Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Bảo hiểm thai sản và thực tiễn thực hiện tại thành phố hạ long tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.47 MB, 103 trang )

NGUYỄN THỊ THANH HƯƠNG

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
LUẬT KINH TẾ

BẢO HIỂM THAI SẢN VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI
THÀNH PHỐ HẠ LONG TỈNH QUẢNG NINH

NGUYỄN THỊ THANH HƯƠNG

20114- 2016

HÀ NỘI - 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

BẢO HIỂM THAI SẢN VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI
THÀNH PHỐ HẠ LONG TỈNH QUẢNG NINH

NGUYỄN THỊ THANH HƯƠNG

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS NGUYỄN HỮU CHÍ

HÀ NỘI – 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tác giả luận văn xin cam đoan:
- Đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tác giả;
- Luận văn được thực hiện độc lập dưới sự hướng dẫn của PGS.TS
Nguyễn Hữu Chí;
- Những thông tin, số liệu được trích dẫn trong luận văn đầy đủ, trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thanh Hương


LỜI CẢM ƠN

Trước tiên, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến tất cả quý thầy cô đã giảng
dạy trong chương trình Cao học Luật Kinh tế - Viện Đại học Mở Hà Nội, những
người đã truyền đạt cho tôi những kiến thức hữu ích làm cơ sở cho tôi thực hiện
tốt luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS Nguyễn Hữu Chí đã tận tình hướng
dẫn cho tôi trong thời gian thực hiện luận văn. Thầy đã hướng dẫn, chỉ bảo cho
tôi rất nhiều kinh nghiệm trong thời gian thực hiện đề tài.
Sau cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến các Thầy, cô Khoa đào tạo Sau đại

học - Viện Đại học Mở Hà Nội đã tạo diều kiện cho tôi trong suốt quá trình học
tập.
Do thời gian có hạn và kinh nghiệm nghiên cứu khoa học chưa nhiều nên
luận văn còn nhiều thiếu sót, rất mong nhận được ý kiến góp ý của Thầy/ Cô và
các bạn học viên./.
Hà Nội, ngày 08 tháng 10 năm 2016
Học viên

Nguyễn Thị Thanh Hương


MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Danh mục chữ viết tắt
1

MỞ ĐẦU
Chương 1

9

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁP LUẬT BẢO HIỂM THAI SẢN
1.1 Khái niệm và ý nghĩa của bảo hiểm thai sản
1.2. Các nguyên tắc của bảo hiểm thai sản
1.3. Bản chất của bảo hiểm thai sản

16


1.4. Sơ lược lịch sử pháp luật Việt Nam về bảo hiểm thai sản
1.5. Các quy định pháp luật hiện hành về bảo hiểm thai sản
1.5.1 Đối tượng và điều kiện hưởng bảo hiểm thai sản

17
17

1.5.2 Chế độ và quyền lợi
1.5.2.1 Thời gian hưởng chế độ khi khám thai
1.5.2.2 Thời gian hưởng chế độ khi sẩy thai, nạo, hút thai, thai

20

chết lưu hoặc phá thai bệnh lý
1.5.2.3 Thời gian hưởng chế độ khi sinh con

20

1.5.2.4 Thời gian hưởng chế độ khi nhận nuôi con nuôi

22

1.5.2.5 Thời gian hưởng chế độ khi thực hiện các biện pháp

23

1.5.2.6 Thời gian nghỉ hưởng chế độ thai sản của lao động nữ

29


tránh thai
mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ
1.5.2.7 Thời gian nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau thai

29

sản
1.5.2.3 Mức hưởng chế độ thai sản

30

1.5.2.4. Tài chính thực hiện bảo hiểm thai sản

30


1.5.2.5 Giải quyết tranh chấp về bảo hiểm thai sản
1.6. Một số quy định của pháp luật quốc tế về bảo hiểm thai sản

32
36

Chương 2
THỰC TIỄN THỰC HIỆN BẢO HIỂM THAI SẢN TẠI
THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH
2.1 Giới thiệu tình hình kinh tế-xã hội, lao động việc làm thành phố Hạ
Long, tỉnh Quảng Ninh
2.1.1 Tình hình kinh tế - xã hội
2.1.2. Tình hình lao động việc làm
2.2 Thực trạng áp dụng pháp luật Bảo hiểm thai sản tại thành phố Hạ Long,

tỉnh Quảng Ninh
2.2.1 Đối tượng và điều kiện hưởng bảo hiểm thai sản
2.2.1.1 Đối tượng hưởng bảo hiểm thai sản
2.2.1.2 Điều kiện hưởng bảo hiểm thai sản
2.2.2 Chế độ và quyềnlợi
2.2.3 Số người lao động tham gia BHXH
2.2.4 Số người lao động được hưởng bảo hiểm xã hội về thai sản
2.2.5 Giải quyết tranh chấp về bảo hiểm thai sản

66

2.3 Kết quả đạt được và một số tồn tại qua thực tiễn thực hiện chế độ bảo

66

hiểm xã hội về thai sản tại thành phố Hạ Long
2.3.1 Kết quả đạt được
2.3.2 Tồn tại
Chương 3

68

KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢO HIỂM THAI SẢN TỪ
THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI THÀNH PHỐ HẠ LONG
3.1 Phương hướng chung

68

3.2 Kiến nghị giải pháp hoàn thiện bảo hiểm thai sản
KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

70


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BHXH: Bảo hiểm xã hội
BLLĐ: Bộ Luật lao động
BHTS: Bảo hiểm thai sản
BHYT: Bảo hiểm y tế
TNLĐ & BNN: Tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
NSNN: Ngân sách Nhà nước
ILO: Tổ chức Lao động Quốc tế
WHO: Tổ chức y tế thế giới


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
BHXH là một chính sách lớn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm tổ chức
thực hiện ngay từ những ngày đầu thành lập nước. BHXH đã được Liên hợp quốc
thừa nhận và coi đó là một trong những quyền lợi cơ bản của con người. Do đó,
BHXH cần phải được thực hiện đối với mọi người lao động. Trong những điều kiện
khác nhau của đất nước, chính sách BHXH cũng có sự thay đổi góp phần to lớn
giúp cho người lao động ổn định cuộc sống khi họ gặp phải những sự kiện bảo
hiểm.
Với tỷ lệ chiếm hơn 50% dân số, lực lượng lao động xã hội của đất nước,
phụ nữ là nguồn nhân lực quan trọng đã và đang tham gia trên mọi lĩnh vực của đời
sống cả về chính trị, kinh tế và xã hội. Thực tế đã cho thấy, phụ nữ Việt Nam không
chỉ tham gia lao động ở hầu hết các lĩnh vực trong xã hội, mà còn phải đảm đương
công việc gia đình với thiên chức là người vợ, người mẹ. Bên cạnh thiên chức làm

mẹ, người phụ nữ đã và đang trở thành lực lượng lao động chủ yếu góp phần quan
trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội, trong mọi ngành nghề, lao động nữ ngày càng chiếm tỷ lệ đông
đảo và không ngừng vươn lên, vượt qua gánh nặng cũng như trách nhiệm đối với
gia đình để đạt được những thành tích cao và có chỗ đứng ổn định, lâu dài trong
công việc. Họ sẽ có những điều kiện phát triển và cống hiến tốt hơn khi ngoài các
chính sách xã hội chung được đảm bảo, còn có đồng thời các chính sách riêng phù
hợp với chức năng sinh đẻ và nuôi con của họ.
Chính bởi vậy, ngay từ khi thành lập nước, Đảng và Nhà nước ta luôn quan
tâm đến lao động nữ được thể hiện: ngay khi BHXH Việt Nam đi vào hoạt động,
chế độ trợ cấp thai sản là một trong số ít chế độ được triển khai thực hiện ngay lúc
đó. BHTS là một trong những chế độ của BHXH bắt buộc nằm song hành với các
chế độ bảo hiểm ốm đau, chế độ bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp,
chế độ bảo hiểm hưu trí… BHTS ngoài chức năng đảm bảo thu nhập cho người lao
động khi công việc lao động tạm thời bị gián đoạn nó còn góp phần quan trọng
1


trong việc chăm sóc sức khỏe cho người lao động, đảm bảo quyền được chăm sóc
của trẻ em. BHTS đã góp phần giảm bớt những gánh nặng cho người lao động, đặc
biệt là lao động nữ trong xã hội.
BHTS có vị trí quan trọng trong hệ thống chính sách BHXH và là một chế độ
không thể thiếu đối với người lao động không chỉ bởi tính nhân văn, nhân đạo sâu
sắc mà còn bởi chính tính chất nội tại của nó là sản xuất ra sức lao động xã hội.
Trong những năm qua, BHTS đã bảo vệ cho hàng vạn lao động nữ và hàng vạn trẻ
em. BHTS cũng như các chính sách xã hội đối với lao động nữ nói chung, vừa tạo
điều kiện để lao động nữ thực hiện tốt chức năng làm mẹ, vừa tạo điều kiện để lao
động nữ thực hiện tốt công tác xã hội. Cùng với các chế độ bảo hiểm khác, BHTS ở
nước ta đã được quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật lao động từ
khi giành được chính quyền đến nay. Đã qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung nên chính

sách BHTS ngày càng đầy đủ, hoàn thiện và phù hợp hơn với thực tế đời sống, đáp
ứng được mục tiêu về bảo vệ sức khỏe cho lao động nữ khi mang thai, sinh con và
chăm sóc con.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, vẫn còn nhiều điểm tồn tại,
một số quy định còn bất cập, vì vậy, trên thực tế, theo đánh giá của các chuyên gia
thực tiễn, lao động nữ vẫn còn nhiều thiệt thòi. Hơn thế nữa, trong tình hình kinh tế
- xã hội ngày càng phát triển theo con đường công nghiệp, hiện đại, tiến tới hội
nhập với nền kinh tế thế giới thì BHXH nói chung, BHTS nói riêng hiện vẫn chưa
thực sự đáp ứng được yêu cầu thực tiễn và đảm bảo được quyền lợi của lao động
nữ.
Kể từ khi BHTS được áp dụng, cuộc sống của người lao động nữ trong thời
kỳ thai sản đã được đảm bảo hơn về mặt kinh tế và sức khỏe so với trước, nhưng
việc thực thi chế độ này trong thực tế vẫn còn một số vướng mắc chưa được giải
quyết. Với sự phát triển của nền kinh tế thị trường cũng như sự phát triển và tiến bộ
xã hội thì hiện tại BHTS cũng còn một số điểm chưa phù hợp.
Vấn đề đặt ra cho BHXH Việt Nam là: làm thế nào để cải thiện, nâng cao
hơn nữa hiệu quả của việc thực hiện BHTS, từ đó sẽ nâng cao được đời sống vật
2


chất của lao động nữ trong thời kỳ họ gặp sự kiện thai sản. Nhận thức được tầm
quan trọng của vấn đề trên, học viên đã lựa chọn đề tài: “BHTS và thực tiễn thực
hiện tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh” làm đề tài nghiên cứu của mình.
Mục đích của đề tài là nghiên cứu, xem xét, đánh giá BHTS và thực tiễn thực hiện
tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh để từ đó đề xuất một số giải pháp hoàn
thiện BHTS cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay của Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Với mục đích nghiên cứu những quy định pháp luật về BHTS, đánh giá
thực tiễn thực hiện tại địa phương nơi học viên sinh sống và làm việc, từ đó đưa ra
quan điểm khoa học, để đề nghị hoàn thiện pháp luật về BHTS.

Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học, một số luận văn
thạc sĩ luật học đã nghiên cứu về lao động nữ, bảo hiểm xã hội nói chung, BHTS
nói riêng. Cụ thể là Luận văn “ Pháp luật về lao động nữ- Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn”, Đại học Luật Hà Nội, 2001 của tác giả Lý Thị Thúy Hoa, nghiên cứu lý
luận và thực tiễn về lao động nữ nhưng chưa đặt dưới góc độ bảo vệ đối tượng này.
Luận văn “Chế độ bảo hiểm thai sản ở Việt Nam” (Khoa Luật – Đại học Quốc gia
Hà Nội) của tác giả Đặng Thị Thơm, năm 2007. Luận văn “Bảo vệ quyền lợi lao
động nữ trong pháp luật lao động Việt Nam” (Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà
Nội) của tác giả Bùi Quang Hiệp, năm 2007. Luận văn “Pháp luật về bảo hiểm xã
hội đối với lao động nữ ở Việt Nam hiện nay” (Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà
Nội) năm 2009 của tác giả Nguyễn Thị Lan. Các luận văn nói trên nghiên cứu về
bảo hiểm xã hội, bảo vệ lao động nữ trong thời điểm các văn bản pháp luật hiện nay
đều đã hết hiệu lực. Luận văn: “Bảo vệ lao động nữ theo pháp luật lao động Việt
Nam”(Đại học Luật Hà Nội), năm 2012 của tác giả Vũ Thị Thảo nghiên cứu về lao
động nữ dưới góc độ bảo vệ của PLLĐ hiện nay. Ngoài ra, còn một số bài viết đăng
tải trên các tạp chí chuyên ngành luật về lao động nữ, bảo hiểm xã hội... Như vậy,
cho đến nay, chưa có đề tài nghiên cứu về thực tiễn thực hiện BHTS tại thành phố
Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Tuy nhiên, các công trình nói trên là nguồn tư liệu quan
trọng để tác giả tham khảo, kế thừa lý luận và phát triển về thực tiễn thực thi nhằm
nâng cao hiệu quả của pháp luật bảo hiểm thai sản ở nước ta hiện nay.
3


3. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài
3.1. Cơ sở khoa học
Thực hiện chủ trương đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hướng tới một xã hội
công bằng dân chủ văn minh, đảm bảo quyền con người, tất cả vì con người, do con
người cho nên vấn đề đảm bảo chính sách an sinh xã hội nhất là BHTS là một trong
những mục tiêu lớn thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Đại hội Đảng

lần thứ 6 năm 1986 khẳng định : “Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc
sống con người, điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục văn hóa, quan hệ gia
đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc… coi nhẹ chính sách xã hội tức là coi nhẹ
yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa”. Tại Đại hội Đảng lần
thứ 9 năm 2001 nhấn mạnh một lần nữa : “Khẩn trương mở rộng hệ thống BHXH
và an sinh xã hội…”.
Cuộc giải phóng phụ nữ gắn liền giải phóng dân tộc luôn là mục tiêu mà Chủ
tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời hướng tới. Từ khi bôn ba tìm đường cứu nước, chủ
tịch Hồ Chí Minh đã có nhiều lần đề cập đến BHXH. Hồ Chí Minh đã tố cáo thực
dân Pháp câu kết với bọn phản động người lao động Việt Nam một cổ hai tròng,
không được hưởng bất kỳ một chế độ, chính sách BHXH nào. Năm 1924 Hồ Chí
Minh đã vạch ra sự thống trị của bọn thực dân phong kiến ở Việt Nam những nhà
máy có hàng ngàn công nhân phải làm từ 12 - 13 tiếng, ngày lễ ngày nghỉ không
được đếm xỉa đến nhưng: “không có BHXH cho tuổi già, không có trợ cấp lúc
thương tật, ốm đau”.
Ngay từ khi có Hiến pháp năm 1946 Nhà nước ta rất quan tâm đến quyền lợi
của phụ nữ, rút ngắn khoảng cách phân biệt đối xử. Lần đầu tiên trong lịch sử Nhà
nước Việt Nam quyền bình đẳng trước pháp luật của mọi công dân được Hiến pháp
ghi nhận: “Đàn bà ngang quyền với đàn ông” quy định này tạo tiền đề và cơ sở cho
chuyển biến to lớn về vị trí vai trò của phụ nữ trong pháp luật và thực tế xã hội Việt
Nam sau này. Hiến pháp năm 1959 kế thừa nguyên tắc tiến bộ của Hiến pháp 1946
tại Điều 24 quy định: “Cùng làm việc như nhau phụ nữ được hưởng lương như nam
4


giới. Nhà nước đảm bảo cho phụ nữ công nhân và phụ nữ viên chức được nghỉ
trước và sau khi đẻ được hưởng nguyên lương. Nhà nước bảo hộ quyền lợi của
người mẹ và của trẻ em, đảm bảo phát triển các nhà đỡ đẻ, nhà giữ trẻ và vườn trẻ.
Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình…”.
Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 kế thừa và đảm bảo quyền bình

đẳng của phụ nữ ở mức độ cao hơn, tại Điều 63 Hiến pháp 1992 đã đề cập một cách
toàn diện hơn sự bình đẳng nam nữ, nhấn mạnh chính sách thai sản của phụ nữ:
“Lao động nữ và nam làm việc như nhau thì tiền lương ngang nhau. Lao động nữ
có quyền hưởng BHTS. Phụ nữ là viên chức Nhà nước và là người làm công ăn
lương có quyền nghỉ trước sau khi sinh đẻ mà vẫn hưởng lương, phụ cấp theo quy
định của pháp luật”. Hiến pháp 2013 một lần nữa đảm bảo quyền và cơ hội bình
đẳng giới của phụ nữ, tại Điều 26 quy định: “1. Công dân nam, nữ bình đẳng về
mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới. 2. Nhà
nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai
trò của mình trong xã hội. 3. Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới”.
Luật hóa các nhu cầu an sinh xã hội là một bước tiến quan trọng của hệ thống
chính sách xã hội. Dựa trên hai nguyên tắc của an sinh xã hội là san sẻ trách nhiệm
và thực hiện công bằng xã hội cho nên BHXH nói chung và BHTS nói riêng đảm
bảo an toàn cho các thành viên trong xã hội (chủ yếu là người lao động có tham gia
BHXH) cho phép họ sống có ý nghĩa trong các trường hợp thai sản: sinh sản, nuôi
con sơ sinh thực hiện các biện pháp tránh thai khi họ tạm thời khó khăn không có
thu nhập. Hơn nữa, Việt Nam đang từng bước hội nhập khu vực và quốc tế trên tất
cả các lĩnh vực trong đó có pháp luật. Việt Nam chính thức phê duyệt chuẩn công
ước CEDAW và trở thành thành viên thứ 35 của công ước này. Nước ta là một
trong số các quốc gia có nhiều ưu tiên cho phụ nữ trong lĩnh vực thai sản, đặc biệt
các công ước ILO như Công ước số 3 năm 1919, Công ước số 103 năm 1952… là
tiêu chuẩn quốc tế để đảm bảo quyền của phụ nữ được đặc biệt quan tâm về BHTS.
Như vậy, các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, Hiến pháp, các
văn bản pháp luật, các điều ước quốc tế đa phương và song phương là cơ sở pháp lý
đáp ứng đòi hỏi thực tế của cuộc sống là cơ sở khoa học cho BHTS ở nước ta.
5


3.2. Cơ sở thực tế
Nền kinh tế thị trường sức lao động được coi là hàng hóa, sự thuê mướn nhân

công phát triển, quan hệ lao động trở nên bất ổn cho người lao động làm công ăn
lương như ốm đau, tai nạn, thai sản cho nên rất cần có sự san sẻ rủi ro và chính sách
trợ giúp của nhà nước và người lao động. Những nguyên nhân khách quan và chủ
quan đã khiến người lao động rơi vào cảnh bất lợi nên nhu cầu an sinh xã hội ngày
càng cao như nhu cầu trợ giúp xã hội thường xuyên đối với đối tượng chủ yếu thế
có nguy cơ bị xã hội loại trừ người già, con trẻ, người sinh con… giúp họ thăng
bằng thu nhập bị giảm sút hay bị mất. BHTS chủ yếu dành cho lao động nữ như
khám thai, sẩy thai, nạo hút thai, sinh con, nuôi con nuôi… Ước tính ở nước ta mỗi
năm có hơn hai triệu người bước vào độ tuổi lao động, với những đặc thù về giới
như thể lực, tâm sinh lí, cùng với chức năng làm mẹ và trách nhiệm chăm sóc gia
đình đã gặp rất nhiều khó khăn. Vì thế, cần phải có BHTS khuyến khích tạo điều
kiện thuận lợi cho người lao động khi tham gia vào quan hệ lao động.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu đề tài là tìm hiểu làm sáng tỏ các quy định và hệ thống
BHTS ở Việt Nam về phương diện pháp lý và thực tiễn thực hiện tại thành phố Hạ
Long, tỉnh Quảng Ninh. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện
pháp luật về BHTS và nâng cao chất lượng thực hiện pháp luật về thai sản trong
thời gian tới. Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ đặt ra trong quá trình nghiên cứu
là:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận chung về BHTS như các khái niệm, nguyên
tắc về BHTS, sơ lược lịch sử pháp luật Việt Nam về BHTS….
- Phân tích thực tiễn thực hiện áp dụng BHTS tại thành phố Hạ Long, tỉnh
Quảng Ninh. Kết quả đạt được và các tồn tại cần khắc phục.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định về BHTS.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu:
6


Đối tượng nghiên cứu của đề tài là BHTS và thực tiễn thực hiện tại thành

phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Cụ thể tập trung các vấn đề sau:
- Đối tượng được hưởng BHTS
- Các điều kiện được hưởng BHTS
- Thời gian nghỉ hưởng BHTS
- Các loại và mức hưởng BHTS
- Nguồn tài chính thực hiện BHTS
- Giải quyết tranh chấp về BHTS
- Thực tiễn thực hiện BHTS tại thành phố Ha Long, tỉnh Quảng Ninh
- Giải pháp hoàn thiện BHTS
5.2 Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu BHTS, là các vấn đề liên quan đến người lao động khi thực hiện
chủ yếu chức năng duy trì nòi giống, nuôi con nuôi sơ sinh, thực hiện các biện pháp
tránh thai…. các quyền lợi của họ được hưởng khi tham gia BHXH …và thực tiễn
áp dụng tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa MácLênin, những lý luận cơ bản của phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
- Đề tài có kết hợp sự dụng một số phương pháp: Phân tích, tổng hợp, so
sánh, khái quát hóa để giải quyết nội dung khoa học của đề tài. Đặc biệt, luận văn
chú trọng phương pháp so sánh luật, kết hợp lý luận và thực tiễn.
7. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài.
- Đề tài nghiên cứu dựa trên các quan điểm, chủ trương, chính sách, đường
lối của Đảng và các văn bản pháp luật của Nhà nước về BHTS.
- Cơ sở thực tiễn của luận văn là thực trạng thực hiện BHTS tại Thành phố
Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
7


8. Ý nghĩa của đề tài:
Trên cơ sở nghiên cứu tìm tòi khai thác, xây dựng luận văn, người viết xin
đóng góp một vái ý kiến nhỏ bé của mình vào quá trình hoàn thiện pháp luật BHXH

đặc biệt là BHTS ở Việt Nam với mong muốn giữa pháp luật và thực tế cuộc sống
tìm được tiếng nói thống nhất, các quy định pháp luật có hiệu lực nhằm bảo vệ
quyền lợi của người lao động.
- Người viết xin đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về
BHTS từ thực tiễn thực hiện tại địa phương nơi người viết sinh sống và công tác
(thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh)
- Nội dung của đề tài có thể sử dụng làm nguồn tài liệu tham khảo trong quá
trình giảng dạy và học tập cho các trường cao đẳng, đại học.
9. Kết cấu của Đề tài:
Gồm phần mở đầu, nội dung và kết luận:
- Phần mở đầu luận văn gồm có các vấn đề liên quan đến tính cấp thiết đề tài,
tình hình nghiên cứu, cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn, đối tượng, phạm vi, mục đích,
phương pháp nghiên cứu đề tài, ý nghĩa luận văn.
- Phần nội dung gồm có 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về pháp luật BHTS
Chương 2: Thực tiễn thực hiện BHTS tại TP.Hạ Long, Quảng Ninh
Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật BHTS từ thực tiễn thực hiện tại
Thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh
- Phần kết luận

8


Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁP LUẬT
BẢO HIỂM THAI SẢN
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của BHTS
BHTS là một chế độ bảo hiểm đặc thù nó tạo điều kiện để người lao động chủ
yếu là lao động nữ thực hiện tốt chức năng làm mẹ, nhưng quan trọng hơn là tạo
điều kiện cho lao động nữ thực hiện tốt công tác xã hội.
BHTS là một trong các chế độ của BHXH, bao gồm các quy định của Nhà

nước nhằm bảo hiểm thu nhập và bảo đảm sức khỏe cho người lao động nữ khi
mang thai, sinh con và cho người lao động nói chung khi nuôi con nuôi sơ sinh, khi
thực hiện các biện pháp tránh thai.
Hiện nay, chế độ thai sản được quy định trong pháp luật ở hầu hết các nước
trên thế giới nhưng tùy vào đặc điểm kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi nước mà
chế độ này được quy định khác nhau về thời gian nghỉ, mức trợ cấp, điều kiện
hưởng.
Ở nước ta, cùng với các chế độ BHXH khác, chế độ bảo hiểm thai sản đã
được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật lao động từ khi giành được chính
quyền đến nay.1 Đã qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung nên chế độ trợ cấp thai sản
ngày càng đầy đủ, hoàn thiện và phù hợp hơn với thực tế đời sống, đáp ứng được
quyền lợi hợp pháp, cũng như thể hiện chính sách đặc biệt ưu đãi đối với người lao
động.
Mục đích của BHXH là bù đắp một lượng vật chất nhất định cho người lao
động khi tham gia quan hệ pháp luật về BHXH nhưng ý nghĩa của từng loại trợ cấp
đã tạo nên sự khác biệt giữa các chế độ BHXH. Người hưởng BHTS chủ yếu là lao
động nữ trong độ tuổi sinh đẻ khi khám thai, bị sẩy thai, nạo hút thai, sinh con, nuôi
con nuôi, thực hiện các biện pháp kế hoạch hóa gia đình. Thông qua việc bù đắp
một phần chi phí tăng lên trong quá trình thai nghén sinh con, nuôi con nuôi…
BHTS nhằm mục đích trợ giúp, giữ cân bằng về thu nhập, góp phần tạo sự bình ổn
1

Nguyễn Văn Phần, Đặng Đức San, Tìm hiểu về chế độ bảo hiểm xã hội mới (1995), Nxb. Thành phố
Hồ Chí Minh, tr. 92, 93, 94, 95

9


về mặt vật chất bảo vệ sức khỏe cho lao động nữ nói riêng và người lao động nói
cung. Việc quy định thời gian nghỉ cùng mức trợ cấp thai sản thể hiện rõ sự ưu đãi

của Nhà nước đối với người lao động khi thực hiện thiên chức làm mẹ.
Căn cứ vào thời gian hưởng trợ cấp, BHXH chia thành BHXH dài hạn và ngắn
hạn. Theo đó BHXH ngắn hạn là chế độ BHXH mang tính trợ giúp bảo đảm bù đắp
khi người lao động gặp phải khó khăn tạm thời, giải quyết một vài lần nhưng không
thường xuyên lâu dài BHTS là loại BHXH ngắn hạn giúp người lao động khắc phục
khó khăn thi công việc lao động tạm thơi gián đoạn, bù đắp khoản thu nhập bị mất
trong thời gian đó. Đồng thời trợ cấp BHTS là trợ cấp thay lương hoặc được hưởng
cả trợ cấp một lần mang tính hỗ trợ khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi dưới 06
tháng tuổi.
BHTS có vị trí hết sức quan trọng điều này được ghi nhận tại Hiến pháp 1992
Điều 63: “Lao động nữ có quyền hưởng BHTS, phụ nữ là viên chức Nhà nước và là
người làm công ăn lương có quyền nghỉ trước và sua khi sinh đẻ mà vẫn hưởng
lương, phụ cấp theo quy định pháp luật”.
BHTS có ý nghĩa bảo đảm thu nhập cho người lao động trong quá trình mang
thai, sinh nở, nuôi con, nuôi con nuôi người lao động cần có rất nhiều các nhu cầu
vật chất để giải quyết các chi phí tăng lên thêm cho cả mẹ và con. Khi sinh con họ
mất nguồn thu nhập do công việc tạm thời bị gián đoạn nên xuất hiện nhu cầu bù
đắp lại. BHTS phúc đáp lại nhu cầu của người lao động thông qua khoản trợ cấp
người lao động bù đắp được khoản chi phí tăng lên và khoản thu nhập bị mất, mặt
khác có điều kiện chăm sóc sức khỏe cho mình trong quá trình mang thai, sinh nở
thực hiện các biện pháp kế hoạch gia đình.
BHTS đảm bảo quyền lợi cho phụ nữ: sự khác biệt về giới tính làm cho lao
động nữ có những đặc thù riêng nhất là về tâm sinh lí và thể lực cho nên cần có các
quy định riêng phù hợp bảo đảm quyền lợi cho phụ nữ trong thời kỳ thai sản. BHTS
giúp lao động nữ thực hiện tốt khả năng lao động và thực hiện được chức năng xã
hội về giới của mình. Đây chính là sự bình đẳng giới xuất phát từ sự khác biệt tự
nhiên giữa giới lao động nam và nữ. Trong cơ chế thị trường, nhịp sống và tính chất
10



công việc đòi hỏi cao, có những lúc người phụ nữ đành phải chấp nhận từ bỏ quyền
làm vợ, làm mẹ của mình, đó là sự thiệt hòi về giới không mong muốn. Chính
BHTS đã khắc phục phần nào khó khăn của lao động nữ, trả lại cho lao động nữ
thiên chức tự nhiên của mình đó là quyền trở thành người vợ, người mẹ.
BHTS đảm bảo sức khỏe sinh sản cho lao động nữ, quyền được chăm sóc của
trẻ sơ sinh. Trong thời gian mang thai sẽ có rất nhiều sự biến động về tâm lý của mẹ
và con. Thời kỳ này phát sinh nhu cầu chăm sóc sức khỏe của bà mẹ và thai nhi.
Phúc đáp lại yêu cầu đó, BHTS đã ưu tiên cho lao động nữ được nghỉ làm để khám
thai và vẫn có thu nhập sau khi đứa trẻ ra đời để bảo vệ quyền được chăm sóc của
trẻ sơ sinh. Điều này đã phát huy được bản chất tốt đẹp của chế độ ta đặt mục tiêu
con người lên trên hết, góp phần quan trọng trong chiến lược chăm sóc sức khỏe
của bà mẹ và trẻ em của Đảng và Nhà nước chuẩn bị những điều kiện tốt đẹp cho
thế hệ tương lai đất nước.
Ngoài ra, BHTS còn góp phần ổn định tinh thần cho lao động nữ trong
trường hợp sẩy thai hoặc con chết sau khi sinh tạo điều kiện cho người lao động
nghỉ lấy sức khỏe, cân bằng tinh thần, ổn định tâm sinh lí để chuẩn bị tốt hơn cho
công việc mới.
Thực hiện tốt chính sách thai sản sẽ góp phần đảm bảo sự ổn định xã hội,
đảm bảo thực hiện thắng lợi các chính sách xã hội khác của quốc gia. Thực hiện tốt
chính sách đối với người nghỉ thai sản sẽ góp phần tạo ra động lực mới để thực hiện
các chính sách kinh tế; khuyến khích người lao động hăng hái sản xuất, nâng cao
năng suất và chất lượng lao động. Thực tế cho thấy, ở các nước thực hiện tốt chính
sách thai sản đối với người lao động đã tạo ra một cơ sở xã hội bền vững. Ngược
lại, ở những nước chưa thực hiện tốt chính sách này thì xã hội luôn ở vào trạng thái
bất ổn định, người lao động luôn luôn phải đối mặt trước những khó khăn khi phải
nghỉ việc mà không có những đảm bảo trong cuộc sống ở phía trước. Điều này luôn
dẫn đến những nguy cơ bất ổn định về chính trị ở các quốc gia này. Chính vì vậy,
các nước luôn chú trọng xây dựng và hoàn thiện chính sách BHTS đối với người lao
động, nhằm đảm bảo sự ổn định về chính trị và phát triển xã hội.
11



1.2.Các nguyên tắc của BHTS
Điều 5 Luật BHXH năm 2014 quy định về các nguyên tắc BHXH: “Mức
hưởng BHXH được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng BHXH và có chia sẻ
giữa những người tham gia BHXH.
Mức đóng BHXH bắt buộc được tính trên cơ sở tiền lương tháng của người
lao động. Mức đóng BHXH tự nguyện được tính trên cơ sở mức thu nhập tháng do
người lao động lựa chọn.
Người lao động vừa có thời gian đóng BHXH bắt buộc vừa có thời gian
đóng BHXH tự nguyện được hưởng chế độ hưu trí và chế độ tử tuất trên cơ sở thời
gian đã đóng BHXH. Thời gian đóng BHXH đã được tính hưởng BHXH một lần thì
không tính vào thời gian làm cơ sở tính hưởng các chế độ BHXH.
Quỹ BHXH được quản lý tập trung, thống nhất, công khai, minh bạch; được
sử dụng đúng mục đích và được hạch toán độc lập theo các quỹ thành phần, các
nhóm đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định và chế độ tiền
lương do người sử dụng lao động quyết định.
Việc thực hiện BHXH phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, bảo đảm kịp thời và
đầy đủ quyền lợi của người tham gia BHXH”.
BHTS nằm trong BHXH nói chung nên sẽ tuân theo các nguyên tắc chung
của BHXH. Tuy nhiên, do BHTS là chế độ đặc thù nên BHTS có một nguyên tắc
đặc biệt. Đó là người hưởng BHTS được quỹ BHXH đóng thay phí bảo hiểm trong
thời gian hưởng BHTS.
Tại Điều 39 khoản 2 Luật BHXH quy định: “Thời gian nghỉ việc hưởng chế
độ thai sản từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng được tính là thời gian đóng
BHXH, người lao động và người sử dụng lao động không phải đóng BHXH”.
Quy định này là sự ưu đãi đặc biệt của Quỹ BHXH dành cho đối tượng hưởng
BHTS. Thông thường ở các chế độ BHXH khác (trừ Bảo hiểm hưu trí) trong thời
gian hưởng BHXH, người tham gia BHXH vẫn phải đóng phí bình thường. Điều
này có thể lý giải do xuất phát từ vai trò quan trọng của vấn đề thai sản, người lao

12


động rất cần được sự quan tâm để vượt qua những khó khăn vất vả trong quá trình
sinh nở. Sự ưu đãi đó thể hiện bản chất của chế độ tốt đẹp xây dựng một xã hội
nhân quyền luôn quan tâm đến con người và phù hợp với luật pháp quốc tế.
1.3. Bản chất của BHTS
Trong hệ thống BHXH, BHTS là được áp dụng chủ yếu là đối với lao động
nữ, đối tượng chủ yếu là lao động nữ trong độ tuổi sinh đẻ khi khám thai, bị sảy
thai, nạo, hút thai hoặc thai chết lưu, sinh con, nuôi con nuôi sơ sinh hoặc thực
hiện các biện pháp tránh thai.
BHTS thể hiện trách nhiệm của Nhà nước và của cộng đồng xã hội đối với
thế hệ tương lai, thông qua việc bù đắp một phần chi phí tăng lên trong quá trình
thai nghén, sinh con, nuôi con nuôi sơ sinh, thực hiện các biện pháp tránh thai, đồng
thời BHTS cũng nhằm mục đích trợ giúp, giữ cân bằng thu nhập, góp phần tạo sự
bình ổn về mặt vật chất, bảo vệ sức khỏe cho lao động nữ nói riêng và người lao
động nói chung. Nó có vị trí quan trọng đối với người lao động nữ, nhằm động viên,
khuyến khích và hỗ trợ cho người mẹ khi họ mang thai, sinh đẻ và nuôi con sơ sinh.
Bên cạnh đó, nó còn thể hiện rõ rệt sự ưu đãi của Nhà nước đối với người lao động
khi thực hiện chức năng làm mẹ của họ.
Người phụ nữ ngày nay đã tự lao động để đảm bảo cho cuộc sống và cống
hiến cho xã hội. Qua đó, họ ngày càng khẳng định được vị trí quan trọng của bản
thân trong xã hội, họ đã có mặt trong hầu hết các ngành nghề và đã thể hiện một
cách xuất sắc năng lực của mình. Khác với nam giới họ còn có nhiệm vụ quan trọng
là tái sản xuất con người, do đó khi mang thai và sinh con là giai đoạn khó khăn
nhất của họ nên họ cần được sự quan tâm ngược lại từ phía xã hội. Đó chính là
khoản tiền trợ cấp phù hợp với công sức mà họ đã đóng góp trong suốt quá trình lao
động.
Như vậy, BHTS là một chế độ mang tính xã hội hoá cao, nó được thực hiện
thường xuyên và đều đặn, kế tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nói cách khác, nó

diễn ra một cách liên tục vì sự sống luôn phát triển. Vì vậy, nó tạo ra sự ràng buộc

13


và đoàn kết giữa các thế hệ, làm cho mọi người trong xã hội quan tâm và gắn bó với
nhau hơn, thể hiện mối quan tâm sâu sắc giữa người với người.
1.4. Sơ lược lịch sử pháp luật Việt Nam về BHTS2
1.4.1. Trước năm 1995
Chế độ BHXH là sự cụ thể hóa chính sách BHXH, là hệ thống các quy định cụ
thể và chi tiết, là sự bố trí, sắp xếp các phương tiện để thực hiện BHXH đối với
người lao động. Nói cách khác, đó là hệ thống các quy định được pháp luật hoá về
đối tượng hưởng, điều kiện để được hưởng, mức hưởng, thời hạn hưởng, nghĩa vụ
và mức đóng góp cho từng trường hợp BHXH cụ thể. Chế độ BHXH còn được biểu
hiện dưới dạng các văn bản pháp luật và dưới luật, điều lệ …
Ở nước ta, Đảng và Chính phủ luôn xác định chính sách BHXH là chính sách
có tính chất nhân văn sâu sắc, có tầm quan trọng và vai trò to lớn đối với cuộc sống
con người. Đảng và Chính phủ đã luôn quan tâm đến việc hình thành và phát triển
chính sách BHXH. Ngay từ khi thành lập (năm 1929), trong Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản Đông Dương (tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày nay) đã nêu:
“Tổ chức tất cả vô sản giai cấp và công hội thực hành bảo hiểm cho thợ thuyền;
giúp đỡ thợ thuyền thất nghiệp…”. Sau đó, tại Hội nghị Trung ương tháng 11/1941,
Đảng ta đã ra Nghị quyết sẽ đặt ra Luật BHXH khi thiết lập được chính quyền cách
mạng và tạo lập quỹ hưu bổng cho người già. Chính sách BHXH ở Việt Nam đã
hình thành từ những năm đầu thành lập nước được thể hiện qua việc ban hành một
số Sắc lệnh:
- Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà
(nay là Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam) ra đời, mặc dù với một nền tài chính
hết sức eo hẹp, kinh tế nghèo nàn và lạc hậu, nhưng ngày 03/11/1945 Chủ Tịch Hồ
Chí Minh đã thay mặt Chính phủ ký Sắc lệnh số 54/SL, ngày 14/6/1946 ký Sắc lệnh

số 105/SL ấn định những điều kiện cho công chức về hưu.
2

Giáo trình Luật an sinh xã hội (2007), trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Tư pháp

14


- Sắc lệnh số 20/SL ngày 16/02/1947 quy định về “hưu bổng thương tật” và
“tiền tuất cho thân nhân tử sĩ” đối với những quân nhân thuộc các ngành quân đội
quốc gia Việt Nam”.
- Sắc lệnh số 29/SL ban hành ngày 12/3/1947, trong đó quy định vể “phụ
cấp gia đình”, “phụ cấp thâm niên”, “lệ nghỉ của đàn bà đẻ và cho con bú”, chế độ
ốm đau, tai nạn lao động đối với công nhân Việt Nam.
- Sắc lệnh số 76/SL ban hành ngày 20/5/1950, trong đó có quy định một số
chế độ trợ cấp BHXH đối với công chức Nhà nước.
- Sắc lệnh số 77/SL ban hành ngày 22/5/1950 quy định chế độ trợ cấp đối
với công nhân giúp việc Chính phủ trong thời kỳ kháng chiến.
Tại Sắc lệnh số 29/SL đã dành hẳn một tiết để quy định về BHTS. Theo quy
định tại tiết này, người phụ nữ nghỉ thai sản được nhận trợ cấp trong thời hạn 8 tuần
với mức trợ cấp bằng 5% tiền công kể cả phụ cấp và đựoc nghỉ 30 phút trong giờ
làm buổi sáng và 30 phút trong giờ làm buổi chiều để cho con bú trong thời hạn 01
năm kể từ ngày sinh.
Điều 30 Sắc lệnh số 77/SL có quy định người lao động nữ trong thời kỳ thai
sản được nghỉ 2 tháng, một tháng trước khi sinh và một tháng sau khi sinh với mức
hưởng nguyên lương và phụ cấp. Trong thời hạn 1 năm kể từ ngày sinh, người phụ
nữ được phép nghỉ 1 tiếng cho con bú.
Những quy định trên có nội dung và nguyên tắc về BHXH, nhưng do hoàn
cảnh đất nước đang có chiến tranh, nền kinh tế còn nhiều khó khăn nên việc thực
hiện quyền lợi BHXH nói chung và BHTS nói riêng đối với người lao động trong

giai đoạn này chưa đầy đủ và toàn diện, quỹ BHXH chưa được hình thành. Tuy
nhiên những chế độ trợ cấp mang tính BHXH trong giai đoạn đầu thành lập nước đã
giải quyết được một phần những khó khăn trong đời sống của công nhân viên chức
Nhà nước và gia đình họ, củng cố thêm niềm tin của nhân dân vào Đảng, Chính phủ
và làm cho mọi người an tâm, phấn khởi đẩy mạnh công tác.
Ngày 27/12/1961, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định 218/CP kèm
theo Điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH đối với công nhân viên chức nhà nước
15


và ngày 30/10/1964, ký Nghị định số 161/CP, ban hành Điều lệ tạm thời về các chế
độ đãi ngộ đối với quân nhân ốm đau, bị thương, mất sức lao động, về hưu hoặc
chết; đối với nữ quân nhân khi có thai và khi đẻ; đối với quân nhân dự bị và dân
quân tự vệ ốm đau, bị thương hoặc chết trong khi làm nhiệm vụ quân sự”. Đây là
Điều lệ tương đối đầy đủ, nó đã cụ thể hoá nhiều nội dung chủ yếu về BHXH đối
với công nhân viên chức nhà nước.
Đối với BHTS, Điều lệ dành hẳn tiết 2 (từ Điều 13 đến Điều 22) để quy định,
nội dung cụ thể như sau:
- Về thời gian trợ cấp: Thời gian nữ công nhân viên chức được nghỉ trước và
sau khi đẻ là 60 ngày (kể cả ngày lễ và chủ nhật), nếu đẻ sinh đôi thì được nghỉ
thêm 10 ngày, sinh ba thì được nghỉ thêm 20 ngày. Đối với nữ công nhân viên chức
làm nghề đặc biệt nặng nhọc được nghỉ thêm 15 ngày. Những người sinh non có
chứng nhận của thầy thuốc cũng được nghỉ 60 ngày.
Những người bị sảy thai từ 3 tháng trở xuống được nghỉ từ 7 đến 15 ngày, bị
sảy thai trên 3 tháng được nghỉ 15 đến 30 ngày. Những người làm nghề đặc biệt
nặng nhọc được nghỉ thêm từ 3 đến 10 ngày. Số ngày cần nghỉ do thầy thuốc chỉ
định.
- Về mức trợ cấp: Nữ công nhân, viên chức nhà nước có thai được quyền
khám thai ở các cơ sở y tế nhà nước.
+ Trong thời gian nghỉ đẻ, nghỉ việc do sảy thai, đẻ non được nhận trợ cấp

thay tiền lương bằng 100% lương kể cả phụ cấp và trợ cấp con (nếu có), ngoài ra
còn được nhận tiền bồi dưỡng: 12 đồng và tiền sắm tã lót: 8 đồng. Nếu đẻ sinh đôi,
sinh ba thì được hưởng tiền bồi dưỡng và tiền tã lót gấp đôi, gấp ba.
+ Những người bị sảy thai được điều trị và bồi dưỡng ở bệnh viện theo chế
độ như khi ốm đau. Nếu ở xa bệnh viện, bệnh xá phải nghỉ ở nhà thì được trợ cấp
tiền bồi dưỡng là 6 đồng.
+ Khi sinh đẻ, sảy thai mà sức khoẻ suy nhược được thầy thuốc chứng nhận,
sau khi nghỉ hết thời gian quy định mà không thể trở lại làm việc thì được nghỉ và
nhận trợ cấp như khi ốm đau.
16


+ Sau khi đẻ bị mất sữa hoặc không được cho con bú vì mắc bệnh truyền
nhiễm thì được trợ cấp mỗi tháng 10 đồng cho mỗi đứa con cho đến khi đủ 10 tháng
tuổi. Đối với những người sinh đôi, sinh ba, mặc dù có đủ sữa cho con bú nhưng
vẫn được nhận trợ cấp như trên cho đứa con thứ 2 trở đi.
+ Đối với nữ công nhân viên chức nhà nước hoặc nam công nhân, viên chức
nhà nước có vợ không phải là công nhân, viên chức nhà nước khi con chưa được 10
tháng thì người nuôi con được hưởng trợ cấp này.
Tóm lại: Chế độ BHXH giai đoạn trước năm 1995 nói chung và BHTS nói
riêng đã có những thành tựu đáng kể và thực sự trở thành sự bảo vệ của nhà nước và
xã hội đối với công nhân, viên chức và quân nhân; tạo điều kiện để công nhân, viên
chức quân nhân yên tâm, phấn khởi lao động, sản xuất, chiến đấu, góp phần giải
phóng và xây dựng đất nước. Các chế độ BHXH đã thể hiện tính ưu việt và nhân
văn của chế độ XHCN ở nước ta; quy định về các chế độ BHXH thường xuyên
được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế của từng thời kỳ. BHXH
đã khẳng định quyền lợi thiết yếu của cán bộ, viên chức, quân nhân trong suốt quá
trình làm việc và nghỉ việc khi cao tuổi sức yếu.
1.4.2. Từ năm 1995 đến 2005:
Để phù hợp với sự đổi mới về kinh tế, xã hội và khắc phục được những nhược

điểm của chính sách BHXH trong nền kinh tế bao cấp trước đây, Đảng và Nhà nước
ta đã có chủ trương đổi mới chính sách BHXH. Chủ trương được thể hiện trong
Hiến pháp năm 1992: “Nhà nước thực hiện BHXH đối với công chức và người làm
công ăn lương đồng thời khuyến khích các hình thức BHXH khác đối với người lao
động”.
Tại kỳ họp thứ V quốc hội khoá IX, Bộ Luật lao động đã được thông qua và có
hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/1995, trong đó có chương XII quy định về BHXH.
Trên cơ sở những quy định đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 12/CP kèm
theo Điều lệ BHXH ngày 16/01/1995. Điều lệ BHXH ban hành lần này là văn bản
chính thức đầu tiên thay thế các văn bản quy định về BHXH đã ban hành trước đây.
Để thực hiện chính sách BHXH đã quy định tại Điều lệ này, ngày 16/02/1995 Chính
17


phủ đã ban hành Nghị định 19/CP về việc thành lập BHXH Việt Nam trên cơ sở
thống nhất tổ chức BHXH ở Trung ương và địa phương thuộc Bộ Lao động Thương binh và Xã hội và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam với những chức
năng chính là tổ chức thu, giải quyết các chế độ BHXH, thực hiện đầu tư, bảo toàn,
tăng trưởng quỹ BHXH.
Điều lệ BHXH mới ban hành đã xác định rõ mục tiêu cơ bản là thực hiện đầy
đủ các chế độ BHXH đã quy định trong Bộ Luật lao động đối với người lao động
gặp trường hợp rủi ro trong quá trình lao động; quyền lợi của người phụ nữ khi sinh
con và chăm sóc con; quyền lợi của người lao động khi hết tuổi lao động.
Nhằm hỗ trợ cho người lao động có thu nhập thay thế trong thời gian mang
thai, sinh sản, nuôi con nuôi, để có điều kiện vật chất chăm sóc cho bản thân người
lao động và cho trẻ em.
Nội dung cụ thể của BHTS được quy định tại điều lệ BHXH ban hành kèm
theo Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995 như sau:
a) Đối tượng áp dụng:
+ Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước;
+ Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần

kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên;
+ Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, khu chế xuất, khu công nghiệp; trong các cơ quan, tổ chức nước ngoài hoặc
tổ chức quốc tế tại Việt Nam, trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác;
+ Người lao động làm việc trong các tổ chức kinh doanh dịch vụ thuộc cơ
quan hành chính, sự nghiệp, cơ quan Đảng, đoàn thể;
+ Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp, các tổ chức dịch vụ
thuộc lực lượng vũ trang;
+ Người giữ chức vụ dân cử, bầu cử làm việc trong các cơ quan quản lý
Nhà nước, Đảng, đoàn thể từ Trung ương đến cấp huyện;
18


×