Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Hoàn thiện pháp luật về sở giao dịch hàng hoá ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.52 MB, 85 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
================

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ SỞ GIAO DỊCH
HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

NGUYỄN NGỌC NGHỊ

HÀ NỘI- 2016
1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
================

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ SỞ GIAO DỊCH
HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

NGUYỄN NGỌC NGHỊ

HÀ NỘI- 2016
2



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhà nước đã thực hiện đường lối kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, thừa nhận đa hình thức sở hữu, đa hình thức kinh
doanh. Quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta hiện nay đã đạt được những thành
tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Nó đã thúc đẩy xã hội phát triển, đẩy nền kinh tế
tăng trưởng mạnh mẽ về số lượng và chất lượng. Kéo theo đó là sự phát triển
rầm rộ các loại thị trường, các hoạt động giao dịch, trao đổi hàng hóa. Giao dịch
thương mại, mua bán hàng hóa ngày nay có nhiều phương thức thực hiện như
thông qua các đại lý, trung tâm, các sàn giao dịch... Trong đó phải kể đến các
Sở giao dịch hàng hóa. Sở giao dịch hàng hóa đã không còn mới lạ đối với
nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, ở Việt Nam sở giao dịch hàng hóa vẫn
còn là một khái niệm khá xa lạ với những nhà sản xuất hay các nhà đầu tư.
Người ta vẫn mới chỉ biết đến một loại hình sở giao dịch tương tự sở giao dịch
là sở giao dịch chứng khoán mà thôi.
SGDHH ra đời ở nước ta đã kết nối trực tiếp sản xuất hàng hóa với nhu
cầu thị trường, xóa bỏ tình trạng "được mùa - mất giá" hoặc được giá nhưng
không có hàng để bán. Qua đó, chống đầu cơ giá, hiện tượng "tư thương ép giá
người nông dân" cũng như chuẩn hóa các tiêu chuẩn hàng hóa sản xuất tại Việt
Nam. Mặt khác, khi thị trường có SGDHH tập trung sẽ có sự tham gia trực tiếp
của các định chế tài chính, quỹ đầu tư, nhà đầu tư… giúp huy động vốn hiệu
quả, nhanh chóng cho sản xuất. Quan trọng hơn, SGDHH chính là trung gian để
kết nối thị trường hàng hóa trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, các quy định
pháp luật của nước ta về SGDHH chưa đầy đủ, việc áp dụng pháp luật bộc lộ
nhiều bất cập, hạn chế, ảnh hưởng sự phát triển thị trường, giao dịch hàng hóa
trong nước và quốc tế.

3



Pháp luật về SGDHH đã được nghiên cứu và vận dụng một cách cụ thể vào
Việt Nam, nhưng vẫn chưa được quan tâm và đánh giá đúng mức. Vì vậy cần
phải có nghiên cứu toàn diện để phát huy thế mạnh và áp dụng đúng, hiệu quả
hơn nữa về SGDHH. Trước yêu cầu bức thiết và nhiệm vụ quan trọng đang đặt
ra trong tình hình mới của đất nước và xu thế hội nhập toàn cầu hóa, tác giả
chọn vấn đề: “Hoàn thiện pháp luật về Sở giao dịch hàng hóa ở Việt Nam
hiện nay” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về các khía cạnh khác nhau liên quan
đến Sở giao dịch hàng hóa. Các nghiên cứu này mới chỉ nghiên cứu dưới góc độ
kinh tế và hầu như chỉ giới thiệu về hợp đồng tương lai, thị trường hàng hóa
giao sau...Có thể khái quát các công trình nghiên cứu đó theo hai nhóm vấn đề
sau:
Nhóm 1: Nghiên cứu về SGDHH và hợp đồng mua bán qua SGDHH


Bài viết: Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn để hình thành thị trường

hàng hóa giao sau ở Việt Nam, Bộ Thương Mại, 2000.


Bài viết: Thị trường hàng hóa giao sau, PGS.TS Nguyễn Văn Nam, Nxb

Lao động, Hà Nội 2002.


Bài viết: Hợp đồng mua bán hàng hoá qua sở giao dịch hàng hoá (hợp

đồng giao dịch) nhìn từ góc độ Luật dân sự, Phạm Văn Tuyết, Luật học. Trường

Đại học Luật Hà Nội, Số 5/2006, tr. 67 – 70.


Bài viết: Đặc trưng cơ bản của quan hệ mua bán hàng hoá qua sở giao

dịch hàng hoá theo pháp luật Việt Nam, Nguyễn Thị Yến, Luật học. Trường Đại
học Luật Hà Nội, Số 6/2007, tr. 69 – 73.


Bài viết: Mua bán hàng hoá qua sở giao dịch hàng hoá, Bùi Thanh Lam,

Luật học. Trường Đại học Luật Hà Nội, Số 1/2008, tr. 26 – 32.


Bài viết: Bản chất pháp lí của hợp đồng quyền chọn qua sở giao dịch

hàng hoá của Nguyễn Thị Yến.
4




Bài viết: Các chủ thể tham gia giao dịch trên sở giao dịch hàng hoá,

Nguyễn Thị Yến, Luật học, Số 7/2009, tr. 61 – 66.


Bài viết: Quan niệm về thị trường hàng hoá giao sau và mua bán hàng

hoá qua sở giao dịch hàng hoá, Nguyễn Viết Tý, Luật học. Trường Đại học

Luật Hà Nội, Số 1/2010, tr. 58 – 65.


Bài viết: Một số bình luận về thực thi pháp luật mua bán hàng hoá qua

sở giao dịch hàng hoá, Nguyễn Thị Dung, Luật học. Trường Đại học Luật Hà
Nội, Số 1/2011, tr. 12 – 18.


Khoá luận tốt nghiệp: Tìm hiểu vấn đề mua bán hàng hoá qua sở giao

dịch hàng hoá của Phạm Ngọc Khánh năm 2005, 62 trang .


Khoá luận tốt nghiệp: Mua bán hàng hoá qua sở giao dịch hàng hoá

theo pháp luật Việt Nam hiện hành của Phạm Chí Dũng năm 2008, 53 tr.


Khoá luận tốt nghiệp: Tìm hiểu các quy định của pháp luật về hợp đồng

mua bán hàng hoá qua sở giao dịch hàng hoá của Hoàng Thị Thu Hằng 2012,
52 tr.


Luận văn thạc sĩ: Pháp luật hiện hành về các hợp đồng có liên quan đến

hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa của Nguyễn Thị
Hương, 2013, 73 tr.



Luận văn thạc sĩ: Pháp luật hiện hành về chủ thể tham gia quan hệ mua

bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa của Phạm Bảo Yến, 2014, 67 tr.


Luận án tiến sĩ luật học: Pháp luật điều chỉnh hoạt động mua bán hàng

hoá qua sở giao dịch hàng hoá ở Việt Nam, Nguyễn Thị Yến, 2011,198 tr
Nhóm 2: Nghiên cứu về pháp luật về Sở giao dịch hàng hóa


Bài viết: Hoàn thiện pháp luật về sở giao dịch hàng hoá, Nguyễn Thị

Yến, Luật học. Trường Đại học Luật Hà Nội, Số 11 /2012, tr. 35 – 40.


Khoá luận tốt nghiệp: Pháp luật hiện hành về sở giao dịch hàng hoá ở

Việt Nam của Lê Thị Nhàn, 2010, 56 tr.


Khoá luận tốt nghiệp: Pháp luật Việt Nam hiện hành về sở giao dịch

hàng hoá của Vũ Trọng Toàn, 2011, 50 tr.
5





Khoá luận tốt nghiệp: Sở giao dịch hàng hóa theo quy định của pháp

luật Việt Nam hiện hành của Mai Nguyệt Minh, 2012, 57 tr.


Luận văn thạc sĩ: Những vấn đề pháp lý về mua bán hàng hoá qua sở

giao dịch hàng hoá, Nguyễn Quỳnh Liên, 2006, 70 tr.


Luận văn thạc sĩ: Pháp luật hiện hành về Sở giao dịch hàng hóa của

Đinh Văn Liêm, 2012, 69 tr.


Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về sở giao dịch hàng hóa - Một số vấn đề lý

luận và thực tiễn, Đinh Nguyệt Hà, 2014, 73 tr.
Đề tài “Hoàn thiện pháp luật về Sở giao dịch hàng hóa ở Việt Nam hiện
nay.” ở cấp độ luận văn thạc sĩ sẽ được nghiên cứu chuyên sâu, đầy đủ, có tính
hệ thống về SGDHH trong giai đoạn hiện nay. Bên cạnh đó, tác giả có ý thức kế
thừa kết quả khoa học của những công trình đã công bố và kinh nghiệm thực
tiễn có liên quan.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ luật học, tác giả chủ yếu tập
trung đi vào nghiên cứu những vấn đề lí luận cơ bản về SGDHH, phân tích,
đánh giá một cách toàn diện về quy định pháp luật hiện hành và thực tiễn áp
dụng pháp luật Việt Nam về SGDHH.
4. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
4.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng các quy định pháp luật hiện hành, có sự
đối chiếu với pháp luật quốc tế, phân tích các quan điểm, quan niệm trong khoa
học pháp lí hiện nay về SGDHH, luận văn tìm ra những điểm tích cực, hạn chế,
đề xuất phương hướng và giải pháp cho việc hoàn thiện pháp luật, góp phần làm
sáng tỏ các vấn đề lí luận, lấy đó làm cơ sở khoa học đề xuất phương hướng và
giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật nước ta về SGDHH.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tác giả đặt ra cho mình nhiệm vụ :
6




Nghiên cứu những vấn đề lí luận về SGDHH.



Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn tổ chức thực

hiện pháp luật về SGDHH qua việc phân tích các khảo sát, báo cáo và số liệu
thực tế, đưa ra những nhận xét về những điểm tích cực, những mặt hạn chế.


Đề xuất được những kiến nghị, những giải pháp xác đáng, khoa

học có tính khả thi cho việc hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả
hoạt động của SGDHH.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, đề tài sử dụng kết hợp các phương pháp như
phương pháp lô gic - phương pháp phân tích - phương pháp liệt kê - phương

pháp so sánh. Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lê Nin với phép biện chứng duy vật khoa học và biện chứng khoa học
lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Trong số các phương pháp được sử dụng để nghiên cứu thì phương pháp
phân tích, phương pháp thống kê được sử dụng chủ yếu.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống và tương đối toàn diện ở góc
độ lí luận và thực tiễn về SGDHH, vì vậy kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ có
đóng góp về mặt khoa học.
Luận văn đã góp phần làm rõ khái niệm về SGDHH, đưa ra được những
yêu cầu cụ thể đối với việc quy định về tổ chức và hoạt động của SGDHH.
Tác giả đưa ra được các giải pháp mang tính khả thi sẽ góp phần vào việc
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về SGDHH. Kết quả nghiên cứu trong
luận văn có thể được sử dụng cho việc xây dựng Luật về SGDHH.
Đề tài nghiên cứu có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên
cứu, giảng dạy, học tập, đồng thời giúp ích phần nào cho quá trình xây dựng thị
trường vững mạnh và phát triển SGDHH ở Việt Nam.
7


7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu, ba chương, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo
và mục lục.
Chương 1. Cơ sở lý luận về Sở giao dịch hàng hóa
Chương 2. Thực trạng pháp luật về Sở giao dịch hàng hóa ở Việt Nam
Hiện nay
Chương 3. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về Sở
giao dịch hàng hóa ở Việt Nam hiện nay.


PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỞ GIAO DỊCH HÀNG HÓA
1.1. Nguồn gốc hình thành và phát triển của SGDHH trên thế giới và ở Việt
Nam
1.1.1. Sự hình thành, phát triển SGDHH ở một số nước trên thế giới.
8


SGDHH là một thị trường đặc biệt, tại đó thông qua những người môi
giới do sở giao dịch chỉ định, các bên tiến hành mua bán các loại hàng hóa có
khối lượng lớn, có tính chất đồng loạt, có phẩm chất có thể thay thế được lẫn
nhau. Nó xuất hiện ở châu Âu từ thế kỷ 11 đến thể kỷ 14 và nó được phát hiện ở
Nhật bản vào thế kỷ 17, Sở giao dịch hàng hóa hiện đại bắt nguồn ở Mỹ cuối
thế kỷ 19.
Ở Hoa Kỳ, giữa thế kỷ XIX, tại các chợ đầu mối bến cảng đã có
hàng ngàn Sở giao dịch hàng hoá được thiết lập để thương nhân, nhà sản
xuất các sản phẩm trong lĩnh vực nông nghiệp (ngô, gạo, bông, gia súc… )
gặp gỡ, mua bán, giao kết hợp đồng. Tuy nghiên do sự thay đổi của nền
kinh tế đã dẫn đến tình trạng chỉ còn một số SGDHH lớn còn tồn tại và
phát triển. Ví dụ như: SGDHH New York được thiết lập vào thế kỷ XIX
chuyên về mua bán xăng dầu khí đốt, vàng bạc…
Canada có SGDHH Winnipeg được thiết lập tư cuối thế kỷ XIX
chuyên về mua bán các hàng nông sản (lúa, mì, ngô,… ).
Anh có SGDHH Luandon. Nhật với sở giao dịch Tokyo chuyên về
mua bán vàng bạc, bạch kim, cao su, bông vải, nhôm,…
Hiện nay, thế giới có khoảng 70 SGDHH, trong đó châu Á có khoảng 30
sở giao dịch và loại hình giao dịch chủ yếu là giao dịch phái sinh. Những mặt
hàng chủ yếu trên sở giao dịch này là nông sản (giao dịch trên 41 sở giao dịch),
sản phẩm năng lượng và hóa chất (32 sở giao dịch), kim loại (26 sở giao dịch)

[23]. Điều này phần nào chứng tỏ được sự ưu việt và nổi trội của loại hình mua
bán hàng hóa này. Chúng ta có thể kể đến các sàn giao dịch lớn trên thế giới
như: SGDHH Chicago (Chicago Mercantile Exchange – CME), Sở giao dịch
New York (NYBOT), Sở giao dịch Kim loại Luân Đôn (London Metal Exchange
– LME), SGDHH Luân Đôn (Liffe), SGDHH TOCOM (Tokyo Commodity
Exchange – TOCOM), SGDHH Osaka, SGDHH ICE (Intercontinetal Exchange
– ICE), SGDHH Singapore (Sicom), SGDHH Đại Liên, Sở Giao dịch Kỳ hạn
Thượng Hải, SGDHH Trịnh Châu…[23]
9


Vào những năm 1840, khi mà việc sản xuất ngũ cốc ngày càng phát triển
nhờ sự cải tiến về công nghệ thì những người nông dân ở phía Tây nước Mĩ
thường đến Chicago để bán ngũ cốc cho các thương gia, rồi sau đó những người
này sẽ đưa lượng hàng hoá này đi khắp cả nước. Dần dần, hoạt động này trở nên
sôi nổi đến mức hầu như không đủ nhà kho chứa lúa mì của nông dân. Khối
lượng sản xuất ngày càng lớn trong khi hệ thống vận tải chưa phát triển phù hợp
không thể đáp ứng được nhu cầu vận chuyển hàng hóa. Khi những người nông
dân này đến Chicago họ không hề biết trước giá cả thị trường, hơn nữa ở
Chicago lúc này có rất ít các công cụ để cất trữ hàng hoá và cũng không có một
quy trình chuẩn nào để cân và đánh giá chất lượng ngũ cốc, khiến cho nông dân
rơi vào thế bị động và phụ thuộc vào thương nhân. Thị trường tiêu thụ hỗn loạn,
các nhà đầu cơ lợi dụng tình trạng này ép giálàm giá ngũ cốc giảm mạnh sau vụ
thu hoạch rồi sau đó lại tăng lên khi nguồn cung đã được giải toả. Những hiện
tượng mang tính chu kỳ như vậy đã gây nên những thiệt hại nghiêm trọng cho
người sản xuất lương thực, do đó những người nông dân đã tìm cách tránh rủi ro
bằng cách bán ngũ cốc trước khi vận chuyển đến nơi tiêu thụ, kể cả với mức giá
thấp hơn một ít so với giá dự kiến khi ngũ cốc được đưa đến thị trường. Người
mua và người bán lúc này phải thoả thuận với nhau về số lượng ngũ cốc, chất
lượng, giá cả, thời gian, địa điểm giao hàng và nhận tiền. Ban đầu, những hoạt

động này diễn ra tự phát và đơn lẻ nhưng dần dần do tính ưu việt của nó trong
việc tiêu thụ cũng như lưu thông hàng hoánó lại trở nên ngày càng phổ biến.
Các hiện tương như vậy đã đặt ra cho các nhà kinh tế một nhiệm vụ cần phải
giải quyết, một mặt để giải toả được những ách tắc trong lưu thông, làm ảnh
hưởng tới sự phát triển của nền kinh tế, mặt khác đây cũng là một thị trường
kinh doanh hết sức hấp dẫn.
Năm 1848, trung tâm giao dịch đầu tiên được thành lập: Hội đồng giao
dịch hàng hóa kỳ hạn (CBOT – Chicago Board of Trade) với 83 thành viên
[20] tại đó các bên có thể mua bán trao ngay tiền mặt và lúa mỳ theo tiêu chuẩn
về số lượng và chất lượng do CBOT quy định. Tuy vậy, CBOT chỉ mới dừng lại
10


ở hình thức của một phiên chợ nông sản, vì hình thức mua bán chỉ là nhận hàng
– trao tiền đủ. Phải đến năm 1865, CBOT mới hoàn thiện phương thức giao dịch
nông sản bằng sự ra đời của hợp đồng được tiêu chuẩn hóa “Hợp đồng giao
sau” hay còn gọi là “Hợp đồng tương lai” (Futures Contract)[20]. Đồng thời
CBOT cũng bắt đầu yêu cầu người bán và người mua phải nộp một khoản tiền
bảo chứng khi tham gia giao dịch trên thị trường. Thời điểm này được xem như
là cột mốc đánh dấu cho sự ra đời một cách hoàn chỉnh của phương thức mua
bán qua SGDHH tại Mỹ. Năm 1870, Sở giao dịch bông New York (New York
Cotton Exchange) được thành lập và bắt đầu chi phối thị trường bông, từ việc
mua bán bông cho đến việc thực hiện mua bán các nông sản khác. Năm 1874,
The Chicago Produce Exchange, SGDHH Chicago được thành lập và sau này
đổi tên thành Chicago Mercantile Exchange (CME).
Năm 1922, Luật mua bán ngũ cốc ra đời; năm 1936 đạo luật về Sở giao
dịch là Commodity Exchange Act of 1936 cũng được ban hành; đến năm 2000,
Luật hiện đại hóa hàng hóa tương lai ra đời (Commodity Futures Modernization
Act of 2000) đã mở rộng quy chế cho các công ty môi giới cũng như các thương
gia trong hoạt động này. Năm 1974 Ủy ban mua bán kỳ hạn Mỹ (CFTC Commodity Futures Trading Commission) được thành lập và là tổ chức điều

hành độc lập, đại diện duy nhất của Chính phủ quản lý các hoạt động của thị
trường kỳ hạn.
Các sở giao dịch hàng hóa ngày nay đã trải qua một số giai đoạn sáp
nhập. Ở Nhật Bản số lượng các cuộc sáp nhập đã làm cho số lượng các sở giao
dịch ở nước này giảm xuống hơn một nửa từ 17 sở giao dịch năm 1993 xuống
còn 8 năm 1997. ở Anh, Liffe đã sáp nhập với Sở giao dịch hàng hóa Luân Ðôn
vào tháng 9/1996. Tại Mỹ, NYMEX sàn giao dịch týõng lai nãng lýợng lớn nhất
thế giới lúc bấy giờðã sáp nhập với Comex (Comex hiện nay đang hoạt động
như là một công ty con của Nymex), và các thành viên của cả NYCE và CSCE
đãđều bỏ phiếu đồng ý sáp nhập và thành lập NYBT (Board of Trade of city
New York). Xu hướng sáp nhập các sở giao dịch hàng hóa trên thế giới được dự
11


đoán là sẽ tiếp tục kéo dài,điển hình là vụ sáp nhập giữa hai sở giao dịch lớn
nhất của Mỹ là CBOT và CME để hình thành một sở giao dịch lớn nhất thế giới.
Hiện tại, theo thống kê của các sở giao dịch trên thế giới, số lượng hợp
đồng giao dịch hàng hóa các loại đã tăng trưởng mạnh trở lại, đặc biệt trong
năm 2010 (tăng hơn 47% trong vòng 3 năm từ 2008 - 2010 so với 3 năm trước).
Đồng thời, tài sản được quản lý tại các SGDHH trên thế giới đã tăng mạnh và
tổng dòng vốn đạt hơn 60 tỷ USD trong năm 2010. Các quỹ đầu tư đã đầu tư
khá nhiều vào các kênh an toàn như hàng hóa, nguyên vật liệu…Trong các châu
lục thì Châu Á - Thái Bình Dương là châu lục có khối lượng hợp đồng được
giao dịch cao nhất. Sự tăng trưởng này thể hiện tâm lý của các nhà đầu tư xem
hàng hóa như một loại tài sản an toàn và là sự lựa chọn đầu tư phổ biến vì đặc
tính dễ dàng khi tham gia giao dịch. [23]
Ngày nay, tất cả mọi người có đủ điều kiện có thể tham gia vào thị trường
này ở bất cứ đâu, và bất cứ khi nào thông qua hệ thống Globex nối liền 12 trung
tâm tài chính lớn của thế giới như Lodon, NewYork, Tokyo, Bermuda, Boca
Raton, Chicago, Geneva, Hamburg, Hongkong, Paris, Singapore, Zurich.

Globex là hệ thống giao dịch điện tử hoạt động trên toàn thế giới 24/24 giờ để
phục vụ cho hoạt động tài chính, được CME phát triển. Globex giúp tiến hành
các giao dịch tài chính một cách linh hoạt trên toàn thế giới ở mọi múi giờ, giúp
họ chủ động hơn, không phụ thuộc vào thời gian và địa điểm. Điều này làm tăng
tính hiệu quả, giảm bớt sự giao động giá cả bất thường và xóa bỏ sự chênh lệch
thường thấy của các thị trường truyền thống do thời gian đóng cửa và mở cửa là
khác nhau. Có khoảng 400 trạm máy tính Globex ở trụ sở các hãng trên thế giới.
Sự thay đổi hàng giá của các loại hàng hóa giao dịch tại sở chuyển biến từng
giây một và gây ảnh hưởng không chỉ tới kinh tế của một quốc gia mà còn tới cả
nền kinh tế khu vực và thế giới. [24]
Một số sở giao dịch hàng hóa điển hình trên thế giới hiện nay đang hoạt
động rất hiệu quả, trong đó phải kể đến Sàn giao dịch hàng hóa New York và
Sàn giao dịch trực tuyến FxPro
12


- Sàn giao dịch hàng hóa New York
Sàn giao dịch hàng hóa New York là sàn giao dịch hàng hóa tương lai lớn
nhất thế giới, nằm trong thành phố New York. Hai chi nhánh từ ban đầu của Sàn
là New York Mercantile Exchange và New York Commodities Exchange
(COMEX), nhưng hiện tại hai chi nhánh (công ty) đã sáp nhập. Công ty New
York Merchantile Exchange, Inc. là công ty đại chúng bởi vì công ty mẹ của nó
là NYMEX Holdings, Inc được niêm yết trên Sàn giao dịch chứng khoán New
York tháng 11 năm 2006, mã chứng khoán NMX.
Sàn giao dịch hàng hóa New York là nơi diễn ra các giao dịch hợp đồng
tương lai có giá trị hàng tỉ đôla về hàng hóa năng lượng và kim loại, và những
loại hàng hóa khác được mua và bán trên sàn hoặc thông qua hệ thống máy tính
giao dịch điện tử. Giá cả được niêm yết cho các giao dịch trên Sàn là cơ sở để
tính toán giá cả trên khắp thế giới.
Sàn của NYMEX được điều hành bởi Ủy Ban Giao Dịch Hàng Hóa

Tương Lai (Commodity Futures Trading Commission), một cơ quan độc lập của
Chính phủ Hoa Kỳ. NYMEX là một trong số rất ít sàn trên thế giới còn duy trì
hệ thống Open Outcry, ở đó người giao dịch được dùng lời nói và dấu hiệu bằng
tay trên sàn giao dịch.
- Sàn giao dịch trực tuyến FxPro
Sàn giao dịch Châu Âu, FxPro thuộc sở hữu của công ty FxPro Financial
services Ltd thành lập từ năm 2006 là một công ty đầu tư được cấp phép bởi
Cyprus Securities and Exchange Commission (Số giấy phép 078/07).
Công ty này là thành viên của các tổ chức chuyên nghiệp như : CIFSA (Cyprus
International Financial Services Association,CIFSA Home Page), CCCI
(Cyprus Chamber of Commerce and Industry, ), CFSFA
(Cyprus Financial Services Firms Association, CSFSA ) và đặc trưng của công
ty Fxpro.com là xác định các giá trị và nguyên tắc đạo đức trong tất cả các giao
dịch từng ngày.
13


Fxpro được tạo ra để đáp ứng cho cả hai : nhà đầu tư và các tổ chức đầu
tư trong thị trường ngoại hối, tương lai, chứng khoán hoặc hàng hóa (vàng,
dầu...). FXPro sẽ cung ứng những điều kiện tốt nhất cho từng đối tượng khách
hàng. Nét độc đáo của Fxpro là môi giới trực tuyến, nên các khách hàng có thể
giao dịch trực tiếp trên phần mềm giao dịch mà không cần phải thao tác các thủ
tục giao dịch phức tạp.
Được thành lập từ khá sớm và có quy mô tổ chức chặt chẽ, cách thức hoạt
động tiên tiến, phù hợp với sự phát triển của khoa học công nghệ, các sàn giao
dịch trên thị trường là những điển hình để Việt Nam ta học tập. Phong phú đa
dạng về hình thức và sản phẩm giao dịch, các sàn giao dịch hàng hóa trên thế
giới còn có cách thức tổ chức chuyên nghiệp, hỗ trợ nhiều phương thức giao
dịch thuận tiện cho người bán và người mua.
1.1.2. Sự hình thành, phát triển Sở giao dịch hàng hóa ở Việt Nam.

Cùng với việc phát triển kinh tế, nhu cầu mở rộng các loại thị trường,
trong đó có thị trường hàng hóa và thị trường tài chính trở nên cấp thiết. Hiện
nay, ở Việt Nam nhu cầu thiết lập các Sở giao dịch hàng hóa đã phát triển.
Tại nhiều vùng kinh tế trọng điểm của nước ta đã dần xuất hiện các hình
thức đầu tiên để hình thành Sở giao dịch hàng hóa, đó là việc các chợ đầu
mối mua bán nông sản (lúa, gạo, cao su, cà phê,.. ) ở các tỉnh. Nhằm thúc
đẩy và mở rộng thị trường mà Việt Nam có thế mạnh, thị trường hàng hóa nông
sản của nước ta mở rộng cả trong nước và trên thế giới.
Từ cuối thập niên 90 của thế kỷ XX, Nhà nước đã có chính sách phát
triển sản xuất theo nhu cầu thị trường thể hiện ở LTM năm 1997, Luật Doanh
nghiệp năm 1999; Nghị quyết số 89/NQ-CP của Chính phủ về một số chủ
trương chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và tiêu thụ sản phẩm; Nghị định số
02/2003/NĐ-CP ngày 14/01/2003 của Chính phủ về việc phát triển và quản lý
chợ; Quyết định số 311/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ ngày 20/3/2003 về
việc phê duyệt đề án tiếp tục tổ chức thị trường trong nước, tập trung phát triển
thị trường thương mại nông thôn…Để thúc đẩy thị trường hàng hóa nông sản
14


phát triển cần đảm bảo sự ổn định trong sản xuất, kinh doanh hàng hóa nông sản
bằng phương pháp ký hợp đồng tiêu thụ hàng hóa thích hợp. Quyết định số
80/2002/QĐ-TTg ngày 24/06/2002 của Thủ tướng chính phủ về việc gắn sản
xuất với chế biến và tiêu thụ nông sản hàng hóa để phát triển sản xuất ổn định
và bền vững. Sự ra đời của hàng loạt những phát kiến tài chính trong các thập
kỷ vừa qua đã góp phần giảm thiểu được đáng kể các loại chi phí tài chính,
hướng đến chuẩn hoá các loại tài sản tài chính trên các thị trường tập trung có
sự giám sát chặt chẽ nhằm đảm bảo thanh khoản an toàn cho nhà đầu tư.
Năm 2002, các cơ quan, ban, ngành, hiệp hội ngành nghề và không ít
doanh nghiệp đã quan tâm đến đề án hình thành SGDHH và đã có các dự án xin
thành lập Sở giao dịch đã được gửi lên Bộ Thương mại (nay là Bộ Công

Thương). Tuy nhiên, do có nhiều nguyên nhân (quy mô thị trường, hệ thống
ngân hàng thanh toán…) nên chưa thể ra đời. Tháng 3/2002 Sàn giao dịch hạt
điều do Hiệp hội điều Việt Nam mở tại Trung tâm giao dịch chứng khoán
TPHCM ra đời. Tuy nhiên, sàn giao dịch này chỉ giao dịch đúng một phiên rồi
“chết yểu”. Tiếp theo là sự ra đời của Trung tâm giao dịch thủy sản Cần Giờ
(Cangio ATC) vào tháng 5/2002.
Trung tâm giao dịch cà phê Buôn Mê Thuột (BCEC) được khai trương và
hoạt động ngày 11/12/2008. BCEC là chương trình thí điểm xây dựng chợ đầu
mối của ba vùng nguyên liệu tập trung, đó là Chợ lạc của Nghệ An, Chợ gạo
của Cần Thơ và Chợ cà phê của Đắk Lắk, sau đó thông qua đề xuất của UBND
tỉnh Đắk Lắk đã nâng cấp BCEC thành sàn giao dịch cà phê. Ngân hàng
Techcombank đảm bảo vai trò là ngân hàng ủy thác thanh toán cho hoạt động
giao dịch tại Trung tâm; tập đoàn cà phê Thái Hòa là công ty đảm nhận vai trò
quản lý kho hàng, tổ chức vận hành hệ thống kho và nhà máy chế biến cà phê
thô cho người gửi; công ty giám định hàng hóa Cafecontrol thực hiện nhiệm vụ
kiểm định chất lượng hàng hóa đối với người có hàng đến gửi ở trung tâm và
cùng với đơn vị quản lý thực hiện việc phân cấp chất lượng cà phê.

15


Cuối năm 2009, ngân hàng Sacombank cũng chính thức ra mắt sàn giao
dịch hàng hóa với tên gọi Sacom – STE, hàng chủ lực được giao dịch là thép và
đường. Sacombank cũng đã mở lại Sàn giao dịch hạt điều tại Bình Phước với hệ
thống giao dịch hiện đại, với kỳ vọng việc khai trương sàn giao dịch điện tử.
Hiện tại, Sacom – STE là đơn vị đi đầu trong triển khai và hoạt động sàn giao
dịch hàng hóa tại Việt Nam.
Tháng 9/2010, SGDHH Việt Nam (VNX) cũng đã được Bộ Công Thương
cấp phép hoạt động tại Việt Nam với vốn điều lệ 150 tỷ đồng. Cà phê, cao su và
thép là những mặt hàng giao dịch đầu tiên. VNX là nơi cung cấp địa điểm,

phương tiện, các dịch vụ cần thiết, hợp đồng tương lai, tổ chức giám sát, thanh
toán và giao hàng. Mô hình hoạt động gồm 3 phần: sàn giao dịch, trung tâm
thanh toán bù trừ, trung tâm kiểm định và giao dịch hàng hóa. VNX tổ chức
hình thức giao dịch hàng hóa trực tuyến thông qua hệ thống Patsystem có trụ sở
chính tại Anh và các nhà đầu tư có thể thực hiện đánh lệnh trực tiếp bằng
chương trình J – Trade. [41]
1.2. Khái niệm về Sở giao dịch hàng hóa
1.2.1. Sở giao dịch
Trước khi tìm hiểu về khái niệm SGDHH, cần làm rõ khái niệm Sở giao
dịch nói chung. Sở giao dịch “là trung tâm buôn bán chứng khoán, hàng hóa
lớn và sức lao động”[43]. Như vậy, hiểu một cách khái quát nhất, SGDHH là
nơi để thực hiện các hoạt động buôn bán mà đối tượng buôn bán là các loại
chứng khoán, hàng hóa lớn và sức lao động. Hiện nay trên thế giới có nhiều
định nghĩa về Sở giao dịch. Mỗi định nghĩa được nhìn nhận ở một góc độ khác
nhau.
Luật hiện đại hóa giao dịch hợp đồng tương lai hàng hóa của Mỹ năm
2000 quy định: “Sở giao dịch là một tổ chức có tư cách pháp nhân, tham gia
vào sở giao dịch có nhiều thành viên cả pháp nhân và cá nhân. Các thành viên
này bầu ra một ban quản lý sở giao dịch”.
16


1.2.2. Sở giao dịch hàng hóa
Theo Luật về SGDHH của Nhật Bản (2005): “SGDHH là một tổ chức chỉ
đạo những doanh nghiệp kinh doanh mua bán hàng hóa, giúp mở cửa thị
trường cần thiết cho việc tiến hành những trao đổi hàng hóa hay xác định
những chỉ số hàng hóa cũng như việc kiểm định chất lượng các mặt hàng trong
danh sách, đảm bảo việc giao hàng và thanh toán”.
Pháp luật Thái Lan có quy định: “SGDHH là một pháp nhân, hoạt động
với tư cách là trung tâm mua bán các hợp đồng tương lai hàng hóa nông sản;

sở giao dịch không phải là cơ quan Nhà nước và doanh nghiệp Nhà nước”.
[15].
Theo Đại từ điển Tiếng Việt: “SGDHH là một loại thị trường hàng hóa
đặc biệt, có tổ chức và có quy chế chặt chẽ tại đó hàng hóa mua bán là những
hàng hóa có phẩm cấp rõ ràng (như nguyên liệu và ngũ cốc) và được mua bán
với khối lượng lớn, bằng những phương thức đặc biệt như giao ngay, giao kỳ
hạn…”. [44]. Từ điển Bách khoa toàn thư điện tử định nghĩa về SGDHH một
cách khá chi tiết: “SGDHH là hình thức thị trường đặc biệt, thực hiện việc mua
bán quy mô lớn, theo mẫu và quy cách hàng hóa. SGDHH có đặc điểm: ở đó
không có hàng hóa bán ra mà chỉ mua bán hàng hóa theo mẫu và quy cách; đối
tượng giao dịch không phải là những hàng hóa khác nhau nhiều, mà thường là
những hàng hóa cùng chất lượng, quy cách. Việc giao dịch ở SGDHH được
thực hiện chủ yếu theo giao dịch kỳ hạn, sau khi thành giá, qua một thời gian
nhất định mới giao hàng cho người mua. Ở SGDHH, việc mua bán không gắn
liền với việc di chuyển thực tế của hàng hóa, mà chỉ là mua bán quyền sở hữu
hàng hóa. Do đó, SGDHH mở rộng và đẩy mạnh hoạt động của thị trường,
đồng thời tạo điều kiện cho hoạt động đầu cơ của các nhà tư bản. Ở những
SGDHH lớn trong các nước tư bản chủ nghĩa, thường tập trung cung cầu của
nhiều nước, thậm chí của cả thị trường tư bản chủ nghĩa”. [44]
Theo Hà Thị Thanh Bình thì “ Sở giao dịch hàng hóa là nơi thỏa thuận
va ký kết những hợp đồng để thực hiện việc mua bán hàng hóa không trực tiếp
17


giao ngay mà là cam kết việc mua bán hàng hóa. Còn việc giao hàng và nhận
tiền sẽ được thực hiện trong tương lai”. Theo TS. Phạm Duy Liên: “Thị trường
SGD hàng hóa là thị trường ở đó người ta buôn bán, trao đổi với nhau không
phải là hàng hóa, sản phẩm trực tiếp giao ngay mà là thông qua các hợp đồng
cam kết mua bán, còn việc giao hàng và nhận tiền sẽ được thực hiện trong
tương lai”. Đối với khái niệm của TS Phạm Duy Liên chúng ta chưa thấy được

vai trò của SGD. Bởi vì thị trường mua bán hàng hoa tương lai có tính chất là
một thị trường phái sinh, chỉ được thực hiện với những loại hàng hóa nhất định
do pháp luật quy định chứ không phải tất cả các mặt hàng như hoạt động mua
bán hàng hóa thông thường. SGD phải chịu trách nhiệm về hàng hóa và giá cả
sao cho đem lại lợi ích cao nhất có thể cho cả bên bán và bên mua. [22].
Tại điều 67, Luật thương mại 2005 quy đinh: “Sở giao dịch hàng hóa là
tổ chức có chức năng cung cấp điều kiện vật chất – kỹ thuật cần thiết để giao
dịch mua bán hàng hóa, điều hành các hoạt động giao dịch và niêm yết các mức
giá cụ thể để hình thành trên thị trường giao dịch tại thời điểm. Các vấn đề cụ
thể về điều kiện thành lập, quyền hạn, trách nhiệm của Sở giao dịch hàng hóa
tương lai được quy định trong văn bản hướng dẫn của Chính Phủ”. [11]. Trên
cơ sở đó, Nghị định của Chính phủ số 158/2006/NĐ-CP, tại điều 6 quy định:
“Sở giao dịch là một pháp nhân được thành lập và hoạt động dưới hình thức
công ty trách nhiệm hữu hạn hay công ty cổ phần theo quy định của Luật
Doanh nghiệp và quy định của Nghị định này”. [2].
Qua việc pháp luật quy định cho chúng ta thấy SGDHH được hiểu như
một thị trường hàng hóa đặc biệt, mà ở đó việc mua bán tuân theo một tổ chức
và quy chế rất chặt chẽ. Hoạt động có tổ chức dưới một loại hình doanh nghiệp,
độc lập với Nhà nước. Là nơi cung cấp các dịch vụ cho các tổ chức, cá nhân
tham gia giao dịch trên Sở. Hàng hóa được mua bán tại đây là những hàng hóa
tương lai và các chủ thể tham gia mua bán có thể không cần gặp gỡ trực tiếp và
biết mặt nhau.
1.3. Đặc điểm của Sở giao dịch hàng hóa
18


Xét về bản chất, SGDHH là nơi người mua và người bán tập trung để trao
đổi theo một cách thức đã được định trước, với nguyên tắc giao dịch cụ thể và
rõ ràng. Với nghĩa rộng này, SGDHH là bất cứ thị trường có tổ chức nào, giao
dịch hàng hoá thực hoặc không, được điều hành bởi một bộ máy có tổ chức chặt

chẽ, cho phép sự cạnh tranh hiệu quả giữa những người mua và những người
bán. Do đó giao dịch qua sở giao dịch hàng hóa là một phương thức giao dịch
đặc biệt so với các phương thức giao dịch khác như mua bán trực tiếp, mua bán
qua trung gian, mua bán đối lưu.
SGDHH - một thị trường hàng hóa đặc biệt có quy chế tổ chức chặt
chẽ.
Đặc điểm đặc thù của hàng hóa mua bán qua Sở giao dịch hàng hóa so
với mua bán hàng hóa thông thường, cụ thể như sau:
Thứ nhất, Sở giao dịch hàng hóa có tư cách là trung gian giữa các bên
trong giao dịch.
Thứ hai, đối tượng giao dịch là hàng hóa có cung cầu lớn và thường
xuyên có sự biến động về giá trên trường
Thứ ba, việc mua bán hàng hóa được thực hiện theo các tiêu chuẩn nhất
định do Sở giao dịch hàng hóa quy định, gồm các tiêu chuẩn về loại hàng, số
lượng, phẩm cấp hàng, giá cả, thời hạn giao kết hợp đồng và thời hạn giao hàng
tại một thời điểm trong tương lai.
Thứ tư, mục đích của mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa là
tìm kiếm lợi nhuận do sự chênh lệch giá giữa lúc ký kết và lúc giao hàng và bảo
hiểm rủi ro về giá.
SGDHH - khâu trung gian kết nối người mua và người bán
SGDHH không phải là một bên trong các giao dịch mua bán hàng hóa,
mà là trung gian kết nối và cung cấp các dịch vụ cho các chủ thể tham gia mua
bán tại Sở với nhau.
19


Các dịch vụ cơ bản mà Sở cung cấp bao gồm: nhận lệnh - khớp lệnh tập
trung, thanh toán và giao nhận hàng hóa. Phần lớn các SGDHH hiện nay đều sử
dụng hệ thống máy tính điện tử để việc nhận lệnh – khớp lệnh được dễ dàng,
chính xác. Do hoạt động giao kết hợp đồng được thực hiện qua trung gian nên

người mua, người bán có thể không biết đến nhau, vì vậy, họ không thực hiện
thanh toán trực tiếp với nhau mà thông qua SGDHH tại một bộ phận là cơ quan
thanh toán. Cơ quan thanh toán sẽ nắm giữ mọi thông tin về khách hàng, thực
hiện chuyển tiền từ tài khoản của người mua sang tài khoản của người bán. Đối
với những chủ thể có nhu cầu giao hàng thực, SGDHH sẽ đóng vai trò là trung
tâm giao nhận hàng hóa. Đến ngày thực hiện hợp đồng, người bán hàng hóa sẽ
vận chuyển hàng hóa đến hệ thống kho mà SGDHH chỉ định, tại đây, Sở sẽ tiến
hành công việc đo đạc và giám định, nếu hàng hóa đạt tiêu chuẩn, SGDHH sẽ
giao nó cho người mua. Khi thực hiện tất cả các dịch vụ này, SGDHH luôn
đóng vai trò là trung gian, kết nối các bên, nhờ đó, hoạt động mua bán hàng hóa
qua SGD được diễn ra nhanh chóng, thuận tiện và an toàn.
SGDHH có nhiều người bán và nhiều người mua.
Là một thị trường tập trung nên hoạt động mua bán tại SGDHH luôn có
nhiều khách hàng, nhà đầu tư, doanh nghiệp… tham gia thực hiện hoạt động
mua bán tại SGDHH. Như vậy, thông qua SGDHH nó thúc đẩy cho nhiều chủ
thể tham gia vào quá trình mua bán hàng hóa, đảm bảo cho quá trình lưu thông,
bình ổn giá.
Hình thức giao dịch tại SGDHH là hợp đồn, có tiền bảo chứng.
Hợp đồng mua bán hàng hóa qua SGDHH có bản chất của hợp đồng mua
bán hàng hóa nói chung nhưng các điều khoản trong hợp đồng mang tính chặt
chẽ, có tính tiêu chuẩn hóa. Sự tiêu chuẩn hóa các điều khoản chủ yếu trong hợp
đồng mua bán hàng hóa qua SGDHH giúp cho việc giao kết hợp đồng được
thuận lợi và đảm bảo an toàn về mặt pháp lí, hạn chế rủi ro cho các chủ thể
tham gia mua bán hàng hóa qua SGDHH.
20


Các điều khoản trong hợp đồng mua bán hàng hóa qua sở giao dịch bao
gồm: tên hàng, chất lượng, giá trị hợp đồng, thời gian giao hàng, địa điểm giao
hàng. LTM quy định hai loại hợp đồng mua bán hàng hóa qua sở giao dịch là

hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng quyền chọn và hợp đồng có tiền bảo chứng.
Tiền bảo chứng (hay mức ký quỹ) là biện pháp bảo đảm thực hiện hợp
đồng, bắt buộc đối với cả bên bán và bên mua. Thay vì phải bỏ ra một khoản
tiền lớn để đặt cọc hoặc một lượng tiền bằng với giá trị hàng hóa (thế chấp) để
bảo đảm cho việc mua bán thì sở giao dịch chỉ quy định một mức bảo chứng rất
thấp, tùy vào loại hàng hóa. Mức yêu cầu về tiền bảo chứng thấp khi tham gia
vào các hợp đồng tại sở giao dịch là một trong những nguyên nhân làm cho
chúng trở thành những công cụđòn bẩy tài chính mạnh mẽ. Các loại tiền bảo
chứng trên sở giao dịch gồm : Tiền bảo chứng ban đầu; tiền bảo chứng duy trì;
tiền bảo chứng biến đổi.
- Tiền bảo chứng ban đầu: Tiền bảo chứng ban đầu là khoản tiền ký quỹ
vào tài khoản bảo chứng để bảo đảm trang trải bất cứ khoản lỗ nào do những
biến động xấu trên thị trường.
- Tiền bảo chứng duy trì: Khi tiền bảo chứng đạt mức duy trì tối thiểu,
nhà đầu tư cần phải nộp tiền để đảm bảo đưa mức tiền bảo chứng trở lại tiền bảo
chứng ban đầu (Initial margin).
- Tiền bảo chứng biến đổi: Những khoản lỗ và lãi của những khách hàng
của các thành viên được kết toán thông qua trung tâm thanh toán bù trừ.
Đa số các hợp đồng tại SGDHH được thanh lý trước thời hạn
Thông thường, khi các bên muốn thanh lý hợp đồng trước ngày giao hàng
đồng nghĩa với việc thỏa thuận để chấm dứt hợp đồng hoặc thoả thuận chuyển
nghĩa vụ của mình cho người khác, khi đó các bên sẽ thoát khỏi sự ràng buộc về
nghĩa vụ với nhau. Nhưng trong hợp đồng giao sau được mua bán tại sở giao
dịch hàng hóa thì các bên có thể thanh lý hợp đồng trước ngày đáo hạn một cách
dễ dàng mà không cần phải thông qua một sự thoả thuận nào.
21


- Thanh toán hữu hình: để hoàn thành nghĩa vụ hợp đồng, việc giao hàng
hữu hình đặt ra những chi phí rõ rệt: chi phí kho hàng, bảo hiểm, xếp tàu, và lệ

phí môi giới.
- Thanh toán bù trừ: đây là hình thức thanh toán vị thế phổ biến nhất,
người mua khởi đầu và kết thúc vị thế của mình bằng việc bán một hợp đồng
tương lai y hệt (cùng một loại hàng và cùng tháng giao hàng). Tương tự, người
bán khởi đầu kết thúc vị thế của mình bằng cách mua một hợp đồng y hệt. Sau
khi việc mua bán đó được thực hiện và báo cáo về trung tâm thanh toán thì
nghĩa vụ của cả hai bên được xoá đi trong sổ sách của trung tâm thanh toán và
của những người môi giới ngoài sở (nếu có).
So với việc nhận hoặc giao hàng hữu hình thì việc thanh toán bằng bù trừ
tương đối đơn giản hơn. Nó chỉ đòi hỏi thị trường tương lai đủ cơ động để tạo
thuận lợi mua bán bằng bù trừ và chỉ khuyến khích chi phí môi giới thông
thường.
Các điều khoản trong hợp đồng tại SGDHH được tiêu chuẩn hóa
Sự tiêu chuẩn hóa các điều khoản chủ yếu trong hợp đồng giao dịch tại sở
giao dịch hàng hóa là một trong những đặc điểm cơ bản để phân biệt sở giao
dịch với các phương thức mua bán hàng hóa khác. Các điều khoản trong hợp
đồng được tiêu chuẩn hóa, giúp cho việc ký kết hợp đồng nhanh chóng, đảm
bảo an toàn về mặt pháp lý. Các điều khoản được tiêu chuẩn hóa về: tên hàng,
chất lượng, quy mô hợp đồng, thời gian giao hàng và địa điểm giao hàng.
Trung tâm thanh toán giám sát việc thực hiện hợp đồng tại SGDHH
Trung tâm thanh toán bù trừ đóng một vai trò quan trọng trong các sở
giao dịch tương lai và quyền chọn hàng hoá bởi vì nó kiểm soát rủi ro vỡ nợ của
tất cả các thành viên của các sở giao dịch đó. Người mua và người bán không
ràng buộc trực tiếp với nhau trên cơ sở hợp đồng nhưng đều bị ràng buộc bởi
trung tâm thanh toán này. Trung tâm thanh toán bù trừ của các sở giao dịch
hàng hóa phải thực thi những nhiệm vụ nhất định, bao gồm:
22


- Thiết lập và thực hiện chức năng của thị trường: nghĩa là thực hiện thiết

lập và quản lý các mức giá cả trên sở giao dịch; ghi nhận các giao dịch; giám sát
các hoạt động tại sàn; nhập và công cố các mức giá trong suốt phiên giao dịch
và các mức giá thực hiện ở cuối ngày giao dịch.
- Giám sát và quản lý các thành viên tham gia thị trường.
- Các hoạt động thanh toán bù trừ: bao gồm những công tác đảm bảo rủi
ro tín dụng; duy trì các tài khoản bảo chứng; thực hiện giao hàng đối với những
hợp đồng không được bù trừ trước hạn.
- Phát triển các loại sản phẩm mới: đưa vào áp dụng những công cụ tài
chính mới nhằm thu hút nhàđầu tư, đưa thêm các công cụ bảo hiểm.
SGDHH được coi là định chế tài chính trực tiếp.
Tại sở giao dịch, hàng hóa giao dịch sẽ có những quy định nghiêm ngặt
mà tất cả các thành viên đều phải tuân theo, qua đó làm cho thị trường hoạt
động minh bạch, công khai, chất lượng hơn. SGDHH với tư cách là thành viên
tham gia thị trường, bởi vậy bản thân SGDHH luôn tạo điều kiện thuận lợi cho
các thành viên tham gia và có những hoạt động hợp lý bảo vệ người tham gia thị
trường khác. SGDHH còn có vai trò là một trong những công cụ quản lý tài
chính của Chính phủ, thông qua SGDHH Chính phủ có thể thực thi các chính
sách kinh tế của mình dễ dàng, nhanh chóng và phát huy hiệu quả cao.
1.4. Vai trò của Sở giao dịch hàng hóa
SGDHH đã đem lại rất nhiều lợi ích như giảm các chi phí giao dịch, là
nơi tham khảo giá cả hàng hóa, và chuyển giao rủi ro. SGDHH đã thể hiện một
vai trò hết sức tích cực đối với những người tham gia cũng như toàn bộ nền kinh
tế nói chung.
1.4.1. Đối với người sản xuất:
Trong điều kiện thị trường không ngừng biến động thì vấn đề đặt ra cho
những người sản xuất đó là thị trường tiêu thụ không ổn định, thậm chí nhiều
23


lúc ở nhiều nơi các sản phẩm của người họ làm ra không tiêu thụ được. Thực

trạng này đặc biệt nghiêm trọng hơn đối với những nước nông nghiệp như Việt
Nam. Sản lượng nông sản của các nước này thường có xu hướng ngày càng
tăng. Trên thực tế, đã có không ít trường hợp hàng hóa nông sản được sản xuất
ra với khối lượng quá lớn dẫn đến việc tiêu thụ rất khó khăn như gạo, cà
phê…và đã từng sảy ra tình trạng ‘rớt giá’, gây thiệt hại đáng kể không những
chỉ cho người nông dân nói riêng mà cả toàn bộ nền kinh tế nói chung. Điều này
đã làm cho người sản xuất nông thường xuyên gặp rủi ro và bị động, thiếu vốn
để đầu tư, không khuyến khích được người họ mở mang sản xuất, dẫn đến tình
trạng không tận dụng nguồn nhân lực và tài nguyên của đất nước. Do đó, việc
hình thành nên các sở giao dịch nông sản chính là một giải pháp cho những vấn
đề này. Sở giao dịch ra đời sẽ thúc đẩy quá trình tiêu thụ, góp phần giải quyết
những ách tắc do khó khăn trong khâu tiêu thụ, gắn trực tiếp hoạt động sản xuất
với người tiêu thụ hàng hóa với khối lượng lớn.
Một vai trò khác hết sức quan trọng của sở giao dịch hàng hóa đối với
những người sản xuất đó chính là việc chuyển rủi ro về giá từ người sản xuất
sang những người kinh doanh rủi ro. Các sở giao dịch hàng hoá cung cấp những
công cụ như các hợp đồng tương lai hay quyền chọn hay một cơ chế phát hiện
giá cả tạo điều kiện cho người nông dân hạn chế được những rủi ro họ phải
gánh chịu khi chưa có sở giao dịch hàng hóa, đặc biệt trong bối cảnh giá cả
hàng hoá ngày nay trên thế giới thường xuyên biến động mạnh trong những
khoảng thời gian ngắn đôi khi sự biến động này lên tới hơn 50% một năm. Để
tối đa hóa vai trò này thì hiện nay nhiều sở giao dịch đã tiến hành nhiều biện
pháp để đưa thông tin tới tận tay người sử dụng: nhưđăng báo, đưa tin trên các
đài phát thanh, truyền hình và thậm chí là ở những sở giao dịch như Dalian của
Trung Quốc còn gửi tin nhắn tới tận tay người nông dân. Ngay cả khi phải đối
mặt với sự giảm giá trong dài hạn thì với khả năng bảo hiểm rủi ro về biến động
giá cả tuy có thời hạn ngắn hơn, các sở giao dịch này cũng cho phép người nông
dân một thời gian để điều chỉnh hình thức mùa vụ, cũng như là đa dạng hoá sản
24



xuất để tránh rủi ro. Khi có một hợp đồng trong tay với số lượng, chất lượng,
giá cả và thời gian giao hàng đã biết trước, tức là đã nắm chắc đầu ra của sản
phẩm, người nông dân có thể vạch kế hoạch sản xuất, tiến hành huy động vốn,
mua sắm vật tư, mở rộng diện tích canh tác tiến hành áp dụng các kỹ thuật tiên
tiến để nâng cao năng suất và chất lượng. Đó là một yếu tố quan trọng để nâng
cao khối lượng nông sản, tận dụng được một cách hợp lý nguồn tài nguyên và
nhân lực.
1.4.2. Đối với người kinh doanh xuất khẩu:
Người kinh doanh xuất khẩu thường bị động về thời gian và khối lượng,
chất lượng, giá cả nên bỏ lỡ nhiều cơ hội xuất khẩu đáng tiếc, dẫn đến hiệu quả
xuất khẩu chưa cao. Do đó, việc hình thành các sở giao dịch là một giải pháp
cho những vấn đề đó. Nó còn đóng một vai trò tích cực trong việc giảm chi phí
sau đây:
- Chi phí trước giao dịch, gồm chi phí: tìm người mua hay người bán cho
hợp đồng, đánh giá độ tin cậy của đối tác, xác định mức giá hợp lý, thẩm định
chất lượng hàng hoá, đảm bảo tài chính để thanh toán giao dịch, xác định hình
thức thanh toán giao hàng và thanh toán và các điều khoản khác của hợp đồng.
- Chi phí thực hiện sau giao dịch: quản lý tín dụng và các dòng tiền, giám
sát việc giao hàng, thẩm định chất lượng hàng hoá được giao, những tranh cãi
trong quá trình mua bán, bảo hiểm, hoặc đền bù rủi ro vỡ nợ, v.v….
Kết hợp lại với nhau thì những chi phí này có thể là một khoản chi phí
đáng kể, đòi hỏi một khoản tiền, thời gian cũng như công sức đáng kể. Do đó sở
giao dịch với những chức năng của mình sẽ góp phần đáng kể vào việc giảm chi
phí này.
1.4.3. Đối với những nhà đầu cơ trên sở giao dịch hàng hóa
Hoạt động mua bán tại sở giao dịch chủ yếu diễn ra là nhằm mục đích thu
lợi nhuận thông qua hoạt động đầu cơ giá cả dựa trên những biến động về giá
cả. Bên cạnh những người lo sợ rủi ro giá cả biến động không có lợi thì cũng có
25



×