Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Khía cạnh thương mại của quyền tác giả và thực tiễn thực hiện tại nhà xuất bản giáo dục việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.01 MB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

KHÍA CẠNH THƯƠNG MẠI
CỦA QUYỀN TÁC GIẢ VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN
TẠI NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC VIỆT NAM

NGUYỄN THỊ HUYỀN NGA

HÀ NỘI - 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
KHÍA CẠNH THƯƠNG MẠI
CỦA QUYỀN TÁC GIẢ VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN
TẠI NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC VIỆT NAM
NGUYỄN THỊ HUYỀN NGA

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS LÊ ĐÌNH NGHỊ

HÀ NỘI - 2016



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoạn luận văn
“Khía cạnh thương mại của Quyền tác giả và thực tiễn thực hiện tại Nhà
xuất bản Giáo dục Việt Nam” là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Huyền Nga


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành khóa học và đề tài nghiên cứu tôi đã nhận được sự quan tâm,
giúp đỡ quý báu của quý Thầy, Cô trong Ban Giám hiệu Nhà trường, các Thầy, Cô
giáo Khoa Sau Đại học, Viện Đại học Mở Hà Nội. Xin gửi tới quý Thầy, Cô lòng
biết ơn chân thành và tình cảm quý mến nhất.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến Thầy giáo TS. LÊ ĐÌNH NGHỊ - người
hướng dẫn khoa học, Thầy đã nhiệt tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình hoàn
thiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các tập thể, cá nhân Nhà Xuất bản Giáo dục Việt
Nam đã giúp đỡ, tận tình, tạo điều kiện để tôi hoàn thành đề tài này.
Tôi xin cảm ơn tới gia đình, những người thân, bạn bè và đồng nghiệp đã
góp ý, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.

Hà Nội, ngày


tháng

năm 2016.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Huyền Nga


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ, HÌNH
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ KHÍA CẠNH THƯƠNG MẠI CỦA
QUYỀN TÁC GIẢ VÀ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT BẢO HỘ
QUYỀN TÁC GIẢ Ở VIỆT NAM ................................................................... 7
1.1.

Khái niệm về Quyền tác giả và bảo hộ Quyền tác giả..................... 7

1.1.1. Khái niệm về Quyền tác giả ................................................................... 7
1.1.2. Bảo hộ Quyền tác giả ............................................................................. 9
1.2.

Quyền tác giả trong hoạt động thương mại và Thực thi
Quyền tác giả sau khi Việt Nam gia nhập WTO ........................... 12

1.2.1. Quyền tác giả trong hoạt động thương mại và các chế tài xử lý

xâm phạm quyền tác giả trong thương mại ......................................... 12
1.2.2. Thực thi Quyền tác giả sau khi Việt Nam gia nhập WTO ................. 14
1.3.

Thương mại hóa việc khai thác, chuyển giao Quyền tác giả ....... 15

1.4.

Thực trạng chính sách và pháp luật Việt Nam về bảo hộ
Quyền Tác giả...................................................................................... 16

1.4.1. Nhà nước đã ban hành chính sách cụ thể về bảo hộ Quyền tác
giả theo hướng tạo sự phù hợp với các cam kết của Việt Nam
trong WTO ............................................................................................ 16
1.4.2. Nhà nước đã từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hộ
Quyền tác giả trong Luật Sở hữu trí tuệ .............................................. 20
1.5.

Thực trạng vi phạm Quyền tác giả ở Việt Nam ............................. 25

1.5.1. Vụ kiện về vi phạm bản quyền phần mềm .......................................... 35


1.5.2. Một số vụ kiện khác về quyền tác giả ................................................. 36
Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ DƯỚI
GÓC ĐỘ THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN
QUA VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI NHÀ XUẤT BẢN GIÁO
DỤC VIỆT NAM .............................................................................................. 40
2.1.


Thực trạng bảo hộ Quyền tác giả ở Việt Nam ............................... 40

2.1.1. Những thuận lợi và kết quả bước đầu ................................................. 40
2.1.2. Những khó khăn của việc bảo hộ Quyền tác giả ................................ 41
2.2.

Thực tiễn thực hiện bảo hộ Quyền tác giả trong hoạt động
Thương mại tại Nhà Xuất bản Giáo dục Việt Nam ...................... 44

2.2.1. Khái niệm xuất bản và quyền tác giả trong lĩnh vực xuất bản........... 45
2.2.2. Bảo hộ quyền tác giả trong lĩnh vực xuất bản .................................... 47
2.2.3. Đối tượng của Quyền tác giả trong lĩnh vực xuất bản ....................... 49
2.2.4. Chủ thể của Quyền tác giả trong lĩnh vực xuất bản ........................... 51
2.2.5. Nội dung quyền tác giả trong lĩnh vực xuất bản................................. 61
2.2.6. Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo vệ
quyền tác giả trong lĩnh vực xuất bản ................................................. 66
2.3.

Xây dựng môi trường lành mạnh cho hoạt động xuất bản .......... 71

2.4.

Giải pháp tăng cường việc bảo hộ Quyền tác giả và nâng cao
khả năng khai thác ............................................................................. 73

2.4.1. Nguyên nhân ......................................................................................... 73
2.4.2. Một số giải pháp tăng cường việc bảo hộ Quyền tác giả và nâng
cao khả năng khai thác, thực thi Quyền tác giả trong thời gian
tới ........................................................................................................... 75
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 78

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 79


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Viết tắt

Viết đầy đủ

QTG

Quyền tác giả

SHTT

Sở hữu trí tuệ


DANH MỤC BẢNG HÌNH
Hình 1.1: Với khung định mức áp dụng cho chế độ nhuận bút từ năm
2002, một bài thơ, một bài viết được đăng trên các báo có
giá quá thấp, quá lạc hậu với tình hình thực tế hiện nay.
Chính nguyên nhân này là một trong số nhiều nguyên nhân
dẫn đến việc các tác giả không quan tâm đến bản quyền.
Ảnh minh họa. ................................................................................. 30
Hình 1.2. Dòng máu anh hùng là một trong số nhiều tác phẩm nghệ
thuật bị vi phạm bản quyền và hậu quả để lại là thiệt hại vô
cùng nghiêm trọng về kinh tế......................................................... 32
Hình 1.3. Trong khi các ca sĩ có thể đặt ra mức cát xê khủng cho
mình thì các nhạc sĩ lại nhận được số tiền không đáng bao

nhiều so với sáng tác của họ. Ảnh minh họa................................. 33
Hình 2.1. Người tiêu dùng cần chung tay bảo vệ quyền tác giả, quyền
liên quan (khách hàng chọn mua sách tại Nhà sách Fahasa
Cần Thơ) .......................................................................................... 42
Hình 2.2. Sách in lậu vi phạm bản quyền tràn lan là mối lo của nhiều
nhà xuất bản. Ảnh: T.L ................................................................... 45


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Quyền tác giả (author rights) là một bộ phận của quyền SHTT, là quyền của
tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu nhằm bảo vệ các
quyền lợi cá nhân và lợi ích kinh tế của tác giả trong mối liên quan với tác phẩm
của họ, ngăn chặn hành vi sao chép, hành vi mạo danh, phổ biến, chuyển nhượng
bất hợp pháp tác phẩm. Quyền tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản
đối với tác phẩm.
Trong lịch sử pháp luật về bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân,
tổ chức, vấn đề quyền tác giả được thừa nhận muộn. Vào thời cổ, các quy định luật
pháp chỉ dành cho những vật mang tác phẩm trí tuệ, đặc biệt là về sở hữu. Ví dụ:
không được phép trộm cắp một quyển sách nhưng lại được phép chép lại từ quyển
sách đó. Hình thức khởi thủy của sự bảo hộ bản quyền xuất hiện ở Anh khoảng đầu
thế kỷ XVI với việc cấp giấy phép cho các chủ xưởng in với mục tiêu bảo hộ độc
quyền in sách cho các chủ xưởng in, làm tăng thêm một khoản tiền đáng kể cho
ngân quỹ của nhà cầm quyền, tạo ra sự dễ dàng, thuận tiện cho chính quyền trong
việc kiểm soát các ấn phẩm có tính chất dấy loạn hoặc phản tôn giáo. Nước Anh là
quốc gia đi tiên phong trong việc đưa ra quy định pháp luật về quyền tác giả với
Đạo luật “Statue of Anne” có hiệu lực từ tháng 10/1710. Đây là luật Bản quyền đầu
tiên trên thế giới, đưa ra hai quyền cơ bản: Tác giả có độc quyền những tác phẩm
của mình và độc quyền đó được bảo vệ trong một khoảng thời gian nhất định. Nữ
hoàng Anne qui định dành 14 năm độc quyền cho việc in một cuốn sách và độc

quyền này có thể được gia hạn thêm 14 năm nữa, nếu tác giả của cuốn sách vẫn còn
sống khi thời hạn bảo hộ đầu tiên đã hết.
Sau Anh, các quốc gia trên thế giới lần lượt ban hành các đạo luật về quyền tác
giả: Đan Mạch năm 1741, Pháp năm 1791, Mỹ năm 1795, Đức năm 1845… Cùng với
việc các tác phẩm được lưu hành ở nước ngoài càng nhiều, các hiệp ước quốc tế được
ký kết để bảo hộ quyền tác giả như: Công ước Berne, Hiệp định TRIPs…

1


Ở Việt Nam, bắt đầu từ Hiến pháp 1980, quyền tác giả mới được công nhận
là một trong những quyền cơ bản của công dân. Vào năm 1986, Nghị định số
142/HĐBT ban hành ngày 14/11/1986 của Hội đồng Bộ trưởng có quy định 8 điều
liên quan đến bảo hộ quyền tác giả như quy định về tác giả, về các loại tác phẩm
được bảo hộ, các quyền lợi tinh thần và vật chất của tác giả, thời hạn bảo hộ Quyền
tác giả… Đến Hiến pháp năm 1992, Bộ luật Dân sự năm 1995 vấn đề bảo hộ Quyền
tác giả được chính thức ghi nhận. Sau đó Quyền tác giả được hoàn thiện dần với các
nội dung ngày càng đầy đủ, cụ thể hơn trong các văn bản như Quy định việc xử
phạt các hành vi vi phạm về Quyền tác giả (Điều 131 Bộ luật Hình sự năm 1999);
Quy định về QTG tại Điều 4, Điều 5, Điều 8, Điều 23 Luật Di sản văn hóa số
28/2001-QH10; Điều 736, Điều 743 Bộ luật Dân sự 2005 (sửa đổi năm 2009); Luật
Sở hữu trí tuệ (SHTT) 2005 (sửa đổi năm 2009); Quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật SHTT và Quyền tác giả (Nghị định số
100/2006/NĐ-CP); Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
SHTT về bảo vệ quyền SHTT và quản lý nhà nước về SHTT (Nghị định số
105/2006/NĐ-CP); Quy định xử phạt vi phạm hành chính về Quyền tác giả, quyền
liên quan (Nghị định số 47/2009/NĐ-CP).
Từ 1997 trở đi, Việt Nam đã ký kết một số các Điều ước Quốc tế liên quan
đến Quyền tác giả như: Hiệp định SHTT song phương giữa Việt Nam - Hoa Kỳ
(1997), Hiệp định bảo hộ quyền SHTT với Liên bang Thụy Sỹ (2000), Hiệp định

thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (2001), Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm
văn học - nghệ thuật (2004), Công ước Geneva về bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm
(2005), Công ước Brussels liên quan đến việc phân phối tín hiệu mang chương trình
truyền qua vệ tinh (2006). Các điều ước quốc tế này đã tạo ra một hành lang pháp lý
vững chắc, an toàn trong lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả ở Việt Nam phù hợp với các
chuẩn mực và thông lệ quốc tế.
Trong thực tế, tài sản trí tuệ có thể được sao chép và lan truyền vô hạn trong
không gian và thời gian mà con người khó có thể kiểm soát hết được. Việc sao chép
và phổ biến tài sản trí tuệ thuộc quyền tác giả phụ thuộc nhiều vào sự phát triển của

2


khoa học và công nghệ. Với các thiết bị sao chép, lưu trữ và công nghệ truyền dẫn,
mạng Internet phát triển mạnh mẽ như hiện nay, việc xâm phạm quyền tác giả ngày
càng khó kiểm soát. Hoạt động sao chép lậu, tình trạng đưa sách, phim, nhạc lên
mạng Internet mà không xin phép người nắm giữ Quyền tác giả, ngày càng tinh vi,
phức tạp và có quy mô lớn hơn nhiều so với vài thập kỷ trước đây.
Trong báo cáo tổng hợp về tình trạng vi phạm QTG năm 2005 của Tổ chức
IIPA-Liên minh quốc tế sở hữu trí tuệ (IIPA-International Intellectual Property
Alliance), Việt Nam được xếp hạng là một trong những quốc gia có tỉ lệ vi phạm
Quyền tác giả cao, đứng thứ hai thế giới.
Theo số liệu năm 2007 của Cục bản quyền tác giả Văn học – Nghệ thuật, tỷ lệ
vi phạm bản quyền ở Việt Nam rất cao (88%). Trong lĩnh vực công nghệ thông tin
(CNTT), tỷ lệ vi phạm bản quyền phần mềm của Việt Nam ở mức 85% trong năm
2009 theo đánh giá của BSA (Liên minh phần mềm doanh nghiệp) và IDC (hãng
nghiên cứu thị trường).
Trong bối cảnh pháp luật về bảo vệ quyền SHTT hiện hành còn mới mẻ, khía
cạnh thương mại của quyền SHTT vẫn ít được quan tâm, nghiên cứu, xuất phát từ
nhu cầu bảo hộ Quyền tác giả ngày càng trở nên cấp thiết, việc thực hiện bảo hộ

Quyền tác giả đang là một vấn đề đầy thách thức đối với Việt Nam trong bối cảnh
hội nhập quốc tế, Tôi quyết định lựa chọn đề tài: “Khía cạnh Thương mại của
quyền tác giả và thực tiễn thực hiện tại Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam”.
Với mục đích nghiên cứu một cách có hệ thống trên phương diện lí luận và
thực tiễn về pháp luật về quyền SHTT, qua đó, xuất phát từ hiện thực khách quan,
thực trạng văn hóa xã hội, văn hóa kinh doanh và đặc biệt là văn hóa pháp lí Việt
Nam, trên cơ sở tiếp thu những thành tựu của pháp luật SHTT Việt Nam và một số
nước trên thế giới, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về quyền SHTT thực sự trở thành
công cụ bảo vệ quyền tác giả trong một xã hội phát triển lành mạnh.
2. Tổng quan nghiên cứu đề tài
Vấn đề quyền tác giả và bảo hộ quyền tác giả không phải đến bây giờ, tức là
khi Việt Nam gia nhập Công ước Berne, rồi trở thành thành viên chính thức của Tổ

3


chức Thương mại Thế giới (WTO) mới là vấn đề nóng hổi. Bộ Văn hóa thông tin,
mà đầu mối là Cục bản quyền tác giả văn học nghệ thuật Việt Nam đã có nhiều cố
gắng nghiên cứu, tổ chức nhiều cuộc hội thảo về vấn đề bảo hộ quyền tác giả, về hội
nhập, về thực thi Công ước Berne, về các Luật mới như Luật xuất bản, Luật sở hữu
trí tuệ… Các nhà xuất bản cũng rất quan tâm đến việc khai thác các khía cạnh
thương mại của quyền tác giả như các vấn đề: mua bản quyền như thế nào, ở đâu,
bao nhiêu tiền, thời hạn bao lâu, quyền và nghĩa vụ ra sao…
Ngày 27 và 28 tháng 1 năm 2005, nghĩa là chỉ vài tháng sau khi Việt Nam
gia nhập Công ước Berne, có một cuộc hội thảo được tổ chức ở thành phố Hồ Chí
Minh "Về vai trò quyền tác giả trong ngành công nghiệp xuất bản", do Cục bản
quyền tác giả văn học nghệ thuật Việt Nam tổ chức. Tham gia hội thảo có tiến sĩ Vũ
Mạnh Chu, Cục trưởng Cục bản quyền, bà Geidy Lung, chuyên gia của Tổ chức Sở
hữu trí tuệ thế giới (WIPO), đại diện các nhà xuất bản và các tổ chức đại diện sở
hữu trí tuệ. Năm 2005 cũng là năm Quốc hội xây dựng Luật sở hữu trí tuệ, nên việc

nghiên cứu những vấn đề về quyền tác giả và bảo hộ quyền tác giả cũng được đề
cao. Và mới đây nhất, Cục Bản quyền tác giả, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Việt Nam, WIPO và Cơ quan Bản quyền Nhật Bản phối hợp tổ chức Hội thảo quốc
gia về “Quyền tác giả, quyền liên quan và các vấn đề cấp bách” trong hai ngày 5 và
6 tháng 8 năm 2015 tại Khách sạn Kim Đô, 133 Nguyễn Huệ, Quận 1, Thành phố
Hồ Chí Minh. Tại hội thảo các chuyên gia của WIPO đến từ Nhật Bản, Australia,
Malaysia và nước chủ nhà Việt Nam trình bày các tham luận về 8 chủ đề liên quan
đến quyền tác giả, quyền liên quan và đặc biệt là những vấn đề mới và cấp bách
trong môi trường số hiện nay. Các đại biểu cũng thảo luận về các biện pháp để xây
dựng cơ chế, chính sách khai thác và bảo vệ quyền tác giả tại Việt Nam một cách
năng động, hiệu quả hơn.
Có thể nói, đây là hội thảo quy mô nhất từ trước đến nay, một cơ hội tốt để
trao đổi, cập nhật các kiến thức về quyền tác giả, quyền liên quan và học hỏi được
các thông tin, kinh nghiệm từ các chuyên gia trên thế giới về lĩnh vực này.
Trong quá trình thực hiện bản luận văn này, tác giả đã đi tìm, sưu tầm tài liệu
nhưng hầu như, rất ít.

4


Về những vấn đề mới như bảo vệ, khai thác tính thương mại quyền tác giả trên
internet, về bản quyền phần mềm, về hệ điều hành và phần mềm mã nguồn mở, bảo
vệ quyền đối với các tác phẩm văn học nghệ thuật được số hóa … hầu như chưa có
công trình nghiên cứu nào bàn về các vấn đề này ở cấp độ luận văn thạc sỹ Luật
Kinh tế.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Bản luận văn này tác giả tập trung vào khía cạnh thương mại của quyền tác giả
và thực tiễn thực hiện tại Nhà Xuất bản Giáo dục Việt Nam theo những quy định
của pháp luật trong nước trong mối tương quan về nội dung pháp lý và một số văn
bản liên quan. Trong luận văn, tác giả nhấn mạnh vấn đề bảo hộ quyền tác giả.

Mặt khác, do đơn vị công tác của tác giả tại Nhà xuất bản giáo dục Việt nam
nên tác giả cũng quan tâm nhiều đến khía cạnh bản quyền tác giả. Trong quá trình
nghiên cứu, tác giả cũng thu thập các thông tin về tình hình thị trường văn hóa
phẩm trong nước, việc các cá nhân, tổ chức đang có những phản ứng ra sao với việc
dần dần phải quen với việc sử dụng sản phẩm có bản quyền… Do đó tác giả đã
dành một phần để quan tâm đến tình hình thực tiễn Việt Nam hiện nay, cố gắng
nhìn nhận vấn đề và đưa ra các giải pháp.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tác giả lựa chọn xuất phát từ nguyên tắc chung của
chủ nghĩa duy vật biện chứng, và cố gắng "tập" kết hợp thêm những phương pháp
của lo-gic hình thức như so sánh, tổng hợp, phân tích, loại trừ…
Về việc tìm tài liệu, ngoài các tài liệu được giáo viên hướng dẫn cung cấp, tác
giả dựa vào một nguồn quan trọng là internet, và một phương pháp thu thập cụ thể
nữa là lấy số liệu tại Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam. Đây là một phương pháp
mất nhiều thời gian và công sức, nhiều khi lại không có được những kết quả ưng ý
về mặt pháp lý nhưng là những số liệu thực tiễn rất quý giá.
5. Những điểm mới của luận văn
Nghiên cứu Khía cạnh thương mại của quyền tác giả và thực tiễn thực hiện tại

5


nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam trong giai đoạn thực hiện Nghị quyết của Chính
phủ về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo. Đây là nội dung chính nên
tác giả cũng tập trung nghiên cứu cũng như là một điểm nhấn của bản luận văn.
6. Nội dung của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Tổng quan về Khía cạnh thương mại của Quyền tác giả và thực
trạng pháp luật bảo hộ quyền tác giả ở Việt Nam

Chương 2: Thực trạng bảo hộ quyền tác giả dưới góc độ thương mại ở Việt Nam
trong thời gian qua và thực tiễn thực hiện tại Nhà Xuất bản Giáo dục Việt Nam.

6


Chương 1
TỔNG QUAN VỀ KHÍA CẠNH THƯƠNG MẠI
CỦA QUYỀN TÁC GIẢ VÀ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT
BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm về quyền tác giả và bảo hộ quyền tác giả
1.1.1. Khái niệm về quyền tác giả
Quyền tác giả bao gồm một tập hợp quyền dành cho người sáng tạo đối với
các tác phẩm văn học và nghệ thuật của họ. Các tác giả và người thừa kế của họ,
nắm giữ các độc quyền để sử dụng hoặc cấp li-xăng cho người khác sử dụng tác
phẩm theo các điều kiện thỏa thuận. Người sáng tạo ra một tác phẩm có thể ngăn
cấm hoặc cho phép, ví dụ:
- Sao chép lại tác phẩm dưới hình thức khác nhau, chẳng hạn như ấn phẩm
hoặc bản ghi âm;
- Biểu diễn tác phẩm cho công chúng, như trong trường hợp một vở diễn hoặc
tác phẩm âm nhạc;
- Phát sóng tác phẩm, bao gồm phát thanh, truyền hình hoặc phát qua vệ tinh;
- Dịch tác phẩm sang ngôn ngữ khác, hoặc phóng tác tác phẩm, chẳng hạn như
chuyển thể một tiểu thuyết thành phim.
Quyền tác giả áp dụng cho nhiều loại hình khác nhau của tác phẩm nghệ thuật,
bao gồm hội họa, âm nhạc, thơ, vở diễn, sách, kiến trúc và múa, đồng thời áp dụng
cho những tác phẩm thường không được coi là nghệ thuật như phần mềm máy tính,
bản đồ và bản vẽ kỹ thuật.
Các quyền liên quan đến quyền tác giả: là những quyền đã phát triển trong
khoảng chừng 50 năm gần đây, "xung quanh" quyền tác giả và bao gồm quyền

của người biểu diễn đối với cuộc biểu diễn của người đó, quyền của người chế
tạo bản ghi âm đối với bản ghi âm đó và quyền của tổ chức phát sóng đối với
cuộc phát sóng.

7


Để phổ biến chúng (ví dụ dưới hình thức xuất bản phẩm, bản ghi âm và phim),
nhiều tác phẩm sáng tạo được bảo hộ theo quyền tác giả thường đòi hỏi sự phân
phối, truyền đạt đại chúng cũng như đầu tư về tài chính. Vì lẽ đó, người sáng tạo
thường chuyển nhượng các quyền của mình đối với tác phẩm cho những cá nhân
hoặc công ty có khả năng tập hợp, đưa ra thị trường và phân phối tác phẩm, đổi lại
họ được trả tiền (trả một lần hoặc nhuận bút). Các quyền kinh tế này có giới hạn về
thời gian mà theo điều ước WIPO có liên quan thì là cuộc đời của tác giả và 50 năm
sau khi tác giả chết. Ở một số nước, thời hạn trên đã được kéo dài tới 70 năm.
Quyền tác giả cũng có thể bao gồm quyền tinh thần, liên quan đến quyền nhận danh
nghĩa tác giả đối với một tác phẩm và quyền phản đối sự thay đổi tác phẩm có thể
gây hại cho uy tín của tác giả.
Quyền tác giả cùng với quyền sở hữu công nghiệp tạo thành hai bộ phận chính
của chế định quyền sở hữu trí tuệ là một chế định pháp luật quan trọng quy định về
các vấn đề thiết lập và bảo hộ quyền của những người sáng tạo ra các sản phẩm trí
tuệ, các sản phẩm vô hình, phi vật thể của con người. Sản phẩm trí tuệ của con
người có thể được chia thành hai loại: Sản phẩm phục vụ nhu cầu tinh thần, giải trí
(tác phẩm văn học, nghệ thuật, hội họa, sân khấu, điện ảnh…) và sản phẩm có tác
dụng về mặt công nghiệp, thương mại (phát minh, sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu
dáng công nghiệp…). Loại sản phẩm đầu tiên được bảo hộ theo pháp luật về quyền
tác giả, còn loại sản phẩm thứ hai được bảo hộ theo pháp luật về quyền sở hữu công
nghiệp. Hai chế định pháp luật này là hai bộ phận chính cấu thành chế định quyền
sở hữu trí tuệ.
Giữa hai quyền tác giả và sở hữu trí tuệ không có và không thể có ranh giới tuyệt

đối, bởi có những sản phẩm trí tuệ vừa có tác dụng về mặt công nghiệp, thương mại
nhưng vẫn có tác dụng phục vụ nhu cầu giải trí, tinh thần của con người.
Đồng thời, có những sản phẩm trí tuệ không hoàn toàn mang tính giải trí hay
phục vụ nhu cầu tinh thần của con người cũng được bảo hộ theo luật về quyền tác
giả như các phần mềm máy tính. Cũng cần phải giải quyết mối quan hệ giữa quyền
tác giả và quyền sở hữu công nghiệp đối với một số loại sản phẩm trí tuệ nhất định.

8


Như vậy, khái niệm "Quyền tác giả" được hiểu dưới hai góc độ:
- Theo nghĩa rộng: Quyền tác giả là một chế định pháp luật là tổng thể các quy
phạm pháp luật xác định và bảo hộ các quyền nhân thân, quyền tài sản của tác giả,
chủ sở hữu tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; quy định việc bảo vệ, khôi
phục các quyền đó khi có hành vi xâm phạm. Như vậy, theo nghĩa rộng quyền tác
giả không chỉ quy định các quyền năng tác giả, người sáng tạo tác phẩm mà còn mở
rộng ra các vấn đề khác như đối tượng quyền tác giả, giới hạn quyền tác giả, thừa kế
quyền tác giả, hợp đồng sử dụng tác phẩm...
- Theo nghĩa hẹp: Quyền tác giả bao gồm tổng thể các quyền của tác giả đối
với tác phẩm mà mình đã sáng tạo ra.
Bản thân quyền tác giả cũng chứa đựng hai quyền: Quyền nhân thân và quyền
tài sản. Theo quy định tại Điều 738, Bộ luật dân sự Việt Nam 2005 (Phần thứ sáu:
Quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ - Chương XXXIV: Quyền tác giả và
quyền liên quan - Mục 1: Quyền tác giả), tác giả có các quyền nhân thân như: Đặt
tên cho tác phẩm; đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; công bố, phổ biến tác
phẩm; cho hoặc không cho người khác sử dụng tác phẩm của mình; bảo vệ sự toàn
vẹn của tác phẩm. Các quyền tài sản của tác giả bao gồm: Được hưởng nhuận bút;
được hưởng thù lao khi tác phẩm được sử dụng; được hưởng các lợi ích vật chất từ
việc cho người khác sử dụng tác phẩm dưới các hình thức như xuất bản, tái bản,
trưng bày, triển lãm, dịch, phóng tác, cải biên, chuyển thể, cho thuê...

1.1.2. Bảo hộ quyền tác giả
Tại Việt Nam trước năm 1945, các qui định về quyền tác giả chủ yếu dựa vào
Bộ Dân luật Pháp, bên cạnh đó, năm 1946 thêm một số văn bản pháp luật thời Dân
chủ cộng hoà. Pháp luật về quyền sở hữu văn nghệ (theo cách gọi lúc bấy giờ) bao
gồm: Tại Trung kỳ có Dụ số 9 ngày 24/2/1941 do Vua Bảo Đại ban hành; Tại Nam
Kỳ có Sắc lệnh ngày 29/12/1887, Sắc lệnh này chỉ có một điều duy nhất qui định
rằng tất cả luật lệ của pháp luật hiện hành vào ngày 29/10/1887 sẽ được áp dụng ở
Nam Kỳ. Năm 1941 Sắc lệnh này được ban hành lại kèm theo một số văn bản là Bộ

9


Dân luật ngày 13, 19/01/1791; Đạo luật ngày 19, 24/7/1793; Đạo luật ngày
14/7/1886.
Sau Hoà bình lập lại năm 1954 và thống nhất đất nước năm 1975, Nhà nước ta
đã ban hành một số văn bản pháp luật tạo điều kiện cho sự sáng tạo văn học, nghệ
thuật, khoa học như Sắc lệnh 282-SL ngày 14/2/1956 về chế độ báo chí: Nghị định
168/CP ngày 7/12/967 và Nghị quyết số 25/CP ngày 20/5/1974 của Hội đồng Chính
phủ về chế độ nhuận bút,… Tuy vậy, các văn bản nêu trên vẫn chỉ là những qui
định rời rạc, riêng lẻ, chưa đồng bộ về quyền tác giả. Do vậy, ngày 14/11/1986 Hội
đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 142 - HĐBT qui định về quyền tác giả,
đây có thể được coi là văn bản thống nhất đầu tiên về quyền tác giả tại Việt Nam.
Nghị định này gồm có 8 điều với nội dung chủ yếu là làm rõ các khái niệm tác
giả, các đối tượng tác phẩm được bảo hộ, các quyền cơ bản của tác giả. Ngoài ra
Nghị định số 142/HĐBT còn qui định về chế độ quyền tác giả đối với tác phẩm điện
ảnh, vô tuyến truyền hình, video, chương trình phát thanh truyền hình cho các cơ
quan, xí nghiệp sản xuất, xây dựng nên những tác phẩm đó, cho các tổ chức xuất
bản các bán phẩm thường kì phục vụ công chúng. Nghị định qui định thời hạn
hưởng quyền tác giả là suốt cuộc đời tác giả và 30 năm sau khi tác giả chết.
Sau Nghị định số 142/HĐBT ngày 2/12/1994 Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban

hành Pháp lệnh Bảo hộ quyền tác giả. Pháp lệnh gồm 47 điều, chia thành bảy
chương. Pháp lệnh có cơ cấu tương đối đầy đủ hơn so với Nghị định số 142/HĐBT.
Ngày 28/10/1995 Quốc hội ban hành Bộ luật dân sự, là một Bộ luật hoàn
chỉnh, thống nhất và có tầm quan trọng đặc biệt trong hệ thống pháp luật nước ta.
Đến năm 2005, Bộ luật dân sự được sửa đổi lần thứ nhất được gọi dưới cái tên Bộ
luật dân sự năm 2005. Tại Phần thứ sáu của Bộ luật dân sự có qui định về quyền sở
hữu trí tuệ, đã quy định bảo hộ quyền tác giả và các quyền liên quan (chương 34).
Bên cạnh sự kế thừa các qui định về bảo hộ quyền tác giả đã có trước đây Bộ
luật dân sự còn bổ sung và khắc phục một số thiếu sót tồn tại của các văn bản pháp
luật trước đây. Các qui định về quyền tác giả trong Bộ luật dân sự là một bước tiến

10


mới trong quá trình phát triển của hệ thống pháp luật về quyền tác giả ở Việt Nam.
Là một văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao, các qui định về quyền tác giả
trong Bộ luật dân sự là nền móng quan trọng để dần dần hoàn chỉnh và thống nhất
hoá các qui định pháp luật về quyền tác giả, đáp ứng được nhu cầu điều chỉnh các
quan hệ xã hội trong lĩnh vực này, tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam hội nhập
quốc tế, gia nhập các công ước quốc tế về quyền tác giả.
Ý thức được việc Việt Nam ngày càng phải hội nhập sâu rộng hơn vào tiến
trình phát triển chung về kinh tế và văn hoá của khu vực và thế giới, bảo vệ các
quyền về sở hữu trí tuệ càng trở nên quan trọng. Việc hội nhập đòi hỏi phải "theo
luật chơi của người khác" chứ không phải một mình đá một sân. Chính vì thế mà
không chỉ dựa vào một mình Bộ luật Dân sự mà tất yếu phải có được một Luật
chuyên môn riêng về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Sau bao ngày cố gắng thì cuối
cùng, Luật sở hữu trí tuệ (Luật số 50/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005) cũng
ra đời, và sau đó gần một năm, có thêm các Nghị định hướng dẫn thi hành cũng ra
đời, đó là:
- Nghị định số 105/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 quy định chi tiết

và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu
trí tuệ và quản lý Nhà nước về sở hữu trí tuệ.
- Nghị định số 100/2006/NĐ-CP ngày 20 tháng 9 năm 2006 quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền tác giả
và quyền liên quan.
Năm 2009, Quốc hội Việt Nam lại ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Sở hữu trí tuệ số 36/2009/QH12 ngày 19 tháng 6 năm 2009 và có
hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2010 và Nghị định số 119/2010/NĐ-CP
ngày 30/12/2010 sửa đổi bổ xung một số điều của nghị định số 105/2006/NĐ-CP
ngày 22/09/2006 của Chính phủ qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật SHTT về bảo vệ quyền SHTT và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ.

11


1.2. Quyền tác giả trong hoạt động thương mại và thực thi quyền tác giả sau
khi Việt Nam gia nhập WTO
1.2.1. Quyền tác giả trong hoạt động thương mại và các chế tài xử lý xâm phạm
quyền tác giả trong thương mại
Trí tuệ vốn là tài sản của công dân, vì vậy bản thân các quan hệ tài sản của
quyền tác giả quyết định nội dung pháp luật bảo hộ nó. Tôn trọng bản chất khách
quan của vấn đề, các điều ước quốc tế của WIPO, luật của các quốc gia đều điều
chỉnh tài sản dân sự đặc biệt quan trọng này. Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam, với các
quy định về quyền tác giả và quyền liên quan đã chứa đựng đầy đủ yếu tố tài sản,
kinh tế, thương mại. Đối tượng bảo hộ là các quyền của tác giả, các quyền liên quan
bao gồm quyền của người biểu diễn, quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, quyền của
tổ chức phát sóng được thể hiện rất rõ ràng, cụ thể. Điều đặc biệt là các quyền về tài
sản đã được ghi nhận là quyền độc quyền của các chủ thể quyền. Là độc quyền bởi
nó chỉ thuộc về chủ thể cụ thể, với sự đầu tư sáng tạo ra tác phẩm, cuộc biểu diễn,
bản ghi âm, chương trình phát sóng cụ thể. Các quyền độc quyền này do chính chủ

thể quyền thực hiện, hoặc cho phép tổ chức, cá nhân khác thực hiện. Bất kỳ cá nhân
hay tổ chức nào khai thác các quyền đó đều phải thoả thuận với các chủ thể quyền.
Việc hưởng nhuận bút, thù lao và các quyền lợi vật chất khác của chủ thể quyền là
kết quả của việc khai thác các quyền tài sản. Lợi ích kinh tế, giá trị thương mại đó là
thành quả của quá trình đầu tư chất xám và các điều kiện vật chất cho việc sáng tạo
ra các giá trị văn học, nghệ thuật và khoa học, được kết tinh ở tác phẩm. Có thể nói
rằng các quy định độc quyền về quyền tài sản là nội dung cơ bản của Luật Sở hữu
trí tuệ, để từ đó có các quy định liên quan khác được hình thành. Tuy nhiên các
quyền của tác giả, các quyền liên quan không là vô hạn. Vì lợi ích của xã hội, cộng
đồng, người hưởng thụ, kể cả lợi ích của việc khuyến khích công dân sáng tạo tiếp,
Luật Sở hữu trí tuệ đã có các quy định về giới hạn quyền.
- Các chế tài xử lý xâm phạm quyền tác giả trong thương mại.
Phù hợp với cơ chế pháp luật của Việt Nam, Luật Sở hữu trí tuệ đã đưa ra các
quy định đặc thù xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hành
12


chính, dân sự và hình sự. Về biện pháp dân sự, đó là các quy định buộc tổ chức, các
nhân bồi thường thiệt hại, tiêu huỷ đối với hàng hoá, nguyên vật liệu và phương tiện
được sử dụng để sản xuất, kinh doanh hàng hoá xâm phạm. Trong trường hợp
chứng minh được chủ thể quyền có quyền yêu cầu toà án quyết định mức bồi thường
thiệt hại về tinh thần trong giới hạn từ 5 triệu đến 50 triệu đồng. Biện pháp khẩn cấp
tạm thời bao gồm thu giữ, kiểm kê, niêm phong, cấm vận chuyển, chuyển dịch quyền
sở hữu được áp dụng đối với hàng hoá bị nghị ngờ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, có
nguy cơ tẩu tán hoặc bị tiêu huỷ. Về biện pháp hành chính, Luật sở hữu trí tuệ quy định
về phạt tiền với mức từ một đến năm lần giá trị hàng hoá vi phạm. Các biện pháp xử
phạt bổ sung bao gồm tịch thu hàng hoá, nguyên vật liệu, phương tiện sử dụng để sản
xuất kinh doanh hàng hoá giả mạo sở hữu trí tuệ (về quyền tác giả và quyền liên quan
là bản sao chép không được phép của chủ thể quyền), đình chỉ hoạt động sản xuất kinh
doanh. Biện pháp khắc phục hậu quả, buộc tiêu huỷ hàng hoá giả mạo sở hữu trí tuệ.

Theo pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính thì, hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí
tuệ có mức phạt tối đa tới 100 triệu đồng. Về hình sự các hành vi xâm phạm quyền có
yếu tố cấu thành tội phạm thì áp dụng quy định tại bộ Luật Hình sự với mức phạt tiền
tối đa là 200 triệu đồng và 3 năm tù giam.
Chúng ta đang sống trong thời đại công nghệ thông tin, ở đó các loại hình tác
phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học được pháp luật bảo hộ đều đã được tồn tại
trong môi trường kỹ thuật số. Tính ưu việt của môi trường kỹ thuật số cho phép
người hưởng thụ tiếp cận tác phẩm tại bất kỳ địa điểm, thời gian nào do chính họ
lựa chọn. Nhưng chính nó cũng là thách thức cam go trong việc tự bảo vệ quyền của
các chủ thể quyền, đồng thời cũng là thách thức đối với các cơ quan quản lý và thực
thi về sở hữu trí tuệ. Luật Sở hữu trí tuệ đã đề cập tới một loạt các hành vi xâm
phạm quyền mới xuất hiện ở Việt nam đồng thời với sự xuất hiện của công nghệ
thông tin, kỹ thuật số, nhằm ngăn chặn các hành vi sử dụng các biện pháp kỹ thuật
và công nghệ để xâm phạm quyền.
Liên quan tới chế tài xử lý hành vi vi phạm hành chính về quyền tác giả và
quyền liên quan, Chính phủ đã ban hành Nghị định qui định về xử phạt vi phạm

13


hành chính về quyền tác giả và quyền liên quan số 131/2013/NĐ-CP ngày
16/10/2013 và có hiệu lực thi hành từ ngày 15/12/2013. Có thể thấy những văn bản
này và các văn bản sẽ ban hành tiếp theo góp phần tạo hành lang pháp lý an toàn,
khuyến khích các hoạt động sáng tạo, bảo hộ có hiệu quả các ý tưởng đã được sáng
tạo, khai thác nó ở khía cạnh kinh tế, thương mại để đầu tư trở lại cho hoạt động
sáng tạo, góp phần tăng trưởng kinh tế, thu hút đầu tư
1.2.2. Thực thi quyền tác giả sau khi Việt Nam gia nhập WTO
Ngày 11/01/2007 Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO, tức là
về mặt luật pháp chúng ta cơ bản đã đáp ứng yêu cầu, vấn đề hiện nay là phải thực
hiện cam kết về thực thi sở hữu trí tuệ nói chung và quyền tác giả nói riêng. Với

tình trạng vi phạm phổ biến như hiện nay thì đây quả là một việc làm rất khó khăn.
Chính phủ đã xác định đây là một nhiệm vụ rất quan trọng, cần phải tiến hành ngay
thể hiện qua chương trình hành động 168 về Hợp tác phòng và chống xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ giai đoạn 2006-2010 có sự tham gia của 7 bộ. Bộ khoa học và
công nghệ giữ vai trò là đầu mối tổng hợp chung về hoạt động bảo vệ quyền sở hữu
trí tuệ trong cả nước để báo cáo Thủ tướng chính phủ. Sau một thời gian thực hiện
chương trình đã đạt được những kết quả nhất định. Đó là thay đổi nhận thức trong
xã hội, đặc biệt sự thay đổi trong các cơ quan chức năng với vấn đề bản quyền.
Ngoài ra sự phối hợp giữa 7 bộ trong việc bảo hộ sở hữu trí tuệ đã được tăng cường
thể hiện ở việc xây dựng mô hình hợp tác, các đề án liên kết. Có thể nói rằng sở hữu
trí tuệ đã từng bước đi vào cuộc sống. Cụ thể được thể hiện:
Đối với việc bảo vệ chương trình máy tính, ngày 22/02/2007 Thủ tướng Chính
phủ đã ban hành chỉ thị số 04/2007/CT-TTg cam kết mạnh mẽ các chuẩn mực về
bảo hộ sở hữu trí tuệ. Yêu cầu tất cả các bộ, ngành liên quan đều phải tuân thủ quy
định về sở hữu trí tuệ đối với chương trình máy tính. Các cơ quan pháp luật phải
tăng cường công tác bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, xử lý vi phạm trong công tác sử
dụng, lưu hành, xuất nhập khẩu. Các bộ, ngành, địa phương phải bố trí dự toán ngân
sách nhà nước để thực hiện việc mua bản quyền phần mềm hợp pháp.

14


Sau khi ban hành quy định này Bộ tài chính và hàng loạt các ngân hàng đã
phải bỏ ra một số tiền khổng lồ để mua bản quyền phần mềm Microsoft. Tỷ lệ vi
phạm ở Việt Nam đã giảm xuống còn 90% nhưng đáng tiếc phải thừa nhận rằng tỷ
lệ này vẫn còn quá cao so với thế giới.
Đối với lĩnh vực âm nhạc và các loại sách thì ngày càng xuất hiện các vụ kiện
về vi phạm bản quyền chứng tỏ các tác giả đã chú trọng tới việc bảo vệ quyền lợi
của mình. Các cơ quan chức năng cũng tích cực trong việc sử lý vi phạm như tịch
thu, huỷ các sản phẩm và xử phạt hành chính

1.3. Thương mại hóa việc khai thác, chuyển giao quyền tác giả
Quyền sở hữu trí tuệ đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội
và hội nhập kinh tế quốc tế của mỗi quốc gia. Theo nhà kinh tế học Paul Romer coi
sự tích lũy về tri thức chính là lực lượng điều khiển đứng đằng sau tăng trưởng kinh
tế, muốn thúc đẩy tăng trưởng, chính sách kinh tế phải khuyến khích đầu tư vào
nghiên cứu và triển khai những nhân tố mới. Hệ thống thể chế và pháp luật của mỗi
quốc gia phải khuyến khích và tạo động lực cho hoạt động nghiên cứu, ứng dụng và
chuyển giao các quyền sở hữu trí tuệ trên thực tiễn, trong hoạt động kinh doanh. Tài
sản trí tuệ là một phương tiện đầu tư, kinh doanh quan trọng trong nền kinh tế thị
trường và là công cụ để phát triển doanh nghiệp.
Thực tế cho thấy, không chỉ có các doanh nghiệp nước ngoài mà ngày càng
có nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã và đang nhận ra giá trị hiện thực của loại tài
sản trí tuệ và mong muốn sử dụng những lợi thế của nó trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của mình để phát triển kinh tế – xã hội.
Hoạt động chuyển giao quyền tác giả là một thỏa thuận hợp tác giữa chủ sở
hữu quyền tác giả, quyền liên quan và bên được chuyển giao, đổi lại bằng một
khoản tiền theo thỏa thuận (phí chuyển giao tác quyền). Thỏa thuận chuyển giao
quyền Sở hữu trí tuệ thường thể hiện dưới hình thức pháp lý là hợp đồng chuyển
giao quyền tác giả, thông qua hoạt động chuyển nhượng quyền sở hữu các đối
tượng sở hữu và chuyển quyền sử dụng các quyền tác giả, quyền liên quan.

15


Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi bổ xung năm 2009) quy định hai hình
thức chuyển giao quyền tác giả (1) chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan
và (2) chuyển quyền sử dụng quyền tác giả, quyền liên quan. Các quyền của chủ sở
hữu các tác phẩm có thể được chuyển giao là quyền tài sản và quyền công bố hoặc
cho phép công bố tác phẩm. Việc chuyển giao các quyền này có thể thông qua quy
định trực tiếp của pháp luật và một giao dịch dân sự. Trường hợp các quyền của chủ

sở hữu quyền tác giả có được theo quy định trực tiếp của pháp luật là thừa kế theo
pháp luật, kế thừa quyền và nghĩa vụ của một pháp nhân, chuyển giao quyền tài sản
đối với tác phẩm điện ảnh, tác phẩm sân khấu (Điều 21 Luật Sở hữu trí tuệ 2005).
Giao dịch để chuyển quyền của tác giả cho chủ sở hữu quyền tác giả thể hiện dưới
hình thức phổ biến trên thực tế là Hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả, quyền
liên quan và hợp đồng chuyển giao quyền tác giả, quyền liên quan.
1.4. Thực trạng chính sách và pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền Tác giả
1.4.1. Nhà nước đã ban hành chính sách cụ thể về bảo hộ quyền tác giả theo
hướng tạo sự phù hợp với các cam kết của Việt Nam trong WTO
Bảo hộ quyền tác giả tuy là một lĩnh vực rất mới ở Việt Nam nhưng nó đang
dần được hoàn thiện và có những biến chuyển đáng kể, đặc biệt kể từ khi luật sở
hữu trí tuệ 2005 ra đời. Hiện nay, cơ sở pháp lý để điều chỉnh lĩnh vực này gồm các
văn bản dưới đây:
- Hiến pháp 1992, Điều 60 quy định: “công dân có quyền nghiên cứu khoa
học, kỹ thuật, phát minh, sáng chế, sáng kiến cải tiến kỹ thuật hợp lý hoá sản xuất,
sáng tác, phê bình văn học, nghệ thuật và tham gia các hoạt động văn hoá khác. Nhà
nước bảo hộ quyền tác giả , quyền sở hữu công nghiệp”.
+ Bộ luận dân sự 2005.
+ Luật sở hữu trí tuệ 2005.
+ Luật cạnh tranh 2004
+ Bộ luật hình sự 1999
+ Luật xuất bản 2004

16


+ Luật điện ảnh 2006
+ Pháp lệnh quảng cáo 2002
+ Nghị định số 105/2006/NĐ-CP ngày 22/09/2006 quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành các điều của luật sở hữu trí tuệ về bảo hộ quyền tác giả và quản lý nhà

nước về sở hữu trí tuệ
+ Nghị định số 100/2006/NĐ-CP ngày 21/09/2007quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành các điều khoản của bộ luật dân sự,luật sở hữu trí tuệ về quyền tác giả
và quyền liên quan.
+ Chỉ thị số 04/2007/CT-TTg ngày 22/02/2007 về việc tăng cường bảo hộ
quyền tác giả của chương trình máy tính.
+ Nghị định số 101/2002/NĐ-CP ngày 31/12/2001 quy định một số điều của
luật hải quan về thủ tục hải quan, chế độ kiểm tra giám sát hải quan.
+ Nghị định số 61/2002/NĐ-CP ngày 21/6/2002 về chế độ nhuận bút.
+ Nghị định số 51/2002/NĐ-CP ngày 26/04/2002 quy định chi tiết thi hành
luật xuất bản.
+ Quy chế duyệt phim 9/8/1997 kèm theo quyết định số 2455 10 Đ-DA
+ Quy chế hoạt động triển lãm mỹ thuật và galerly… ngày 2/2/1999 kèm theo
quyết định số 03/1999/QĐ-BVHTT
+ Quy chế quản lý xây dựng tượng đài, tranh hoạ, mỹ thuật ngày 29/3/2002
kèm theo quyết định số 65/2000/QĐ-NVHTT.
+ Quy chế sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu, lưu trữ, kinh doanh hãng âm thanh,
đĩa âm thanh, hãng hình âm nhạc, sân khấu khi kèm theo quyết định số
55/1999/QĐ-BVHTT.
+ Quy chế cấp giấy phép, thanh tra, kiểm tra,xử lý…thu chương trình truyền
hình nước ngoài kèm theo quyết định số 18/2002/QĐ-BVHTT
+ Thông tư số 64/1997/TT-ĐA ngày 19/8/1997 hướng dẫn bổ sung để thực
hiện nghị định 48 ngày 17/7/1995 ,nghị dịnh 87/CP ngày 12/12/1995 về…hàng, đại
lý băng hình và quản lý bản quyền…

17


×