Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp theo pháp luật việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.57 MB, 103 trang )

PHẠM VŨ DŨNG

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬT KINH TẾ

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

ĐĂNG KÝ XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU CÔNG
NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

2014 - 2016

PHẠM VŨ DŨNG

HÀ NỘI - 2016

1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
ĐĂNG KÝ XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

PHẠM VŨ DŨNG


CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS PHẠM HỮU NGHỊ
HÀ NỘI - 2016

2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, Luật văn Thạc sĩ Luật Kinh tế Đăng ký xác lập quyền
sở hữu công nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay là công trình nghiên cứu
của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của PGS. TS Phạm Hữu Nghị.
Các nội dung nghiên cứu, kết quả trong luận văn là trung thực và chưa
công bố dưới bất cứ hình thức nào trước đây. Các số liệu trong luận văn phục vụ
cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn
khác nhau có ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo.
Ngoài ra, trong luận văn còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng
như số liệu của các tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn và chú
thích nguồn gốc. Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu
trách nhiệm về nội dung luận văn của mình.

Hà Nội, ngày 25 tháng 11 năm 2016
Tác giả

PHẠM VŨ DŨNG

3



LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn, tôi đã nhận được rất nhiều sự động viên, giúp đỡ
của các thầy cô và bạn bè, đồng nghiệp:
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS,TS Phạm Hữu Nghị
đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn
thành luận văn.
Xin được trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu; cán bộ, giảng viên Khoa Đào
tạo sau đại học – Viện Đại học mở Hà Nội cùng toàn thể các thầy cô giáo đã
quan tâm giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Xin được trân trọng cảm ơn đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn
động viên và dành những điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt quá trình tôi học
tập và hoàn thành luận văn.
Xin trân trọng cảm ơn!

Hà Nội, ngày 25 tháng 11 năm 2016
Người viết

PHẠM VŨ DŨNG

4


MỞ ĐẦU

1. Lý do lựa chọn đề tài
Sự cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường, đặc biệt là sự bùng nổ của
kinh tế tri thức khiến các quốc gia, doanh nghiệp ngày càng phải quan tâm nhiều
hơn đến vấn đề nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật vào sản
xuất kinh doanh. Điều này đã góp phần làm chuyển hoá và gia tăng không ngừng

hàm lượng chất xám được kết tinh trong mỗi đơn vị sản phẩm, dịch vụ, làm cho các
sản phẩm, dịch vụ được tạo ra ngày càng có giá trị cao, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của
người tiêu dùng. Đồng thời, cũng chính việc tạo ra và áp dụng các thành quả trí tuệ
trong sản xuất kinh doanh đã mang lại cho người nắm giữ nó những lợi thế và tiềm
năng to lớn trên thị trường. Nhưng để có được những thành quả trí tuệ mang lại lợi
thế cạnh tranh và tiềm năng phát triển như vậy, nhà sản xuất, kinh doanh đã phải bỏ
ra rất nhiều thời gian, công sức và tiền của đầu tư. Cho nên, những thành quả trí tuệ
mà họ đã đầu tư sáng tạo ra cần phải được xã hội tôn trọng, thừa nhận và bảo vệ. Do
vậy, việc nhà nước thiết lập cơ chế để bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) đối với
các thành quả trí tuệ nói chung và bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (SHCN) đối
với các thành quả sáng tạo áp dụng trong sản xuất, kinh doanh nói riêng là một yêu
cầu mang tính tất yếu khách quan.
Hơn nữa, trong bối cảnh hội nhập và phát triển hiện nay, vấn đề bảo hộ
quyền SHCN đối với các thành quả sáng tạo trong sản xuất kinh doanh lại càng trở
lên cấp thiết và có ý nghĩa quan trọng hơn bao giờ hết. Bởi vì, bảo hộ quyền SHCN
không chỉ là một biện pháp hữu hiệu để bảo vệ công sức, thành quả đầu tư của các
chủ thể sản xuất kinh doanh, giúp họ hạn chế được những rủi ro và tránh được
những tranh chấp không đáng có trên thị trường, mà hoạt động này còn có thể nâng
cao khả năng cạnh tranh, từ đó từng bước tạo dựng uy tín cho các chủ thể sản xuất
kinh doanh trên thương trường. Đồng thời, cơ chế bảo hộ quyền SHCN khi được

5


thực hiện tốt sẽ tạo ra một môi trường pháp lý an toàn, có lợi cho việc khuyến khích
nghiên cứu sáng tạo, đổi mới công nghệ và thu hút đầu tư trong và ngoài nước. Điều
này, sẽ tạo ra một động lực mạnh mẽ trong toàn xã hội để thúc đẩy phát triển sản
xuất kinh doanh và tăng trưởng kinh tế xã hội.
Nhận thức được vai trò quan trọng của việc bảo hộ quyền SHCN đối với sự
phát triển kinh tế xã hội nên các quốc gia phát triển như Mỹ, Nhật, Hàn, Đức, Pháp,

Trung Quốc, Thái Lan, Singapore… đã sớm quan tâm đến cơ chế bảo hộ quyền
SHCN và đưa ra các chương trình, chính sách thúc đẩy mang tính quốc gia về mặt
SHTT với các nội dung: đẩy mạnh các hoạt động tư vấn, giáo dục đào tạo về SHTT;
tổ chức đào tạo trực tuyến nhằm cung cấp miễn phí những khoá đào tạo về SHTT
cho các doanh nghiệp và công chúng; xúc tiến các hoạt động hỗ trợ tạo ra tài sản trí
tuệ như giảm 50% phí nộp đơn cho các doanh nghiệp nhỏ, giảm 70% phí nộp đơn
cho các doanh nghiệp vừa; đối với nhà đầu tư không có khả năng chi trả thực hiện
giảm 100% phí nộp đơn; thúc đẩy thương mại các sản phẩm trí tuệ bằng cách thành
lập “Hội đồng về thương mại các công nghệ được bảo hộ sáng chế” và tiến hành hỗ
trợ thương mại điện tử với các sản phẩm được bảo hộ có chất lượng cao. Nhờ các
chính sách quan tâm và đầu tư có hiệu quả cho hoạt động bảo hộ quyền SHCN mà
nhiều quốc gia, doanh nghiệp đã đạt được những thành tựu phát triển vượt bậc trong
việc thúc đẩy sáng tạo khoa học kỹ thuật, chuyển giao công nghệ và xây dựng các
thương hiệu nổi tiếng mang tầm quốc tế.
Với mục tiêu tạo lập môi trường pháp lý an toàn để thúc đẩy hoạt động nghiên
cứu sáng tạo, phát triển sản xuất kinh doanh, thu hút đầu tư trong và ngoài nước, tạo
nền tảng đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại như tinh thần nghị quyết của Đảng đặt ra, Nhà nước ta đã không ngừng hoàn
thiện hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật nói chung, trong đó có hệ thống cơ chế,
chính sách, pháp luật về bảo hộ quyền SHCN. Theo quy định của Luật SHTT Việt
Nam, đại đa số các đối tượng SHCN là được xác lập quyền và bảo hộ trên cơ sở
quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục
đăng ký. Với cơ chế mà Luật SHTT quy định, vấn đề đăng ký xác lập quyền SHCN

6


có vai trò rất quan trọng trong hoạt động bảo hộ quyền SHCN. Đăng ký xác lập
quyền SHCN không chỉ xác định địa vị và phạm vi bảo hộ của các đối tượng SHCN
mà nói còn là căn cứ cho các hoạt động thực thi quyền SHCN trên thực tế.

Chính xuất phát từ vị trí và tầm quan trọng nêu trên của hoạt động đăng ký
xác lập quyền SHCN, cho nên học viên đã chọn chủ đề “Đăng ký xác lập quyền sở
hữu công nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn tốt
nghiệp thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề bảo hộ quyền SHTT nói chung, bảo hộ quyền SHCN nói riêng đã
được bàn đến trong nhiều công trình nghiên cứu ở trong và ngoài nước. Thông qua
việc tổng hợp các tài liệu liên quan đến vấn đề này, người viết được biết, bảo hộ
quyền SHCN đã được đề cập trong các tài liệu và công trình nghiên cứu sau:
Về các tài liệu, công trình nghiên cứu trong nước, trước hết có các tài liệu
giáo trình sau đã đề cập vấn đề bảo hộ quyền SHTT như: cuốn “Quyền sở hữu trí
tuệ” của Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chính Minh do Tiến sĩ Lê Nết biên
soạn, Nxb. Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, năm 2006; cuốn “Giáo trình
Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam” của Trường Đại học Luật Hà Nội do Tiến sĩ Phùng
Trung Tập chủ biên, Nxb. Công an nhân dân, năm 2008; cuốn “Giáo trình Luật sở
hữu trí tuệ” của tác giả Lê Đình Nghị và Vũ Thị Hải Yến biên soạn, Nxb. Giáo dục
Việt Nam, năm 2009.
Tài liệu chuyên khảo có các tài liệu tiêu biểu sau: “Bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ ở Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” do PGS.TS. Lê Hồng Hạnh
chủ biên, Nxb. Chính trị quốc gia, năm 2004; cuốn “Các yếu tố của quyền sở hữu trí
tuệ” của Tiến sĩ Phùng Trung Tập, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, năm 2004; cuốn “Bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” do Viện
Khoa học pháp lý thuộc Bộ Tư pháp phát hành, Nxb. Tư pháp năm 2004; cuốn
“Nhãn hiệu hàng hóa trong pháp luật dân sự của Đinh Văn Thanh - Đinh Thị Hằng,
Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2004; cuốn “Bảo hộ sở hữu công nghiệp, 380

7


câu hỏi và đáp dành cho doanh nghiệp” của Vũ Khắc Trai, Nxb. Giao thông vận tải,

Hà Nội, năm 2006; cuốn “Những nội dung cơ bản của Luật sở hữu trí tuệ” của Vụ
Công tác lập pháp, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, năm 2006.
Về các đề tài nghiên cứu, các luận án, luận văn có các công trình sau:
“Những vấn đề lý luận và thực tiễn hoàn thiện khung pháp luật Việt Nam về bảo
hộ sở hữu trí tuệ trong xu thế hội nhập quốc tế và khu vực” (đề tài nghiên cứu
khoa học QG 01.10 do Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội thực hiện); luận án
tiến sĩ “Bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn hiệu hàng hoá ở Việt Nam” của Nguyễn
Văn Luật, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2006; luận án tiến sĩ “Bảo hộ nhãn
hiệu nổi tiếng – Nghiên cứu so sánh giữa pháp luật Liên minh Châu Âu và Việt
Nam” của Phan Ngọc Tâm, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, năm 2011; luận
án tiến sĩ “Bảo hộ quyền SHCN dưới góc độ thương mại đối với chỉ dẫn địa lý của
Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” của Lê Thị Thu Hà, Đại học
Ngoại thương, năm 2010; luận án tiến sĩ “Vấn đề thực thi quyền SHTT có yếu tố
nước ngoài của lực lượng Công an nhân dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”
của Nguyễn Vĩnh Diện, Đại học Luật Hà Nội, năm 2014. Luận văn thạc sĩ có:
“Quyền ưu tiên đối với việc đăng ký sở hữu công nghiệp tại Việt Nam” của Lê
Mai Thanh, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 1999; “Xác lập quyền sở
hữu công nghiệp theo quy định của pháp luật Việt Nam” của Trịnh Thu Hải, Khoa
Luật, Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2006; “Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với
các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ theo quy định của pháp luật
Việt Nam” của Đoàn Thị Thuý Lan, Khoa Luật, Đại học Quốc Gia Hà Nội, năm
2006; “Bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn hiệu hàng hóa theo pháp luật Việt Nam
và pháp luật Hoa Kỳ”của Phạm Thị Nhị, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội,
năm 2006; “Thực thi quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp kiểm soát hàng hóa xuất
khẩu, nhập khẩu tại Cục hải quan tỉnh Lào Cai - Thực trạng và giải pháp” của Phí
Đình Mạnh, Đại học Luật Hà Nội, năm 2014…
Các bài viết có: “Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các qui định về xác lập
quyền sở hữu công nghiệp”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, chuyên đề về sở hữu trí

8



tuệ, tháng 3 năm 2005; “Xu hướng phát triển của hệ thống pháp luật bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế” của Nguyễn Thị Quế Anh,
Tạp chí Khoa học pháp lý, số 2 năm 2009; “Tác động của việc gia nhập WTO đối
với pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam” của Lê Thị Nam Giang, Tạp chí Khoa học
pháp lý số 1/2008; “Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp kiểm soát biên
giới” của Tào Thị Huệ, Tạp chí Luật học số 3/2014; “Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
đối với sáng chế liên quan đến dược phẩm theo quy định của pháp luật Việt Nam”
của Lê Thị Bích Thủy, Tạp chí Luật học số 6/2015…
Tài liệu nước ngoài có: cuốn “Bảo hộ quyền SHCN” của tiến sĩ Gordian
N.Hasselblatt, Cộng hòa liên bang Đức, năm 2001; cuốn“SHTT - Một công cụ đắc
lực để phát triển kinh tế” (Intellectual Property – A power tool for economic
growth) của Kamil Idris, Nxb WIPO, năm 1999, bản dịch của Cục sở hữu trí tuệ
năm 2005; cuốn “Cẩm nang SHTT: Chính sách, pháp luật và áp dụng” (IP Law
handbook: policy, law and use), Nxb WIPO năm 2000, bản dịch của Cục sở hữu trí
tuệ năm 2005…
Các tài liệu, công trình nghiên cứu nói trên thường đề cập các nội dung liên
quan của việc bảo hộ, thực thi quyền SHTT nói chung hoặc đề cập các vấn đề liên
quan của bảo hộ, thực thi quyền SHCN nói riêng hoặc đề cập về hệ thống xác lập
quyền SHCN nói chung. Vấn đề đăng ký xác lập quyền cho các đối tượng SHCN
liên quan chưa được nghiên cứu sâu trong các công trình nói trên. Do vậy, việc
nghiên cứu vấn đề đăng ký xác lập quyền SHCN theo quy định của pháp luật Việt
Nam là không bị trùng lặp với các công trình nghiên cứu đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Thông qua việc nghiên cứu vấn đề đăng ký xác lập quyền SHCN theo quy
định của pháp luật Việt Nam hiện nay, học viên muốn làm sáng tỏ một số vấn đề lý
luận và thực tiễn liên quan đến hoạt động đăng ký xác lập quyền SHCN cho các đối
tượng SHCN dùng trong hoạt động sản xuất và kinh doanh. Từ đó, đề xuất các kiến


9


nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về đăng ký xác lập quyền sở hữu công
nghiệp, đồng thời chỉ ra các giải pháp để thúc đẩy và nâng cao hiệu quả của hoạt
động đăng ký xác lập quyền cho các đối tượng SHCN dùng trong hoạt động sản
xuất, kinh doanh.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận liên quan về đăng ký xác lập quyền cho
các đối tượng SHCN trong hoạt động sản xuất và kinh doanh thương mại như: khái
niệm, đặc điểm, vai trò của đăng ký xác lập quyền SHCN; các quy định liên quan
của pháp luật về đăng ký xác lập quyền SHCN; các yếu tố tác động đến pháp luật về
đăng ký xác lập quyền SHCN;
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động đăng ký xác lập quyền SHCN đối
với các đối tượng SHCN trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các tổ chức, cá
nhân; trên cơ sở đó nêu những hạn chế và chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế
trong hoạt động đăng ký xác lập quyền đối với các đối tượng SHCN trong hoạt
động sản xuất kinh doanh làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp liên quan;
- Đề xuất phương hướng, giải pháp và các bảo đảm nhằm hoàn thiện các quy
định pháp luật về đăng ký xác lập quyền cho các đối tượng SHCN trong hoạt động
sản xuất kinh doanh, cũng như nâng cao hiệu quả của hoạt động đăng ký xác lập
quyền đối với các đối tượng SHCN dùng trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu nêu trên, đối tượng nghiên cứu
của luận văn bao gồm:
- Thứ nhất, là các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về vấn đề đăng
ký xác lập quyền SHCN cho các đối tượng SHCN dùng trong hoạt động sản xuất
kinh doanh thương mại.


10


- Thứ hai, là thực trạng đăng ký xác lập quyền SHCN cho các đối tượng
SHCN trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các tổ chức, cá nhân theo quy định
pháp luật hiện hành.
Phạm vi nghiên cứu thực tiễn của luận văn là hoạt động đăng ký xác lập
quyền SHCN đối với các đối tượng SHCN trong hoạt động sản xuất kinh doanh trên
phạm vi toàn quốc được giới hạn trong thời gian từ năm 2011 đến năm 2015.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn là phương pháp luận
của triết học Mác xít cả về chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện
chứng. Đồng thời, luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể của
các ngành khoa học khác như: phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so
sánh, phương pháp thống kê...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Những nghiên cứu và kiến giải của luận văn sẽ góp phần bổ sung và hoàn
thiện lý luận liên quan về vấn đề đăng ký xác lập quyền SHCN, đồng thời nó còn có
tác dụng nhất định trong việc định hướng và thúc đẩy hoạt động đăng ký xác lập
quyền SHCN trong thực tiễn. Do vậy, nghiên cứu này sẽ là tài liệu tham khảo cho
các cơ sở nghiên cứu, đào tạo luật học. Đồng thời, nghiên cứu này còn là tài liệu
tham khảo cho các cơ quan, tổ chức hữu quan trong việc nghiên cứu hoàn thiện
pháp luật hoặc tổ chức thực thi pháp luật về đăng ký xác lập quyền SHCN.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, cơ cấu của luận văn
này bao gồm 3 chương, cụ thể như sau:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về đăng ký xác lập quyền sở hữu công
nghiệp;
- Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn đăng ký xác lập quyền quyền
sở hữu công nghiệp ở Việt Nam;


11


- Chương 3: Yêu cầu, định hướng, giải pháp thúc đẩy đăng ký xác lập quyền
quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam.

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐĂNG KÝ XÁC LẬP
QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
1.1 Khái niệm và đặc điểm của quyền sở hữu công nghiệp
1.1.1 Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp
Theo quan niệm truyền thống, quyền SHTT được phân chia thành hai lĩnh
vực đó là “Bản quyền tác giả” và “Quyền SHCN”. Điều 2, khoản 8 Công ước thành
lập tổ chức SHTT thế giới (WIPO) ký tại Stockholm ngày 14 tháng 7 năm 1967 đã
chỉ rõ: “Sở hữu trí tuệ sẽ bao gồm các quyền liên quan tới:
(1) Các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học;
(2) Chương trình biểu diễn của các nghệ sĩ biểu diễn, các bản ghi âm và
chương trình phát thanh, truyền hình;
(3) Sáng chế trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của con người;
(4) Các phát minh khoa học;
(5) Kiểu dáng công nghiệp;
(6) Nhãn hiệu hàng hoá, nhãn hiệu dịch vụ, các chỉ dẫn và tên thương mại;
(7) Bảo hộ chống cạnh tranh không lành mạnh…và tất cả những quyền khác
là kết quả của hoạt động trí tuệ trong lĩnh vực công nghiệp, khoa học, văn học hoặc
nghệ thuật”.
Trong đó, những đối tượng nêu ở mục (1) thuộc về nhóm bản quyền còn gọi
là quyền tác giả. Các đối tượng nêu ở mục (2) thuộc về nhóm quyền liên quan còn
gọi là quyền kế cận –tức quyền nảy sinh từ bản quyền, có liên quan trực tiếp đến


12


bản quyền. Cả hai nhóm này thuộc về lĩnh vực bản quyền tác giả. Những đối tượng
nêu ở mục (3), (5), (6) đều thuộc lĩnh vực quyền sở hữu công nghiệp. Đối tượng
được đề cập ở mục (7) cũng được coi là đối tượng của bảo hộ quyền SHCN. Bởi vì,
Công ước Paris về bảo hộ quyền SHCN (văn bản Stockholm năm 1967) quy định:
“việc chống cạnh tranh không lành mạnh” là một trong các lĩnh vực bảo hộ quyền
SHCN. Còn các phát minh khoa học được đề cập ở mục (4) không giống như sáng
chế. Nó không phải là một giải pháp mới mà chỉ là sự phát hiện ra các quy luật tồn
tại sẵn có trong giới tự nhiên và không có hiệp ước quốc tế nào đề cập đến quyền sở
hữu đối với phát minh khoa học. Hiệp ước Geneva về ghi nhận quốc tế các phát
minh khoa học (1978) đã định nghĩa: “Phát minh khoa học là việc phát hiện ra hiện
tượng, các đặc tính hay quy luật của thế giới vật chất mà cho đến nay chưa từng
được phát hiện và có thể kiểm chứng”. Trong khi đó, sáng chế là những giải pháp
mới cho các vấn đề kỹ thuật cụ thể. Các giải pháp như vậy, về bản chất phải dựa
trên những đặc tính hay quy luật của thế giới vật chất (nếu không, chúng không thể
được thực hiện hay không khả thi về kỹ thuật).
Cùng với sự phát triển của xã hội, các loại tài sản trí tuệ được con người tạo
ra thông qua hoạt động trí tuệ trong các lĩnh vực công nghiệp, khoa học, văn học
nghệ thuật đã làm cho quan niệm về quyền SHTT hiện nay có những thay đổi nhất
định so với quan niệm truyền thống trước kia. Vì thế, trong các Điều ước quốc tế
được ký kết gần đây mà đáng chú ý là Hiệp định TRIPS đã đưa ra và làm rõ thêm
những loại hình mới của SHTT như: chỉ dẫn địa lý, thiết kế bố trí mạch tích hợp, bí
mật kinh doanh, quyền đối với giống cây trồng…Phù hợp quan niệm và xu thế phát
triển hiện nay, trong Luật SHTT Việt Nam ban hành năm 2005, quyền SHTT
cũngđược phân chia thành ba lĩnh vực đó là: quyền tác giả, quyền SHCN và quyền
đối với giống cây trồng. Điều 3 Luật SHTT 2005 đã quy định cụ thể các đối tượng
SHTT được nhà nước Việt Nam bảo hộ thuộc ba lĩnh vực nêu trên đó là:
“1. Đối tượng quyền tác giả bao gồm tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học;

đối tượng quyền liên quan đến quyền tác giả bao gồm cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi
hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá.

13


2. Đối tượng quyền sở hữu công nghiệp bao gồm sáng chế, kiểu dáng công
nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên
thương mại, chỉ dẫn địa lý.
3. Đối tượng quyền đối với giống cây trồng là giống cây trồng và vật liệu
nhân giống”.
Với tư cách là một bộ phận của quyền SHTT, khái niệm quyền SHCN được
hình thành, phát triển cùng với quá trình áp dụng trí tưởng tượng và tri thức của con
người trong hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động đổi mới và sáng tạo. Ngày
nay, khái niệm này cũng được đề cập nhiều trong các sách báo và công trình khoa
học. Đồng thời, khái niệm này đã và đang được sử dụng một cách rộng rãi trong đời
sống xã hội.
Theo Từ điển bách khoa, khái niệm “quyền SHCN” được hiểu là “các quyền
của cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác do pháp luật quy định đối với sáng chế,
giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, tên gọi xuất xứ hàng
hoá hoặc các đối tượng khác. Các quyền đó phát sinh trên cơ sở đăng ký với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền (Cục SHCN) theo trình tự và thủ tục do pháp luật
quy định. Chứng chỉ xác nhận quyền được gọi là văn bằng bảo hộ quyền SHCN có
giá trị hiệu lực trong một thời hạn nhất định. Người được cấp văn bằng bảo hộ được
coi là chủ sở hữu, tức là người nắm giữ quyền SHCN. Trong thời hạn hiệu lực của
văn bằng bảo hộ, người được cấp văn bằng đó được thực hiện một số quyền liên
quan đến đối tượng SHCN được bảo hộ, trong đó quan trọng nhất là quyền sử dụng,
khai thác đối tượng và quyền kiện người khác sử dụng đối tượng khi không được
phép của mình” [30, tr. 639].
Khái niệm mà Từ điển bách khoa đưa ra về cơ bản đã bao hàm hết các nội

dung của quyền SHCN. Nó đã chỉ ra chủ thể, đối tượng, nội dung và căn cứ phát
sinh quyền. Tuy nhiên, nếu hiểu theo nội dung khái niệm này thì quyền SHCN chỉ
được phát sinh trên cơ sở đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Điều này là
chưa phù hợp với thực tế. Bởi vì, quyền SHCN đối với tên thương mại, bí mật kinh

14


doanh, quyền chống cạnh tranh không lành mạnh không phát sinh trên cơ sở đăng
ký mà phát sinh trên cơ sở sử dụng hợp pháp các đối tượng đó.
Theo Từ điển Luật học, khái niệm “Quyền SHCN” được hiểu là: “… quyền
sở hữu của cá nhân, pháp nhân đối với sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công
nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, quyền sử dụng đối với tên gọi xuất xứ hàng hoá và các
đối tượng khác theo quy định của pháp luật. Quyền sở hữu của cá nhân và pháp
nhân đối với các đối tượng SHCN được xác lập theo văn bằng bảo hộ do cơ quan
nhà nước có thẩm quyền cấp. Họ có quyền sử dụng, chuyển giao quyền sử dụng các
đối tượng thuộc sở hữu của họ cho người khác và phải tuân thủ các quy định về sử
dụng và chuyển giao các đối tượng SHCN” [31, tr. 654].
Khái niệm này tuy đã đề cập các nội dung cơ bản của quyền SHCN nhưng
cũng giống khái niệm nêu ra trong Từ điển bách khoa, cơ chế xác lập quyền mà
khái niệm này chỉ ra còn chưa phù hợp với thực tiễn. Bởi vì, không phải mọi đối
tượng SHCN đều cần phải được cấp văn bằng để xác lập quyền. Đối với những đối
tượng như tên thương mại, bí mật kinh doanh, quyền chống cạnh tranh không lành
mạnh, quyền SHCN được xác lập trên cơ sở sử dụng mà không cần phải cấp văn
bằng bảo hộ. Ngoài ra, ở khái niệm này, việc xác định chủ sở hữu cũng chưa phù
hợp. Khái niệm này mới chỉ đề cập hai loại chủ sở hữu là cá nhân và pháp nhân.
Trong khi đó, trên thực tế còn có những chủ thể khác như hộ kinh doanh cá thể,
doanh nghiệp tư nhân là những tổ chức không có tư cách pháp nhân nhưng vẫn là
chủ sở hữu của quyền SHCN.
Trên cơ sở kế thừa và khắc phục những hạn chế nêu trên, Luật SHTT 2005

đã quy định khá cụ thể về quyền SHCN. Theo đó, quyền SHCN được hiểu là
“quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí
mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh
do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh”.
Khái niệm này về cơ bản đã phù hợp với yêu cầu của hiệp định TRIPS và các điều
ước, thông lệ quốc tế.

15


Từ những quan niệm nêu trên về quyền SHCN và những đối tượng SHCN
được bảo hộ, chúng ta có thể hiểu như sau về quyền SHCN: Quyền SHCN là quyền
của các tổ chức, cá nhân đối với các đối tượng SHCN, bao gồm sáng chế, giải pháp
hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu,
tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu
và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh.
1.1.2. Đặc điểm của quyền sở hữu công nghiệp
Quyền SHCN là một loại quyền tài sản, nó có đầy đủ các đặc điểm của
quyền sở hữu tài sản nói chung, đó là chủ sở hữu có toàn quyền đối với tài sản của
mình và không ai được sử dụng tài sản đó nếu không được chủ sở hữu cho phép.
Bên cạnh những đăc điểm chung này, quyền sở hữu công nghiệp còn có một số đặc
điểm khác biệt sau:
Một là, đối tượng của quyền SHCN đều là các đối tượng có tính vô hình,
chúng bao gồm: sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ
dẫn địa lý, tên thương mại, bí mật kinh doanh và quyền chống cạnh tranh không
lành mạnh. Mặc dù các đối tượng này tồn tại dưới hình thức khác nhau nhưng
chúng đều có điểm chung là có tính vô hình. Do đó chúng ta không thể cầm nắm
các đối tượng này một cách trực tiếp như các loại tài sản hữu hình khác. Chẳng hạn,
một chiếc máy tính, nó có hình dạng vật chất cụ thể, chiếm một vị trí nhất định
trong không gian vật chất, nên chúng ta có thể sờ thấy và cầm nắm được nó một

cách trực tiếp. Nhưng một sáng chế, một nhãn hiệu hay một kiểu dáng công nghiệp
nào đó, nó không có không gian vật chất hữu hình, nó tồn tại dưới dạng thông tin để
giải quyết một vấn đề kỹ thuật đạt ra trong thực tế (sáng chế), hoặc tồn tại dưới
dạng phương án thiết kế hình dáng được đặt ra cho một sản phẩm sắp ra đời (kiểu
dáng công nghiệp) hoặc một thông tin dưới dạng từ ngữ hoặc hình ảnh để nhận diện
và phân biệt hàng hóa (nhãn hiệu). Vì thế cho nên các đối tượng SHCN này đều
không thể trực tiếp cấm nắm được.
Hai là, đối tượng của quyền SHCN đều có liên quan trực tiếp tới hoạt động
sản xuất, kinh doanh. Mặc dù mục đích hướng tới của các đối tượng SHCN này là

16


khác nhau, chẳng hạn như việc tạo ra sáng chế là nhằm giải quyết một vấn đề kỹ
thuật đạt ra trong thực tiễn hay việc tạo ra một nhãn hiệu là nhằm tạo ra dấu hiệu để
phân biệt với hàng hóa dịch vụ của người khác…, nhưng việc tạo ra các đối tượng
SHCN này đa số đều nhằm hướng tới phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Cũng chính vì đặc điểm này, cho nên trong nhiều trường hợp việc xác định tính chất
thương mại của của hành vi sử dụng các đối tượng SHCN được coi là một yếu tố
cần xem xét khi xác định hành vi xâm phạm quyền SHCN.
Ba là, quyền SHCN là quyền lợi mang tính độc quyền. Tính độc quyền của
quyền SHCN thể hiện ở chỗ, đối với một đối tượng SHCN đáp ứng yêu cầu bảo hộ,
nhà nước chỉ trao quyền SHCN cho một chủ thể nhất định và sẽ không trao quyền
SHCN này cho người có đối tượng SHCN có tính trùng lặp hoặc tương tự sau đó.
Đây là điểm khác biệt cơ bản so với quyền sở hữu tài sản thông thường. Bởi vì đối
với tài sản thông thường, nhà nước có thể công nhận quyền sở hữu tài sản cho các
chủ thể khác nhau dựa trên cơ sở đối tượng tài sản mà họ chiếm hữu và không phụ
thuộc vào việc các tài sản này có giống nhau hoặc tương tự hay không. Vì thế, đối
với tài sản hữu hình, việc công nhận quyền sở hữu của anh A đối với chiếc xe máy
SH này không ảnh hưởng đến việc công nhận quyền sở hữu của anh B hoặc anh C

đối với bất kỳ chiếc xe máy SH nào sau đó. Do tính độc quyền chi phối, nên người
được trao quyền SHCN được độc quyền khai thác, sử dụng đối tượng SHCN mà họ
đã bảo hộ, đồng thời họ còn có quyền ngăn cấm người khác làm giả, làm nhái hàng
hóa mang đối tượng SHCN mà họ đã bảo hộ.
Bốn là, quyền SHCN là quyền lợi mang tính lãnh thổ. Theo đó, quyền SHCN
đối với các đối tượng SHCN được bảo hộ chỉ giới hạn trong phạm vi lãnh thổ của
một quốc gia. Còn ngoài phạm vi lãnh thổ quốc gia đó, quyền SHCN đối với một
đối tượng SHCN nào đó lại không đương nhiên được pháp luật bảo hộ. Trong khi
đó, quyền sở hữu đối với các đối tượng tài sản thông thường (động sản) lại không bị
chi phối bởi yếu tố lãnh thổ. Vì vậy, những động sản này nếu được chiếm hữu hợp
pháp thì cho dù người chiếm hữu tài sản này mang nó đi đâu, kể cả là ngoài lãnh thổ
quốc gia, quyền sở hữu tài sản của họ vẫn được pháp luật nước sở tại bảo vệ.

17


Năm là, quyền sở hữu công nghiêp thường là quyền lợi mang tính thời hạn.
Trừ quyền SHCN đối với chỉ dẫn địa lý, quyền SHCN đối với các đối tượng khác
đều có thời hạn bảo hộ nhất định. Chẳng hạn, theo quy định của Điều 93 Luật
SHTT Việt Nam, thời hạn của quyền SHCN đối với sáng chế là 20 năm kể từ ngày
nộp đơn đăng ký bảo hộ; thời hạn của quyền SHCN đối với giải pháp hữu ích là 10
năm tính từ ngày nộp đơn; thời hạn của quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp
là 5 năm kể từ ngày nộp đơn và có thể gia hạn hai lần liên tiếp, mỗi lần là 5 năm;
thời hạn của quyền SHCN đối với nhãn hiệu là 10 năm kể từ ngày nộp đơn và có
thể gia hạn hiệu lực nhiều lần, mỗi lần là 10 năm…
Ngoài ra, quyền SHCN cũng có một số điểm khác biệt so với quyền tác giả,
quyền liên quan và quyền đối với giống cây trồng về phương diện đối tượng quyền,
nội dung quyền và thời hạn bảo hộ.
1.1.3. Pháp luật về quyền sở hữu công nghiệp
Luật SHTT được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày

29/11/2005, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2006. Trên cơ sở tổng kết kinh
nghiệm thực thi Luật SHTT, ngày 19/6/2009, Quốc hội Khóa XII, kỳ họp thứ 5 đã
tiến hành thông qua Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi. Đồng thời, Chính phủ, các bộ
ngành có liên quan đã ban hành một loạt các nghị định, thông tư để hướng dẫn, triển
khai thi hành luật. Có thể nói, các văn bản chuyên ngành này đã tạo ra một hệ thống
văn bản pháp luật tương đối đồng bộ để điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh
vực SHTT, trong đó có cả các quy định về quyền SHCN.
Xét trong mối quan hệ với pháp luật về quyền SHTT, các quy định của pháp
luật điều chỉnh lĩnh vực SHCN chỉ là một bộ phận của pháp luật về quyền SHTT.
Chúng cùng với pháp luật về quyền tác giả, quyền liên quan và pháp luật về quyền
đối với giống cây trồng tạo thành hệ thống pháp luật về quyền SHTT. Mặc dù là
một bộ phận của pháp luật về quyền SHTT, nhưng pháp luật về quyền SHCN cũng
có tính độc lập tương đối. Bộ phận này chỉ hướng tới điều chỉnh những quan hệ xã
hội liên quan đến việc xác lập, khai thác, sử dụng, định đoạt và bảo vệ các đối tượng

18


SHCN dùng trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Hơn nữa, bộ phận pháp luật về
quyền SHCN cũng không phải là một tập hợp giản đơn các quy phạm pháp luật
trong lĩnh vực này mà giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ với nhau tạo nên tính chỉnh
thể và thống nhất của nó. Vì vậy, có thể coi pháp luật về quyền SHCN như là một
tiểu hệ thống nằm trong một hệ thống lớn hơn đó là pháp luật về quyền SHTT.
Với sự phân tích nêu trên, chúng ta có thể hiểu khái niệm pháp luật về quyền
SHCN như sau:
Pháp luật về quyền SHCN là tổng thể các quy phạm pháp luật do cơ quan
nhà nước có thẩm quyền ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong
quá trình xác lập, sử dụng, định đoạt và bảo vệ các đối tượng SHCN, bao gồm sáng
chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán
dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh và quyền chống

cạnh tranh không lành mạnh. Trong đó, các quy định về đăng ký xác lập quyền
SHCN chỉ là một bộ phận nhỏ điều chỉnh các quan hệ nhằm xác lập quyền đối với
các đối tượng SHCN trong sản xuất kinh doanh.
1.2. Khái niệm và đặc điểm của đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp
1.2.1 Khái niệm đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp
Căn cứ quy định khoản 3, Điều 6, Luật SHTT 2005, quyền SHCN đối với
các đối tượng SHCN được xác lập trên cơ sở sau:
“a) Quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết
kế bố trí, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng
bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật
này hoặc công nhận đăng ký quốc tế theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; đối với nhãn hiệu nổi tiếng, quyền sở
hữu được xác lập trên cơ sở sử dụng, không phụ thuộc vào thủ tục đăng ký;
b) Quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại được xác lập trên cơ sở
sử dụng hợp pháp tên thương mại đó;

19


c) Quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh được xác lập trên cơ
sở có được một cách hợp pháp bí mật kinh doanh và thực hiện việc bảo mật bí mật
kinh doanh đó;
d) Quyền chống cạnh tranh không lành mạnh được xác lập trên cơ sở hoạt
động cạnh tranh trong kinh doanh. ”
Theo các quy định nêu trên, việc xác lập quyền SHCN đó như thế nào là phụ
thuộc vào loại hình đối tượng SHCN cụ thể. Nhưng về phương diện xác lập quyền
có thể khẳng định, tùy theo đối tượng SHCN, việc xác lập quyền SHCN được thực
hiện theo một trong các cơ chế sau: một là xác lập quyền SHCNtrên cơ sở quyết
định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký; hai là,
xác lập quyền SHCN trên cơ sở hành vi có được và sử dụng hợp pháp các đối tượng

SHCN. Trong đó, các đối tượng SHCN cần phải thực hiện thủ tục đăng ký để xem
xét xác lập quyền SHCN bao gồm: sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công
nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý. Các đối tượng
SHCN được xác lập một cách tự động trên cơ sở sử dụng hợp pháp mà không cần
thực hiện thủ tục đăng ký xác lập quyền bao gồm tên thương mại, bí mật kinh doanh
và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh.
Từ những quy định cụ thể nêu trên và thực tế xác lập quyền SHCN của nước
ta, chúng ta có thể hiểu khái niệm đăng ký xác lập quyền SHCN là chỉ chế độ pháp
luật mà theo đó tổ chức, cá nhân để được nhà nước công nhận và bảo hộ quyền
SHCN của mình thì cần phải tuân thủ các nguyên tắc, điều kiện, trình tự thủ tục
pháp luật quy định, tiến hành nộp đơn đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, trên cơ sở đó cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm tiến hành
thẩm định và đưa ra quyết định về việc cấp hay không cấp văn bằng bảo hộ đối với
đối tượng SHCN xin đăng ký bảo hộ.
1.2.2. Đặc điểm của đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp

20


Căn cứ vào khái niệm nêu trên và bản chất của hoạt động đăng ký xác lập
quyền SHCN, chúng ta có thể rút ra một số đặc điểm sau về đăng ký xác lập
quyền SHCN:
Thứ nhất, đăng ký xác lập quyền SHCN là một chế độ mang tính pháp lý.
Điều này trước hết thể hiện ở chỗ, đăng ký xác lập quyền SHCN không chỉ bao gồm
hành vi đăng ký của người có nhu cầu xác lập quyền SHCN mà còn bao gồm hành
vi xem xét, thẩm định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và hành vi của các tổ
chức, cá nhân liên quan khác trong những trường hợp nhất định. Tiếp đến, để có thể
xác lập quyền SHCN, thì các chủ thể tham gia vào quá trình này đều cần phải tuân
thủ các quy định liên quan về nguyên tắc, điều kiện, trình tự thủ tục bảo hộ đã được
pháp luật về SHCN quy định. Nói cách khác, chế độ pháp lý về đăng ký xác lập

quyền SHCN sẽ xác định khuôn khổ, hành lang hợp pháp cho các chủ thể trong hoạt
động này, đồng thời đảm bảo trật tự, tính công bằng pháp luật giữa các chủ thể
trong quá trình đăng ký xác lập quyền SHCN.
Thứ hai, về phương diện chủ thể, ngoài các chủ thể cơ bản tham gia vào quá
trình đăng ký xác lập quyền SHCN như người nộp đơn đăng ký xác lập quyền
SHCN và cơ quan xét nghiệm đối tượng xin đăng ký xác lập quyền SHCN, tùy theo
từng giai đoạn hoặc từng trường hợp nhất định, để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của
mình có liên quan đến đối tượng SHCN xin đăng ký hoặc nhằm đảm bảo tính pháp
chế trong quá trình thực hiện hoạt động đăng ký xác lập quyền SHCN, chủ thể tham
gia vào hoạt động đăng ký xác lập quyền SHCN còn có thể là tổ chức, cá nhân có
quyền lợi liên quan hoặc tổ chức, cá nhân bất kỳ có quyền giám sát hoạt động của
các cơ quan nhà nước. Nhưng để đảm bảo tính bình thường của hoạt động đăng ký
xác lập quyền SHCN, các chủ thể không cơ bản này chỉ được tham gia trong những
trường hợp cần thiết có liên quan, đồng thời họ phải đưa ra được lý do và chứng cứ
xác đáng cho việc tham gia của mình vào hoạt động đăng ký xác lập quyền SHCN.
Thứ ba, không phải tất cả các đối tượng quyền SHCN đều xác lập quyền theo
cơ chế nộp đơn đăng ký. Căn cứ theo quy định của Luật SHTT và cũng là thông lệ

21


chung của quốc tế, các đối tượng được xác lập quyền SHCN theo có chế đăng ký
bao gồm:
1) Sáng chế;
2) Giải pháp hữu ích;
3) Kiểu dáng công nghiệp;
4) Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn;
5) Nhãn hiệu;
6) Chỉ dẫn địa lý.
Chính vì vậy, quyền SHCN đối với các loại tài sản trí tuệ nêu trên chỉ được

nhà nước bảo hộ khi người sở hữu các đối tượng này đã thực hiện thủ tục nộp đơn
đăng ký xác lập quyền SHCN và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp văn
bằng bảo hộ dưới một trong các hình thức tương ứng như Bằng độc quyền sáng chế,
Bằng độc quyền giải pháp hữu ích, Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp, Giấy
chứng nhận đăng ký thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, Giấy chứng nhận đăng
ký chỉ dẫn địa lý và Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu.
Thứ tư, khác với các đối tượng SHCN được xác lập quyền một cách tự động
trên cơ sở hành vi sử dụng hợp pháp, quyền SHCN đối với sáng chế, giải pháp hữu
ích, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, chỉ
dẫn địa lý không đương nhiên hình thành mà phải thực hiện bằng cơ chế đăng ký và
cấp văn bằng bảo hộ. Do vậy, đối với các đối tượng này, đăng ký xác lập quyền
SHCN nó mang tính chất là một trình tự, thủ tục cần thiết và bắt buộc. Trình tự thủ
tục này một mặt nó quy định các công đoạn cần phải tuân thủ trong quá trình đăng
ký xác lập quyền, mặt khác nó đảm bảo tính logic, tính hiệu quả của quá trình đăng
ký xác lập quyền SHCN. Bởi vi, nếu không có hành vi đăng ký xác lập quyền
SHCN của tổ chức, cá nhân có nhu cầu, thì sẽ không có hành vi xét nghiệm hình
thức, xét nghiệm nội dung của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và cũng không có

22


hành vi trưng cầu ý kiến liên quan cũng như không có hành vi trao quyền SHCN
cho người có đối tượng SHCN đáp ứng các yêu cầu bảo hộ.
1.2.3. Ý nghĩa của đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp
Đăng ký xác lập quyền SHCN có ý nghĩa rất quan trọng. Điều này được thể
hiện trên những phương diện sau:
a) Đăng ký xác lập quyền SHCN là biện pháp cần thiết để bảo vệ quyền lợi
của người sản xuất, kinh doanh
Trước hết, việc đăng ký xác lập quyền SHCN sẽ tạo ra cơ sở pháp lý vững
chắc để các chủ thể sáng tạo, chủ thể sản xuất kinh doanh có thể bảo vệ một cách an

toàn và hiệu quả đối với các thành quả sáng tạo, thành quả đầu tư của mình được
kết tinh dưới dạng tài sản trí tuệ. Thông qua cơ chế đăng ký xác lập quyền SHCN,
nhà nước không chỉ công nhận quyền SHCN cho các chủ thể, mà trong trường hợp
các quyền SHCN này bị người khác xâm phạm hoặc sử dụng trái phép, nhà nước
còn đứng ra bảo vệ các quyền lợi hợp pháp này. Hơn nữa, với cơ chế đăng ký và
trao quyền SHCN, khi xảy ra tranh chấp hoặc xâm phạm quyền SHCN, các chủ thể
này sẽ nắm trong tay một bằng chứng xác đáng, có tính thuyết phục, có lợi cho việc
chứng minh quyền lợi hợp pháp của mình. Khi đó, người nắm giữ trong tay văn
bằng hoặc giấy chứng nhận đăng ký bảo hộ quyền SHCN sẽ không phải mất nhiều
thời gian, công sức và tiền của cho việc chứng minh quyền lợi của mình. Đây chính
là lợi thế của cơ chế đăng ký xác lập quyền SHCN so với cơ chế tự động xác lập
quyền SHCN.
b) Đăng ký xác lập quyền SHCN còn góp phần bảo vệ quyền lợi chính đáng
của người tiêu dùng
Đăng ký xác lập quyền SHCN không chỉ là biện pháp để bảo vệ quyền lợi
chính đáng của người sản xuất kinh doanh, mà còn là cơ sở để đấu tranh đối với các
hành vi xâm phạm quyền SHCN, góp phần làm hạn chế nạn hàng giả, hàng nhái
trên thị trường. Do vậy một hệ thống đăng ký xác lập quyền SHCN tối ưu, cùng với
một cơ chế thực thi quyền SHCN hiệu quả sẽ mang lại tác động tích cực đối với

23


việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người tiêu dùng; là cơ sở đảm bảo cho
người tiêu dùng có cơ hội được sử dụng những sản phẩm, dịch vụ tốt về chất lượng
do được áp dụng những thành quả sáng tạo trong quá trình sản xuất, đúng về nguồn
gốc xuất xứ do việc sử dụng các dấu hiệu nhận diện đã được bảo hộ. Do vậy, người
tiêu dùng sẽ không phải mất nhiều thời gian, công sức và chi phí cho việc lựa chọn
sản phẩm, dịch vụ mà họ mong muốn sử dụng. Mặt khác, cơ chế bảo hộ quyền
SHCN còn tạo môi trường thuận lợi khuyến khích việc sáng tạo ra các sản phẩm

mới để đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng cao của xã hội.
c) Đăng ký xác lập quyền SHCN còn có tác dụng tích cực trong việc tạo lập
môi trường kinh doanh lành mạnh, nâng cao năng lực cạnh tranh, khuyến khích đầu
tư, thúc đẩy tăng trưởng và hội nhập kinh tế quốc tế
Thông qua cơ chế đăng ký xác lập quyền SHCN, các chủ thể sản xuất, kinh
doanh sẽ nhận được độc quyền trong việc khai thác, sử dụng các đối tượng SHCN
hoặc họ có thể cho phép người khác sử dụng đối tượng SHCN đã đăng ký bảo hộ để
thu về một khoản kinh phí nhất định. Hơn nữa, việc ứng dụng các đối tượng SHCN
vào sản xuất, kinh doanh nhất là các sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công
nghiêp sẽ mang lại cho người sử dụng những lợi thế vô cùng to lớn. Do lợi ích đặc
biệt đó nên nhiều chủ thể trong xã hội mong muốn có được để khai thác lợi ích từ
chúng. Trong bối cảnh trên, nếu không có cơ chế xác lập và bảo hộ quyền SHCN thì
các đối tượng này rất dễ bị khai thác, sử dụng trái phép. Tình trạng này sẽ dẫn đến
hậu quả làm phá vỡ môi trường kinh doanh, làm triệt tiêu động lực phát triển và sẽ
là rào cản đối với quá trình thu hút đầu tư và hội nhập kinh tế quốc tế. Ngược lại,
một khi cơ chế xác lập và bảo hộ quyền SHCN được thiết lập đồng bộ và thực thi
nghiêm minh, quyền và lợi ích hợp pháp của người sáng tạo, người sản xuất kinh
doanh sẽ được đảm bảo. Khi đó, họ sẽ yên tâm thực hiện các hoạt động đầu tư, sản
xuất kinh doanh mà không lo bị người khác đánh cắp, sử dụng trái phép các thành
quả sáng tạo của mình. Như vậy, cơ chế xác lập và bảo hộ quyền SHCN một mặt sẽ
làm lành mạnh hoá môi trường kinh doanh, loại dần ra khỏi môi trường này những
chủ thể làm ăn theo kiểu sao chép, sử dụng trái phép thành quả sáng tạo của người

24


khác. Mặt khác, hoạt động này còn góp phần bảo vệ uy tín, nâng cao năng lực cạnh
tranh cho các doanh nghiệp.
d) Đăng ký xác lập quyền SHCN còn thúc đẩy các hoạt động sáng tạo, đổi
mới kỹ thuật, khuyến khích chuyển giao công nghệ

Để tạo ra một công nghệ mới, một sản phẩm mới với năng xuất, chất lượng
cao hơn, kiểu dáng hấp dẫn hơn hay để gây dựng được một nhãn hiệu có uy tín,
được người tiêu dùng ưa chuộng, các chủ thể đã phải đầu tư rất nhiều thời gian,
công sức và tiền của mới có được. Cho nên, những chi phí mà họ đã bỏ ra cần được
tính đến và bù đắp. Giải quyết vấn đề lợi ích này, nhà nước mới cho phép chủ sở
hữu đối tượng SHCN được độc quyền khai thác, sử dụng chúng trong một thời hạn
nhất định. Đây chính là một biện pháp hữu hiệu nhằm bù đắp chi phí cho người
sáng tạo, tạo ra sự khích lệ quan trọng cho các hoạt động nghiên cứu, sáng tạo trong
toàn xã hội. Bên cạnh đó, việc đăng ký xác lập quyền SHCN còn tạo ra bầu không
khí có lợi cho các hoạt động chuyển giao công nghệ trong và ngoài nước bằng sự an
toàn mà hệ thống này đem lại. Bởi vì, một khi quyền sở hữu đối với các đối tượng
SHCN được công nhận và bảo hộ trên thực tế sẽ buộc các chủ thể khác có nhu cầu
sử dụng các đối tượng SHCN này phải thông qua hoạt động chuyển giao quyền
SHCN mới được quyền khai thác, sử dụng chúng. Ngược lại, nếu thiếu đi cơ chế
xác lập và bảo hộ quyền SHCN sẽ làm triệt tiêu các hoạt động đầu tư, nghiên cứu và
sáng tạo. Lúc đó, thay vì các hoạt động chuyển giao người ta sẽ tiến hành sử dụng
trái phép các đối tượng SHCN dưới dạng công nghệ của người khác để khỏi phải
tốn kém kinh phí đầu tư.
1.3. Các yếu tố tác động đến hoạt động đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp
1.3.1. Sự phát triển kinh tế- xã hội
Trước hết phải khẳng định, kinh tế là yếu tố thuộc về cơ sở hạ tầng của xã
hội. Sự phát triển kinh tế xã hội không chỉ có tác động trực tiếp tới nhu cầu điều
chỉnh pháp luật về lĩnh vực SHCN, mà còn có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động
đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp. Ảnh hưởng của sự phát triển kinh tế xã

25


×