Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Thẩm quyền của toà án trong việc giải quyết các vụ án tranh chấp kinh doanh thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN TRONG VIỆC
GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN TRANH CHẤP
KINH DOANH THƯƠNG MẠI

CHU THỊ THU HƯƠNG


HÀ NỘI - 2016

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN TRONG VIỆC
GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN TRANH CHẤP
KINH DOANH THƯƠNG MẠI
CHU THỊ THU HƯƠNG

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS NGUYỄN TRUNG TÍN


HÀ NỘI - 2016



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung
thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Chu Thị Thu Hương


LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện đề tài này em đã nhận được sự giúp
đỡ tận tình thiết thực của thầy giáo PGS.Ts Nguyễn Trung Tín và một số cán bộ,
lãnh đạo, giảng viên khoa Luật, khoa sau Đại học - Viện Đại học Mở Hà Nội; lãnh
đạo và cán bộ TAND tỉnh Hải Dương. Em xin chân thành bày tỏ lòng cảm ơn về sự
giúp đỡ quý báu đó.
Bài viết chắc chắn sẽ không thể tránh khỏi những khiếm khuyết trong biên
tập cũng như trong trình bày. Rất mong sự góp ý và phê bình của những ai quan tâm
đến đề tài này.
NGƯỜI THỰC HIỆN

Chu Thị Thu Hương


\MỤC LỤC
Trang
Mở đầu


1

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM 4
QUYỀN CỦA TÒA ÁN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
KINH DOANH THƯƠNG MẠI
1

Tranh chấp kinh doanh thương mại và những yêu cầu giải 4
quyết tranh chấp kinh doanh thương mại

1.1

Khái niệm

4

1.2

Đặc điểm tranh chấp kinh doanh thương mại

7

1.3

Đặc điểm thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp 9
kinh doanh thương mại

2


Thẩm quyền của Tòa án giải quyết tranh chấp kinh doanh thương 10
mại

2.1

Thẩm quyền Tòa án theo vụ việc

11

2.2

Thẩm quyền Tòa án theo cấp xét xử

13

2.3

Thẩm quyền Tòa án theo lãnh thổ

15

2.4

Thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn

16

Giải quyết tranh chấp thương mại tại Tòa sơ thẩm

18


3.1

Khởi kiện, thụ lý vụ án kinh doanh thương mại

19

3.2

Chuẩn bị xét xử

22

3.3

Tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm

28

3

4

Thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa 34
phúc thẩm

5

Thủ tục xét lại bản án, quyết định kinh doanh thương mại đã có 39
hiệu lực pháp luật



CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VỀ THẨM QUYỀN CỦA 48
TÒA ÁN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN
TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI
1

Tình hình thụ lý, giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại 48
Tòa án.

2

Những ưu điểm và nhược điểm của việc giải quyết tranh chấp kinh 51
doanh thương mại tại Tòa án

2.1

Ưu điểm

51

2.2

Nhược điểm

53

3

Nguyên nhân Tòa án giải quyết tranh chấp kinh doanh 56

thương mại còn một số tồn tại
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ 61
THẨM QUYỀN VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
TẠI TÒA ÁN

1

Sự cần thiết phải hoàn thiện quy định của pháp luật về thẩm quyền 61
tòa án giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án

2

Về hoàn thiện quy định của pháp luật

62

3

Về tổ chức thực hiện

71

Kết luận

74

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

77



Danh môc c¸c b¶ng


Tªn b¶ng

Trang

Số liệu thụ lý, giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa

49

hiÖu
b¶ng
1.1

án theo thủ tục sơ thẩm từ năm 2011-2015
1.2

Số liệu thụ lý, giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa

50

án theo thủ tục phúc thẩm từ năm 2011- 2015
1.3

Số liệu thụ lý, giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa

50


án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm từ năm 2011- 2015
1.4

Tổng hợp kết quả xét xử các vụ án lao động tại Tòa án từ năm

50

2011- 2015

Danh môc c¸c H×NH



Tªn h×nh

Trang

Mô hình tổ chức hệ thống Tòa án nhân dân khi xác định thẩm

54

hiÖu
h×nh
2.1

quyền giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại
2.2

Mô hình tổ chức hệ thống Tòa án nhân dân được hoàn thiện


65


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài:
Hoạt động kinh tế có vai trò rất quan trọng, nó quyết định sự tồn tại và phát triển
của mỗi nền kinh tế chính trị. Khi hoạt động kinh tế diễn ra không tránh khỏi những
mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh do bắt nguồn từ những nguyên nhân khách quan và
chủ quan. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, số lượng các tranh chấp
trong kinh doanh thương mại ngày càng tăng đa dạng và có mức độ phức tạp. Vì vậy,
việc giải quyết các tranh chấp thương mại phát sinh để đảm bảo cho môi trường kinh
doanh lành mạnh, tạo niềm tin, bình đẳng cho các chủ thể kinh doanh là yêu cầu cấp
thiết. ”
Để thực hiện chức năng quản lý kinh tế này, Nhà nước ta đã ban hành hệ
thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ kinh tế, thông qua các cơ
quan chức năng hoặc tổ chức được pháp luật thừa nhận để giải quyết các tranh chấp
thương mại. Trong đó, Tòa án là cơ quan xét xử, phán quyết của Tòa án có giá trị
pháp lý và tính cưỡng chế cao khi các chủ thể kinh doanh không lựa chọn phương
pháp giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại hoặc phương pháp giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài thương mại bị vô hiệu. Từ thực tiễn đó, việc phân tích và
đánh giá thực trạng hoạt động tranh chấp trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, xác
định rõ thẩm quyền Tòa án giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại, đồng
thời nhìn nhận rõ hơn về tính hiệu quả của việc áp dụng các quy phạm pháp luật, là
cơ sở để đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm góp phần hoàn thiện khung pháp lý cho
hoạt động kinh doanh thương mại của nước nhà. Xuất phát từ lý do trên, em đã
chọn đề tài “ Thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết các vụ án tranh
chấp kinh doanh mại” làm đề tài luận văn của mình.

1



2. Mục đích và đối tượng nghiên cứu
- Mục đích của luận văn là làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về thẩm quyền
của tòa án giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại.
- Đối tượng của luận văn là các quan hệ về giải quyết tranh chấp kinh toanh
thương mại tại Việt Nam và thực trạng giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương
mại tại Tòa án nói chung.
3. Phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu
- Phạm vi của luận văn là thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết các
vụ án tranh chấp kinh doanh thương mại.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn đặt ra các nhiệm vụ sau:
+ Phân tích những vấn đề thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết các
vụ án tranh chấp kinh doanh thương mại.
+ Phân tích thực trạng giải quyết các vụ án tranh chấp kinh doanh thương
mại tại Tòa án.
+ Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của
Tòa án giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại.
4. Phương pháp nghiên cứu
Người viết luận văn sử dụng phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mac
- Lênin về vấn đề nhà nước và pháp luật để nghiên cứu và thực hiện đề tài.
Đồng thời người viết sử dụng phương pháp tổng hợp và phân tích để nghiên
cứu các quy định của pháp luật hiện hành để giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực
KDTM. Và dùng phương pháp so sánh, thống kê khảo sát để vừa đối chiếu các quy
định các quan điểm khác nhau; vừa thu thập xử lý số liệu nhầm làm sáng tỏ các vấn
đề cần trình bày trong luận văn.

2



5. Cơ cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu phần kết luận bố cục chính của đề tài bao gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thẩm quyền tòa án giải quyết tranh chấp
thương mại.
Chương 2: Thực trạng thẩm quyền Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp
kinh doanh thương mại.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền và tổ chức thực
hiện pháp luật tại Tòa án

3


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN CỦA
TÒA ÁN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI
1. Tranh chấp kinh doanh thương mại và những yêu cầu giải quyết tranh chấp
kinh doanh thương mại.
1.1. Khái niệm
Hệ thống pháp luật Việt nam đã từng tồn tại những khái niệm khác nhau để
biểu đạt rõ loại tranh chấp này. Khái niệm tranh chấp thương mại lần đầu tiên được
đề cập trong Luật thương mại ngày 10/5/1997. Tại Điều 238, Luật này quy định:
tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh do không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại. Quan niệm về tranh chấp
thương mại và hoạt động động thương mại theo Luật thương mại năm 1997 đã loại
bỏ nhiều ranh chấp không được coi là tranh chấp thương mại. Pháp luật Trọng tài
thương mại ngày 25/2/2003 không trực tiếp đưa ra định nghĩa về tranh chấp thương
mại song với sự hiện diện của khái niệm “hoạt động thương mại” theo nghĩa rộng
đã tạo ra sự tương đồng trong quan niệm về “ thương mại” và “tranh chấp thương
mại” của pháp luật Việt Nam với chuẩn mực chung của pháp luật và thông lệ quốc

tế. Theo Pháp lệnh trọng tài thương mại, hoạt động thương mại là việc thực hiện
một hay nhiều hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua
bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; phân phối, đại diện; đại lý thương mại; kí gửi; thuê
cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li- xăng; đầu tư; tài chính; ngân
hàng; bảo hiểm; thăm dò khai thác; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường
biển, đường hàng không, đường sắt, đường bộ và các hành vi thương mại khác theo
quy định của pháp luật.
Luật thương mại được Quốc Hội thông qua ngày 14/6/2005 định nghĩa hoạt
động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích

4


sinh lợi khác. Khái niệm hoạt động thương mại đã được mở rộng, tương đồng với
khái niệm kinh doanh trong Luật doanh nghiệp năm 1999, Luật doanh nghiệp năm
2005 cũng như Luật doanh nghiệp năm 2014 định nghĩa kinh doanh là việc thực
hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình, đầu tư, từ sản xuất
đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh
lợi. Khái niệm “kinh doanh”, ‘thương mại” được đề cập trong luật doanh nghiệp
năm 1999 (sau này cũng được quy định tại khoản 16 Điều 4 Luật doanh nghiệp
năm 2014) là một khái niệm rộng, bao hàm cả hoạt động kinh doanh, thương mại
của các thương nhân. [4, tr 6]
Theo định nghĩa của từ điển Tiếng Việt, Tranh chấp được hiểu là “Đấu tranh,
giằng co khi có những mâu thuẫn, bất đồng thường là trong vấn đề quyền lợi giữa hai
bên”. [9, tr 26]
Theo khoản 16 điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì: “Kinh doanh là việc thực
hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình, đầu tư, từ sản xuất đến
tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”
Khoản 1 điều 3 Luật thương mại năm 2005 định nghĩa: “Hoạt động thương

mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch
vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”.
Với cách định nghĩa như trên, hoạt động kinh doanh và hoạt động thương mại,
có nhiều nội hàm trùng nhau như về mục đích sinh lợi, về đầu tư, về cung ứng dịch vụ,
về tiêu thụ sản phẩm ... Bởi thế, nếu tách bạch giữa hoạt động kinh doanh và hoạt động
thương mại là điều không thể. Có lẽ vậy nên BLTTDS đã tìm cách dung hòa giữa hai
hoạt động này bằng cách gọi chung là hoạt động kinh doanh, thương mại.
Theo quy định tại Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi năm 2011 cũng đã
liệt kê cụ thể từng tranh chấp về kinh doanh thương mại. Tuy vậy, Bộ luật tố tụng
dân sự được Quốc hội thông qua ngày 25/11/2015 và có hiệu lực từ ngày 01/7/2015
quy định tại Điều 30 không liệt kê từng tranh chấp về kinh doanh thương mại, mà
xác định tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân,
tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau đều có mục đích lợi nhuận. Tranh chấp về

5


quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều
vì mục đích lợi nhuận. Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty
nhưng có giao dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công
ty. Đây là quy định hoàn toàn mới so với bộ luật tố tụng trước. Tranh chấp giữa
công ty với thành viên của công ty; tranh chấp giữa công ty với người quản lý trong
công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội đồng quản trị, giám đốc, tổng
giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan
đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài
sản của công ty, chuyển đổi hình thức sở hữu của công ty. Các tranh chấp khác về
kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan,
tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
Bộ luật tố tụng dân sự không sử dụng thuật ngữ “tranh chấp kinh doanh
thương mại” mà sử dụng thuật ngữ “tranh chấp về kinh doanh thương mại” nhưng

nội dung các tranh chấp kinh doanh, thương mại đó thực chất là tranh chấp thương
mại theo hướng tiếp cận của Luật thương mại năm 2005.
Với cách định nghĩa như trên, hoạt động kinh doanh và hoạt động thương
mại, có nhiều nội hàm trùng nhau như về mục đích sinh lợi, về đầu tư, về cung ứng
dịch vụ, về tiêu thụ sản phẩm ... Bởi thế, nếu tách bạch giữa hoạt động kinh doanh
và hoạt động thương mại là điều không thể. Có lẽ vậy nên BLTTDS đã tìm cách
dung hòa giữa hai hoạt động này bằng cách gọi chung là hoạt động kinh doanh,
thương mại.
Như vậy, có thể quan niệm tranh chấp KD – TM là những mâu thuẫn, bất
đồng giữa các chủ thể phát sinh trong hoạt động thực hiện liên tục một, một số hoặc
toàn bộ quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, cung ứng các dịch vụ
trên thị trường, xúc tiến thương mại và các hoạt động sinh lợi khác. Một cách ngắn
gọn hơn, có thể định nghĩa tranh chấp KD – TM là những mâu thuẫn, bất đồng về
quyền lợi giữa các chủ thể phát sinh trong hoạt động KD – TM.
Cách định nghĩa như trên có hạn chế là tuy chỉ ra được bản chất của tranh
chấp KD – TM là mâu thuẫn về quyền lợi phát sinh khi tham gia hoạt động KD –

6


TM nhưng lại không cho thấy được biểu hiện của nó. Trong quan hệ kinh doanh,
giữa các bên luôn tồn tại đồng thời hai mối quan hệ vừa xung đột vừa hợp tác. Để
xác định chính xác khi nào những xung đột lợi ích này chuyển thành tranh chấp thì
cần phải dựa vào những dấu hiệu biểu hiện của nó. Dấu hiệu đó là khi một bên cho
rằng quyền và lợi ích của mình bị vi phạm yêu cầu phía bên kia khắc phục nhưng
không nhận được sự đồng ý. Vì vậy, theo cách này, còn có một cách định nghĩa
khác đó là tranh chấp KD – TM xảy ra khi một bên trong quan hệ KD – TM khẳng
định một trái quyền mà lại bị bên khác chống lại.
1.2 . Đặc điểm của tranh chấp kinh doanh thương mại
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường ở nước ta, có sự tham gia của

nhiều thành phần kinh tế, kéo theo sự đa dang về đối tượng chủ thể và lợi ích cần
bảo vệ; hoạt động kinh doanh thương mại ngày càng đa dạng, không ngừng phát
triển trong tất cả mọi lĩnh vực kinh doanh sản xuất, thương mại và dịch vụ.
Vì vậy, tranh chấp kinh doanh thương mại trong nền kinh tế thị trương hiện
nay ở Việt Nam phát sinh nhiều dạng tranh chấp mới, có nhưng biểu hiện đa dạng về
nội dung và mức độ khác nhau như: tranh chấp giữa thành viên công ty với công ty;
tranh chấp giữa thành viên công ty với nhau trong quá trình thành lập, hoạt động và
giải thể công ty; tranh chấp liên quan đến việc mua bán các loại cổ phiếu, trái phiếu;
tranh chấp trong các lĩnh vực quảng cáo, bảo hiểm, kế toán, tư vấn, giám định; tranh
chấp liên quan đến hối phiếu và sec; tranh chấp liên quan đến việc bảo hộ bí mật
thương mại.
Từ việc tiếp cận trên, tranh chấp thương mại có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn về quyền và nghĩa vụ giữa
các bên trong mối quan hệ cụ thể. Mâu thuẫn được hiểu là trạng thái xung đột, đối
xứng nhau về quyền và nghĩa vụ giữa các bên tranh chấp. Quan hệ thương mại và bất
đồng giữa các bên trong quan hệ thương mại là điều kiện cần và đủ để tranh chấp phát
sinh. Trong hoạt động thương mại, các bên vừa hợp tác đồng thời vừa cạnh tranh để đạt
được những mục đích đề ra. Do đó, việc phát sinh những mâu thuẫn, bất đồng trong
quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên là điều tất yếu.

7


Các quan hệ thương mại có bản chất là các quan hệ tài sản nên nội dung tranh chấp
thường liên quan trực tiếp tới lợi ích kinh tế của các bên. Thông thường, những mâu thuẫn
bất đồng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên phát sinh trong các mối quan hệ cụ thể bao
gồm:
Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân,
tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau đều có mục đích lợi nhuận.
Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ

chức với nhau và đều vì mục đích lợi nhuận.
Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch
về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty. Tranh chấp giữa
công ty với thành viên của công ty; tranh chấp giữa công ty với người quản lý trong
công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội đồng quản trị, giám đốc, tổng
giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan
đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài
sản của công ty, chuyển đổi hình thức sở hữu của công ty.
Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp thuộc thẩm
quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, những mâu thuẫn về quyền và nghĩa vụ giữa các bên phải phát sinh
từ hoạt động thương mại. Căn cứ phát sinh tranh chấp thương mại là hành vi vi
phạm hợp đồng hoặc vi phạm pháp luật. Trong nhiều trường hợp, tranh chấp thương
mại phát sinh do các bên có vi phạm hợp đồng và xâm hại lợi ích của nhau. Tuy
nhiên cũng có thể có những vi phạm xâm hại lợi ích của các bên nhưng không làm
phát sinh tranh chấp. Tranh chấp thương mại phải là những mâu thuẫn, bất đồng về
quyền và nghĩa vụ giữa các bên phát sinh từ những hoạt động nhằm mục đích sinh
lợi, bao gồm mua hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các
hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.
Thứ ba, các tranh chấp thương mại chủ yếu là những tranh chấp phát sinh
giữa các thương nhân (cá nhân kinh doanh, pháp nhân) với nhau. Ngoài thương
nhân là chủ thể chủ yếu của tranh chấp thương mại, trong những trường hợp nhất

8


định, các cá nhân, tổ chức khác (không phải là thương nhân) cũng có thể là chủ thể
của tranh chấp thương mại khi trong các giao dịch bên không có mục đích sinh lợi
lựa chọn áp dụng luật thương mại. Khoa học pháp lý gọi giao dịch này là giao dịch
hỗn hợp. Về bản chất, hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi của một bên trong

giao dịch với thương nhân không phải là hoạt động thương mại thuần túy, nhưng
bên không nhằm mục đích sinh lợi đã chọn áp dụng luật thương mại thì quan hệ này
trở thành quan hệ pháp luật thương mại và tranh chấp phát sinh từ quan hệ pháp luật
này phải được quan niệm là tranh chấp thương mại. Một quy tắc được pháp luật
của Pháp và nhiều quốc gia áp dụng để giải quyết loại tranh chấp này đó là căn cứ
vào bị đơn là thương nhân hay không phải thương nhân. Dựa trên những căn cứ
pháp lý khác nhau như: Phạm vi lãnh thổ, số lượng các bên tranh chấp, căn cứ vào
lĩnh vực tranh chấp, quá trình thực hiện, thời điểm phát sinh tranh chấp, tranh chấp
thương mại được chia thành các loại tranh chấp khác nhau.
Tranh chấp thương mại đã trở thành một hiện tượng tất yếu khách quan của
nền kinh tế thị trường. Khi tranh chấp thương mại phát sinh đòi hỏi cần phải được
giải quyết một cách minh bạch và hiệu quả; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các
chủ thể, góp phần ngăn ngừa sự vi phạm pháp luật trong hoạt động thương mại, bảo
đảm trật tự pháp luật, kỷ cương xã hội.
Những tranh chấp phát sinh trong hoạt động KDTM cũng vì thế mà có những
biến đổi về biểu hiện, mức độ và cả về đòi hỏi, cách thức giải quyết giữa các bên.
1.3 Đặc điểm thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết các vụ án
tranh chấp kinh doanh thương mại.
Xuất phát từ những đặc thù về tổ chức hệ thống Tòa án cho nên quan niệm về
thẩm quyền của Tòa án trong tố tụng dân sự có những điểm khác biệt. Khái niệm về
thẩm quyền của Tòa án được tiếp cận dưới ba góc độc là thẩm quyền theo loại việc,
thẩm quyền của tòa án các cấp và thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ. Trên cơ sở
đó, thẩm quyền dân sự của Tòa án được định nghĩa như sau:

9


Thẩm quyền dân sự của Tòa án là quyền xem xét giải quyết các vụ việc và
quyền hạn ra các quyết định khi xem xét giải quyết các vụ việc đó theo thủ tục tố tụng
dân sự của Tòa án.

Khác với thẩm quyền xét xử hành chính và thẩm quyền xét xử hình sự của Tòa
án, thẩm quyền dân sự của Tòa án có những đặc trưng sau:
- Tòa án nhân dân quyền lực nhà nước, độc lập trong việc xem xét giải quyết
và ra các phán quyết đối với các vụ việc phát sinh từ các quan hệ mang tính tài sản,
nhân thân được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận
giữa các chủ thể với nhau;
- Thẩm quyền dân sự của Tòa án được thực hiện theo thủ tục tố tụng dân sự.
Do vậy, ngoài việc tuân thủ các nguyên tắc chung về tố tụng như Tòa án độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật, đảm bảo sự vô tư, khách quan…thì Tòa án khi xem xét giải
quyết các vụ việc dân sự phải tông tọng và đảm bảo quyền tự định đoạt của các
đương sự. Phạm vi xem xét giải quyết các vụ việc dân sự phải tôn trọng và đảm bảo
quyền tự định đoạt của các đương sự. Phạm vi xem xét giải quyết và quyền quyết
định cảu Tòa án được giới hạn bởi những yêu cầu mà đương sự đưa ra cũng như trên
cơ sở tự thỏa thuận của họ về những vấn đề có tranh chấp. [11, tr 54]
2. Thẩm quyền của Tòa án giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại.
Giải quyết tranh chấp trong KDTM bằng thương lượng, hoà giải và trọng tài là
các phương thức giải quyết tranh chấp không mang ý chí quyền lực nhà nước, không
nhân danh quyền lực nhà nước như phán quyết của Tòa án, mà chủ yếu được giải quyết
dựa trên nền tảng ý chí tự định doạt của các bên tranh chấp hoặc phán quyết của bên
thứ ba độc lập (được các bên lựa chọn) theo thủ tục linh hoạt mềm dẻo.
Trong khi đó Tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại mang
ý nghĩa quyền lực nhà nước, được tiến hành theo trình tự thủ tục chặt chẽ. Thẩm
quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại là quyền hạn và nghĩa vụ của
Tòa kinh tế trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp kinh tế.
Khi xảy ra tranh chấp kinh tế, cần xác định rõ nó thuộc thẩm quyền giải
quyết của cơ quan nào. Việc xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế có ý

10



nghĩa quan trọng trong việc thụ lý, chuẩn bị hồ sơ và giải quyết tranh cấp kinh tế,
cũng như thi hành quyết định, bản án của Tòa kinh tế.
Đối với tranh chấp không thuộc thẩm quyền của mình mà Tòa án đã thụ lý
thì cần chuyển hồ sơ cho Tòa có thẩm quyền ngay sau khi phát hiện việc giải quyết
vụ án không thuộc thẩm quyền của mình. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh
doanh được Bộ luật tố tụng dân sự quy định theo những nội dung sau đây:
2.1. Thẩm quyền theo vụ việc
Theo Điều 29 Bộ luât tố tung dân sự năm 2004 và được sửa đổi bổ sung vào
năm 2011, có bốn nhóm tranh chấp về KDTM thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa
án. Bao gồm:
1. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động KDTM giữa cá nhân, tổ chức có
đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận bao gồm:
a) Mua bán hàng hoá;
b) Cung ứng dịch vụ;
c) Phân phối;
d) Đại diện, đại lý;
đ, Ký gửi;
e)Thuê; cho thuê, thuê mua;
f) Xây dựng;
g) Tư vấn kỹ thuật;
h) Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa;
i) Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đương biển;
j) Mua bán cổ phiếu, trái phiếu, và giấy tờ có giá khác;
k) Đầu tư, tài chính, ngân hàng;
l) Bảo hiểm;
m) Thăm dò, khai thác;
2. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân,
tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.

11



3. Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành
viên công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sát nhập,
hợp nhất, chia tách, chuyển đổi hình thức tổ chứ của công ty.
4. Các tranh chấp khác nhau về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.
Theo quy định tại Điều 30 BLTTDS năm 2015 quy định những tranh chấp về
kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
1. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá
nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
Theo quy định này, hai bên tranh chấp đều phải có đăng ký kinh doanh vào
có mục đích lợi nhuận. Cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh là cá nhân, tổ chức
đã được cơ quan có thẩm quyền đăng ký kinh doanh cấp giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh- đầu tư theo quy định của pháp
luật. Cụ thể là cá nhân, hộ gia đình có đăng ký kinh doanh (được gọi là hộ kinh
doanh cá thể), các loại hình doanh nghiệp (theo Luật doanh nghiệp năm 2014), hợp
tác xã, liên hiệp hợp tác xã (theo Luật hợp tác xã). Mục đích lợi nhuận của cá nhân,
tổ chức trong hoạt động kinh doanh, thương mại là mong muốn của cá nhân, tổ
chức đó thu được lợi nhuận mà không phân biệt có thu được hay không thu được từ
hoạt động kinh doanh, thương mại đó.
2. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân,
tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
Trong tranh chấp này, không đòi hỏi các bên đương sự phải có đăng ký kinh
doanh. Tuy nhiên, các bên đều phải có vì mục đích lợi nhuận, nếu chỉ một bên có
mục đích lợi nhuận, còn bên kia không có mục đích lợi nhuận thì tranh chấp đó là
tranh chấp dân sự.
3. Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch
về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty.
4. Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa
công ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội

đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên

12


của công ty với liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp
nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của công
ty.
5. Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp thuộc
thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
2.2. Thẩm quyền theo cấp xét xử.
Thẩm quyền theo cấp xét xử là việc phân định thẩm quyền của tòa án theo
cấp của tòa án, xem xét vụ án đó thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án cấp huyện, cấp
tỉnh hay tòa án nhân dân cấp cao.
Căn cứ để phân định thẩm quyền theo cấp xét xử đối với các tranh chấp về
kinh doanh, thương mại là phụ thuộc vào tính chất của tranh chấp và đương sự hoặc
tài sản ở nước ngoài hoặc cần thiết phải ủy thác tư pháp cho cơ quan lãnh sự quán
của Việt Nam hoặc cho tòa án nước ngoài. Theo đó, thì chỉ những tranh chấp cụ thể
quy định tại khoản 1 Điều 30 Bộ luật tố tụng thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa
án nhân dân cấp huyện. Đây là những tranh chấp phổ biến trên thực tế và tính phức
tạp không cao.
Đặc trưng của vụ án kinh doanh, thương mại nói chung là những vụ án đòi
hỏi kỹ năng xét xử cao của thẩm phán và hội đồng xét xử; do đó, không phải tất cả
các vụ án thuộc thẩm quyền của toà án đều thuộc thẩm quyền xét xử của toà án cấp
huyện mà toà án cấp huyện chỉ xét xử một số loại vụ việc nhất định theo thủ tục sơ
thẩm. Cụ thể, theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự, thẩm quyền theo cấp xét
xử được phân định như sau :
2.2.1. Tòa án nhân dân cấp huyện:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 35 BLTTDS quy định: Tòa án nhân dân cấp
huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về kinh

doanh, thương mại quy định tại khoản 1 Điều 30 BLTTDS, có nghĩa là những vụ án
kinh doanh, thương mại phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá
nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều vì mục đích lợi nhuận.

13


Luật tổ chức Tòa án năm 2014 quy định cơ cấu tổ chức của hệ thống Tòa án,
trong đó có Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân cấp huyện. BLTTDS quy định thẩm
quyền của Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân cấp huyện là Tòa dân sự có thẩm
quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc về kinh doanh thương mại quy
định tại Điều 35 của BLTTDS.
2.2.2. Tòa án nhân dân cấp tỉnh:
Theo quy định tại BLTTDS năm 2004 có sửa đổi bổ sung năm 2011, Tòa án
nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm tất cả những vụ án
kinh doanh, thương mại quy định tại Điều 29 và 30 của Bộ luật Tố tụng dân sự này,
trừ những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện.
Trong trường hợp cần thiết Tòa án cấp tỉnh có thể lấy lên để giải quyết theo thủ
tục sơ thẩm vụ án kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện.
Trường hợp cần thiết là các trường hợp sau:
- Vụ án có nhiều tình tiết phức tạp;
- Vụ án có nhiều đương sự ở trên địa bàn thuộc các huyện khác nhau và xa nhau;
- Tòa án cấp huyện chưa có Thẩm phán để có thể phân công giải quyết vụ án
kinh doanh, thương mại, hoặc tuy có Thẩm phán để có thể phân công giải quyết vụ
án kinh doanh, thương mại, nhưng thuộc một trong các trường hợp phải thay đổi
Thẩm phán mà không có Thẩm phán khác để thay thế.
Cũng theo sự phân cấp, tòa án cấp tỉnh phúc thẩm những vụ án kinh doanh,
thương mại mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của tòa án
cấp huyện bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng.
Tuy vậy, theo quy định của BLTTDS năm 2015 quy định rõ thẩm quyền của

Tòa án nhân dân cấp tỉnh giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về kinh
doanh, thương mại quy định tại Điều 30, trừ những tranh chấp thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại khoản 1 và khoản 4 Điều 36
Bộ luật này. Tại khoản 3 Điều 38 BLTTDS năm 2015 cũng quy định rõ thẩm quyền
của Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân tỉnh. Tòa kinh tế Tòa án nhân dân tỉnh có
thẩm quyền:

14


a, Giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp, yêu cầu về kinh doanh,
thương mại thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh quy định tại Điều 37
Bộ luật này.
b, Giải quyết theo thủ tục phúc thẩm những vụ việc mà bản án, quyết định
kinh doanh, thương mại chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện
bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của Bộ luật này.
2.3. Thẩm quyền theo lãnh thổ
Việc phân định thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ được tiến hành trên cơ
sở đảm bảo việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại được nhanh chóng,
đúng đắn, bảo đảm việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự; tạo thuận lợi cho các đương sự tham gia tố tụng, tránh sự chồng chéo
trong việc thực hiện thẩm quyền giữa các Tòa án cùng cấp.
Thẩm quyền giải quyết vụ án kinh doanh thương mại của Toà án theo lãnh
thổ được xác định là Toà án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc
nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo
thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về kinh doanh, thương mại theo Điều 39 của Bộ
luật Bộ luật tố tụng dân sự; Tuy nhiên, Luật cũng cho phép các đương sự có quyền
tự thoả thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Toà án nơi cư trú, làm việc của
nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn, nếu
nguyên đơn là cơ quan, tổ chức giải quyết những tranh chấp về kinh doanh, thương

mại quy định tại các điều 29 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Trong trường hợp vụ án chỉ liên quan đến bất động sản, thì Tòa án nơi có bất
động sản giải quyết. Tuy nhiên đối với giải quyết việc kinh doanh, thương mại cụ
thể thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ được xác định như sau:
- Toà án nơi người phải thi hành bản án, quyết định kinh doanh, thương mại
của Toà án nước ngoài cư trú, làm việc, nếu người phải thi hành án là cá nhân hoặc
nơi ngườiphải thi hành án có trụ sở, nếu người phải thi hành án là cơ quan, tổ chức
hoặc nơi có tài sản liên quan đến việc thi hành bản án, quyết định của Toà án nước

15


ngoài có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản
án, quyết định kinh doanh, thương mại của Toà án nước ngoài;
- Toà án nơi người gửi đơn cư trú, làm việc, nếu người gửi đơn là cá nhân
hoặc nơi người gửi đơn có trụ sở, nếu người gửi đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền giải quyết yêu cầu không công nhận bản án, quyết định kinh doanh, thương
mại của Toà án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam;
- Toà án nơi người phải thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài cư trú,
làm việc, nếu người phải thi hành là cá nhân hoặc nơi người phải thi hành có trụ sở,
nếu người phải thi hành là cơ quan, tổ chức hoặc nơi có tài sản liên quan đến việc
thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài có thẩm quyền giải quyết yêu cầu
công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài;
Thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ giải quyết các yêu cầu liên quan đến
việc Trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết các vụ tranh chấp được thực hiện
theo quy định của pháp luật về Trọng tài thương mại.
2.4. Thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn.
Theo quy định của pháp luật, các bên tranh chấp có quyền thỏa thuận về tòa
án nơi làm việc hoặc tòa án nơi cư trú của nguyên đơn để giải quyết vụ án kinh
doanh thương mại. Tại Điều 40 Bộ luật tố tụng dân sự quy định:

Nguyên đơn có quyền lựa chọn Tòa án để yêu cầu giải quyết vụ án kinh
doanh thương mại trong các trường hợp sau đây:
1- Nếu không biết nơi cư trú, làm việc trụ sở của bị đơn thì nguyên đơn có
thể yêu cầu Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở cuối cùng hoặc nơi bị đơn
có tài sản giải quyết;
2- Nếu tranh chấp phát sinh từ hoạt động của chi nhánh tổ chức thì nguyên đơn
có thể yêu cầu òa án nơi tổ chức có trụ sở hoặc nơi tổ chức có chi nhánh giải quyết;
3- Nếu tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu
cầu Tòa án nơi thực hiện hợp đồng giải quyết vụ án;

16


4- Nếu các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở ở nhiều nơi khác nhau thì nguyên
đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi một trong các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở giải
quyết;
5- Nếu tranh chấp bất động sản mà bất động sản có ở nhiều địa phương khác nhau
thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi có một trong các bất động sản giải quyết.
Như vậy, theo quy định đơn có thể tại Điều 40 của Bộ Luật tố tụng dân sự thì
trong một số trường hợp nhất định, có nhiều Tòa án có thẩm quyền giải quyết một
vụ án kinh doanh, thương mại cụ thể và nguyên đơn có quyền lựa chọn một trong
các Tòa án đó. Để tránh việc có tranh chấp về thẩm quyền, thì Tòa án nào thuộc một
trong các Tòa án có thẩm quyền mà nhận được đơn khởi kiện trước tiên của nguyên
đơn, đã dự tính tiền tạm ứng án phí cho nguyên đơn và nguyên đơn xuất trình chứng
từ về việc nộp tiền tạm ứng án phí, có thẩm quyền thụ lý vụ án theo đúng quy định.
Những quy định này xuất phát từ đặc trưng của quan hệ tranh chấp kinh doanh
thương mại trong đó tạo điều kiện cho việc đi lại, tham gia tố tụng của bị đơn.
Tuy nhiên, thực tế một số Tòa án nhận thức và áp dụng không đúng quy
định của Điều 40 Bộ luật Tố tụng dân sự về thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa
chọn của nguyên đơn nên đã chuyển vụ án không đúng. Do chuyển đi chuyển lại

nhiều lần nên thời gian chuẩn bị xét xử của vụ án bị kéo dài.
Sau khi thụ lý vụ án kinh doanh, thương mại, nếu phát hiện việc giải quyết
vụ án không thuộc thẩm quyền của mình, thì Tòa án đã thụ lý vụ án phải ra quyết
định chuyển ngay hồ sơ vụ án cho Tòa án có thẩm quyền giải quyết, trong đó cần
nêu rõ lý do chuyển hồ sơ vụ án, đồng thời phải thông báo ngay cho nguyên đơn
biết. Trong trường hợp có tranh chấp về thẩm quyền, thì những Tòa án có tranh
chấp đó phải báo cáo ngay lên Tòa án cấp trên trực tiếp để Tòa án đó quyết định
việc giao cho Tòa án nào giải quyết vụ án, cụ thể như sau:
- Tranh chấp về thẩm quyền giữa các Toà án nhân dân cấp huyện trong cùng
một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương do Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh giải
quyết.

17


- Tranh chấp về thẩm quyền giữa các Toà án nhân dân cấp huyện thuộc các
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nhau hoặc giữa các Toà án nhân dân cấp
tỉnh thuộc thẩm quyền giải quyết theo lãnh thổ của Tòa án nhân dân cấp cao thì do
Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao giải quyết.
- Tranh chấp về thẩm quyền giữa các Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc các
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nhau hoặc giữa các Tòa án nhân dân cấp
tỉnh thuộc thẩm quyền giải quyết theo lãnh thổ của Tòa án nhân dân cấp cao khác
nhau do Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao giải quyết.
3. Thẩm quyền của Tòa án khi giải quyết tranh chấp kinh doanh thương
mại ở Tòa sơ thẩm.
Việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án căn cứ vào Luật
thương mại, Luật doanh nghiệp, Bộ luật Tố tụng dân sự và các nghị quyết của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn những quy định của Bộ luật Tố
tụng dân sự. Các hoạt động tố tụng giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại tòa
án được quy định bao gồm các hoạt động từ khi tiến hành thụ lý đến khi kết thúc một

vụ án kinh doanh thương mại, thông qua việc ra bản án hoặc quyết định về vụ án đó.
Các hoạt động này được thực hiện trong các giai đoạn tố tụng khác nhau gồm: giai
đoạn sơ thẩm, giai đoạn phúc thẩm và giai đoạn giám đốc, tái thẩm.
Sơ thẩm các vụ án kinh doanh thương mại là một hoạt động quan trọng trong
toàn bộ các hoạt động giải quyết vụ án kinh doanh thương mại. Đây là giai đoạn mà
các tài liệu, chứng cứ, tình tiết trong vụ án được đưa ra xem xét, đánh giá và quyết
định. Mặt khác, đây là bước đầu tiên trong một loạt các thủ tục pháp lý trong việc giải
quyết vụ án kinh doanh thương mại. Qua các hoạt động thuộc giai đoạn này, tòa án
thực sự thể hiện được quyền tài phán của mình trước các bên tranh chấp và trước xã
hội.
Trong giai đoạn sơ thẩm, các hoạt động tố tụng tại tòa án bao gồm: hoạt
động thụ lý vụ án kinh doanh thương mại, hoạt động chuẩn bị xét xử và hoạt động
xét xử sơ thẩm vụ án kinh doanh thương mại.

18


×