Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.66 MB, 97 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

PHÁP LUẬT VỀ PHÍ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ĐỐI VỚI
NƯỚC THẢI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

NGUYỄN THỊ THU BÌNH

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS TRẦN VŨ HẢI

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn cao học luật này là do chính tôi thực hiện dưới
sự hướng dẫn khoa học của TS. Trần Vũ Hải. Mọi số liệu, kết quả nghiên cứu đã
công bố sử dụng trong luận văn đều được dẫn nguồn đầy đủ theo quy định. Tôi
hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả nghiên cứu luận văn.
Tác giả

NGUYỄN THỊ THU BÌNH


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin cảm ơn TS. Trần Vũ Hải - Giảng viên Trường Đại học Luật Hà Nội


đã tận tình hướng dẫn khoa học để tôi hoàn thành luận văn này. Tôi cũng chân
thành cảm ơn Viện Đại học Mở Hà Nội, các thầy cô giáo, gia đình và bạn bè đã
giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi hoàn thành chương trình học .
Học viên

NGUYỄN THỊ THU BÌNH


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .............................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ........................................................................ 2
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài .................................................................... 4
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 4
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài ....................................................... 4
6. Kết cấu của luận văn .................................................................................... 5
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT PHÍ
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ĐỐI VỚI NƯỚC THẢI .......................................... 6
1.1. Những vấn đề cơ bản về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải ...... 6
1.1.1. Khái niệm và phân loại phí bảo vệ môi trường đối với nước thải 6
1.1.1.1. Cơ sở lý luận và pháp lý của phí bảo vệ môi trường đối với
nước thải ..................................................................................................... 6
1.1.1.2. Khái niệm phí bảo vệ môi trường đối với nước thải .............. 11
1.1.1.3. Phân loại phí bảo vệ môi trường đối với nước thải ................ 13
1.1.2. Ý nghĩa và vai trò của phí bảo vệ môi trường đối với nước thải. 15
1.1.2.1. Ý nghĩa của phí bảo vệ môi trường đối với nước thải ........... 15
1.1.2.2. Vai trò của phí bảo vệ môi trường đối với nước thải ............. 17

1.2. Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật phí bảo vệ môi trường đối
với nước thải.................................................................................................... 20
1.2.1. Khái niệm pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải
....................................................................................................................... 20
1.2.2. Nội dung cơ bản của pháp luật phí bảo vệ môi trường đối với
nước thải ...................................................................................................... 22


1.2.3. Quy định về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải ở một số
quốc gia trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam.............................. 24
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .................................................................................. 30
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP
LUẬT VỀ PHÍ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ĐỐI VỚI NƯỚC THẢI Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY................................................................................................. 32
2.1. Thực trạng pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải ở Việt
Nam hiện nay ................................................................................................... 32
2.1.1. Sơ lược sự hình thành và phát triển quy định của pháp luật Việt
Nam về phí BVMT đối với nước thải .......................................................... 32
2.1.2. Quy định về đối tượng chịu phí, đối tượng không chịu phí BVMT
đối với nước thải ......................................................................................... 35
2.1.3. Quy định về chủ thể tham gia quan hệ pháp luật phí BVMT đối
với nước thải ................................................................................................ 38
2.1.3.1. Các cơ quan có thẩm quyền trong việc ban hành, quản lý và thu
phí BVMT đối với nước thải .................................................................... 39
2.1.3.2. Người nộp phí ............................................................................... 43
2.1.4. Quy định về mức thu phí, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí
BVMT đối với nước thải ............................................................................ 45
2.1.4.1. Quy định về cách tính phí và mức thu phí .............................. 45
2.1.4.2. Quy định về quản lý và sử dụng phí ........................................ 52
2.1.4.3. Quy định về tổ chức thu phí ...................................................... 54

2.1.5. Quy định về kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động thu nộp phí
và xử lý vi phạm pháp luật về phí BVMT đối với nước thải ................. 56
2.1.5.1. Quy định về kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động thu, nộp
phí BVMT đối với nước thải .................................................................. 56
2.1.5.2. Xử lý vi phạm về phí BVMT đối với nước thải ...................... 57
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải
ở Việt Nam hiện nay ........................................................................................ 59


2.2.1. Những điểm đạt được ......................................................................... 59
2.2.2. Những điểm hạn chế, tồn tại .............................................................. 62
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .................................................................................... 68
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÍ BẢO
VỆ MÔI TRƯỜNG ĐỐI VỚI NƯỚC THẢI ..................................................... 69
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước
thải ở Việt Nam hiện nay ................................................................................. 69
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về phí BVMT đối với nước thải phải đảm bảo
mục đích phát triển bền vững ...................................................................... 69
3.1.2. Các quy định của pháp luật về phí BVMT đối với nước thải phải
đảm bảo tính minh bạch, khả thi ................................................................. 70
3.1.3. Hoàn thiện pháp luật về phí BVMT đối với nước thải phải đảm bảo
sự đồng bộ của hệ thống pháp luật môi trường .......................................... 70
3.1.4. Hoàn thiện pháp luật về phí BVMT đối với nước thải phải đảm bảo
sự đồng bộ của hệ thống pháp luật quy định về thu NSNN........................ 71
3.1.5. Hoàn thiện pháp luật về phí BVMT đối với nước thải phải đáp ứng
yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và hợp tác quốc tế trong BVMT ............ 72
3.2. Những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về phí bảo vệ môi
trường đối với nước thải ở Việt Nam và đảm bảo thực hiện ......................... 72
3.2.1. Một số giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về phí
BVMT đối với nước thải ở Việt Nam hiện nay ........................................... 72

3.2.2. Một số giải pháp hoàn thiện quá trình thực thi pháp luật về phí bảo
vệ môi trường đối với nước thải ở Việt Nam hiện nay................................ 80
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 .................................................................................... 83
KẾT LUẬN CHUNG........................................................................................... 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 86


DANH MỤC VIẾT TẮT

BVMT

Bảo vệ môi trường

NSNN

Ngân sách Nhà nước

HĐND

Hội đồng nhân dân

UBND

Ủy ban nhân dân

TW

Trung ương



1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với nhịp độ phát triển kinh tế nhanh chóng và sự bùng nổ dân số
thế giới đã khiến các quốc gia phải đương đầu với các vấn đề về môi trường
như ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm không khí, ô nhiễm đất…. Điều này đặt ra
những thách thức không nhỏ đối với quá trình phát triển kinh tế bền vững của
tất cả các quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Việt Nam đang thực hiện chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước với nhịp độ ngày càng cao, nhằm đưa nước ta cơ bản thành một
nước công nghiệp vào năm 2020, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế
giới. Hội nhập đã mang lại những thành tựu kinh tế - xã hội to lớn cho đất nước,
tuy nhiên, một trong những mặt trái của hội nhập kinh tế chính là ô nhiễm môi
trường. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến ô nhiễm môi trường, một trong số đó là
ô nhiễm môi trường do nước thải. Vấn đề này ngày càng trầm trọng, đe dọa trực
tiếp sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững, sự tồn tại, phát triển của các thế hệ
hiện tại và tương lai.
Để bảo vệ môi trường (BVMT) do nước thải gây ra, Nhà nước có thể áp
dụng nhiều công cụ khác nhau, như công cụ hành chính, công cụ thông tin,
công cụ dựa vào cộng đồng, công cụ kinh tế. Trong đó, công cụ kinh tế được
nhiều quốc gia áp dụng nhất. Đây là công cụ đem lại những kết quả hết sức khả
quan do nó được xây dựng dựa trên mục tiêu điều hòa xung đột giữa tăng
trưởng kinh tế và BVMT. Công cụ này được thể hiện khá hữu hiệu thông qua
việc Nhà nước thu phí BVMT đối với nước thải. Phí BVMT đối với nước thải
đã góp phần tạo điều kiện cho các chủ thể chủ động lập kế hoạch BVMT thông
qua việc lồng ghép chi phí BVMT và chi phí sản xuất kinh doanh vào giá thành
sản phẩm.



2

Tại thời điểm hiện nay, những văn bản ghi nhận và điều tiết về phí
BVMT nói chung và phí BVMT đối với nước thải nói riêng có thể kể tới: Nghị
quyết số 41/NQ-TW của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày
03/6/2013 của Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 (khóa XI) về chủ
động ứng phó biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi
trường; Chiến lược BVMT quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm
2020; Luật bảo vệ môi trường năm 2014, đặc biệt là Nghị định số 25/2013/NĐCP ngày 29/3/2013 của Chính phủ. Những văn bản này đã thể hiện sự quyết tâm
của Đảng, Nhà nước trong công tác BVMT nói chung và BVMT do nước thải
gây ra nói riêng. Tuy nhiên, thực tiễn thi hành các quy định về phí BVMT đối
với nước thải trong thời gian qua đã bộc lộ một số hạn chế, những điểm chưa
phù hợp với yêu cầu của công tác quản lý và BVMT. Do đó, việc nghiên cứu để
tiếp tục hoàn thiện công cụ kinh tế quan trọng này trong hệ thống các công cụ
kinh tế trong lĩnh vực BVMT là điều cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
BVMT là vấn đề cấp bách của mỗi quốc gia, trong đó, phí BVMT nói
chung và phí BVMT đối với nước thải nói riêng là một công cụ kinh tế quan
trọng trong việc BVMT và công tác quản lý môi trường. Đây là vấn đề thu hút
được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu và hoạt động thực tiễn, do đó, đã
có nhiều công trình nghiên cứu ở những khía cạnh khác nhau luận giải về vấn
đề này.
Trên thế giới, các công trình nghiên cứu về vấn đề này có thể kể đến như:
(i) ấn phẩm “OECD environmental performance reviews” của Tổ chức Hợp tác
và phát triển kinh tế OECD. Ấn phẩm đưa ra những luận cứ khá chi tiết về các
vấn đề tác động tới môi trường, từ chính sách, quản lý cho tới hoạt động bảo vệ
của các nước thành viên, trong đó có chính sách thu phí đối với nguồn gây ô
nhiễm môi trường. (ii) ấn phẩm “The U.S Experience with Economic Incentives



3

for Protecting the Environment” nghiên cứu những công cụ tài chính trong
chính sách bảo vệ môi trường như thuế, phí và có sự so sánh giữa các công cụ
này từ kinh nghiệm của Hoa Kỳ; (iii) tài liệu “Determining Wastewater User
Service Charge Rates: A Step by step manual” của Cơ quan bảo vệ môi trường
Hoa Kỳ nhằm đưa ra những góc nhìn về phí cho việc xử lý nước thải nhằm bảo
vệ môi trường.
Ở Việt Nam, cũng có khá nhiều công trình nghiên cứu trực tiếp về phí
BVMT đối với nước thải, có thể kể đến như: (i) luận án tiến sĩ “Pháp luật về sử
dụng công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay” của tác giả
Nguyễn Ngọc Anh Đào (2013) – công trình đã nghiên cứu và đưa ra thực tiễn
áp dụng các công cụ kinh tế như thuế BVMT, ký quỹ, phí BVMT…; (ii) luận
văn thạc sĩ “Áp dụng phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp tại
thành phố Hà Nội” của tác giả Nguyễn Thanh Thắm (2009) – công trình nghiên
cứu lý luận, quy định của pháp luật về phí BVMT và đưa ra các biện pháp nhằm
nâng cao hiệu quả áp dụng của loại phí này; (iii) bài nghiên cứu “Kinh nghiệm
quốc tế về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp và đề xuất định
hướng cho Việt Nam” của tiến sĩ Đỗ Nam Thắng trên tạp chí môi trường số
7/2010, giới thiệu kinh nghiệm thực tiễn áp dụng phí BVMT đối với nước thải
công nghiệp của một số quốc gia trên thế giới, từ đó gợi mở cho quá trình xây
dựng và thực hiện nội dung pháp luật này ở Việt Nam.
Qua những tài liệu nêu trên cho thấy, phí BVMT là một vấn đề khá quan
trọng, được nhiều học giả quan tâm. Tuy nhiên, mỗi công trình lại nghiên cứu,
đánh giá ở những khía cạnh khác nhau, hoặc chỉ dừng lại ở phí BVMT đối với
từng loại nước thải, hoặc dựa trên cơ sở các quy định về phí BVMT đối với
nước thải được ban hành từ năm 2003, mà chưa có công trình nào nghiên cứu
đầy đủ về phí BVMT đối với nước thải đang được áp dụng tại Việt Nam hiện
nay.



4

3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Với đề tài “Pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải ở Việt
Nam hiện nay”, tác giả tập trung nghiên cứu những quy định hiện hành của Nhà
nước về phí BVMT đối với nước thải, từ đó phân tích những quy định của pháp
luật, tìm hiểu thực tiễn thi hành những quy định này. Ngoài ra, tác giả còn tiến
hành tìm hiểu quy định về loại phí này ở một số quốc gia trên thế giới nhằm rút
ra được bài học kinh nghiệm để hoàn thiện pháp luật về phí BVMT ở Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
cơ bản sau đây:
(i) Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin;
(ii) Một số phương pháp nghiên cứu cụ thể:
Phương pháp phân tích, bình luận, diễn giải, phương pháp so sánh, phương
pháp lịch sử… được sử dụng trong chương 1 khi nghiên cứu những vấn đề lý luận
về pháp luật phí bảo vệ môi trường đối với nước thải.
Phương pháp so sánh luật học, phương pháp phân tích, tổng hợp, đánh giá
được sử dụng trong chương 2 và chương 3 khi tìm hiểu thực trạng pháp luật và thực
tiễn thi hành pháp luật về phí BVMT đối với nước thải nhằm (i) làm rõ những quy
định của pháp luật về vấn đề này; (ii) chỉ ra những điểm đạt được và chưa đạt được
của pháp luật để từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật.
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực
tiễn về phí BVMT đối với nước thải ở Việt Nam hiện nay, qua đó đề ra những
phương hướng, giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về vấn đề này nhằm
đáp ứng tốt hơn yêu cầu BVMT thực tế đang đặt ra trong tiến trình phát triển

bền vững, hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.


5

Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn đặt ra những nhiệm
vụ nghiên cứu cụ thể sau:
Một là, làm rõ một số vấn đề lý luận về pháp luật điều chỉnh phí BVMT đối
với nước thải như: khái niệm, vai trò, nội dung cơ bản, nghiên cứu kinh nghiệm
thực tiễn áp dụng phí BVMT đối với nước thải của một số quốc gia trên thế giới.
Hai là, trên cơ sở nghiên cứu các quy phạm pháp luật và thực tiễn thi hành về
phí BVMT đối với nước thải, luận văn tìm ra những tồn tại, vướng mắc để làm cơ
sở cho việc hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Ba là, làm rõ những yêu cầu mang tính khách quan, cũng như sự cần thiết
phải hoàn thiện pháp luật về phí BVMT đối với nước thải, qua đó, đưa ra những
kiến nghị trước mắt và lâu dài cho việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh vấn đề này.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn được kết cấu thành 03 chương với
các nội dung cụ thể như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật phí bảo vệ môi
trường đối với nước thải
Chương 2. Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về phí
bảo vệ môi trường đối với nước thải ở Việt Nam hiện nay
Chương 3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về phí bảo vệ môi
trường đối với nước thải


6

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP
LUẬT PHÍ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ĐỐI VỚI
NƯỚC THẢI
1.1. Những vấn đề cơ bản về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải
1.1.1. Khái niệm và phân loại phí bảo vệ môi trường đối với nước thải
1.1.1.1. Cơ sở lý luận và pháp lý của phí bảo vệ môi trường đối với nước thải
Nước là khởi nguồn cho mọi sự sống và là một trong những nhu cầu
không thể thiếu với bất kì loài sinh vật nào, trong đó có con người. Chất lượng
môi trường nước sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe cũng như sự sống của các
loài. Tuy nhiên, hiện nay nhu cầu sống này đang dần bị đe dọa nghiêm trọng, do
lượng nước bị thâm hụt bởi được sử dụng một cách bừa bãi và không đúng mục
đích, đặc biệt là chất lượng nước đang suy giảm một cách trầm trọng. Nguyên
nhân chính của thực trạng này xuất phát từ phía chủ quan của chính con người.
Hằng ngày, một lượng nước thải lớn được xả trực tiếp hoặc gián tiếp ra ngoài
môi trường mà chưa qua xử lý gây ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước.
Với mục tiêu bảo vệ môi trường nói chung, giảm thiểu số lượng nước
thải chưa qua xử lý xả trực tiếp ra môi trường nói riêng, từ đó hạn chế các chủ
thể tiến hành xả thải, đồng thời, có được nguồn tài chính sử dụng để đầu tư trở
lại cho hoạt động BVMT, việc tiến hành thu phí BVMT đối với nước thải được
xác định là hữu hiệu hơn cả. Bên cạnh đó, phí bảo vệ môi trường đối với nước
thải được xác định là công cụ kinh tế chủ yếu được áp dụng ở nhiều nước trên
thế giới, đặc biệt là những nước phát triển [i] và đem lại những kết quả đáng ghi
nhận trong việc quản lý ô nhiễm do nước thải gây ra ở những nước này [27].
Ngoài việc xuất phát từ đòi hỏi thực tiễn, sự ra đời của phí BVMT đối với nước


7

thải cũng được dựa trên những cơ sở lý luận và cơ sở chính trị, pháp lý nhất
định.

Thứ nhất, về cơ sở lý luận. Theo thông lệ quốc tế, phí BVMT đối với
nước thải là công cụ trực tiếp đưa chi phí môi trường vào giá thành sản phẩm
dựa trên cơ sở lý luận là hai nguyên tắc được các quốc gia thừa nhận rộng rãi,
bao gồm nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền” (PPP) và “người hưởng
thụ phải trả tiền” (BPP).
Đối với nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”, đây là nguyên tắc
do Tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển (OECD) đề ra năm 1972 và 1974, dựa
trên cơ sở xem môi trường là một loại hàng hóa. Theo đó, nguyên tắc này ghi
nhận người gây ô nhiễm phải chịu mọi khoản chi phí để thực hiện các biện pháp
làm giảm ô nhiễm do chính quyền tổ chức thực hiện, nhằm đảm bảo cho môi
trường ở trong trạng thái có thể chấp nhận được. Nguyên tắc PPP xuất phát từ
những luận điểm của Pigou về nền kinh tế phúc lợi, ở đó, nội dung quan trọng
nhất đối với một nền kinh tế lý tưởng là giá cả hàng hóa và dịch vụ có thể phản
ánh đầy đủ các chi phí xã hội, kể cả các chi phí môi trường (gồm các chi phí
chống ô nhiễm, khai thác tài nguyên cũng như những dạng ảnh hưởng khác của
môi trường).
PPP “mở rộng” năm 1974 bổ sung rằng, ngoài việc phải tuân thủ các chi
phí tiêu chuẩn đối với việc gây ô nhiễm, các tác nhân gây ô nhiễm còn phải bồi
thường cho những người bị thiệt hại. Việc buộc những người gây ô nhiễm trả
tiền là một trong những cách tốt nhất để làm giảm bớt các tác động của ngoại
ứng gây ra làm thất bại thị trường [8, tr.16-17]. Thời gian gần đây, nguyên tắc
“người gây ô nhiễm phải trả tiền” còn được củng cố bởi nhiều nguyên tắc cơ
bản khác như: nguyên tắc phòng ngừa, nguyên tắc cấp dưới, nguyên tắc hiệu
quả kinh tế tiết kiệm chi phí và nguyên tắc hiệu quả về luật pháp, góp phần tạo
ra các nguyên tắc chủ đạo cho việc hoạch định các chính sách môi trường.


8

Đối với nguyên tắc “người hưởng lợi phải trả tiền”, nguyên tắc này nói

tới việc người hưởng thụ các thành phần môi trường phải trả tiền cho việc
hưởng thụ cũng như các tác động tiêu cực đến môi trường do việc hưởng thụ
các thành phần môi trường đó gây ra. Đồng thời, nguyên tắc này cũng đưa ra
giải pháp BVMT với một cách nhìn nhận khá mới, đó là chú trọng tới việc
phòng ngừa và cải thiện môi trường. Tuy nhiên, hiệu quả của nó lại phụ thuộc
chủ yếu vào việc xác định chính xác và hợp lý các khoản phí cũng như việc sử
dụng chúng cho các mục đích BVMT. Đối nghịch với việc người trực tiếp gây ô
nhiễm phải trả tiền, người được hưởng một môi trường đã được cải thiện cũng
phải trả một khoản phí. Mức phí tính theo đầu người càng cao và càng có nhiều
người nộp phí, thì số thu được càng nhiều. Số tiền thu được theo nguyên tắc
BPP có thể do các cá nhân muốn BVMT, hoặc do những cá nhân không phải trả
tiền cho việc thải ra các chất gây ô nhiễm trong giá thành sản phẩm nộp. Tuy
nhiên, hạn chế của nguyên tắc này đó là tiền không phải do các chủ thể gây ô
nhiễm trực tiếp trả, nên sự khuyến khích đối với việc BVMT khó có thể đạt
được hiệu quả cao nhất.
Thực chất, nguyên tắc BPP có thể được sử dụng như một định hướng hỗ
trợ nhằm đạt được các mục tiêu BVMT, cho dù đó là mục tiêu bảo vệ hay là
phục hồi môi trường. Nếu mức phí có thể được thu đủ để dành cho các mục tiêu
môi trường, thì lúc đó chính sách này có thể được coi là chính sách có hiệu quả
về môi trường [7; tr.20].
Thứ hai, về cơ sở chính trị, pháp lý. Bảo vệ môi trường luôn được xác
định là một chủ trương, chính sách lớn, là nhiệm vụ quan trọng của Đảng và
Nhà nước trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhằm khắc
phục hiện trạng môi trường và BVMT nói chung, cũng như xử lý nước thải và
khắc phục nguồn nước bị ô nhiễm do chất thải gây ra, Nhà nước phải tiến hành
đồng bộ cả ba biện pháp: hành chính – kinh tế - giáo dục, trong đó, biện pháp
kinh tế là quan trọng nhất. Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền, do đó, để quán
triệt các nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền” và “người thụ hưởng phải



9

trả tiền”, để có thể đưa những nguyên tắc này vào cuộc sống thì nó cần phải
được thể chế hóa bằng các văn bản quy phạm pháp luật. Vì vậy, việc thu phí
BVMT đối với nước thải cần căn cứ vào hệ thống pháp luật môi trường và các
văn bản pháp luật có liên quan.
Trước đây, Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định, BVMT là nghĩa vụ của
mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để nước ta
xây dựng các quy phạm pháp luật về phí BVMT nói chung và phí BVMT đối
với nước thải nói riêng. Dựa trên tinh thần này, Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày
03/6/2013 của Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 (khóa XI) về chủ
động ứng phó biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT ghi
nhận, BVMT là một trong những vấn đề sống còn của nhân loại; là nhân tố bảo
đảm sức khỏe và chất lượng cuộc sống của nhân dân; góp phần quan trọng vào
việc phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, an ninh quốc gia và thúc đẩy
hội nhập kinh tế quốc tế.
Kế thừa những nội dung trên, Điều 43 Hiến pháp 2013 quy định: “Mọi
người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ
môi trường”. Khoản 2 Điều 63 Hiến pháp 2013 một lần nữa khẳng định: “Nhà
nước khuyến khích mọi hoạt động bảo vệ môi trường, phát triển, sử dụng năng
lượng mới, năng lượng tái tạo”. Những nội dung được ghi nhận trong Hiến pháp
như trên sẽ tạo nên nền tảng quan trọng nhất để các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền tiếp tục thể chế hóa, sửa đổi, hoàn thiện các quy định về BVMT nói
chung và phí BVMT nói riêng trong hệ thống pháp luật.
Do đó, Luật Bảo vệ môi trường được xác định là văn bản pháp luật cơ
bản, quan trọng nhất về BVMT, về quản lý nước thải ở Việt Nam. Luật đã đặt
ra những quy định chung về tiêu chuẩn chất thải, về cam kết thực hiện biện
pháp giảm thiểu, xử lý chất thải nói chung, trong đó có nước thải. Đồng thời,
Điều 148 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 quy định, tổ chức, cá nhân xả thải
ra môi trường hoặc làm phát sinh tác động xấu đối với môi trường phải nộp phí



10

bảo vệ môi trường. Đây là quy định mang tính chất nguyên tắc có tác dụng chi
phối và quyết định đến các quy định của pháp luật về thu phí BVMT cụ thể.
Theo đó, mọi cá nhân, tổ chức có hành vi xả thải ra môi trường đều phải nộp
phí BVMT đối với nước thải.
Bên cạnh những văn bản pháp luật môi trường, thì việc xây dựng phí
BVMT đối với nước thải còn dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật tài
chính. Theo quy định tại Pháp lệnh phí và lệ phí năm 2001, thì phí là “khoản tiền
mà tổ chức, cá nhân phải trả khi được một tổ chức, cá nhân khác cung cấp dịch vụ
được quy định trong Danh mục phí ban hành kèm theo Pháp lệnh này” [25; Điều 2].
Chủ thể thực hiện đầu tư vốn để cung cấp các dịch vụ được phép thu phí có thể là
Nhà nước hoặc tư nhân, do đó, khoản thu về phí cũng có thể là khoản thu của Nhà
nước hoặc thu của các tổ chức, cá nhân. Danh mục phí ban hành kèm theo Pháp
lệnh bao gồm 73 khoản phí được phân thành 12 nhóm theo tính chất công việc gắn
với lĩnh vực, nhóm ngành có những đặc điểm về kinh tế kỹ thuật tương tự như nhau,
trong đó có phí BVMT.
Tuy nhiên, cách xác định về phí như trên không phù hợp với những loại phí
do tư nhân đầu tư ban đầu hoặc mua lại của Nhà nước, khi nhóm chủ thể này vẫn
phải tính theo cách thu và cách quản lý do Nhà nước quy định. Đồng thời, nhằm đẩy
mạnh xã hội hóa các dịch vụ công và phù hợp với thông lệ quốc tế, Luật Phí và lệ
phí năm 2015 đã xác định lại khái niệm về phí như sau: “Phí là khoản tiền mà tổ
chức, cá nhân phải trả nhằm cơ bản bù đắp chi phí và mang tính phục vụ khi được
cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập và tổ chức được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền giao cung cấp dịch vụ công được quy định trong Danh mục phí ban
hành kèm theo Luật phí, lệ phí” [15; Khoản 1 Điều 3]. Theo đó, Luật phí, lệ phí sẽ
chỉ điều chỉnh đối với các khoản thu phí thuộc dịch vụ công do cơ quan nhà nước,
đơn vị sự nghiệp công lập và tổ chức khác được giao thực hiện, không điều chỉnh

đối với các khoản phí do các tổ chức, cá nhân ngoài Nhà nước cung ứng. Đồng thời,
trong Danh mục phí, lệ phí ban hành kèm theo Luật phí và lệ phí 2015 cũng có liệt
kê phí BVMT đối với nước thải thuộc về nhóm phí trong lĩnh vực BVMT nói riêng


11

và lĩnh vực tài nguyên môi trường nói chung. Loại phí này sẽ do Chính phủ quy
định.
Hiện nay, văn bản điều chỉnh trực tiếp về phí BVMT đối với nước thải là
Nghị định số 25/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 29/3/2013 về phí BVMT đối
với nước thải.
1.1.1.2. Khái niệm phí bảo vệ môi trường đối với nước thải
Nếu nhìn nhận các khoản phí thuộc nguồn thu của NSNN, có thể thấy, khoản
thu này do các tổ chức, cá nhân nộp vào quỹ NSNN khi thụ hưởng lợi ích từ hàng
hóa, dịch vụ công cộng được cung cấp bởi Nhà nước [11; tr.160]. Chính vì vậy mà
phí mang tính đối giá và tính hoàn trả trực tiếp, khác biệt so với thuế không mang
hai đặc điểm này, và khác biệt so với lệ phí không mang tính đối giá. Khoản thu phí
có tác dụng bù đắp một phần chi phí cho những khoản đầu tư, bảo dưỡng các công
trình công cộng, duy trì hoạt động dịch vụ công của Nhà nước, đồng thời, bảo đảm
tính tiết kiệm trong tiêu dùng dịch vụ công từ phía người thụ hưởng và góp phần
trang bị thêm các điều kiện vật chất để phục vụ tốt hơn, có hiệu quả hơn cho người
thụ hưởng dịch vụ.
Như vậy, việc đóng phí của tổ chức, cá nhân chỉ phải thực hiện khi họ
nhận được sự cung ứng một dịch vụ từ một chủ thể khác. Tiền phí sẽ tương ứng
với tính chất, mức độ của dịch vụ được cung ứng. Phí BVMT đối với nước thải
mà các tổ chức, cá nhân khi xả nước thải vào môi trường phải nộp thực chất là
số tiền mà họ phải đóng cho Nhà nước để nhận lấy sự cung cấp dịch vụ từ phía
Nhà nước, đó là những hoạt động nhằm bảo vệ và đầu tư cho môi trường tại địa
phương nơi họ xả thải mà đáng lẽ ra những hoạt động này phải do chính các chủ

thể xả thải phải thực hiện, nhưng Nhà nước đã đứng ra thực hiện thay họ.
Về khái niệm phí BVMT đối với nước thải, thực tế, pháp luật hiện hành
không đưa ra một khái niệm cụ thể thế nào là phí BVMT đối với nước thải,
nhưng dựa vào những nội dung trên, có thể hiểu, phí BVMT đối với nước thải
như sau:


12

“Phí BVMT đối với nước thải là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải
trả cho việc xả nước thải gây ô nhiễm vào môi trường với mục đích giảm thiểu
số lượng nước thải chưa qua xử lý xả trực tiếp ra môi trường và cơ bản nhằm
bù đắp chi phí cho việc khôi phục, bảo vệ môi trường”.
Phí BVMT đối với nước thải có những dấu hiệu cơ bản để nhận diện
như sau:
Một là, phí BVMT đối với nước thải là một trong những công cụ kinh tế
trong quản lý và bảo vệ môi trường.
Phí BVMT được coi là công cụ kinh tế hữu hiệu trong kiểm soát ô
nhiễm nước vì nó có tác dụng điều chỉnh hành vi của người xả thải: Người xả
thải phải chi trả một khoản tiền nhất định cho mỗi đơn vị chất gây ô nhiễm,
nồng độ càng cao thì số phí doanh nghiệp bỏ ra càng lớn. Ngược lại, nếu doanh
nghiệp giảm lượng nước thải cũng như hàm lượng chất gây ô nhiễm trong nước
thải khi xả ra môi trường thì số phí phải nộp sẽ ít đi. Như vậy, mục đích của
việc áp dụng phí BVMT đối với nước thải là khuyến khích giảm các tác nhân
gây ô nhiễm, giảm thiểu lượng chất gây ô nhiễm thải ra môi trường và tăng
thêm nguồn thu cho Nhà nước để sử dụng cho việc khôi phục cải thiện chất
lượng môi trường sống.
Việc thu phí BVMT đối với nước thải có thể bù đắp một phần chi phí
thường xuyên và không thường xuyên cho việc duy trì, bảo vệ và cải thiện các
thành phần môi trường, giữ gìn sự cân bằng sinh thái và các chi phí khác về tổ

chức và quản lý phục vụ cho vấn đề BVMT nói chung và vấn đề nước thải nói
riêng.
Hai là, việc áp dụng phí BVMT đối với nước thải không gây ảnh hưởng
đến tăng trưởng kinh tế. Vì mức phí BVMT đối với nước thải được quy định
dựa trên điều kiện kinh tế xã hội, thu nhập, mức sống của người dân, nên khi áp
dụng loại phí này, các nhà chuyên môn đã có sự tính toán để không gây ảnh
hưởng đến tăng trưởng kinh tế của đất nước.


13

Ba là, BVMT đối với nước thải góp phần làm giảm ô nhiễm nước và tạo
nguồn thu cho công tác BVMT, để tái đầu tư vào các hoạt động BVMT.
Việc thu phí BVMT đối với nước thải ít nhiều cũng có tác động tới hành
vi của các tổ chức, cá nhân, bởi vì tổ chức, cá nhân càng xả nhiều chất độc hại
ra môi trường càng phải nộp phí nhiều, để không phải nộp phí nhiều, họ phải cắt
giảm lượng nước thải xả trực tiếp ra môi trường. Điều này cho thấy phí BVMT
đối với nước thải góp phần làm giảm ô nhiễm môi nước, đồng thời số phí thu
được sẽ được dùng cho các hoạt động xử lý, khắc phục thiệt hại từ nước thải và
các hoạt động BVMT khác.
Bốn là, việc thu phí hiệu quả, cần phải có hệ thống kiểm tra, giám sát
chặt chẽ, xử lý nghiêm minh những đơn vị vi phạm.
Hiện nay, việc thu đúng và đủ phí BVMT đối với nước thải gặp nhiều
khó khăn. Một trong những nguyên nhân đó là do công tác kiểm tra, giám sát,
thanh tra và xử lý vi phạm chưa thực sự triệt để. Vì vậy, để thu phí hiệu quả,
cần phải làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra và xử lý vi phạm triệt để.
1.1.1.3. Phân loại phí bảo vệ môi trường đối với nước thải
Hiến chương Châu Âu quan điểm nước thải là việc ô nhiễm nước, cụ
thể, đó là sự biến đổi nói chung do con người đối với chất lượng nước, làm
nhiễm bẩn nước và gây nguy hiểm cho con người, cho công nghiệp, nông

nghiệp, nghỉ ngơi, giải trí, cho động vật nuôi và các loài hoang dã. Còn ở Việt
Nam, nước thải là nước đã được thải ra từ sau khi đã sử dụng hoặc được tạo ra
trong một quá trình công nghệ và không còn giá trị trực tiếp đối với quá trình đó
[22; tr.1]. Nước thải được phân thành nhiều loại khác nhau để tiện cho việc
quản lý và tạo cơ sở cho việc lựa chọn biện pháp giải quyết hay công nghệ xử lý
phù hợp.
Theo quan điểm quản lý môi trường, xuất phát từ các nguồn gây ô
nhiễm nước, nước thải được phân thành hai loại: nước thải có nguồn xác định
và nước thải không có nguồn xác định:


14

(i) Nước thải có nguồn xác định bao gồm nước thải đô thị và nước thải
công nghiệp, các cửa cống xả nước mưa và tất cả các nguồn tiếp nhận nước có
tổ chức qua hệ thống cống và kênh thải.
(ii) Nước thải có nguồn không xác định bao gồm nước chảy trôi trên bề
mặt đất, nước mưa và các nguồn phân tán khác.
Với hai loại nước thải này, khi tác động một khoản thu tài chính với
những chủ thể xả thải, thông thường Nhà nước chỉ thu phí BVMT đối với nước
thải có nguồn gốc xác định.
Căn cứ phổ biến hơn để phân loại nước thải, đó là dựa theo nguồn gốc
phát sinh ra chúng. Theo đó, nước thải được phân thành các loại sau [2]:
(i) Nước thải công nghiệp là nước từ các cơ sở sản xuất, cơ sở chế biến
nông sản, lâm sản, thủy sản xả thải ra môi trường…[6; khoản 2 Điều 2]
(ii) Nước thải sinh hoạt là từ các hộ gia đình, tổ chức khác không phải là
các cơ sở sản xuất, cơ sở chế biến nông sản, lâm sản, thủy sản xả thải ra môi
trường [6; Khoản 3 Điều 2].
(iii) Nước thấm qua: là lượng nước thấm vào hệ thống ống bằng nhiều
cách khác nhau, qua các khớp nối, có khuyết tật hoặc thành hố ga hay hố xí.

Nước thải tự nhiên: nước mưa được xem như nước thải tự nhiên ở
những thành phố hiện đại, chúng được thu gom theo hệ thống riêng.
(iv) Nước thải đô thị: đây là thuật ngữ chung chỉ chất lỏng trong hệ
thống cống thoát của thành phố, thị xã; đó có thể là hỗn hợp của các loại nước
thải trên.
Dựa vào tiêu chí phân loại này mà Nhà nước đưa ra những quy định
điều chỉnh hoạt động quản lý đối với từng loại nước thải tương ứng. Hiện nay,
pháp luật Việt Nam chỉ tiến hành thu phí BVMT đối với hai loại nước thải, là
nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp. Bởi lẽ, đây là hai loại nước thải
chủ yếu, chứa hàm lượng lớn các chất gây ô nhiễm, vì vậy, cần phải thu phí


15

BVMT đối với các loại nước thải này để có kinh phí xử lý nước thải, chống ô
nhiễm môi trường.
Cụ thể, nước thải sinh hoạt là loại nước thải được hình thành chủ yếu
trong hoạt động sống của con người. Thành phần và tính chất của nước thải sinh
hoạt phụ thuộc nhiều vào nguồn nước thải sinh hoạt. Hiện nay, người ta có hai
cách để tính mức tạo ra nước thải sinh hoạt. Cách thứ nhất được quy ra lượng
chất thải tổng số, chất thải hữu cơ và chất thải vô cơ của một người trong một
ngày. Cách thứ hai được tính chi tiết hơn thông qua tính thông số cơ bản trong
đánh giá chất lượng nước. Ngoài ra còn có cách tính khác thông qua khối lượng
nước thải theo chỉ số dân tương ứng. Nước thải sinh hoạt thường chứa nhiều
độc tố, tạp chất khác nhau cùng nhiều loại sinh học gây bệnh.
Nước thải công nghiệp tùy thuộc vào loại hình sản xuất mà được sử
dụng vào các mục đích: nước dùng để xử lý nguyên liệu; nước dùng cho vệ sinh
máy móc, phân xưởng; nước dùng cho quá trình sản xuất; nước làm nguội máy
móc thiết bị. So với nước thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp có thành phần
và tính chất phức tạp hơn rất nhiều. Thành phần hóa học và tính chất nước thải

công nghiệp phụ thuộc vào từng loại hình sản xuất của nhà máy.
Tuy nhiên, dù là nước thải sinh hoạt hay nước thải công nghiệp, nếu
không được xử lý thì khi thải trực tiếp vào nguồn nước tự nhiên sẽ gây ra những
thay đổi về tính chất vật lý, thành phần hóa học và sinh học của nguồn nước.
1.1.2. Ý nghĩa và vai trò của phí bảo vệ môi trường đối với nước thải
1.1.2.1. Ý nghĩa của phí bảo vệ môi trường đối với nước thải
Thứ nhất, phí bảo vệ môi trường đối với nước thải thể hiện sự quan
tâm của Nhà nước đến lĩnh vực môi trường, phù hợp với xu hướng phát triển
của thế giới.
Môi trường hiện nay đang là vấn đề nóng bỏng của mỗi quốc gia, dù đó
là quốc gia phát triển hay đang phát triển. Sự xuất hiện của các định chế pháp lý


16

quốc tế liên quan đến môi trường thể hiện rõ tính chất toàn cầu của vấn đề môi
trường. Những thập kỷ cuối của thế kỷ XX được đánh dấu bằng sự ra đời của
hàng loạt các công ước quốc tế về môi trường và các tổ chức quốc tế về môi
trường. Ngay cả trong các Hiệp định được ký kết giữa các quốc gia với nhau
cũng có các quy định cụ thể về môi trường.
Bảo vệ môi trường đã trở thành một trong những chính sách quan trọng
của Đảng và Nhà nước. Bằng những biện pháp và chính sách khác nhau, Nhà
nước ta đã can thiệp mạnh vào các hoạt động của các cá nhân, tổ chức trong xã
hội để bảo vệ các yếu tố của môi trường, ngăn chặn việc gây ô nhiễm, suy thoái
và sự cố môi trường. Trong những biện pháp mà Nhà nước sử dụng trong lĩnh
vực này và cũng như tuyệt đại đa số các lĩnh vực khác, pháp luật đóng vai trò
đặc biệt quan trọng.
Phí BVMT đối với nước thải chính là một trong những quy định của
pháp luật phát huy được hiệu quả sự quan tâm của Nhà nước, góp phần bảo vệ
môi trường quốc gia. Nhà nước đã xây dựng phí BVMT đối với từng loại hình

nước thải: nước thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp, tác động đến tất cả các
đối tượng có hành vi xả nước thải ra môi trường, dù đó là tổ chức, cá nhân sản
xuất kinh doanh hay hộ gia đình, cơ quan đơn vị chỉ sử dụng nước vào mục đích
sinh hoạt. Những quy định của Nhà nước đã tạo điều kiện cho môi trường nước
ta được quan tâm, được giữ gìn, được bảo vệ tốt hơn, tiến đến xây dựng môi
trường xanh – sạch – đẹp phục vụ cuộc sống con người.
Thứ hai, phí bảo vệ môi trường đối với nước thải thể hiện sự liên kết
chặt chẽ giữa môi trường với phát triển.
Phí BVMT đối với nước thải là minh chứng cho một quan điểm rất phổ
biến hiện nay, đó là sự phát triển bền vững. Quản lý nhà nước về BVMT là một
quá trình hoạt động mang tính dài hơi, thường xuyên, liên tục. Mục đích của
hoạt động này là làm hài hòa mối quan hệ giữa môi trường và phát triển, tức là
quản lý Nhà nước về BVMT không chỉ nhằm BVMT mà nhằm BVMT trong


17

quan hệ với sự phát triển kinh tế, xã hội, vừa BVMT vừa tạo điều kiện phát
triển kinh tế xã hội (phát triển bền vững). Thực chất của phát triển bền vững là
sự kết hợp giữa việc phát triển với việc duy trì môi trường, hay nói cách khác,
yếu tố cơ bản của phát triển bền vững là quyền phát triển và sự cần thiết phải
chăm sóc môi trường.
Thứ ba, phí bảo vệ môi trường đối với nước thải góp phần giáo dục,
nâng cao ý thức của người dân về bảo vệ môi trường.
Môi trường có ảnh hưởng tới bất kì chủ thể nào trong xã hội. Vì vậy,
việc BVMT không chỉ là việc của quốc gia, cộng đồng mà còn phải được coi là
công việc của từng cá nhân cụ thể. Mỗi cá nhân có trách nhiệm thực hiện đúng
những quy định của pháp luật, cấc nguyên tắc của cộng đồng để giữ gìn môi
trường sống. Việc đặt ra phí BVMT đối với nước thải không chỉ ảnh hưởng tới
kinh tế của các đối tượng nộp phí mà còn tác động tới tâm lý, nhận thức của họ,

giúp họ hiểu được tác hại của nước thải, đặc biệt là nước thải có chứa các chất
độc hại tới môi trường sống như thế nào, làm ô nhiễm môi trường ra sao, từ đó
có ý thức hơn trong việc xả thải cũng như BVMT.
1.1.2.2. Vai trò của phí bảo vệ môi trường đối với nước thải
Thứ nhất, phí bảo vệ môi trường đối với nước thải là một trong những
công cụ kinh tế hữu hiệu trong quản lý và BVMT
Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy, không thể chỉ dùng một biện pháp,
chính sách đơn giản, hoặc một vài biện pháp nhỏ lẻ là có thể bảo vệ được môi
trường. Nhiều trường hợp, các biện pháp, chính sách BVMT đã không đạt hiệu
quả. Do đó, để BVMT một cách hiệu quả cần phải có sự tiếp cận chính sách
đồng bộ. BVMT có thể bằng nhiều biện pháp: hành chính, giáo dục, kinh tế,
trong đó, công cụ kinh tế càng ngày càng được nhiều nước sử dụng.
Dưới góc độ pháp lý, công cụ kinh tế trong quản lý và BVMT là những
biện pháp, chính sách do pháp luật quy định, được sử dụng nhằm tác động tới
chi phí và lợi ích của các hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng thường


18

xuyên, tác động tới môi trường, từ đó làm thay đổi hành vi của con người theo
hướng có lợi cho môi trường. Hay nói cách khác, các công cụ kinh tế trong
quản lý và BVMT là những biện pháp sử dụng lợi ích và chi phí để tác động
đến hành vi của con người theo hướng có lợi cho môi trường được pháp luật
quy định. Việc áp dụng các công cụ kinh tế trong BVMT đã chứng tỏ có hiệu
quả rõ rệt nhằm thay đổi hành vi môi trường của các đối tượng gây ô nhiễm
cũng như người được hưởng thụ môi trường trong sạch.
Ở Việt Nam, cùng với những công cụ kinh tế trong quản lý và BVMT
như: thuế môi trường; ký quỹ cải tạo; phục hồi môi trường trong khai thác tài
nguyên thiên nhiên; quỹ BVMT và các chính sách ưu đãi và hỗ trợ hoạt động
BVMT, thì phí BVMT đối với nước thải được xác định là công cụ kinh tế khá

quan trọng và hữu hiệu trong ngăn ngừa và BVMT. Đây là công cụ có tác động
trực tiếp và mạnh mẽ tới quá trình hạch toán kinh tế nhằm làm giảm giá thành
của sản phẩm và dịch vụ, nâng cao hiệu quả kinh tế của các cơ sở sản xuất, kinh
doanh và dịch vụ.
Thứ hai, phí bảo vệ môi trường đối với nước thải giúp điều chỉnh hành
vi của người xả thải.
Vai trò này được thể hiện đặc biệt rõ nét đối với các chủ thể xả nước
thải công nghiệp ra môi trường. Bởi vì, phí BVMT đối với nước thải là phí đánh
vào chất gây ô nhiễm. Điều này có nghĩa là, lượng nước thải ra của doanh
nghiệp càng chứa nhiều chất gây ô nhiễm, nồng độ càng cao thì số tiền doanh
nghiệp phải bỏ ra để khắc phục những thiệt hại môi trường càng lớn. Nguồn
kinh phí để trang trải cho các hoạt động BVMT này không được Nhà nước cung
cấp, hỗ trợ mà doanh nghiệp hoàn toàn phải tự bỏ ra do đã có hành vi xả thải ra
môi trường. Vì vậy, các doanh nghiệp bảo đảm được mục tiêu chất lượng môi
trường nhưng lợi ích của doanh nghiệp cũng bị giảm sút. Để giải quyết mâu
thuẫn này, doanh nghiệp buộc phải điều chỉnh hành vi của mình, hạn chế xả
thải, hạn chế hàm lượng chất gây ô nhiễm thải ra môi trường, đồng thời, sử


×