp pháp luật được dẫn chiếu
đến là pháp luật của nước mà cá nhân có quốc tịch nhưng cá nhân đó là người
có nhiều quốc tịch, trong đó có quốc tịch Việt Nam thì pháp luật áp dụng là
pháp luật Việt Nam.
Như vậy, đối với trường hợp người nước ngoài có hai hay nhiều quốc
tịch thì sẽ áp dụng pháp luật của nước người đó mang quốc tịch đồng thời

thường trú, nếu người đó không thường trú tại một trong các nước có quốc
tịch thì áp dụng pháp luật của nước mà người đó mang hộ chiếu.
1.2.2. Thẩm quyền giải quyết kết hôn có yếu tố nước ngoài
1.2.2.1. Thẩm quyền của Ủy ban nhân dân các cấp
- Thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp xã: Theo quy định tại khoản 1
Điều 7 Luật Hộ tịch năm 2014, Khoản 1 Điều 18 Nghị định số 123/2015/NĐCP ngày 15/11/2015 thì Ủy ban nhân dân cấp xã ở khu vực biên giới thực
hiện đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam thường trú tại địa bàn xã đó với
công dân của nước láng giềng thường trú tại đơn vị hành chính tương đương
cấp xã của Việt Nam tiếp giáp với xã ở khu vực biên giới của Việt Nam nơi
công dân Việt Nam thường trú. Đối với trường hợp kết hôn này thì giấy tờ do
cơ quan có thẩm quyền của nước có chung đường biên giới với Việt Nam lập,
cấp, xác nhận sử dụng để đăng ký hộ tịch nói chung và đăng ký kết hôn nói
riêng được miễn hợp pháp hóa lãnh sự, tuy nhiên phải được dịch ra tiếng Việt
và có cam kết của người dịch về việc dịch đúng nội dung.
Việc pháp luật quy định Ủy ban nhân dân cấp xã có thẩm quyền thực
hiện việc đăng ký kết hôn tại khu vực biên giới nhằm tạo điều kiện thuận tiện
cho công dân ở các bên trong việc đăng ký kết hôn, bởi mối quan hệ giữa các
công dân ở các khu vực biên giới gần gũi với nhau, điều kiện đi lại đến Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh (đối với việc kết hôn trước ngày 01/01/2016), Ủy ban
nhân dân cấp huyện (đối với việc kết hôn từ ngày 01/01/2016) rất khó khăn,


×