Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Pháp luật về bảo hiểm y tế từ thực tiễn thực hiện tại tỉnh hưng yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (816.93 KB, 102 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM Y TẾ TỪ THỰC TIỄN
THỰC HIỆN TẠI TỈNH HƯNG YÊN

ĐINH ĐĂNG MUÔN

Hà Nội – 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM Y TẾ TỪ THỰC TIỄN
THỰC HIỆN TẠI TỈNH HƯNG YÊN
ĐINH ĐĂNG MUÔN
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ

: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS Trần Thị Thúy Lâm

HÀ NỘI - 2016




LỜI CẢM ƠN
Luận văn Thạc sỹ này được thực hiện tại Viện Đại học Mở Hà Nội dưới sự
hướng dẫn khoa học của PGS.TS.Trần Thị Thúy Lâm. Để hoàn thành luận văn trên,
em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS.Trần Thị Thúy Lâm, đã tận tình
giảng dạy, hỗ trợ và định hướng nghiên cứu, liên tục quan tâm, tạo điều kiện thuận
lợi trong suốt quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu. Em xin chân thành cảm ơn các
nhà khoa học, tác giả các công trình công bố đã trích dẫn trong luận văn vì đã cung
cấp nguồn tư liệu quý báu, những kiến thức liên quan trong quá trình nghiên cứu.
Em xin trân trọng cảm ơn các thầy, cô trong Ban Giám hiệu Nhà trường, các
thầy cô giáo Khoa Sau đại học - Viện Đại học Mở Hà Nội, Hội đồng khoa học, Hội
đồng Thạc sỹ của học viện đã tạo điều kiện để em được thực hiện và hoàn thành
chương trình đào tạo thạc sỹ.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô đã tham gia giảng dạy chương trình
đào tạo thạc sỹ ngành Luật Kinh tế tại Viện Đại học Mở Hà Nội.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến Lãnh đạo Bảo hiểm xã hôi tỉnh Hưng Yên, các
phòng chuyên môn, đơn vị bảo xã hội các huyện, đã tạo điều kiện cung cấp các số
liệu và cho biết các ý kiến quý báu để góp phần giúp tôi hoàn thiện trong quá trình
nghiên cứu.
Cuối cùng là sự biết ơn tới Bố Mẹ, gia đình, đồng nghiệp và bạn bè thân thiết
nhất đã tạo điều kiện động viên, quan tâm, chia sẻ trong suốt quá trình để hoàn
thành Luận văn này.
Trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 12 tháng 9 năm2016
Học viên

Đinh Đăng Muôn



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nếu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa sau đại học - Viện đại học mở Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa sau đại học xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Đinh Đăng Muôn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu..................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ................................................................................. 2
3. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................................ 4
4. Những đóng góp mới của luận văn ...................................................................... 5
5. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................. 5
6. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... 6
7. Kết cấu của luận văn ............................................................................................ 6
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM Y TẾ
VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM Y TẾ ........................................... 7
1.1. Khái niệm bảo hiểm y tế và vai trò, ý nghĩa của bảo hiểm y tế .......................... 7
1.1.1. Khái niệm về Bảo hiểm y tế ........................................................................... 7
1.1.2. Vai trò, ý nghĩa của bảo hiểm y tế ................................................................ 12

1.2. Khái niệm, bản chất và các nguyên tắc của pháp luật bảo hiểm y tế ................ 13
1.2.1.Khái niệm và bản chất của pháp luật bảo hiểm y tế ....................................... 13
1.2.2.Nguyên tắc cơ bản của pháp luật bảo hiểm y tế ............................................. 15
1.3. Pháp luật bảo hiểm y tế ở một số quốc gia trên thế giới
và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ............................................................ 17
1.3.1. Pháp luật bảo hiểm y tế ở một số quốc gia trên thế giới................................ 17
1.3.2. Những bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam ......................................... 27
1.4. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển pháp luật
bảo hiểm y tế ở Việt Nam ............................................................................... 31
1.4.1. Giai đoạn từ từ năm 1945 đến 1992 ............................................................. 31
1.4.2. Giai đoạn từ năm 1992 đến 01/7/2009 ......................................................... 32
1.4.3. Giai đoạn từ 2009 đến nay ........................................................................... 38


Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT BẢO HIỂM Y TẾ
VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI TỈNH HƯNG YÊN ............... 43
2.1. Thực trạng pháp luật về đối tượng tham gia bảo hiểm y tế
và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Hưng Yên ........................................................ 43
2.1.2 Thực tiễn thực hiện tai tỉnh Hưng Yên .......................................................... 50
2.2.Thực trạng pháp luật về chế độ hưởng bảo hiểm y tế
và thực tiến thực hiện tại tỉnh Hưng Yên ........................................................ 55
2.2.1. Thực trạng pháp luật về chế độ hưởng BHYT .............................................. 55
2.2.2. Thực tiễn thực hiện tại tỉnh Hưng Yên ......................................................... 65
2.3. Thực trạng pháp luật về cơ sở khám chữa bện BHYT, phương thức
thanh toán BHYT và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Hưng Yên ........................... 67
2.4. Thực trạng pháp luật về quỹ BHYT và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Hưng Yên 69
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
BHYT TẠI TỈNH HƯNG YÊN ....................................................... 77
3.1. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật bảo hiểm y tế ............................. 77

3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật
bảo hiểm y tế tại tỉnh Hưng Yên ..................................................................... 81
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BHYT

Bảo hiểm y tế

BHXH

Bảo hiểm xã hội

DN

Doanh nghiệp

EU

Liên minh Châu Âu

ILO

Tổ chức lao động quốc tế

UBDT


Ủy ban Dân tộc

UBND

Ủy ban nhân dân

UNICEF

Quỹ Nhi đồng Liên hiệp Quốc

WB

World Bank

WHO

Tổ chức Y tế thế giới

KCB

Khám chữa bệnh


DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1. Số lượng người tham gia BHYTgiai đoạn 2012 – 2015
trên địa bàn tỉnh Hưng Yên……………………………………………50
Bảng 2.2. Số chi phí KCB quỹ BHYT thanh toán cho các nhóm đối tượng.......... 66
Bảng 2.3. Bảng thu, chi quỹ KCB BHYT từ năm 2012 – 2015 ............................ 76



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong cuộc sống này, không có gì quan trọng cho bạn bằng chính con người
bạn, một thân thể không bệnh tật, một tâm hồn không loạn đó là chân hạnh phúc của
con người. Có câu nói: “Người có sức khỏe có một trăm ước muốn; người không có
sức khỏe chỉ có 1 ước muốn duy nhất, đó là sức khỏe”. Quả đúng như vậy, bệnh tật
không trừ một ai bất kể bạn là người giàu hay người nghèo, người có địa vị cao hay
thấp. Nếu bạn may mắn được sở hữu một sức khỏe tốt thì đồng nghĩa với việc bạn
đang cận kề với thành công về mọi lĩnh vực. Do đó, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe
của bản thân cũng như cộng đồng trở thành một nhu cầu tất yếu trong xã hội và
được thực hiện bằng nhiều cơ chế pháp lý khác nhau, trong đó có bảo hiểm y tế.
Với mục đích bảo vệ và chăm sóc sức khỏe mỗi cá nhân trong cộng đồng,
pháp luật bảo hiểm y tế (BHYT) giữ vai trò quan trọng trong hệ thống pháp luật an
sinh xã hội của các quốc gia trên thế giới. Công dân có quyền hưởng chế độ bảo vệ
sức khỏe trở thành một nguyên tắc hiến định trong hệ thống pháp luật của tất cả các
quốc gia trên thế giới. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã ra lời tuyên bố Alma-Ata:
“Sức khỏe cho mọi người”, được xem là cương lĩnh hành động cho mỗi quốc gia
trên thế giới với phương châm là phải chăm lo bảo vệ sức khỏe cho cộng đồng. Với
những ưu điểm vốn có, pháp luật BHYT là giải pháp được hầu hết các quốc gia lựa
chọn để thực hiện sứ mệnh chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cộng đồng hướng tới mục
tiêu công bằng và hiệu quả.
Ở Việt Nam, BHYT là một chính sách xã hội lớn của Nhà nước. Pháp luật
BHYT đã có những bước trưởng thành và phát triển trong thời gian hơn 20 năm kể
từ năm 1992 khi Điều lệ BHYT đầu tiên của nước ta được ban hành kèm theo Nghị
định số 29/HĐBT ngày 15/8/1992 của Hội đồng Bộ Trưởng (nay là Chính phủ).
Đặc biệt là sự ra đời của Luật BHYT năm 2008 và gần đây nhất, ngày 13/6/2014, tại
kỳ họp thứ 7 khóa XIII Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một

1



số điều của Luật BHYT (Luật BHYT sửa đổi số 46/2014/QH 13) với 82,73% đại
biểu tán thành. Có thể nói, đây là dự thảo Luật được hoàn thành với công sức, với sự
tham gia của các Bộ, ngành, Bảo hiểm xã hội (BHXH) Việt Nam, các tổ chức quốc tế
WHO, World Bank, UNICEF, EU đặc biệt là các đồng chí Lãnh đạo Bộ Y tế, Ủy ban
Các vấn đề xã hội của Quốc Hội đã đầu tư nhiều thời gian, công sức để nghiên cứu,
học hỏi kinh nghiệm, tìm kiếm mô hình phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam.
Đây cũng là dự thảo Luật được dư luận xã hội quan tâm vì có nhiều nội dung liên
quan trực tiếp đến cơ chế tài chính đối với chăm sóc sức khỏe và an sinh xã hội. Theo
đó, nhiều điểm trong dự thảo Luật BHYT đã được thay đổi theo chiều hướng tạo
thuận lợi và thu hút người dân tham gia BHYT. So với Luật BHYT (năm 2008), Luật
BHYT sửa đổi có một số điểm quan trọng có tính đột phá mạnh mẽ để khắc phục
những hạn chế, bất cập của Luật BHYT năm 2008, tạo cơ chế pháp lý bảo đảm quyền
lợi của người tham gia BHYT và tính bền vững của quỹ BHYT để thực hiện mục tiêu
BHYT toàn dân.
Tuy nhiên, bên cạnh những nỗ lực không ngừng trong việc hoàn thiện các quy
định của pháp luật, pháp luật BHYT của Việt Nam nói chung và địa bàn tỉnh Hưng
Yên nói riêng vẫn còn quá nhiều thách thức cho sự thành công của BHYT toàn dân
với hệ thống tài chính bảo hiểm bền vững. Tỷ lệ người tham gia BHYT hiện tại
chưa cao. Do đó, những giải pháp cho việc hoàn thiện pháp luật và đảm bảo tính
khả thi để hoàn thành mục tiêu của BHYT toàn dân ở Việt Nam nói chung và tỉnh
Hưng Yên nói riêng trở nên cấp thiết. Đây là lý do cơ bản để tác giả lựa chọn đề tài
“Pháp luật về bảo hiểm y tế, từ thực tiễn thực hiện tại tỉnh Hưng Yên” làm đề
tài luận văn Thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Về lĩnh vực Bảo hiểm y tế nói chung kể từ khi thành lập và đi vào hoạt động
đã có nhiều công trình nghiên cứu nhưng về pháp luật bảo hiểm y tế còn hạn chế,
mới chỉ có một số đề tài trong lĩnh vực này được nghiên cứu một cách có hệ thống,
đó là:


2


- "Mở rộng bảo hiểm y tế tự nguyện tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân trên địa
bàn tỉnh Lâm Đồng", chuyên đề nghiên cứu khoa học, do Bác sỹ Trần Ngọc Duyến
chủ nhiệm đề tài, bảo vệ năm 2004. Đề tài đã tập hợp một cách có hệ thống về tình
hình tham gia BHYTTN trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng để tìm ra những mặt được, mặt
tồn tại và nguyên nhân của nó. Trên cơ sở đó, đề tài đã đưa ra các giải pháp để mở
rộng BHYTTN ở tỉnh Lâm Đồng.
-"Phát triển bảo hiểm y tế ở nông thôn công bằng và bền vững nhằm nâng cao
chăm sóc sức khỏe cho người dân", Đàm Viết Cương, Trần Văn Tiến, Nguyễn
Khánh Phương, Trần Thị Mai Oanh, Hoàng Thị Phượng, Dương Huy Lương và
cộng sự (2007). Viện Chiến lược và Chính sách Y tế.
- “Nhu cầu và khả năng tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế tự nguyện
khu vực phi chính thức”, Lưu Thị Thu Thủy (2009), Tạp chí Bảo hiểm xã hội số
141 tháng 11/2009.
- "Bảo đảm an sinh xã hội cho nông dân - Một số vấn đề xã hội cấp bách ở
nước ta hiện nay", Đỗ Văn Quân (2008), Tạp chí Bảo hiểm xã hội số 115 tháng
7/2008.
- "Yếu tố ảnh hưởng đến việc tham gia bảo hiểm y tế của người dân nông
thôn". Đỗ Văn Quân (2008), Tạp chí Bảo hiểm xã hội số 116 tháng 8/2008.
- "Xác định nhu cầu bảo hiểm y tế tự nguyện của nông dân huyện Văn Giang
tỉnh Hưng Yên”, Lê Trung Thực (2010) Trường Đại học nông nghiệp Hà Nội. Đề
tài hệ thống hóa cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn về nhu cầu, bảo hiểm, BHYT,
BHYTTN; đánh giá thực trạng và nhu cầu BHYTTN của nông dân trong huyện;
Phân tích các nguyên nhân ảnh hưởng tới nhu cầu tham gia BHYTTN của nông
dân; Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường, thu hút nông dân tham gia
BHYTTN;
- “Thực trạng tham gia bảo hiểm y tế của sinh viên một số trường đại học, cao

đẳng tại tỉnh Thái Nguyên”, đề tài Luận văn Thạc sỹ của tác giả Mai Thị Thu Nga.
Đề tài làm rõ thực trạng tham gia bảo hiểm y tế của sinh viên một số trường đại học,

3


cao đẳng tại Tỉnh Thái Nguyên và tìm hiểu sự hiểu biết, thái độ và nguyện vọng của
sinh viên về bảo hiểm y tế.
- “Đánh giá thực trạng triển khai BHYT HS-SV tại cơ quan Bảo hiểm xã hội
Việt Nam”, Luận văn kinh tế trường Đại học Y tế công cộng.
- “An sinh xã hội và xu hướng phát triển trên thế giới” - TS. Nguyễn Thị Định
(2013), Tạp chí Bảo hiểm xã hội, (17), tháng 10;
- “Thực hiện BHYT 100% cho người cận nghèo ở Ninh Bình”, Tạp chí Bảo
hiểm xã hội, (26), tháng 10, Lê Hùng Sơn (2013).
- “Giải pháp đẩy nhanh tiến độ phát triển BHYT toàn dân”, Tạp chí Bảo hiểm
xã hội, Đặng Minh Thông (2015).
Tuy nhiên, đề tài về thực trạng thi hành pháp luật Bảo hiểm y tế chưa được
nghiên cứu nhiều, dưới góc độ nghiên cứu luận án tiến sỹ mới chỉ có một vài luận án
viết về đề tài này như: TS. Nguyễn Thị Thanh Hương (2012), “ Cơ sở lý luận và thực
tiễn hoàn thiện pháp luật bảo hiểm y tế ở Việt Nam”, Luận án tiến sĩ Luật học, Học
viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
Nhìn chung, trong thời gian qua có rất nhiều nghiên cứu xoay quanh chủ đề về
Bảo hiểm y tế, tuy nhiên các đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về bảo hiểm y tế nói
chung, chưa có đề tài ở cấp độ thạc sỹ đi sâu về vấn đề pháp luật bảo hiểm ytế bắt
buộc ở Việt Nam và trên địa bàn tỉnh Hưng Yên nói riêng. Vì vậy, đề tài “Pháp luật
về bảo hiểm y tế, từ thực tiễn thực hiện tại tỉnh Hưng Yên” là cần thiết và có ý
nghĩa thiết thực cả trên phương diện lý luận và thực tiễn.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của Luận văn là nghiên cứu lý luận và thực trạng pháp luật BHYT ở
Việt Nam, tạo lập những tri thức lý luận cũng như những luận cứ khoa học cho việc

hoàn thiện pháp luật BHYT ở tỉnh Hưng Yên. Để thực hiện mục tiêu này, tác giả
Luận văn đặt ra những nhiệm vụ chính sau:
Thứ nhất: Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về pháp luật BHYT

4


đặt nền móng nhận thức vững vàng về BHYT nói chung và pháp luật BHYT nói
riêng góp phần xây dựng hệ thống tư duy lý luận đầy đủ, vững chắc về pháp luật
BHYT.
Thứ hai: Phân tích, đánh giá thực trạng các quy định về pháp luật BHYT ở
Việt Nam, tìm hiểu thực tiễn thi hành pháp luật BHYT ở địa bàn tỉnh Hưng Yên.
Trên cơ sở đó tìm ra những hạn chế cần phải hoàn thiện, đặc biệt là việc chỉ ra
nguyên nhân của những hạn chế đó.
Thứ ba: Đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật BHYT cho
phù hợp với thực tiễn hiện nay góp phần thực hiện tốt công tác bảo vệ và chăm sóc
sức khỏe nhân dân trên địa bàn tỉnh Hưng Yên.
4. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn được viết trong thời điểm Luật BHYT sửa đổi mới được thực hiện
nên dự kiến những đóng góp mới như sau:
- Luận văn đã làm sáng tỏ và góp phần làm hoàn thiện hơn những vấn đề lý
luận về BHYT, cũng như pháp luật về BHYT.
- Luận văn đã phân tích được pháp luật về BHYT của một số quốc gia tương
đối thành công trong lĩnh vực BHYT và trên cơ sở đó rút ra được các bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam.
- Luận văn đã phân tích được thực trạng pháp luật về BHYT hiện hành đồng
thời liên hệ với thực tiễn thực hiện ở tỉnh Hưng Yên.
- Luận văn cũng nêu được một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về
BHYT đồng thời cũng đưa ra được một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực
hiện pháp luật về BHYT ở Hưng Yên.

5. Phạm vi nghiên cứu
Pháp luật BHYT là lĩnh vực rộng có thể nghiên cứu ở nhiều góc độ, nội dung.
Trong luận văn này, tác giả chủ yếu chỉ nghiên cứu pháp luật BHYT ở các khía
cạnh: đối tượng tham gia BHYT, chế độ quyền lợi về BHYT, phương thức chi trả

5


BHYT và quỹ BHYT… Những nội dung như quản lý nhà nước về BHYT, giải
quyết tranh chấp về BHYT cũng như xử lý vi phạm pháp luật về BHYT sẽ không
thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn.
6. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận với pháp duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử để nghiên cứu pháp luật về BHYT trong mối quan hệ với các yếu tố
kinh tế, chính trị, xã hội, lịch sử. Trong quá trình nghiên cứu, luận văn còn dựa trên
cơ sở các quan điểm, định hướng của Đảng, Nhà nước về chính sách xã hội, bảo vệ
và phát triển con người, quan điểm lấy con người làm trung tâm và mục tiêu của sự
phát triển nhằm phân tích, đánh giá những vấn đề thuộc phạm vi, đối tượng nghiên
cứu của luận văn.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu phù hợp như sau:
- Phương pháp phân tích, so sánh;
- Phương pháp thống kê, tổng hợp;
- Phương pháp của triết học Mác – Lênin.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, các công trình
khoa học liên quan đến luận án đã được công bố, luận văn gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về BHYT và pháp luật về BHYT.
Chương 2: Thực trạng pháp luật BHYT và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Hưng
Yên.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả

thực hiện pháp luật BHYT ở tỉnh Hưng Yên.

6


Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM Y TẾ
VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM Y TẾ
1.1. Khái niệm bảo hiểm y tế và vai trò, ý nghĩa của bảo hiểm y tế
1.1.1. Khái niệm về Bảo hiểm y tế
Do điều kiện kinh tế, xã hội, truyền thống lịch sử mà các quốc gia có sự khác
nhau trong quan niệm về BHYT.
Theo WHO thì BHYT là tên gọi của loại hình bảo hiểm về y tế không mang
tính kinh doanh, không vì mục tiêu lợi nhuận mà nhằm mục đích an sinh xã hội trong
lĩnh vực chăm sóc sức khỏe. Theo thông lệ quốc tế tôn chỉ mục đích của loại hình
bảo hiểm này là đem lại sự chăm sóc y tế, với tư cách là một trong những nội dung
chính của an sinh xã hội theo Công ước số 102 - Công ước về quy phạm tối thiểu an
sinh xã hội của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO).
Các nước công nghiệp phát triển thì quan niệm BHYT là một tổ chức cộng đồng
đoàn kết tương trợ lẫn nhau, có nhiệm vụ giữ gìn sức khỏe, khôi phục lại sức khỏe
hoặc cải thiện tình trạng sức khỏe của người tham gia BHYT [42]. Theo tài liệu
“BHYT xã hội” do WHO ấn hành tháng 5/2003 thì BHYT bắt buộc thuộc phạm trù
BHYT xã hội. Đây là một cơ chế tạo nguồn và quản lý chăm sóc sức khỏe thông qua
chia sẻ rủi ro về sức khỏe giữa các thành viên của quỹ đồng thời huy động nguồn
đóng góp từ doanh nghiệp, hộ gia đình, Chính phủ. Cơ chế BHYT là một bộ phận của
an sinh xã hội chứ không chỉ đơn giản là một phương pháp huy động vốn mới cho y
tế. Đây là giải pháp mang lại sự ổn định tài chính trong thanh toán các dịch vụ khám
chữa bệnh đồng thời tăng khả năng tiếp cận của người dân đối với các dịch vụ y tế
thiết yếu.

Còn theo tác giả Chawla và Berman, BHYT là một nhóm người đóng góp vào
một quỹ chung, thông thường do một bên thứ ba nắm giữ. Nguồn quỹ này sau đó sẽ

7


được dùng để thanh toán cho toàn bộ hoặc một phần các chi phí nằm trong phạm vi
gói quyền lợi của người tham gia bảo hiểm. Bên thứ ba có thể là bảo hiểm xã hội
nhà nước, các cơ quan bảo hiểm công khác hoặc do quỹ tư nhân đảm nhiệm. Cách
tiếp cận này chủ yếu xuất phát từ mô hình tài chính theo đóng góp, chưa thể hiện
được vai trò của nhà nước đối với hoạt động BHYT. Tác giả Lữ Ngọc Tịnh, một
học giả người Trung Quốc cho rằng BHYT là một chế độ trong đó Nhà nước,
doanh nghiệp cung cấp sự đảm bảo một cách bình đẳng về vật chất và phí khám,
dịch vụ chữa bệnh cần thiết cho người lao động (công dân) bị ốm đau, bệnh tật,
thương tật, già yếu, sinh đẻ, thất nghiệp phải đến bệnh viện để chẩn đoán, kiểm tra
và chữa trị [42].
Nhìn chung, dù được tổ chức thực hiện dưới mô hình nào, thì quan niệm về
BHYT đều thống nhất ở một vấn đề cơ bản đó là mục đích của BHYT nhằm chăm
sóc bảo vệ sức khỏe cho người dân không vì mục tiêu lợi nhuận. Như vậy, trên thế
giới quan niệm về tôn chỉ, mục đích của BHYT khá đồng nhất giữa các quốc gia. Sự
khác nhau chủ yếu chỉ ở mô hình tổ chức thực hiện, phạm vi và mức độ bảo vệ do
điều kiện kinh tế, xã hội, lịch sử truyền thống của từng quốc gia quyết định.
Ở Việt Nam, về cơ bản, quan niệm về BHYT cũng không nằm ngoài những
tôn chỉ mục đích và các nguyên lý cơ bản của BHYT theo quan niệm của ILO,
WHO cũng như pháp luật các nước. Theo từ điển Bách khoa Việt Nam, trang 151,
“BHYT là loại bảo hiểm do nhà nước tổ chức, quản lý nhằm huy động sự đóng góp
của cá nhân, tập thể và cộng đồng xã hội để chăm lo sức khỏe, khám sức khỏe và
chữa bệnh cho nhân dân”. Khái niệm này cơ bản đã khẳng định được bản chất
BHYT ở Việt Nam, đó là loại hình BHYT xã hội do nhà nước tổ chức thực hiện,
theo mô hình tài chính đóng góp. Tuy nhiên, khái niệm này chưa lộ ttả được tôn chỉ,

mục đích của BHYT. Theo PGS, TS Đào Văn Dũng “BHYT là một chính sách xã
hội do nhà nước tổ chức thực hiện nhằm huy động nguồn lực tài chính của nhà
nước, người sử dụng lao động, người lao động và cộng đồng để hình thành quỹ tài
chính dùng chi trả chi phí khám chữa bệnh cho người tham gia BHYT theo quy định
của pháp luật”. Theo quan niệm này BHYT có các đặc trưng sau: i) do nhà nước

8


thực hiện; ii) có sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và sự hỗ
trợ của nhà nước; iii) quỹ dùng để chi trả chi phí khám chữa bệnh [26]. Tuy nhiên,
khái niệm này vẫn chưa nêu bật được nguyên lý của BHYT đó là tính tương trợ
cộng đồng, chia sẻ rủi ro. Theo TS. Nguyễn Thị Thanh Hương “BHYT là một chính
sách an sinh xã hội của Nhà nước mang tính bắt buộc đối với mọi người trên cơ sở
sự đóng góp theo thu nhập của các thành viên, có sự hỗ trợ của ngân sách nhằm
mục đích khám chữa bệnh khi thành viên ốm đau, bệnh tật và không vì mục tiêu lợi
nhuận”. Theo quan niệm này, khái niệm BHYT sẽ bao quát và đảm bảo 2 yếu tố
kinh tế và xã hội. Tính xã hội được thể hiện ở vai trò nhà nước trong việc bắt buộc
các thành viên tham gia, ngân sách nhà nước đảm bảothực hiện dưới hình thức hỗ
trợ kinh phí đóng BHYT cho những đối tượng yếu thế và vì mục tiêu an sinh xã hội,
nhà nước đảm bảo trong trường hợp quỹ BHYT mất cân đối thu chi trên phạm vi
toàn quốc. Yếu tố kinh tế thể hiện ở sự tham gia đóng góp của các thành viên trên
cơ sở thu nhập nhằm cân đối thu chi quỹ BHYT [42].
Như vậy, các nhà nghiên cứu khoa học về BHYT tuy có những cách tiếp cận
khác nhau khi đưa ra các quan niệm về BHYT nhưng nhìn chung đều xác định
BHYT hướng đến việc chăm sóc sức khỏe, không vì mục tiêu lợi nhuận và do nhà
nước tổ chức thực hiện. Dưới góc độ pháp lý bảo hiểm y tế được hiểu là hình thức
bảo hiểm bắt buộc được áp dụng đối với các đối tượng theo quy định của Luật này
để chăm sóc sức khỏe, không vì mục đích lợi nhuận do Nhà nước tổ chức thực hiện”
(Điều 1 Luật BHYT).

Khái niệm về BHYT trong Luật BHYT về cơ bản đã thể hiện được các đặc
trưng của BHYT, đó là: i) BHYT do nhànước tổ chức thực hiện mang tính bắt buộc
đối với mọi người; ii) BHYT là một bộ phận cấu thành của an sinh xã hội, có tôn
chỉ mục đích vì an sinh xã hội; iii) không nhằm mục đích lợi nhuận khi tham gia
BHYT; iv) quỹ BHYT được hình thành dựa trên sự đóng góp của người sử dụng lao
động, người lao động và cộng đồng dưới sự bảo trợ của nhà nước. Các đặc trưng
này cũng thể hiện tính đầy đủ trong quan niệm về BHYT theo khuyến cáo của
WHO và phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội, lịch sử của Việt Nam nên theo tác

9


giả là hợp lý.
Bảo hiểm y tế có một số đặc trưng cơ bản sau đây:
- Về đối tượng tham gia
Đối tượng tham gia của BHYT là tất cả các thành viên trong xã hội.BHYT là
hình thức tương trợ cộng đồng với mục đích bảo vệ sức khỏe cho nhân dân nên đối
tượng tham gia BHYT không bị giới hạn bởi bất cứ tiêu chí nào. Tất cả mọi thành
viên trong xã hội, dù là người lao động hay không phải là người là người lao động, dù
là trẻ em hay người già... cũng đều có thể tham gia BHYT. Thực hiện BHYT toàn
dân luôn là mục tiêu phấn đấu của các quốc gia. Đây cũng chính là một trong những
điểm khác biệt giữa BHYT và bảo hiểm xã hội Nếu như đối tượng tham gia của bảo
hiểm xã hội là người lao động (trong độ tuổi lao động) thì đối tượng tham gia BHYT
rộng hơn rất nhiều, bao gồm tất cả mọi thành viên trong xã hội.
Nghiên cứu về quá trình phát triển của BHYT cho thấy, BHYT luôn mở rộng
phạm vi đối tượng tham gia theo nghĩa vụ (mang tính chất bắt buộc) và ban đầu là
BHYT cho người lao động làm thuê (người có quan hệ lao động), rồi đến BHYT
cho người lao động tự do, cho người lao động trong nông nghiệp... và tiến tới là
BHYT toàn dân.
- Về mục tiêu (đối tượng) của Bảo hiểm y tế

Mục tiêu của BHYT là hướng tới việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho mọi
người dân. Khi bị ốm đau bệnh tật tất yếu dẫn đến một nhu cầu là khám và điều trị
bệnh. Khi đó BHYT có trách nhiệm chi trả các chi phí KCB cho họ. Bởi vậy, mục
tiêu, đối tượng của BHYT không phải là thu nhập và đảm bảo thu nhập cho người bị
ốm đau mà chính là sức khỏe của người tham gia BHYT. Do đó, BHYT không phải
là khoản trợ cấp bằng tiền như các loại hình bảo hiểm khác mà là các dịch vụ chăm
sóc sức khỏe, chữa bệnh.
- Về mức hưởng Bảo hiểm y tế
Đối với các loại hình bảo hiểm nhìn chung mức hưởng bảo hiểm được xác

10


định trên cơ sở mức đóng góp của người tham gia bảo hiểm (mức đóng góp, thời
gian đóng góp...). Tuy nhiên, đối với BHYT, mức hưởng BHYT lại không phụ
thuộc vào mức đóng, thời gian đóng mà phụ thuộc vào rủi ro bệnh tật và cơ sở cung
ứng dịch vụ tế. Điều này cũng là hợp lý bởi ốm đau, bệnh tật là những rủi ro mà con
người không thể lường trước và cũng là điều mà không ai mong muốn. Vì vậy,
người tham gia BHYT không nhất thiết phải được hưởng toàn bộ khoản tiền mà họ
đã đóng góp và họ nên chia sẻ rủi ro cho những người bị ốm đau, bệnh tật.
Hệ thống bảo hiểm về y tế ngay từ khi hình thành đã không định hướng theo
mức độ rủi ro mà định hướng theo nguyên tắc đáp ứng đặc biệt và không phải chi
trả trực tiếp. Đến nay đặc trưng này của BHYT vẫn giữ nguyên. Điều đó được thể
hiện rất rõ là: khi bị ốm đau thì người bệnh sẽ được chữa trị cho đến khi khỏe mạnh
trở lại bằng mọi phương pháp, kỹ thuật y tế hiện thời mà không căn cứ vào trước đó
họ đã đóng góp BHYT được bao nhiêu. Trong hệ thống BHYT, mỗi người bệnh có
thể nhận được đầy đủ các dịch vụ y tế và thuốc men cần thiết mà không theo
phương thức bảo hiểm thuần túy (tức là căn cứ vào mức đóng thì nhận được một
mức hưởng tương ứng) và hoàn toàn không có ý nghĩa khi xem xét đến mức lương
làm căn cứ đóng bảo hiểm. Chính định hướng này đã làm nền tảng cho các nguyên

tắc cơ bản về BHYT, nó được tồn tại và phát triển đến ngày nay.
- Về thực hiện Bảo hiểm y tế
Một trong những đặc trưng cơ bản của BHYT, đó là quan hệ BHYT là quan hệ
diễn ra giữa ba bên: bên thực hiện BHYT, bên tham gia BHYT và cơ sở KCB. Vì
vậy, khác với các hình thức bảo hiểm khác (chỉ bao gồm bên tham gia bảo hiểm và
bên thực hiện bảo hiểm), việc thực hiện BHYT bao giờ cũng có sự tham gia của bên
thứ ba, đó là cơ sở KCB. Cơ sở KCB là cơ quan tổ chức thực hiện việc KCB và
cung cấp dịch vụ y tế. Bởi vậy, việc đáp ứng các nhu cầu KCB của người bệnh phụ
thuộc nhiều vào khả năng của cơ quan y tế. Khi người tham gia BHYT sử dụng các
dịch vụ KCB, họ sẽ đến các cơ sở KCB và các chi phí y tế sẽ được cơ quan BHYT
chi trả (một phần hoặc toàn bộ). Chất lượng BHYT phụ thuộc rất nhiều vào việc
cung cấp dịch vụ của cơ sở KCB. Do đó đòi hỏi phải có sự phối hợp, hợp tác hài

11


hòa giữa các chủ thể, đặc biệt là với cơ sở cung cấp dịch vụ y tế.
1.1.2. Vai trò, ý nghĩa của bảo hiểm y tế
BHYT có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế, đời sống
của con người. Vai trò của BHYT được thể hiện ở những điểm sau:

- Về phương diện kinh tế:
BHYT góp phần quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế. Sức khỏe là tài
sản quý nhất của mỗi người. Khi bị ốm hay mắc bệnh, con người không chỉ suy
giảm sức khỏe, khả năng lao động mà còn ảnh hưởng đến tinh thần của họ và người
thân. Tuy nhiên không phải ai cũng có nguồn tài chính dư dả để có thể sẵn sàng
thanh toán các khoản chi phí y tế để chăm sóc sức khỏe. Tham gia BHYT sẽ giúp
họ thanh toán một phần hoặc toàn bộ chi phí y tế và như vậy những khó khăn về tài
chính khi bị ốm đau sẽ được giảm tải. Hơn nữa, với thể chất và tinh thần khỏe
mạnh, người lao động có thể đạt được kết quả cao nhất trong công việc, năng suất

lao động tăng, thu lợi về cho bản thân, gia đình, cho tổ chức và cho nền kinh tế quốc
dân.

- Về phương diện xã hội:
Người dân tham gia BHYT sẽ được chi trả chi phí khi khám chữa bệnh tạo sự
yên tâm về tâm lý cho người dân. Sức khỏe người dân được bảo vệ và chăm sóc
cũng sẽ tạo môi trường xã hội ổn định và vững chắc. Hơn nữa, BHYT ra đời không
nhằm mục đích kinh doanh lợi nhuận mà dựa trên sự chia sẻ rủi ro giữa con người
với con người trong xã hội. Vì vậy, BHYT luôn là mạng lưới bảo hiểm bao trùm
rộng khắp nhất và có ý nghĩa quan trọng trong hệ thống an sinh xã hội của quốc gia.

- Về phương diện pháp lý:
BHYT có ý nghĩa trên phương diện pháp lý bằng việc cụ thể hóa rõ nét nhất
quyền con người trong xã hội, là công cụ góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả,
công bằng xã hội trong chăm sóc sức khỏe. Quyền được chăm sóc sức khỏe là một
trong những quyền cơ bản của con người, không chỉ được ghi nhận trong các công

12


ước của các tổ chức quốc tế mà còn được ghi nhận trong hiến pháp của nhiều quốc
gia trên thế giới. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để mọi công dân được đảm bảo
quyền lợi của mình. BHYT đã đảm bảo cho mọi người, nhất là những đối tượng yếu
thế trong xã hội đều được tiếp cận các dịch vụ y tế. Với đặc điểm chia sẻ rủi ro, lấy
số đông bù số ít, BHYT góp phần thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, đảm bảo công
bằng xã hội.
1.2. Khái niệm, bản chất và các nguyên tắc của pháp luật bảo hiểm y tế
1.2.1.Khái niệm và bản chất của pháp luật bảo hiểm y tế
Xem xét sự ra đời và phát triển BHYT cho thấy, BHYT không chỉ là sự tương
trợ, giúp đỡ của mỗi cá nhân hay các tổ chức cộng đồng mà còn trách nhiệm của

nhà nước trước quyền được chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của các thành viên trong
xã hội. Sự tham gia của nhà nước về BHYT ngoài việc thể hiện trách nhiệm xã hội
còn nhằm mục đích đảm bảo ổn định xã hội, củng cố địa vị thống trị của mình. Bảo
vệ sức khỏe người dân là mục tiêu hàng đầu của bất kỳ quốc gia nào, không phân
biệt điều kiện về kinh tế, chính trị. Mỗi quốc gia đều coi BHYT là một trong những
chính sách xã hội bắt buộc của mình. Chính sách về BHYT chính là thái độ, quan
điểm, biện pháp mà nhà thống trị đưa ra để đảm bảo công bằng, bình đẳng trong bảo
vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân. Để mục tiêu này thành hiện thực và được thực
hiện thống nhất, các quốc gia đều ban hành luật để điều chỉnh BHYT.
Như vậy, pháp luật là hình thức pháp lý của chính sách BHYT và chính sách
BHYT là tư tưởng chính trị chỉ đạo nội dung của pháp luật BHYT. Thể chế hóa nội
dung chính sách BHYT, nhà nước phải quy định cụ thể các đối tượng tham gia
BHYT, điều kiện hưởng BHYT, chế độ BHYT... để tổ chức hợp lý, công bằng.
Vì vậy, pháp luật BHYT được hiểu tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định
về đối tượng tham gia BHYT, điều kiện và quyền lợi hưởng BHYT của người tham
gia BHYT.
Bản chất của pháp luật BHYT được thể hiện trên hai phương diện chính sau
đây:

13


- Bản chất xã hội: Đây là đặc trưng nổi bật của pháp luật BHYT với vai trò
đảm bảo an sinh xã hội. Bản chất xã hội của BHYT được thể hiện đó là sự bảo trợ
của Nhà nước về chăm sóc y tế dành cho các thành viên của mình, đảm bảo một
trong những quyền thiêng liêng của con người được Tuyên ngôn nhân quyền khẳng
định, đó là quyền được chăm sóc y tế. Bảo vệ và chăm sóc sức khỏe không phải
thuần túy chỉ là trách nhiệm của mỗi cá nhân riêng lẻ, mà là trách nhiệm chung của
cả cộng đồng. Bởi lẽ, nguy cơ về bệnh tật có thể đến với bất kể ai, không phân biệt
quốc gia, dân tộc và hơn nữa không ai có thể một mình đơn phương chống lại bệnh

tật. Lẽ đương nhiên việc bảo vệ, chăm sóc sức khỏe trước tiên thuộc về mỗi cá nhân
nhưng vẫn cần sự trợ giúp mang tính xã hội, có tính tổ chức cao đó là sự trợ giúp
mang tính Nhà nước. Ở đó Nhà nước giữ vai trò quan trọng, là người tổ chức, quản
lý và bảo trợ. Bản chất xã hội của pháp luật BHYT còn được thể hiện ở sự liên kết,
chia sẻ rủi ro mang tính cộng đồng giữa các thành viên trong xã hội. Bên cạnh sự
trợ giúp mang tính Nhà nước, thì sự chia sẻ, liên kết của chính các thành viên trong
xã hội thông qua đóng góp dựa trên thu nhập là yếu tố rất quan trọng. Thiếu sự liên
kết này, việc thực hiện BHYT sẽ không thành công do không đảm bảo được nguyên
lý chia sẻ rủi ro. Thực tế cho thấy, bệnh tật và những rủi ro về sức khỏe không phải
khi nào cũng xuất hiện cùng một lúc với tất cả mọi người, chúng cũng không xuất
hiện giống nhau ở mỗi người: có người ốm lúc này, người ốm lúc khác; có người
bệnh nặng, có người bệnh nhẹ; có người hay ốm, người ít ốm và bệnh tật thường
đến bất ngờ không báo trước. Nếu cứ để ai có bệnh người đó tự chống đỡ sẽ gây
khó khăn cho chính họ vì không đủ tiền để trang trải. Do đó sự liên kết mang tính
cộng đồng rộng rãi để chia sẻ rủi ro bệnh tật là một đòi hỏi tất yếu. Một quỹ chung
cho chăm sóc sức khỏe sẽ điều tiết để nhiều người chưa hoặc không ốm chăm sóc
cho người ốm, người ốm nhẹ giúp người ốm nặng.
Tính xã hội tương trợ cộng đồng nhân văn của pháp luật BHYT còn thể hiện ở
sự đoàn kết xã hội trong chăm sóc y tế. Chăm sóc y tế thông qua BHYT không phân
biệt mức đóng nhiều hay đóng ít, không phân biệt thành phần xã hội, tôn giáo, giai
cấp mà phụ thuộc vào mức độ rủi ro về bệnh tật. Thực tế cho thấy những người

14


nghèo, người có thu nhập thấp thường là người hay đau ốm và cần nhiều kinh phí
chữa bệnh. Hơn nữa, khi đau ốm lại làm giảm hoặc mất thu nhập do nghỉ việc nên
càng làm cho họ khó khăn hơn về tài chính để tiếp cận các dịch vụ y tế. Pháp luật
BHYT là một giải pháp thực tế đưa họ tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Như
vậy, bản chất xã hội của pháp luật BHYT thể hiện ở sự trợ giúp mang tính Nhà

nước và sự tương trợ mang tính cộng đồng. Pháp luật BHYT thể hiện bản chất nhân
đạo và trình độ văn minh của xã hội phát triển với mục đích đảm bảo khả năng tiếp
cận dịch vụ y tế cho đa số dân chúng, thực hiện công bằng trong chăm sóc sức khỏe.

- Bản chất kinh tế: Mặc dù BHYT là một chính sách xã hội, hoạt động vì mục
tiêu trợ giúp xã hội, không vì lợi nhuận nhưng nó lại mang yếu tố kinh tế, thuộc
phạm trù kinh tế - y tế. Thực hiện BHYT có hiệu quả là giải một bài toán về kinh tế
y tế. Pháp luật BHYT có nhiệm vụ phân phối lại thu nhập. Có thể thấy được điều
này ngay chính trong bản chất xã hội ở sự tương trợ mang tính cộng đồng của
BHYT. Có hai góc độ thể hiện chính đó là sự phân phối trực tiếp và sự phân phối
gián tiếp. Phân phối trực tiếp thể hiện ở sự chuyển phần thu nhập của người tạm
thời khỏe sang người đang ốm, của người bệnh nhẹ sang người bệnh nặng, của
người trẻ khỏe sang người già yếu, thông qua sự điều hành luân chuyển của chính
phần thu nhập đóng trực tiếp cho quỹ BHYT. Phân phối gián tiếp thể hiện ở sự hỗ
trợ giữa người giàu và nghèo, người thu nhập cao và thu nhập thấp [42].
1.2.2.Nguyên tắc cơ bản của pháp luật bảo hiểm y tế
Nguyên tắc của pháp luật BHYT là những nguyên lý, tư tưởng chủ đạo xuyên
suốt và chi phối toàn bộ các quy định pháp luật BHYT. Nội dung các nguyên tắc
của pháp luật BHYT thể hiện quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước về quyền
hưởng BHYT, được bình đẳng trong chăm sóc sức khỏe và tiến tới mục tiêu thực
hiện BHYT cho toàn dân. Tuân thủ các nguyên tắc của pháp luật BHYT trong việc
xây dựng cũng như áp dụng các quy phạm pháp luật BHYT sẽ đảm bảo cho việc
thực thi hiệu quả pháp luật BHYT.

- Nguyên tắc thứ nhất: Mọi thành viên trong xã hội đều có quyền hưởng BHYT

15


Cơ sở của nguyên tắc này xuất phát từ sự ra đời và mục đích của an sinh xã

hội là vì con người với tư cách là thành viên của xã hội. An sinh xã hội chỉ đạt được
mục đích của mình khi bảo vệ được tất cả các thành viên trong xã hội mà không có
sự phân biệt theo tiêu chí nào. Công ước số 102 quy phạm tối thiểu về an sinh xã
hội ngày 28/6/1952 khẳng định vấn đề chăm sóc y tế là một trong những nội dung
quan trọng về quyền hưởng an sinh xã hội của con người [14]. Trong phạm vi mỗi
quốc gia, được chăm sóc, bảo vệ sức khỏe là một trong những quyền cơ bản của
công dân, được ghi nhận ở hầu hết trong hiến pháp các nước. Ở nước ta, quyền
được chăm sóc sức khỏe được ghi nhận tại Điều 38, Hiến pháp 2013 như sau: “Mọi
người có quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong việc sử dụng các
dịch vụ y tế và có nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa
bệnh”.
Như vậy, quyền được hưởng chế độ BHYT là một nguyên tắc hiến định.
Nguyên tắc tham gia bắt buộc không chỉ giới hạn ở một số đối tượng mà tiêu chí
cần hướng tới là mở rộng độ bao phủ tới toàn bộ dân chúng, thực hiện BHYT bắt
buộc toàn dân. Thực hiện chế độ đóng BHYT bắt buộc có chức năng hỗ trợ cho loại
hình trợ cấp áp dụng đồng đều cho tất cả mọi người. Còn chế độ tự nguyện mang
tính bổ trợ và bước đệm để mở rộng chế độ bắt buộc, mở rộng diện bao phủ tới toàn
thể dân chúng.

- Nguyên tắc thứ hai: Nhà nước thống nhất quản lý về BHYT
Lịch sử ra đời của BHYT đã chứng minh một cách rõ nét nhất vai trò của nhà
nước trong hoạt động BHYT, không thể tồn tại hoạt động BHYT theo đúng nguyên
lý của nó nếu thiếu đi vai trò quản lý của nhà nước. Không có sự can thiệp của nhà
nước hoạt động BHYT chỉ là những phương thức bảo vệ truyền thống mang tính tự
phát, chỉ bao quát được một nhóm đối tượng nhất định trong xã hội và thường là
những người có điều kiện kinh tế, các đối tượng “yếu thế” cần được bảo vệ sẽ nằm
ngoài phạm vi bao phủ của BHYT. Sự can thiệp của nhà nước không chỉ xuất phát
từ nhu cầu tất yếu đảm bảo sự ổn định, chắc chắn, công bằng trên diện rộng mà còn

16



xuất phát từ chức năng xã hội của nhà nước. Cơ sở của nguyên tắc này nằm ngay
trong chính chức năng xã hội của nhà nước, với vai trò là người đại diện quản lý
mọi mặt của đời sống xã hội. Vai trò quản lý nhà nước đối với BHYT thể hiện ở
việc nhà nước định ra các chính sách, ban hành các văn bản luật để điều chỉnh
cácquan hệ BHYT và đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước.

- Nguyên tắc thứ ba: Mức đóng theo thu nhập, mức hưởng theo mức độ bệnh
tật và nhóm đối tượng
Đây là nguyên tắc đặc thù của BHYT, thể hiện bản chất xã hội của BHYT.
Đóng theo khả năng, hưởng theo nhu cầu bệnh lý được xem là tư tưởng xuyên suốt
để xây dựng các quy định về BHYT. Mức đóng được xác định trên cơ sở mức thu
nhập (tiền lương, tiền công), mức hưởng phụ thuộc vào mức độ bệnh lý và nhóm
đối tượng. Bởi bản chất của BHYT là “lấy số đông bù số ít” nên việc xác định mức
hưởng phải căn cứ vào tình trạng bệnh lý. Hơn nữa, BHYT dành cho mọi đối tượng,
trong đó các nhóm đối tượng có sự chênh lệch nhau về điều kiện kinh tế, có những
đối tượng cần có sự ưu đãi hơn như những đối tượng có công với cách mạng, đối
tượng là trẻ em... Vì vậy, mức hưởng BHYT còn được xác định dựa trên từng nhóm
đối tượng.
1.3. Pháp luật bảo hiểm y tế ở một số quốc gia trên thế giới và bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam
1.3.1. Pháp luật bảo hiểm y tế ở một số quốc gia trên thế giới
1.3.1.1. Pháp luật bảo hiểm y tế của Đức
Đức là một quốc gia liên bang nằm ở Trung Âu. Dân số của Đức lớn nhất
trong Liên minh châu Âu, tính đến năm 2011 là khoảng 81,8 triệu người 1. Nét đặc
biệt trong dân số Đức là có tỷ lệ dân nhập cư đông với số dân nhập cư lớn thứ ba
trên thế giới. Đa số dân tập trung ở các khu đô thị và có những khác biệt đáng kể về
sự phân bố giữa các bang. Điều này gây ra không ít khó khăn cho việc phổ cập
BHYT ở Đức.

1

Số liệu của Văn phòng thống kê Đức, Nguồn: />
17


×