Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Pháp luật thuế tài nguyên ở việt nam thực trạng và hướng hoàn thiện từ thực tế quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.58 MB, 91 trang )

TRẦN THỊ THU HOÀI

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT THUẾ TÀI NGUYÊN Ở VIỆT NAM-THỰC TRẠNG
VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN TỪ THỰC TẾ QUẢNG NINH

TRẦN THỊ THU HOÀI

2014 - 2016

HÀ NỘI – 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

PHÁP LUẬT THUẾ TÀI NGUYÊN Ở VIỆT NAM –THỰC TRẠNG
VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN TỪ THỰC TẾ QUẢNG NINH

TRẦN THỊ THU HOÀI
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60.38.01.07


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. VŨ VĂN CƯƠNG

HÀ NỘI – 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình khoa học do tôi thực hiện, dưới sự hướng
dẫn khoa học của TS. Vũ Văn Cương. Những phần trích dẫn đã được nêu trong
danh mục tài liệu tham khảo, tôi xin chịu trách nhiệm về tính trung thực, khách
quan của các thông tin, số liệu nêu trong luận văn.
Xác nhận của

Tác giả luận văn

Người hướng dẫn khoa học

TS. Vũ Văn Cương

Trần Thị Thu Hoài

LỜI CẢM ƠN


Trước tiên, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến tất cả quý thầy cô đã giảng dạy trong
chương trình Cao học Luật Kinh tế- Viện Đại học Mở Hà Nội, những người đã truyền đạt
cho tôi những kiến thức hữu ích làm cơ sở cho tôi thực hiện tốt luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn TS Vũ Văn Cương đã tận tình hướng dẫn cho tôi trong
thời gian thực hiện luận văn.Thầy đã hướng dẫn, chỉ bảo cho tôi rất nhiều kinh nghiệm
trong thời gian thực hiện đề tài.

Sau cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến các Thầy, cô Khoa đào tạo Sau đại học - Viện
Đại học Mở Hà Nội đã tạo diều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập.
Do thời gian có hạn và kinh nghiệm nghiên cứu khoa học chưa nhiều nên luận văn
còn nhiều thiếu sót, rất mong nhận được ý kiến góp ý của Thầy/ Cô và các bạn học viên./.
Hà Nội, ngày 15 tháng 11 năm 2016
Học viên

Trần Thị Thu Hoài


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU…………………………………………………………………

1

Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ THUẾ TÀI NGUYÊN VÀ PHÁP LUẬT
THUẾ TÀI NGUYÊN…………………………………………………………………..

5

1.1. Khái quát về thuế tài nguyên……………………………………………

5

1.1.1.
Khái
niệm
nguyên…………………………………………………….

thuế


tài

5

1.1.2.
Đặc
điểm
nguyên……………………………………………….

của

thuế

tài

7

1.1.3.
Vai
trò
nguyên…………………………………………………..

của

thuế

tài

8


tài

12

1.2.1.
Khái niệm và cấu trúc của pháp luật thuế
tài nguyên……………………

12

1.2.2.
Khái quát về pháp luật thuế tài nguyên ở
Việt Nam………………………

13

1.2. Khái
quát
pháp
nguyên……………………………………..

luật

thuế

1.2.3.
Pháp luật thuế tài nguyên ở một số nước và
kết
luận

được
rút
ra
cho
Việt
Nam………………………………………………………………………………….

25

Kết luận chương 1……………………………………………………………….

32

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
PHÁP LUẬT THUẾ TÀI NGUYÊN Ở QUẢNG NINH……………………….

33

2.1. Thực trạng pháp luật thuế tài nguyên ở Việt Nam
hiện nay…………..

33

2.1.1.
Về hệ thống pháp luật thuế tài nguyên hiện
hành ở Việt Nam…………..

33

2.1.2.

Những đánh giá cụ thể về pháp luật thuế tài
nguyên ở Việt Nam……….

36

2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật thuế tài nguyên ở
Quảng Ninh…………

44

2.2.1.
Khái quát về đặc điểm đặc thù của Quảng
Ninh……………………………

44

2.2.2.
Thực tiễn thi hành
nguyên tại Quảng Ninh…………..

45

pháp

luật

thuế

tài



2.3. Những thách thức và vấn đề đặt ra cần giải
quyết từ thực tiễn áp dụng pháp luật thuế tài nguyên
ở nước ta……………………………………

51

Kết luận chương 2……………………………………………………………….

66

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT THUẾ TÀI NGUYÊN Ở VIỆT NAM…………………………………..

67

3.1. Những định hướng cơ bản trong hoàn thiện pháp
luật pháp luật thuế tài nguyên ở Việt Nam hiện nay
………………………………………………
3.2. Các giải pháp hoàn
nguyên ở Việt Nam………

thiện

pháp

luật

thuế


67

tài

68

3.2.1.
Hoàn thiện các quy định của Luật thuế tài
nguyên và văn bản pháp luật quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành Luật thuế tài nguyên………………….

69

3.2.2.
Hoàn thiện pháp luật về quản lý thuế và các
quy định của pháp luật khác có liên quan đến thuế
tài nguyên………………………………………………

74

3.3. Các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật thuế
tài nguyên…………

77

Kết luận chương

79

3……………………………………………………………..


KẾT LUẬN……………………………………………………………………...

80

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………….

81


LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Tài nguyên thiên nhiên là tài sản quý giá do thiên nhiên ban tặng, thuộc sở hữu
quốc gia do Nhà nước thống nhất quản lý, có vai trò quan trọng đối với con người. Trong
điều kiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá và quốc tế hoá sâu rộng như hiện nay, nhu cầu
sử dụng tài nguyên cho phát triển kinh tế quốc dân ngày càng trở thành vấn đề cấp thiết
đối với mỗi quốc gia, nhất là các loại tài nguyên quý hiếm, tài nguyên không tái tạo như:
dầu khí, than, đá,... Bên cạnh các công cụ quản lý hành chính như: cấp phép thăm dò,
khai thác, chế biến,... thì thuế tài nguyên là công cụ hữu hiệu để Nhà nước kiểm soát hoạt
động khai thác, sử dụng tài nguyên, tăng thu ngân sách, định hướng sử dụng tài nguyên
tiết kiệm, hiệu quả, bảo vệ nguồn tài nguyên và thân thiện với môi trường. Tổ chức thu
đúng, thu đủ và thu kịp thời thuế tài nguyên đối với các nguồn khai thác tài nguyên trong
lãnh thổ Việt là nhiệm vụ quan trọng của Cơ quan thuế Nhà nước, nhằm góp phần ổn
định nguồn thu cho ngân sách nhà nước, thực hiện chính sách phát triển kinh tế đất nước,
đồng thời tạo lập được một môi trường phát triển trong lành, tránh tình trạng khai thác
bừa bãi, thúc đẩy góp phần đẩy mạnh cuộc sống con người ngày càng phát triển. Trước
bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, việc cắt giảm thuế suất và thực hiện
các chính sách ưu đãi thuế quan là quá trình tất yếu của Việt Nam, đồng thời cũng là
thách thức đối với cơ quan thuế trong việc hoàn thành chỉ tiêu thu Ngân sách Nhà nước.
Do đó, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý thu thuế, tác giả mong muốn nghiên cứu về pháp

luật thuế tài nguyên, bao gồm việc tìm hiểu một số vấn đề chung về pháp luật thuế tài
nguyên, thực trạng và thực tiễn thi hành pháp luật thuế tài nguyên, cụ thể là ở tỉnh Quảng
Ninh để tìm ra những quy định còn chưa hợp lý, những vấn đề còn hạn chế bất cập từ đó
làm cơ sở đưa ra các định hướng, giải pháp kiến nghị theo hướng ngày càng hoàn thiện
hơn. Vì thế tác giả chọn đề tài “Pháp luật thuế tài nguyên ở Việt Nam - Thực trạng và
hướng hoàn thiện từ thực tế Quảng Ninh” làm luận văn thạc sỹ cho mình.
2.Tình hình nghiên cứu đề tài

1


Hiện nay, các đề tài nghiên cứu về Luật thuế tài nguyên ở Việt Nam còn khá
khiêm tốn. Phần lớn các công trình chỉ dừng lại ở quy mô những bài báo hoặc các bài
tham luận ở các tọa đàm tại buổi tọa đàm, hội thảo, ví dụ như các bài viết của Hoàng
Ngọc Thao- Đại diện công ty Apatit Lào Cai, “Chính sách thuế tài nguyên: Bất cập trong
thực tiễn thực thi nhìn từ trường hợp khai thác Apatit tại Lào Cai”, Trần Thanh Thủy –
Liên minh Khoáng sản, “Sáng kiến minh bạch trong công nghiệp khai thác (EITI): Công
cụ khắc phục các kẽ hở chính sách và nâng cao hiệu quả thu” tại Hội thảo “Nâng cao
hiệu quả thu ngân sách trong khai thác khoáng sản - Từ kinh nghiệm thực tiễn đến các
giải pháp chính sách” do Liên minh Khoáng sản tổ chức ngày 13/5/2016, các bài viết Tọa
đàm “Việt Nam tham gia sáng kiến minh bạch trong ngành công nghiệp khai thác (EITI):
Cơ hội hay rào cản” tổ chức ngày 13/9/2015 tại Hà Nội … Hay các đề tài nghiên cứu ở
phạm vi rộng hơn mà thuế tài nguyên chỉ là một mục nhỏ như: Hà Trọng Đại (2009), Các
công cụ kinh tế trong quản lý và bảo vệ môi trường, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Luật
Hà Nội…
Qua những tài liệu nêu trên cho thấy, pháp luật thuế tài nguyên là một vấn đề khá
quan trọng, có tính chất phức tạp nhưng lại không có nhiều công trình nghiên cứu. Các
công trình nghiên cứu được thực hiện ở quy mô nhỏ, chủ yếu là bước đầu tìm hiểu và
nghiên cứu về các quy định của pháp luật, chưa có công trình nào nghiên cứu về thực
trạng pháp luật hay là tìm hiểu về thực tiễn thi hành pháp luật về thuế tài nguyên ở những

địa phương cụ thể diễn ra như thế nào.
3.Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1.Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là pháp luật thuế tài nguyên ở Việt Nam và thực
tiễn thi hành luật này và cụ thể hơn là ở tỉnh Quảng Ninh. Luận văn tập trung nghiên cứu
các vấn đề lớn sau:
Một là, các vấn đề chung về pháp luật thuế tài nguyên
Hai là, thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật thuế tài nguyên ở
Quảng Ninh
2


Ba là, phương hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế tài nguyên ở Việt
Nam
3.2.Phạm vi nghiên cứu đề tài
Pháp luật về thuế tài nguyên là vấn đề khá phức tạp. Trong phạm vi luận văn, tác
giả chỉ tập trung vào tìm hiểu, đánh giá chung về thực trạng pháp luật và thực tiễn thi
hành pháp luật thuế tài nguyên ở tỉnh Quảng Ninh. Tìm hiểu về những khó khăn khi áp
dụng thuế tài nguyên trên thực tế, từ đó đưa ra nhận xét đánh giá, kiến nghị một số giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật tài nguyên với mục đích nâng cao hiệu quả hoạt động
khai thác, sử dụng tài nguyên tiết kiệm, hiệu quả, bảo vệ nguồn tài nguyên và thân thiện
với môi trường.
4.Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu luận văn
4.1.Mục đích nghiên cứu luận văn
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ các vấn đề chung về pháp luật thuế
tài nguyên ở Việt Nam, tìm hiểu về thực trạng và thực tiễn thi hành về thuế tài nguyên ở
tỉnh Quảng Ninh. Qua đó, tác giả đề xuất những phương hướng, giải pháp hoàn thiện các
quy định pháp luật về vấn đề này nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu thực tế đang đặt ra đối
với hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên được thực hiện tiết kiệm, hiệu quả, bảo vệ tài
nguyên trong tiến trình phát triển bền vững, hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.

4.2.Nhiệm vụ nghiên cứu luận văn
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn đặt ra những nhiệm vụ nghiên
cứu cụ thể sau:
+ Nghiên cứu tổng quan những vấn đề chung nhất về thuế tài nguyên và pháp luật
thuế tài nguyên: Phân tích, tìm hiểu về khái niệm, đặc điểm, vai trò của thuế tài nguyên;
khái niệm, cấu trúc của pháp luật thuế tài nguyên; tìm hiểu pháp luật thuế tài nguyên ở
một số nước và bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam.
+ Nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp
luật thuế tài nguyên ở tỉnh Quảng Ninh. Từ đó, tìm ra những tồn tại, vướng mắc để làm
cơ sở cho việc hoàn thiện pháp luật về thuế tài nguyên.
3


+ Đề xuất phương hướng và các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật
thuế tài nguyên ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
5.Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Để đạt được các mục đích nghiên cứu mà luận văn đặt ra, trong quá trình nghiên
cứu luận văn, tác giả đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau đây: Phương
pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác
– Lê Nin; Hệ thống quan điểm, lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng Nhà nước và pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
Phương pháp bình luận, diễn giải, phương pháp lịch sử… được sử dụng trong
Chương 1 khi nghiên cứu tổng quan những vấn đề chung về thuế tài nguyên và pháp luật
thuế tài nguyên.
Phương pháp so sánh luật học, phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp
thống kê số liệu được sử dụng trong Chương 2 khi tìm hiểu thực trạng, phân tích những
ưu điểm và hạn chế các quy định về Luật thuế tài nguyên, thực tiễn thi hành pháp luật
thuế tài nguyên ở tỉnh Quảng Ninh.
Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp… được sử dụng trong Chương 3

khi xem xét, tìm hiểu về định hướng và đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế tài
nguyên ở Việt Nam hiện nay.
6.Kết cấu luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu
với ba chương như sau:
Chương 1: Khái quát về thuế tài nguyên và pháp luật thuế tài nguyên
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật thuế tài nguyên ở
Quảng Ninh
Chương 3: Phương hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế tài nguyên ở
Việt Nam

4


Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ THUẾ TÀI NGUYÊN VÀ PHÁP LUẬT THUẾ TÀI NGUYÊN
1.3.

Khái quát về thuế tài nguyên

1.3.1. Khái niệm thuế tài nguyên
"Tài nguyên là tất cả các dạng vật chất, tri thức được sử dụng để tạo ra của cải vật
chất, hoặc tạo ra giá trị sử dụng mới của con người1". Tài nguyên bao gồm tài nguyên
thiên nhiên và tài nguyên do con người tạo ra.
Tài nguyên do con người sáng tạo ra được thể hiện dưới hình thức vật chất hoặc
phi vật chất, như: cánh rừng trồng, hồ nhân tạo, sinh vật do con người nuôi, trồng; các
sản phẩm trí tuệ, bản phát minh, sáng chế, quy trình công nghệ, các giải pháp hữu ích..
tạo nên điều kiện tổng thể về môi trường, phương tiện, công cụ thiết yếu phục vụ cho đời
sống, sản xuất của xã hội.
Tài nguyên thiên nhiên: là tất cả các nguồn lực sẵn có của tự nhiên tồn tại trên trái

đất, trong không gian mà con người có thể khai thác, sử dụng phục vụ cuộc sống, sự phát
triển của mình và xã hội, bao gồm đất đai, không khí, nước, các loại năng lượng, tài
nguyên rừng tự nhiên, tài nguyên biển và những khoáng sản trong lòng đất… Con người
có thể khai thác và sử dụng những lợi ích do tài nguyên thiên nhiên ban tặng để thỏa mãn
những nhu cầu đa dạng của mình. Tài nguyên thiên nhiên là một bộ phận thiết yếu của
môi trường, có quan hệ chặt chẽ với môi trường.
Trong tài nguyên thiên nhiên có thể phân chia thành các loại: Tài nguyên hữu hạn
và tài nguyên vô hạn.
- Tài nguyên hữu hạn là các loại tài nguyên có giới hạn nhất định về trữ lượng
giảm dần cùng với quá trình khai thác, sử dụng của con người. Tài nguyên có thể tái tạo
và nhóm tài nguyên không thể tái tạo.
+ Tài nguyên tái tạo (nước ngọt, đất, sinh vật v.v...) là tài nguyên có thể tự duy trì
hoặc tự bổ sung một cách liên tục khi được quản lý một cách hợp lý. Tuy nhiên, nếu sử
1

/>nh%E1%BB%AFng_lo%E1%BA%A1i_t%C3%A0i_nguy%C3%AAn_n%C3%A0o%3F
5


dụng không hợp lý, tài nguyên tái tạo có thể bị suy thoái không thể tái tạo được. Ví dụ:
tài nguyên nước có thể bị ô nhiễm, tài nguyên đất có thể bị mặn hoá, bạc màu, xói mòn
v.v...
+ Tài nguyên không tái tạo: là loại tài nguyên tồn tại hữu hạn, sẽ mất đi hoặc biến
đổi sau quá trình sử dụng. Ví dụ như tài nguyên khoáng sản của một mỏ có thể cạn kiệt
sau khi khai thác. Tài nguyên gen di truyền có thể mất đi cùng với sự tiêu diệt của các
loài sinh vật quý hiếm.
- Tài nguyên vô hạn là các loại tài nguyên có thể tự tái tạo liên tục, không cần đến
sự tác động của con người, ví dụ như sự tuần hoàn tự nhiên của nước, không khí, năng
lượng mặt trời, gió, sóng, thủy triều,.. tài nguyên này được khai thác, thì cuối cùng quá
trình tự nhiên sẽ tự tái tạo lại một cách vô tận. Con người có thể lợi dụng sức đẩy của gió

làm cối xay, sức nước làm thủy điện… Tuy nhiên, nếu chúng ta khai thác một cách bừa
bãi thì cuối cùng nguồn tài nguyên này cũng sẽ bị cạn kiệt nhanh chóng, không thẻ tái tạo
kịp như một số loài sinh, thực vật bị tuyệt chủng trước khi chưa kịp tái tạo.
Tài nguyên thiên nhiên là nguồn tài sản quý giá của mỗi quốc gia. Đối với các
quốc gia có nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào, phong phú, nếu đợc quản lí khai thác,
sử dụng hiệu quả thì nó sẽ là nguồn lợi lớn và lâu dài cho sự phát triển của quốc gia đó.
Ngợc lại, nếu việc quản lí, khai thác, sử dụng tài nguyên bừa bãi, lãng phí sẽ gây ra hậu
quả xấu không chỉ cho sự phát triển kinh tế mà còn gây ảnh hưởng xấu đến môi trờng
sống của quốc gia đó. Để bảo đảm cho việc bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên thiên
nhiên đạt hiệu quả, tránh việc khai thác, sử dụng bừa bãi, lãng phí, gây ảnh hởng đến
môi trờng sống, các quốc gia thờng sử dụng nhiều công cụ và biện pháp quản lí khác
nhau, trong đó có việc đánh thuế vào hoạt động khai thác tài nguyên thiên nhiên.
Ở Việt Nam, nguồn tài nguyên thiên nhiên thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước
thống nhất quản lý. Nhà nước sử dụng thuế để điều tiết đối với hoạt động khai thác, sử
dụng tài nguyên để tạo nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước (sau đây viết tắt là NSNN)
nhằm thực hiện các mục tiêu, định hướng cho việc khai thác, sử dụng hiệu quả các nguồn
tài nguyên, tạo lập nguồn tài chính phục vụ cho bảo tồn, phát triển các nguồn tài nguyên.
6


Thuế tài nguyên là khoản thu của Ngân sách nhà nước nhằm điều tiết một phần giá
trị tài nguyên thiên nhiên khai thác đối với tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên hợp
pháp trên lãnh thổ, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam tạo nguồn thu Ngân
sách nhà nước, đảm bảo quản lý, sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên của Nhà nước.
1.3.2. Đặc điểm của thuế tài nguyên
Thuế tài nguyên có những đặc điểm như sau:
- Là một khoản thu của NSNN đối với người khai thác tài nguyên thiên nhiên do
Nhà nước quản lý.
- Thu trên sản lượng và giá trị thương phẩm của tài nguyên khai thác mà không
phụ thuộc vào mục đích khai thác tài nguyên.

- Được cấu thành trong giá bán tài nguyên mà người tiêu dùng tài nguyên hoặc sản
phẩm được tạo ra từ tài nguyên thiên nhiên phải trả tiền thuế tài nguyên.
- Đối tượng nộp thuế là mọi tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên thiên nhiên,
không phụ thuộc mục đích sử dụng tài nguyên.
Xét về bản chất, thuế tài nguyên là loại thuế gián thu. Tuy nhiên, nó mang tính
chất là một khoản thu về chuyển nhượng tài nguyên thiên nhiên quốc gia mà tổ chức, cá
nhân phải nộp cho Nhà nước khi khai thác tài nguyên, tương tự như trường hợp cơ sở
kinh doanh phải trả tiền mua các loại tài nguyên khác về để sản xuất, kinh doanh.
*Phân biệt thuế tài nguyên và thuế bảo vệ môi trường
Thuế bảo vệ môi trường là một loại thuế gián thu, được Quốc hội ban hành nhằm
điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa nhà nước và các chủ thể có hành vi tác động tiêu
cực đến môi trường thông qua việc đánh vào các sản phẩm gây tác động xấu cho môi
trường trong qúa trình sử dụng nhằm phòng, chống ô nhiễm môi trường và đảm bảo phát
triển bền vững.
Để quản lý hiệu quả việc khai thác tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường,
Nhà nước quy định rõ các nghĩa vụ mà các tổ chức, cá nhân khi tiến hành khai thác tài
nguyên phải tuân theo; trong đó có nghĩa vụ về thuế tài nguyên. Thuế tài nguyên là một
công cụ kinh tế được sử dụng từ rất sớm để điều chỉnh việc khai thác tài nguyên thiên
7


nhiên hướng tới mục tiêu tiết kiệm, hiệu qủa, hợp lý, góp phần bảo vệ môi trường và tạo
ra nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Hành vi khai thác tài nguyên là sự kiện pháp lý
làm phát sinh nghĩa vụ nộp thuế tài nguyên. Nguyên tắc cơ bản để xây dựng thuế tài
nguyên chính là nguyên tắc người thụ hưởng các thành phần môi trường phải trả tiền
(benefit Pays principle: BPP). Tức là người hưởng thụ các thành phần môi trường phải trả
tiền cho việc hưởng thụ cũng như các tác động tiêu cực đến môi trường do việc hưởng
thụ các thành phần môi trường đó gây ra.
Với các quy định của thuế tài nguyên một số ý kiến cho rằng thuế bảo vệ môi
trường bao gồm cả thuế tài nguyên. Tuy nhiên có thể thấy thuế tài nguyên có những chức

năng khác quan trọng hơn bên cạnh chức năng bảo vệ môi trường. Theo quy định của
pháp luật Việt Nam, tài nguyên thiên nhiên thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước thống
nhất quản lý, do vậy, việc khai thác tài nguyên do các tổ chức, cá nhân tiến hành cần phải
nộp thuế như là cách để chia sẻ phần giá trị tài nguyên được khai thác cho mục tiêu chi
tiêu công cộng. Bên cạnh đó, việc khai thác tài nguyên có thể không ảnh hưởng nhiều đến
môi trường nếu được tiến hành một cách khoa học, hợp lý. Căn cứ tính thuế tài nguyên
dựa vào giá trị tài nguyên được khai thác chứ không phải những tác động của hoạt động
khai thác tài nguyên đến môi trường. Đồng thời nguyên tắc cơ bản để xây dựng thuế bảo
vệ môi trường và thuế tài nguyên cũng không giống nhau.
Đối với thuế bảo vệ môi trường cơ sở để ban hành mức thuế phải nộp đó chính là
căn cứ vào nguyên tắc PPP: người gây ô nhiễm phải trả tiền; trong khi đó, thuế tài
nguyên lại được ban hành dựa trên nguyên tắc cơ bản là nguyên tắc BPP: người được
hưởng lợi từ môi trường phải trả tiền. Với các căn cứ trên có thể thấy không thể dùng
thuế môi trường thay thế thuế tài nguyên.
1.3.3. Vai trò của thuế tài nguyên
Thuế tài nguyên có ý nghĩa hết sức quan trọng trong xã hội nước ta, cụ thể như
sau:
-Thuế tài nguyên là công cụ tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước.

8


Tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước là vai trò đầu tiên của thuế. Mỗi một loại
thuế mà nhà nước ban hành đều nhằm vào mục đích là tạo nguồn thu cho ngân sách nhà
nước. Trong nền kinh tế thị trường vai trò này của thuế càng nổi bậc bởi thuế là nguồn
thu chủ yếu của ngân sách nhà nước.
Ở Việt Nam, số thu thuế tài nguyên các năm từ 2005-2008 bình quân mỗi năm trên
23.200 tỷ đồng, chiếm khoảng 15% tổng thu NSNN từ sản xuất kinh doanh trong nước
(trong đó, thuế tài nguyên từ dầu khí khoảng 22.160 tỷ đồng, chiếm 95,5% tổng số thu
thuế tài nguyên; thuế tài nguyên của các tài nguyên khác khoảng 1.040 tỷ đồng, chiếm

4,5% tổng số thu thuế tài nguyên [15].
Theo thống kê của Bộ Tài chính, tổng số thu thuế tài nguyên bình quân giai đoạn
2011-2014 khoảng 39,1 nghìn tỷ đồng/năm, chiếm 4,9% tổng thu NSNN. Trong đó, thu
từ dầu thô khoảng chiếm 79% tổng số thu thuế tài nguyên và 21% thu từ tài nguyên khác
[15].
Vai trò tạo nguồn thu của thuế tài nguyên là vai trò quan trọng. Tuy nhiên để phát
huy tốt vai trò này cần phải đặt thuế trong mối quan hệ với tăng trưởng kinh tế và thực
hiện công bằng xã hội, bởi vì chính sự tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội
là cơ sở tồn tại và phát triển của thuế.
- Thuế tài nguyên góp phần tăng cường quản lý nhà nước trong việc bảo vệ, sử
dụng hiệu quả nguồn tài nguyên quốc gia. Đồng thời góp phần nâng cao nhận thức về
vai trò của tài nguyên đối với sự phát triển kinh tế đất nước.
Thuế tài nguyên là một trong những công cụ tài chính, thể hiện vai trò sở hữu nhà
nước đối với tài nguyên quốc gia và thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt
động khai thác, sử dụng tài nguyên của các tổ chức, cá nhân.
Tài nguyên thiên nhiên là tài sản quý giá do thiên nhiên ban tặng, có vai trọng
quan trọng đối với con người. Phần lớn các sản phẩm để phục vụ đời sống sinh hoạt của
con người được sản xuất từ tài nguyên thiên nhiên. Trong điều kiện công nghiệp hoá hiện đại hoá và quốc tế hoá sâu rộng như hiện nay, nhu cầu sử dụng tài nguyên cho phát
triển kinh tế quốc dân ngày càng trở thành vấn đề cấp thiết đối với mỗi quốc gia nhất là
9


các lơại tài nguyên quý hiếm, tài nguyên không tái tạo như: Dầu khí, than, đá,... Nước ta
đang trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, trong khi các nguồn lực để
phát triển kinh tế còn thiếu và yếu, thì tài nguyên là nguồn lực đóng vai trò quan trọng
cho quá trình phát triển kinh tế đất nước. Trong thời gian vừa qua, do sự khó khăn về mặt
kinh tế, nền khoa học kỹ thuật chưa phát triển, dẫn đến sự hạn chế nhất định về công tác
thăm dò, khai thác, đánh giá trữ lượng tài nguyên hiện có của đất nước. Thêm vào đó, các
địa phương chưa có sự quan tâm đúng mức về vai trò của nguồn lực tài nguyên. Cùng với
sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật, sự hội nhập quốc tế, nhu cầu khai thác và sử dụng tài

nguyên thiên nhiên phục vụ phát triển kinh tế ngày càng tăng. Tài nguyên được khai thác
và sử dụng ngày càng nhiều, đặc biệt là tài nguyên không tái tạo; giá tài nguyên có xu
hướng tăng nhanh. Hoạt động kinh doanh khai thác tài nguyên thu được lợi nhuận lớn,
trong khi công tác quản lý tài nguyên chưa được thực hiện một cách triệt để, hoạt động
khai thác tài nguyên diễn ra tràn lan, khai thác không phép, khai thác vượt phép, xuất
khẩu nguyên liệu thô diễn ra phổ biến,… dẫn đến thất thoát tài nguyên, thất thu ngân
sách, gây mất ổn định xã hội và ô nhiễm môi trường. Thuế tài nguyên là một trong những
công cụ quan trọng trong việc quản lý tài nguyên. Cùng với quy định thuế tài nguyên (trừ
dầu khí) để lại ngân sách địa phương 100%, việc quy định giao cho Ủy ban nhân dân (
sau đây viết tắt là UBND) các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương quy định giá tính
thuế đối với một số tài nguyên đã tạo điều kiện để cơ quan quản lý địa phương tăng
cường công tác quản lý đối với hoạt động khai thác tài nguyên, hạn chế khai thác không
phép, gây lãng phí tài nguyên và ô nhiễm môi trường nơi khai thác. Việc nâng cao nhận
thức về vai trò của tài nguyên sẽ khuyến khích các địa phương lựa chọn phương thức đầu
tư khai thác, chế biến tài nguyên hợp lý và lựa chọn đường lối phát triển kinh tế xã hội
thích hợp với điều kiện địa phương mình. Tăng cường công tác quản lý và cấp phép khai
thác, kinh doanh tài nguyên khoáng sản, lựa chọn nhà đầu tư đủ điều kiện, tiềm lực để
khai thác, chế biến tài nguyên; có chính sách khuyến khích đầu tư chế biến sâu nâng cao
giá trị tài nguyên. Từ đó, tài nguyên ngày càng được quản lý chặt chẽ hơn, sử dụng tiết
kiệm, hiệu quả, bảo vệ nguồn tài nguyên, bảo vệ môi trường. Như vậy, thuế tài nguyên
10


có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ đối với số thu NSNN mà còn đối với việc điều chỉnh
hành vi của người nộp thuế trong lĩnh vực này.
Thu NSNN trong khai thác tài nguyên là công cụ tài chính, thể hiện vai trò sở hữu
nhà nước đối với tài nguyên quốc gia và thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với
hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên của các tổ chức, cá nhân. Việc điều tiết thu ngân
sách đối với hoạt động khai thác tài nguyên ở Việt Nam đang thực hiện nhiều mục tiêu
theo định hướng của nhà nước, gồm các khoản thu đối với các tổ chức khai thác tài

nguyên như: Thuế Tài nguyên; thuế Giá trị gia tăng; thuế Thu nhập Doanh nghiệp; Thuế
Bảo vệ môi trường đối với than; tiền thuê đất (hoạt động khoáng sản hoặc khai thác
khoáng sản có ảnh hưởng đến đất mặt); Phí bảo vệ môi trường khai thác khoáng sản; Lệ
phí độc quyền thăm dò khoáng sản; Lệ phí cấp Giấy phép khai thác khoáng sản; Thu tiền
cấp quyền khai thác khoáng sản. Trong đó thuế tài nguyên là khoản thu điều tiết cơ bản.
Bên cạnh các công cụ quản lý hành chính như: Cấp phép thăm dò, khai thác, chế
biến,... thì thuế tài nguyên là công cụ hữu hiệu để Nhà nước kiểm soát hoạt động khai
thác, sử dụng tài nguyên, tăng thu ngân sách, định hướng sử dụng tài nguyên tiết kiệm,
hiệu quả, bảo vệ nguồn tài nguyên và thân thiện với môi trường.
- Thuế tài nguyên là công cụ điều tiết kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi và kích thích
sự phát triển kinh tế
Tài nguyên thiên nhiên đóng vai trò quan trọng đối với quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Trong điều kiện các nguồn lực để phát triển kinh tế còn chưa đủ
mạnh thì tài nguyên là một trong những nguồn lực quan trọng nhất để thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế đất nước
Trong thời gian vừa qua, sự phát triển của ngành công nghiệp khai thác, chế biến
tài nguyên đã cung cấp nguồn nguyên liệu đầu vào đáng kể cho các ngành sản xuất khác,
hạn chế sự phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, góp phần ổn định sản xuất trong
nước, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho lao động, nâng cao đời sống nhân dân. Với
các ngành sản xuất: than, điện, phân bón, xi măng, giấy… là các ngành quan trọng của
nền kinh tế (cung cấp phần lớn sản phẩm đầu vào cho nền sản xuất trong nước). Than là
11


nguyên liệu đầu vào cho các ngành sản xuất: Điện, phân bón, xi măng, giấy,... Điện là
đầu vào cho các ngành sản xuất, sinh hoạt và dịch vụ. Phân bón là đầu vào của ngành sản
xuất nông nghiệp. Xi măng là sản phẩm đầu vào cho ngành xây dựng. Sự ổn định về giá
cả, về sản lượng cung cấp của ngành sản xuất than sẽ dẫn đến sự ổn định giá điện, giá
phân bón, giá xi măng,... dẫn đến ổn định giá các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu như lương
thực, thực phẩm và nhiều mặt hàng quan trọng khác. Thuế tài nguyên là yếu tố cấu thành

trong giá bán sản phẩm. Do đó, sự ổn định thuế tài nguyên cũng góp phần ổn định giá,
chống lạm phát.
Tài nguyên thiên nhiên thường có tại các địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội
khó khăn. Việc phát triển ngành công nghiệp khai thác, chế biến tài nguyên sẽ tạo điều
kiện phát triển kinh tế - xã hội, tạo công ăn, việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân
tại nơi khai thác tài nguyên; do vậy, Nhà nước có cơ sở để xây dựng chính sách phát triển
kinh tế vùng, miền hợp lý hơn (giữa nông thôn và thành thị, giữa đồng bằng và miền
núi,..), giảm sự chênh lệnh về giàu nghèo, đảm bảo ổn định xã hội. Bên cạnh việc tạo
công ăn việc làm và nâng cao đời sống dân cư, thì số thu thuế tài nguyên cũng là nguồn
lực quan trọng để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội tại địa phương (xây
dựng điện, đường, trường, trạm,...), nâng cao đời sống vật chất tinh thần người dân nơi
khai thác, phát triển kinh tế xã hội địa phương.
1.4.

Khái quát pháp luật thuế tài nguyên

1.4.1. Khái niệm và cấu trúc của pháp luật thuế tài nguyên
Quan hệ thuế khóa nói chung và thuế tài nguyên nói riêng bao giờ là quan hệ pháp
luật để thu một loại thuế nào đó Nhà nước phải ban hành ra hệ thống các quy phạm pháp
luật quy định rõ nội dung sắc thuế đó và quy định về thủ tục quản lý thu, nộp thuế. Ở Việt
Nam Thuế tài nguyên lần đầu tiên được ban hành vào năm 1990 dưới hình thức pháp
lệnh; Luật thuế Tài nguyên số 45/2009/QH12 ngày 25/11/2009 thay thế Pháp lệnh thuế
tài nguyên năm 1990 và 1998. Cùng với Luật thuế Tài nguyên năm 2009, UBTVQH,
Chính phủ, Bộ Tài chính đã ban hành nhiều văn bản dưới luật quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành Luật Thuế tài nguyên, cụ thể:
12


Bên cạnh quy định về nội dung sắc thuế tài nguyên, để quản lý thu nộp các loại
thuế nói chung và thuế tài nguyên nói riêng thì Nhà nước đã ban hành Luật quản lý thuế

và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật quản lý thuế.
Như vậy có thể hiểu: Pháp luật thuế tài nguyên là bộ phận trong hệ thống pháp
luật thuế ở Việt Nam là tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành điều
chỉnh các quan hệ thu nộp thuế phát sinh giữa Nhà nước và các chủ thể có hành vi khai
thác tài nguyên thiên nhiên thuộc đối tượng chịu thuế nhằm quản lý việc khai thác, sử
dụng tài nguyên hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả, góp phần bảo vệ tài nguyên đất nước, bảo
đảm cho NSNN có nguồn thu để bảo vệ, tái tạo, tìm kiếm, thăm dò tài nguyên..
* Cấu trúc pháp luật thuế tài nguyên
Xét về cấu trúc tổng quát, hệ thống pháp luật thuế nói chung đều được cấu thành
bởi hai bộ phận chính, bao gồm các quy định về nội dung của các sắc thuế trong hệ thống
thuế; các quy định về hình thức tổ chức và đảm bảo thực hiện (quy trình hành thu) hệ
thống thuế.
Hiện nay, việc xác định cấu trúc pháp luật thuế tài nguyên có nhiều cách tiếp cận
khác nhau. Tuy nhiên cách tiếp cận phổ biến hiện nay là căn cứ vào nội dung quy phạm
pháp luật điều chỉnh thì cấu trúc pháp luật thuế tài nguyên bao gồm hai bộ phận cơ bản
sau:
- Bộ phận pháp luật quy định về nội dung sắc thuế. Bộ phận pháp luật này quy
định các vấn đề như: Đối tượng nộp thuế; đối tượng chịu thuế; đối tượng không thuộc
diện chịu thuế; căn cứ tính thuế, phương pháp tính thuế; miễn giảm thuế …
- Bộ phận pháp luật quy định về quản lý thuế: gồm các quy định về đăng ký thuế,
kê khai, khấu trừ thuế, nộp thuế, quyết toán thuế, hoàn thuế, xử lý vi phạm pháp luật về
thuế và các biện pháp quản lý thuế… Các quy phạm thuộc nhóm này có trong Luật Quản
lý thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành.
1.4.2. Khái quát về pháp luật thuế tài nguyên ở Việt Nam
Trước năm 1990, Nhà nước Việt Nam chưa có chế độ thu thống nhất đối với hoạt
động khai thác tài nguyên. Do đó, về mặt tài chính Nhà nước không tập trung được hết
13


các nguồn thu về khai thác tài nguyên cho ngân sách nhà nước. Chẳng hạn, các tổ chức,

cá nhân khai thác sản phẩm của rừng tự nhiên thực hiện chế độ nộp tiền nuôi rừng; tổ
chức, cá nhân khai thác tài nguyên khác thì thực hiện chế độ nộp tiền khai thác tài
nguyên… Để khắc phục tình trạng trên, ngày 30 tháng 03 năm 1990 Hội đồng Nhà nước
ban hành Pháp lệnh thuế tài nguyên với mục đích góp phần khuyến khích việc khai thác
tài nguyên thiên nhiên hợp lí, tiết kiệm, có hiệu quả, hướng dẫn sử dụng tài nguyên theo
hướng có lợi cho nền kinh tế quốc dân, góp phần bảo vệ tài nguyên đất nước. Đồng
thời, đảm bảo cho ngân sách nhà nước có nguồn thu ổn định để thực hiện các biện pháp
bảo vệ, tái tạo, tìm kiếm, thăm dò các nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước, góp
phần bảo đảm tính công bằng giữa các đơn vị khai thác, sử dụng tài nguyên với các đơn
vị sản xuất kinh doanh khác trong nền kinh tế.
Sau hơn 8 năm thực hiện Pháp lệnh thuế tài nguyên năm 1990, về cơ bản đạt được
các mục tiêu đặt ra, tuy nhiên, bên cạnh đó, Pháp lệnh thuế tài nguyên năm 1990 cũng đã
bộc lộ những bất cập cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Ngày 16/4/1998, Uỷ ban
thường vụ Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành Pháp lệnh
thuế tài nguyên sửa đổi để thay thế Pháp lệnh thuế tài nguyên năm 1990. Ngày
22/11/2008, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh số 07/2008/PLUBTVQH sửa đổi, bổ sung Điều 6 Pháp lệnh thuế tài nguyên trên.
Tổng kết quá trình thực hiện Pháp lệnh thuế tài nguyên về cơ bản đạt được mục
tiêu đặt ra khi ban hành Pháp lệnh là nhằm góp phần bảo vệ, khai thác, sử dụng tài
nguyên tiết kiệm, hợp lý, có hiệu quả, góp phần bảo vệ môi trường và bảo đảm nguồn thu
cho ngân sách nhà nước. Cụ thể:
Tài nguyên là tài sản quan trọng của quốc gia và hầu hết là tài nguyên không tái
tạo được cần được quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả
nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế bền
vững trong mối quan hệ hài hoà với giải quyết vấn đề xã hội và môi trường trước mắt
cũng như lâu dài.

14


- Về mục tiêu sử dụng hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả tài nguyên: Thể hiện ở mức

thuế suất thuế tài nguyên được phân biệt theo từng nhóm, loại tài nguyên; mức thuế suất
từ 0% (đối với nước thiên nhiên phục vụ các ngành nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và sinh
hoạt) đến 20%, 30%, 40% (đối với tài nguyên, khoáng sản quý hiếm) đã góp phần thúc
đẩy hoạt động khai thác tài nguyên theo hướng khai thác, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả
nguồn tài nguyên nhất là đối với các tài nguyên quý hiếm, tài nguyên không tái tạo (dầu
khí, than, đá,...).
- Thuế tài nguyên là một công cụ quan trọng để các cơ quan quản lý nhà nước tăng
cường công tác quản lý, giám sát quá trình hoạt động khai thác tài nguyên theo quy định
của pháp luật, được sử dụng đồng thời với các công cụ quản lý khác như cấp giấy phép
thăm dò, khai thác, chế biến tài nguyên.
- Với mục tiêu góp phần bảo đảm nguồn thu cho ngân sách nhà nước, thuế tài
nguyên đã đạt được những kết quả nhất định. Số thu thuế tài nguyên các năm từ 20052008 bình quân mỗi năm trên 23.200 tỷ đồng, chiếm khoảng 15% tổng thu ngân sách nhà
nước từ sản xuất kinh doanh trong nước (trong đó, thuế tài nguyên từ dầu khí khoảng
22.160 tỷ đồng, chiếm 95,5% tổng số thu thuế tài nguyên; thuế tài nguyên của các tài
nguyên khác khoảng 1.040 tỷ đồng, chiếm 4,5% tổng số thu thuế tài nguyên).
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, để khai thác, sử dụng nguồn
tài nguyên hợp lý, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời gian
tới, Pháp lệnh thuế tài nguyên cũng đã bộc lộ một số hạn chế như sau:
- Về đối tượng chịu thuế: Pháp lệnh quy định về thuế tài nguyên đối với “dầu mỏ”,
“khí đốt”. Tại Luật Dầu khí đã quy định “dầu thô” và “khí thiên nhiên” đối với tài nguyên
dầu, khí; đồng thời Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dầu khí năm 2008 bổ
sung quy định về tài nguyên “khí than”. Do đó, cần quy định đối tượng chịu thuế là “Dầu
thô” thay cho “Dầu mỏ”; “Khí thiên nhiên” thay cho “Khí đốt” để đảm bảo tính đồng bộ
và bổ sung thêm “khí than” vào đối tượng chịu thuế.
Pháp lệnh quy định đối tượng chịu thuế là “Thuỷ sản tự nhiên”, bao gồm các loại
động vật, thực vật ở biển, sông, ngòi, hồ, đầm, phá, kênh, rạch tự nhiên. Trên thực tế việc
15


khai thác thuỷ sản tự nhiên tại các sông, ngòi, hồ, đầm, phá, kênh, rạch thì người đánh bắt

chủ yếu là nông dân đánh bắt thủ công theo thời vụ. Một số ít sống bằng nghề chài lưới
trên sông, hồ vẫn phải làm thêm nghề khác để đảm bảo cuộc sống và một bộ phận thuộc
diện hộ nghèo; Thuế tài nguyên hầu hết chỉ thu đối với thuỷ sản tự nhiên khai thác trên
biển (hải sản). Do vậy, cần quy định đối tượng chịu thuế là Hải sản tự nhiên thay cho
Thuỷ sản tự nhiên để đảm bảo tính khả thi.
- Về đối tượng nộp thuế: Theo Pháp lệnh thì trường hợp Bên Việt Nam tham gia
doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam mà
góp vốn pháp định bằng các nguồn tài nguyên thì doanh nghiệp liên doanh không phải
nộp thuế tài nguyên đối với số tài nguyên mà Bên Việt Nam dùng để góp vốn pháp định
(khi đó thuế tài nguyên trở thành vốn góp của phía Việt Nam trong liên doanh). Quy định
này chưa phù hợp với tình hình thực tế và chưa phù hợp với Luật Đầu tư hiện hành, theo
đó nếu doanh nghiệp liên doanh được thành lập giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư
nước ngoài thì người nộp thuế là doanh nghiệp liên doanh; nếu các nhà đầu tư tổ chức
dưới hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh để khai thác tài nguyên thì nghĩa vụ thuế tài
nguyên do các bên thoả thuận trước trong hợp đồng hợp tác kinh doanh.
- Về căn cứ tính thuế: Pháp lệnh thuế tài nguyên quy định: căn cứ tính thuế tài
nguyên là sản lượng tài nguyên thương phẩm thực tế khai thác, giá tính thuế và thuế suất.
Căn cứ tính thuế tài nguyên đối với dầu thô, khí thiên nhiên và khí than (sau đây
gọi là dầu, khí) được thực hiện theo các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn Luật Dầu
khí. Tuy nhiên, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dầu khí năm 2008 chỉ quy
định viện dẫn: Tổ chức, cá nhân tiến hành các hoạt động dầu khí phải nộp các khoản
thuế theo quy định của pháp luật về thuế. Do đó, để đảm bảo có đủ cơ sở pháp lý, cần bổ
sung quy định về thuế tài nguyên đối với dầu, khí tại văn bản quy phạm pháp luật về thuế
tài nguyên.
- Về sản lượng tính thuế: Theo Pháp lệnh thuế tài nguyên, sản lượng tính thuế tài
nguyên là sản lượng tài nguyên thương phẩm thực tế khai thác. Sản lượng tài nguyên
thương phẩm là sản lượng tài nguyên được bán ra. Tuy nhiên, trên thực tế có nhiều loại
16



tài nguyên khai thác, chưa bán ra ngay mà đưa vào để tiếp tục sản xuất ra sản phẩm khác.
Khi đó, sản lượng tài nguyên tính thuế được căn cứ vào sản lượng sản phẩm sản xuất
trong kỳ và định mức tiêu hao tài nguyên tính trên một đơn vị sản phẩm. Như vậy, sản
lượng tài nguyên tính thuế trong trường hợp này không phải là sản lượng tài nguyên
thương phẩm, mà là sản lượng tài nguyên thực tế khai thác.
- Về giá tính thuế: Pháp lệnh quy định: Giá tính thuế tài nguyên là giá bán đơn vị
sản phẩm tài nguyên tại nơi khai thác. Trường hợp tài nguyên khai thác chưa có giá bán
thì Chính phủ quy định giá tính thuế tài nguyên.
Trên thực tế, do chất lượng, hàm lượng tài nguyên khai thác được là khác nhau,
lượng tạp chất khai thác được cùng với tài nguyên nhiều nên việc xác định giá tính thuế
tài nguyên trong trường hợp tài nguyên khai thác chưa có giá bán cũng rất khác nhau và
hiện nay mỗi địa phương áp dụng một cách dẫn đến sự không thống nhất về giá tính thuế.
Vì vậy, cần có quy định về nguyên tắc xác định giá tính thuế của các loại tài nguyên để
các địa phương có cơ sở áp dụng thống nhất.
Quá trình thực hiện Pháp lệnh cho thấy có rất ít tài nguyên được bán tại nơi khai
thác mà chủ yếu tài nguyên được bán sau khi đã chế biến, sàng tuyển, phân loại, chọn
lọc. Hơn nữa, việc xác định “giá bán tài nguyên tại nơi khai thác” như tại tỉnh, huyện
hoặc xã để xác định giá tính thuế là vấn đề gây tranh cãi trong quá trình thực hiện. Vì
vậy, để khắc phục nhược điểm này, cần quy định: “Giá tính thuế tài nguyên là giá bán
đơn vị sản phẩm tài nguyên của tổ chức, cá nhân khai thác”.
- Về miễn, giảm thuế: Theo Pháp lệnh, dự án thuộc đối tượng ưu đãi đầu tư quy
định tại Luật Khuyến khích đầu tư trong nước có khai thác tài nguyên (trừ dầu, khí) được
giảm tối đa 50% thuế tài nguyên trong ba năm đầu kể từ khi bắt đầu khai thác. Hiện tại
Luật Khuyến khích đầu tư trong nước không còn hiệu lực; hơn nữa, Luật Đầu tư ban
hành năm 2005 đã quy định thống nhất về chính sách ưu đãi giữa các loại hình đầu tư. Do
vậy, cần sửa đổi nội dung này để đảm bảo tính thống nhất của pháp luật.
Pháp lệnh cũng cho miễn thuế tài nguyên đối với nước thiên nhiên dùng vào sản
xuất thuỷ điện không hoà vào mạng lưới điện quốc gia. Tuy nhiên hiện nay, có nhiều
17



thuỷ điện cung cấp điện nhưng không hoà vào mạng lưới điện quốc gia. Vì vậy, cần phải
sửa đổi quy định này nhằm đảm bảo công bằng về nghĩa vụ thuế.
- Pháp lệnh quy định: Đối với nước thiên nhiên dùng phục vụ các ngành nông
nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp và nước thiên nhiên khai thác từ giếng đào,
giếng khoan phục vụ sinh hoạt, áp dụng mức thuế suất là 0%. Để đảm bảo giảm thiểu thủ
tục hành chính, cần thiết đưa đối tượng này vào diện được miễn thuế.
- Về đăng ký, kê khai, nộp thuế: Luật Quản lý thuế có hiệu lực thi hành từ ngày
01/7/2007 và bãi bỏ các quy định về quản lý thuế trong các luật, pháp lệnh về thuế mà
Luật Quản lý thuế có quy định. Vì vậy, những nội dung về quản lý thuế tại Pháp lệnh
thuế tài nguyên hiện hành cần phải sửa đổi lại cho phù hợp với Luật Quản lý thuế.
Qua tổng kết đánh giá tình hình thực hiện Pháp lệnh thuế tài nguyên cho thấy,
Pháp lệnh thuế tài nguyên năm 1998 có 21 Điều, trong đó: Cần bãi bỏ 11 Điều; Cần phải
sửa đổi, bổ sung 10 Điều; Đồng thời Nhà nước cần phải có chính sách quản lý, bảo vệ,
khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển bền vững kinh tế - xã hội. Việc tăng cường công tác
quản lý, thu thuế tài nguyên, góp phần tăng thu cho ngân sách để có nguồn kinh phí cho
việc cải tạo môi trường; xây dựng, sửa chữa hạ tầng quanh khu vực khai thác, nâng cao
nhận thức xã hội về vai trò của nguồn tài nguyên quốc gia. Như vậy, để phát huy những
kết quả đã đạt được, khắc phục những hạn chế của chính sách thuế tài nguyên hiện hành,
đảm bảo xây dựng hệ thống thuế đồng bộ, phù hợp với tình hình thực tiễn và các Luật có
liên quan, cần thiết phải ban hành Luật thuế tài nguyên.
Ngày 25/11/ 2009, Quốc Hội đã ban hành Luật Thuế tài nguyên, Luật này có hiệu
lực thi hành từ ngày 01/07/2010 để thay thế cho pháp lệnh thuế tài nguyên trước đó.
Trên cơ sở Luật Thuế tài nguyên đã được ban hành, ngày 14/05/2010 Chính phủ
ban hành Nghị định số 50/2010/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật thuế tài nguyên. Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 105/2010/TT-BTC
ngày 23/ 07/2010, hướng dẫn thi hành một số điều Luật thuế tài nguyên và hướng dẫn thi
hành Nghị định số 50/2010/NĐ-CP của Chính phủ
18



Ngày 26 tháng 11 năm 2014 Quốc hội ban hành Luật số: 71/2014/QH13 sửa đổi,
bổ sung một số điều của các Luật về thuế.
Ngoài ra, để điều chỉnh quan hệ thu nộp thuế tài nguyên, Nhà nước còn ban hành
các quy phạm pháp luật trong các văn bản pháp luật chuyên ngành khác để điều chỉnh
quan hệ thuế này cho phù hợp như: Luật dầu khí...
Nội dung chính của pháp luật thuế tài nguyên hiện hành:
* Đối tượng chịu thuế:
Là các loại tài nguyên thiên nhiên được phân thành các nhóm sau:
- Khoáng sản kim loại.
- Khoáng sản không kim loại.
- Dầu thô.
- Khí thiên nhiên, khí than.
- Sản phẩm của rừng tự nhiên, trừ động vật.
- Hải sản tự nhiên, bao gồm động vật và thực vật biển.
- Nước thiên nhiên, bao gồm nước mặt và nước dưới đất, trừ nước thiên nhiên
dùng cho nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp.
- Yến sào thiên nhiên.
- Tài nguyên khác do Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định.
* Người nộp thuế
Người nộp thuế tài nguyên là tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên thuộc đối
tượng chịu thuế tài nguyên.
Người nộp thuế tài nguyên trong một số trường hợp được quy định cụ thể như
sau:
- Doanh nghiệp khai thác tài nguyên được thành lập trên cơ sở liên doanh thì
doanh nghiệp liên doanh là người nộp thuế;
- Bên Việt Nam và bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh khai
thác tài nguyên thì trách nhiệm nộp thuế của các bên phải được xác định cụ thể trong hợp
đồng hợp tác kinh doanh;

19


×