Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Áp dụng pháp luật trong giải quyết ly hôn trên địa bàn tỉnh điện biên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (604 KB, 75 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ NGA

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT LY HÔN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐIỆN BIÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội, 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ NGA

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT LY HÔN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐIỆN BIÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60380103

Người hướng dẫn khoa học: TS. Ngô Thị Hường

HÀ NỘI – NĂM 2016



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả, số liệu và các bản án làm ví dụ được nêu trong luận văn là trung thực, có
nguồn gốc rõ ràng, chính xác do các cơ quan chức năng đã công bố. Những
kết luận khoa học của luận văn là mới và chưa từng được công bố trong bất
cứ công trình khoa học nào.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Thị Nga


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS

Bộ luật dân sự

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung
năm 2011)

HN&GĐ
Nghị

quyết

Hôn nhân và gia đình
số


Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân

02/2000/NQ-HĐTP

dân tối cao số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23 tháng 12
năm 2000 hướng dẫn áp dụng một số qui định của
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000

Sắc lệnh số 159/SL

Sắc lệnh của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng
hòa số 159/SL ngày 17/11/1950 qui định về vấn đề
ly hôn

Thông tư liên tịch

Thông tư liên tịch của Tòa án nhân dân tối cao, Viện

số 01/ 2016/TTLT

kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp số 01/
2016/TTLT – TANDTC – VKSNDTC – BTP ngày
06 tháng 01 năm 2016 hướng dẫn thi hành một số
quy định của Luật HN&GĐ

TAND

Tòa án nhân dân


TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ........................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .................................................................. 2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu............................................................ 4
4. Phạm vi nghiên cứu .............................................................................. 5
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ........................................... 5
6. Những đóng góp mới của luận văn ....................................................... 5
7. Kết cấu của luận văn ............................................................................. 6
Chương 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ LY HÔN ............................................. 7
1.1. Khái niệm ly hôn.................................................................................... 7
1.1.1. Định nghĩa ly hôn ............................................................................. 7
1.1.2.Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về ly hôn .............................. 9
1.1.3. Quyền yêu cầu ly hôn...................................................................... 11
1.2. Căn cứ ly hôn ....................................................................................... 14
1.2.1. Định nghĩa. ..................................................................................... 14
1.2.2. Căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014 .................................. 16
1.2.2.1 Căn cứ ly hôn áp dụng cho trường hợp thuận tình ly hôn ......... 16
1.2.2.2. Căn cứ ly hôn áp dụng cho trường hợp ly hôn do một bên yêu
cầu........................................................................................................ 19
1.3. Hậu quả pháp lý của ly hôn ................................................................ 30

1.3.1. Quan hệ nhân thân giữa vợ chồng .................................................. 30
1.3.2. Quan hệ tài sản của vợ chồng ......................................................... 30
1.3.3. Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ và con sau khi ly hôn ...................... 34
1.3.4. Giải quyết cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn ......................... 36
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................... 37


Chương 2. THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT LY HÔN TẠI TỈNH ĐIỆN BIÊN
VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ LY HÔN
VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢI QUYẾT LY HÔN TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH ĐIỆN BIÊN............................................................................. 38
2.1. Một số yếu tố ảnh hưởng đến việc giải quyết ly hôn trên địa bàn tỉnh
Điện Biên..................................................................................................... 38
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và phong tục tập quán ............... 38
2.1.2. Hệ thống các văn bản pháp luật về hôn nhân và gia đình ............... 40
2.1.3. Năng lực, trách nhiệm của đội ngũ làm công tác giải quyết án
HN&GĐ ................................................................................................... 41
2.2. Thực tiễn giải quyết ly hôn tại tỉnh Điện Biên ................................... 42
2.2.1.Tình hình thụ lý, giải quyết ly hôn trên địa bàn tỉnh Điện Biên ........ 42
2.2.2. Nguyên nhân và độ tuổi ly hôn........................................................ 44
2.2.3. Thực tiễn áp dụng pháp luật giải quyết trường hợp thuận tình ly hôn
tại tỉnh Điện Biên ..................................................................................... 46
2.2.4. Thực tiễn áp dụng pháp luật giải quyết trường hợp ly hôn theo yêu
cầu một bên tại tỉnh Điện Biên ................................................................. 50
2.3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về ly hôn và giải pháp nâng
cao chất lượng giải quyết ly hôn trên địa bàn tỉnh Điện Biên .................. 59
2.3.1. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về ly hôn ............................. 59
2.3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giải quyết ly hôn trên
địa bàn tỉnh Điện Biên.............................................................................. 62
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................... 64

KẾT LUẬN ................................................................................................. 65


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Có thể nhận thấy, nếu kết hôn là tiền đề, là điều kiện để xác lập quan hệ
hôn nhân và quan hệ gia đình thì ngược lại, ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn
nhân, làm tan vỡ quan hệ gia đình, gây ra những hậu quả xấu cho xã hội. Khi
cuộc hôn nhân kết thúc dẫn đến các hậu quả về quan hệ tài sản, quan hệ đối
với con chung và các quan hệ khác mà vợ, chồng đã cùng nhau xây dựng, tạo
lập trong thời kỳ hôn nhân. Do vậy, vấn đề ly hôn là một vấn đề được quan
tâm và không ngừng được hoàn thiện trong pháp luật hôn nhân và gia đình
Việt Nam.
Luật Hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) của Việt Nam đã trải qua quá
trình phát triển và không ngừng hoàn thiện. Trải qua các giai đoạn lịch sử,
phù hợp với thực tiễn phát triển của xã hội, đến nay Nhà nước ta đã ban hành
bốn đạo luật về HN&GĐ. Đó là: Luật HN&GĐ năm 1959, Luật HN&GĐ
năm 1986, Luật HN&GĐ năm 2000 và Luật HN&GĐ năm 2014. Quá trình áp
dụng Luật HN&GĐ đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, góp phần xây dựng
và củng cố chế độ hôn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa, xây dựng chuẩn
mực pháp lý cho cách ứng xử của các thành viên trong gia đình, xây dựng gia
đình dân chủ, hòa thuận, hạnh phúc và bền vững, bảo đảm các quyền và lợi
ích hợp pháp cho các cá nhân.
Theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân Tối cao (TANDTC), từ
ngày 30/9/2000 đến ngày 30/9/2011 Tòa án nhân dân các cấp đã thụ lý
3.143.746 vụ việc dân sự, kinh doanh thương mại, lao động, hành chính, hôn
nhân gia đình. Trong đó, số vụ việc về HN&GĐ là 875.282 (chiếm khoảng
30% tổng số vụ, việc dân sự đã thụ lý)1 .Trong 30% các vụ, việc HN&GĐ thì

các vụ, việc yêu cầu ly hôn chiếm đa số. Từ năm 2013 đến năm 2015 các vụ
B

Xem Báo cáo tổng kết thi hành Luật HN&GĐ năm 2000 của Tòa án nhân dân tối cao.


2

việc về HN&GĐ tiếp tục tăng (năm 2013 thụ lý 151.830 vụ, việc; năm 2014
thụ lý 160.320 vụ, việc; năm 2015 thụ lý 181.931 vụ, việc)2, trong đó số
lượng các vụ việc ly hôn ngày càng nhiều, tính chất ngày càng phức tạp. Do
đó, để giải quyết đúng đắn vụ, việc ly hôn thì Tòa án cần phải nắm rõ bản chất
của ly hôn cũng như căn cứ ly hôn, qua đó áp dụng chính xác qui định của
Luật HN&GĐ về căn cứ ly hôn trong quá trình giải quyết ly hôn.
Luật HN&GĐ năm 2014 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2015,
có nhiều sửa đổi quan trọng trong chế định ly hôn nhưng không có quy định
về hướng dẫn thi hành dẫn đến khi áp dụng giải quyết ly hôn, Tòa án các cấp
có cách hiểu khác nhau trong xác định căn cứ cho ly hôn. Đối với việc chia tài
sản của vợ chồng khi ly hôn, sau một năm thi hành mới được hướng dẫn
nguyên tắc giải quyết tại Thông tư liên tịch số 01/ 2016/TTLT – TANDTC –
VKSNDTC – BTP ngày 06 tháng 01 năm 2016 của Tòa án nhân dân Tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân Tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số quy
định của Luật HN&GĐ (sau đây gọi là Thông tư liên tịch số 01/ 2016/TTLT).
Điều này dẫn đến việc áp dụng Luật trong thời gian qua thiếu thống nhất.
Không những thế, trong thực tiễn công tác tại Tòa án trên địa bàn tỉnh
Điện Biên, một trong những tỉnh miền núi phía Tây bắc của Tổ quốc, với đặc
thù về kinh tế, xã hội và dân cư cũng ảnh hưởng không nhỏ khi áp dụng Luật
HN&GĐ giải quyết các trường hợp ly hôn.
Vì những lý do trên, học viên lựa chọn đề tài " Áp dụng pháp luật
trong giải quyết ly hôn trên địa bàn tỉnh Điện Biên" để nghiên cứu, trao đổi.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề ly hôn và các vấn đề liên quan đã được nghiên cứu khá nhiều
trong các công trình khoa học.

2

Xem phần những vướng mắc trong Cuốn tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ xét xử các vụ án HN&GĐ - NXB
Công an nhân dân (2016).


3

- Nhóm các luận văn, luận án: Các công trình nghiên cứu tiêu biểu
trong nhóm này gồm có: "Chế định ly hôn theo quy định của pháp luật Việt
Nam" (Vũ Thị hằng, Luận văn Thạc sĩ Luật học, 2006); "Căn cứ ly hôn - một
số vấn đề lý luận và thực tiễn tại tỉnh Lạng Sơn" (Nông Thị Nhung, Luận văn
thạc sỹ, 2014); "Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
(Nguyễn Thị Tuyết Mai, Luận văn Thạc sỹ, 2015)"; “Chế độ tài sản của vợ
chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000" (Nguyễn Văn
Cừ, Luận án Tiến sĩ Luật học, 2005); "Xác định chế độ tài sản của vợ chồng Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" (Nguyễn Hồng Hải, Luận văn Thạc sĩ,
2002); "Chia tài sản chung của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình
Việt Nam năm 2000" (Nguyễn Thị Lan, Luận văn Thạc sĩ Luật học, 2012)...
Các công trình này chủ yếu nghiên cứu các vấn đề liên quan đến căn cứ ly
hôn và chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
- Nhóm sách giáo trình, sách chuyên khảo: Có một số công trình tiêu
biểu như: "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000" (Nguyễn Văn Cừ - Ngô Thị Hường, 2002, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội); "Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam" (Nguyễn
Ngọc Điện, 2002, Nxb Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh); "Bình luận khoa học
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam" (Đinh Thị Mai Phương - Chủ biên,

2004, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội); "Giáo trình Luật Hôn nhân và gia
đình Việt Nam" (Trường Đại học Luật Hà Nội, 2008)… Những công trình
khoa học này chủ yếu là bình luận, giải thích Luật HN&GÐ mà chưa nghiên
cứu sâu về tình hình ly hôn, hậu quả pháp lý của ly hôn và thực tiễn áp dụng
Luật HN&GÐ giải quyết các vụ án ly hôn.
- Nhóm các bài viết trên các báo, tạp chí:
Một số bài viết tiêu biểu phải kể đến như: "Căn cứ ly hôn trong Cổ
luật Việt Nam" (Nguyễn Thị Thu Vân, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số


4

8/2005); "Áp dụng quy định về ly hôn của Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000 để giải quyết" (Nguyễn Văn Chung, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 21/2008);
"Bắt buộc hòa giải vụ án ly hôn ở cơ sở là không phù hợp với pháp luật hiện
hành" (Lê Thu Hà, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 9/2007); "Cần có hướng dẫn
thống nhất về thụ lý yêu cầu ly hôn hay không công nhận vợ chồng và thủ tục
giải quyết" (Đoàn Đức Lương, Tạp chí Kiểm sát, số 9/2005); “Việc tuyên bố
mất tích đối với người đang có lệnh truy nã” ( Đinh Văn Vụ ,Tạp chí Tòa án
nhân dân số 8/2009)… Các bài viết này đều nghiên cứu phản ánh một số nội
dung liên quan đến vấn đề ly hôn, tuy nhiên cũng chưa phản ánh được một
cách toàn diện và đầy đủ về thực trạng ly hôn tại một địa phương cụ thể.
Đề tài: "Áp dụng pháp luật giải quyết ly hôn trên địa bàn tỉnh Điện
Biên " là công trình khoa học nghiên cứu cụ thể về vấn đề áp dụng các quy
định về ly hôn và hậu quả pháp lý của ly hôn ở một địa phương cụ thể.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu áp dụng pháp luật trong giải quyết ly
hôn trên địa bàn tỉnh Điện Biên nhằm hướng tới việc thống nhất trong cách áp
dụng pháp luật về ly hôn để giải quyết ly hôn, cũng như chỉ ra những bất cập,
vướng mắc khi áp dụng các quy định của pháp luật về ly hôn để giải quyết các

loại vụ, việc này tại Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Điện Biên nói riêng và
trong hệ thống Tòa án nhân dân nói chung.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Nghiên cứu vấn đề lý luận về ly hôn, căn cứ cho ly hôn và hậu quả
pháp lý của ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014.
+ Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định về ly hôn theo Luật
HN&GĐ năm 2014 để giải quyết các vụ, việc ly hôn tại TAND trên địa bàn
tỉnh Điện Biên.


5

+ Đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về ly hôn và
nâng cao chất lượng giải quyết các vụ việc ly hôn trên địa bàn tỉnh Điện Biên.
4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014, có
so sánh với các căn cứ ly hôn theo các Luật HN&GĐ trước đây.
Đề tài đánh giá, phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật HN&GĐ giải
quyết ly hôn trên địa bàn tỉnh Điện Biên thông qua các bản án, quyết định giải
quyết trong 03 năm từ năm 2013 đến năm 2015.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm,
đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về tăng cường pháp chế, xây dựng
Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân đặc biệt là các quan điểm của
Đảng chỉ đạo về cải cách tư pháp.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp của triết
học duy vật biện chứng, duy vật lịch sử mácxít, trong đó chú trọng các
phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp phân tích và
tổng hợp, phương pháp lịch sử. Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp của bộ
môn khoa học khác như thống kê, so sánh...

6. Những đóng góp mới của luận văn
- Luận văn phân tích khái niệm, căn cứ ly hôn, hậu quả pháp lý của ly
hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014.
- Đánh giá thực trạng áp dụng Luật HN&GĐ năm 2000 và năm 2014
trong việc giải quyết các vụ, việc ly hôn tại TAND trên địa bàn tỉnh Điện
Biên trong 03 năm từ năm 2013 đến năm 2015.


6

- Đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về ly hôn và những giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng áp dụng Luật HN&GĐ giải quyết các vụ,
việc ly hôn tại tỉnh Điện Biên.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương.
Chương 1: Lý luận chung về ly hôn.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật giải quyết ly hôn tại tỉnh Điện
Biên và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về ly hôn và nâng cao
chất lượng giải quyết ly hôn trên địa bàn tỉnh Điện Biên.


7

Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ LY HÔN
1.1. Khái niệm ly hôn
1.1.1. Định nghĩa ly hôn
Có rất nhiều định nghĩa ly hôn đã được đưa ra trong các công trình
nghiên cứu. Từ điển “Từ và ngữ Việt Nam” của Giáo sư Nguyễn Lân định

nghĩa: “Li hôn là vợ chồng bỏ nhau”.3 Có thể nhận thấy đây là một định nghĩa
thể hiện một cách ngắn gọn, dân dã nhất khi nói về ly hôn. Định nghĩa này
phù hợp với cách diễn đạt trong cuộc sống hàng ngày của người dân. Tuy
nhiên, cách giải thích này chưa nói lên được hậu quả của việc ly hôn, cũng
như trình tự, thủ tục ly hôn. Bởi việc vợ chồng bỏ nhau không đương nhiên
được công nhận là đã ly hôn.
Theo Từ điển Luật học của Viện khoa học pháp lý định nghĩa: “Li hôn
là chấm dứt quan hệ vợ chồng do Tòa án công nhận hoặc quyết định theo yêu
cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng”4. Đây là định nghĩa phản ánh
quan điểm chung nhất về ly hôn, thể hiện bản chất pháp lí của ly hôn. Do đó,
cách giải thích này được sử dụng nhiều trong công tác nghiên cứu, giảng dạy
khoa học Luật và giải thích cho các đương sự có liên quan trong thực tiễn giải
quyết các vụ việc ly hôn.
Dưới góc độ pháp lý thì định nghĩa ly hôn đã có sự thay đổi phù hợp
với thực tiễn xã hội. Luật HN&GĐ năm 2000 quy định "Ly hôn là chấm dứt
quan hệ hôn nhân do Tòa án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ
hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng"[ Khoản 8 Điều 8]. Đến Luật HN&GĐ năm
2014 quy định " Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết
định có hiệu lực pháp luật của Tòa án" [Khoản 14, Điều 3]. Hai cách định
3

GS. Nguyễn Lân (2006), Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh. Tr 1057
Viện nghiên cứu khoa học pháp lí – Bộ tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
Tr 460.
4


8

nghĩa này đều xác định ly hôn làm chấm dứt quan hệ vợ, chồng và thẩm

quyền giải quyết ly hôn chỉ có thể là Tòa án. Tuy nhiên định nghĩa về ly hôn
trong Luật HN&GĐ năm 2014 đã mở rộng chủ thể có quyền yêu cầu giải
quyết ly hôn, theo đó không chỉ có vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng mới có
quyền yêu cầu ly hôn như Luật HN&GĐ năm 2000 quy định.
Qua những định nghĩa về ly hôn trên có thể thấy ly hôn là sự kiện pháp
lý làm chấm dứt quan hệ vợ, chồng. Việc chấm dứt quan hệ vợ chồng xuất
phát từ bản chất cuộc hôn nhân "đã chết" như Mác - Ăngghen đã chỉ ra " Bản
chất của ly hôn chỉ là việc xác nhận một sự kiện, cuộc sống hôn nhân này là
cuộc hôn nhân đã chết, sự tồn tại của nó chỉ là bề ngoài và lừa dối"5. Vợ
chồng ly hôn bởi cuộc hôn nhân của họ đã mất hết ý nghĩa, việc ly hôn là để
giải phóng cho vợ, chồng khỏi những mâu thuẫn sâu sắc mà họ không thể tự
giải quyết được.
Tuy nhiên, ly hôn không thể tiến hành một cách tùy tiện mà phải đặt
dưới sự kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước. Bởi ly hôn không chỉ ảnh hưởng
trực tiếp đến quan hệ vợ chồng mà còn ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của
các con cũng như lợi ích của xã hội. C. Mác - Ph. Ăngghen cũng đã chỉ rõ
"việc xác nhận một cuộc hôn nhân là đã chết không phải là sự tùy tiện của
nhà lập pháp, cũng không phải sự tùy tiện của những cá nhân, mà chỉ bản chất
của sự kiện mới quyết định được là cuộc hôn nhân đã chết hoặc chưa chết, bởi vì,
như mọi người đều biết, việc xác nhận sự kiện chết tùy thuộc vào thực chất của
vấn đề, chứ không phải vào nguyện vọng của những bên hữu quan "6 .

5 6

, C. Mác – Ph. Ăngghen (2002), “Bản dự luật về ly hôn”, Toàn tập, Tập 1, tr.231 - tr 235, Nxb

Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.


9


Do đó, Nhà nước ta đã quy định Tòa án là cơ quan có thẩm quyền giải
quyết ly hôn. Quyết định của Tòa án thể hiện bằng bản án hoặc bằng quyết
định công nhận thuận tình ly hôn. Tòa án quyết định cho ly hôn phải căn cứ
vào quy định của pháp luật về HN&GĐ cũng như tiến hành theo một thủ tục
Luật định để xác định sự kiện vợ, chồng chấm dứt quan hệ hôn nhân.
Từ phân tích trên, có thể hiểu ly hôn là sự kiện pháp lý do Tòa án quyết
định bằng quyết định công nhận thuận tình ly hôn hoặc bằng bản án cho ly
hôn trên cơ sở những quy định của pháp luật HN&GĐ và được tiến hành theo
thủ tục Tố tụng Dân sự làm chấm dứt quan hệ vợ chồng.
1.1.2.Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về ly hôn
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin thì hôn nhân nói chung, ly
hôn nói riêng là hiện tượng xã hội mang tính giai cấp. Trong mỗi giai đoạn,
mỗi hình thái kinh tế, xã hội tính giai cấp thể hiện khác nhau nhưng pháp luật
vẫn hướng tới mục đích bảo vệ lợi ích giai cấp thống trị. Các quy định về giải
quyết ly hôn nhằm điều chỉnh mối quan hệ của gia đình phù hợp với lợi ích
của giai cấp thống trị. Như trong xã hội phong kiến, bảo vệ quyền gia trưởng
của người đàn ông để xây dựng gia đình phong kiến mà pháp luật phong kiến
dành quyền chủ động ly hôn cho người chồng. Người chồng có thể dựa vào
"thất xuất" (vợ không có con, ghen tuông, ác tật, dâm đãng, không kính cha
mẹ, lắm lời, trộm cắp) để ly hôn với vợ. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa các
quy định về ly hôn đề cao cái tôi, đề cao lợi ích cá nhân trong hôn nhân nên
đã mâu thuẫn với bản chất của gia đình. Nghĩa vụ của hai bên vợ, chồng như
trong hợp đồng, lý do dẫn đến việc chấm dứt hôn nhân cũng như việc chấm
dứt hợp đồng.
Pháp luật xã hội chủ nghĩa (XHCN) thừa nhận quan hệ hôn nhân xây
dựng trên cơ sở tình yêu chân chính, tự do và tự nguyện của đôi nam nữ. Điều
này được thể hiện trong việc kết hôn cũng như ly hôn. Có thể nói, quyền tự do



10

ly hôn xuất phát từ bản chất của chế độ XHCN, là chế độ duy nhất xây dựng
một nền dân chủ thực sự mà trong đó quyền lợi của tất cả mọi người thuộc
các tầng lớp khác nhau đều được đảm bảo. Ly hôn chính là sự giải phóng cho
vợ chồng khi bản chất cuộc hôn nhân không tồn tại trên thực tế. Điều này
không những đem lại lợi ích cho cả vợ chồng mà còn bảo vệ được lợi ích của
Nhà nước và xã hội. Như V.I. Lênin đã khẳng định:
Người ta không thể là một người dân chủ và xã hội chủ nghĩa nếu
ngay từ bây giờ, không đòi quyền hoàn toàn tự do ly hôn, vì thiếu quyền tự do
ấy là một sự ức hiếp lớn đối với giới bị áp bức, đối với phụ nữ, tuy hoàn toàn
chẳng khó khăn gì mà không hiểu được rằng khi ta thừa nhận cho phụ nữ
được tự do bỏ chồng, thì không phải là ta khuyên tất cả họ bỏ chồng7.
Pháp luật của nhà nước XHCN thừa nhận quyền tự do ly hôn. Giải
quyết ly hôn phải dựa vào thực chất của quan hệ vợ chồng, trên cơ sở đánh giá
một cách khách quan thực trạng quan hệ hôn nhân mà không xuất phát từ ý chí
chủ quan của cán bộ Tòa án hay của các đương sự.
“Ly hôn chỉ là việc xác nhận một sự kiện: Cuộc hôn nhân này là cuộc
hôn nhân đã chết, sự tồn tại của nó chỉ là bề ngoài và lừa dối. Đương nhiên,
không phải sự tùy tiện của nhà lập pháp, cũng không phải sự tùy tiện của
những cá nhân, mà chỉ bản chất của sự kiện mới quyết định được là cuộc hôn
nhân đã chết hoặc chưa chết, bởi vì, như mọi người đều biết, việc xác nhận sự
kiện chết tùy thuộc vào thực chất của vấn đề, chứ không phải vào nguyện
vọng của những bên hữu quan"8

7

V.I.Lê nin, “Ly hôn – về một sự biếm họa của chủ nghĩa Mác và về chủ nghĩa kinh tế đế quốc”,
Toàn tập, Tập 30, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva 1981. Trang 163.
8


C. Mác – Ph.Ăngghen (2002) “ Bản dự luật về ly hôn”, Toàn tập, Tập 1, tr 231 – 235, Nxb Chính trị

quốc gia - Sự thật, Hà Nội. .


11

Việc ghi nhận và bảo hộ quyền tự do ly hôn của vợ chồng không có
nghĩa nhà nước cho phép vợ chồng được tùy tiện ly hôn theo ý muốn của
mình mà phải trên cơ sở thực trạng quan hệ vợ chồng. Pháp luật qui định căn
cứ ly hôn không làm hạn chế quyền tự do ly hôn của vợ chồng mà nhằm đảm
bảo bản chất của ly hôn là sự tan vỡ thực chất của quan hệ vợ chồng.
1.1.3. Quyền yêu cầu ly hôn
Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ghi nhận quyền ly hôn là quyền
con người, tại Điều 36 Hiến pháp năm 2013 quy định “Nam, nữ có quyền kết
hôn, ly hôn”. Để hiện thực hóa quyền ly hôn, Điều 42 Bộ luật Dân sự (BLDS)
năm 2005 qui định như sau: “Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu
Tòa án giải quyết việc ly hôn” và cũng theo Điều 24 của BLDS năm 2005 thì
quyền ly hôn là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, là quyền nhân thân
của cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật
có qui định khác. Những quy định về quyền kết hôn, ly hôn tiếp tục được kế
thừa trong BLDS năm 2015 (có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2017) cụ
thể tại Điều 39 quy định: "1. Cá nhân có quyền kết hôn, ly hôn, quyền bình
đẳng của vợ chồng, quyền xác định cha, mẹ, con, quyền được nhận làm con
nuôi, quyền nuôi con nuôi và các quyền nhân thân khác trong quan hệ hôn
nhân, quan hệ cha mẹ và con và quan hệ giữa các thành viên gia đình. Con
sinh ra không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha, mẹ đều có quyền
và nghĩa vụ như nhau đối với cha, mẹ của mình.
2. Cá nhân thực hiện quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình theo quy

định của Bộ luật này, Luật hôn nhân và gia đình và luật khác có liên quan”.
Pháp luật HN&GĐ qua mỗi thời kỳ tuy có những quy định khác nhau
nhưng đều thống nhất trong việc ghi nhận vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng có


12

quyền yêu cầu ly hôn. Đây là quyền gắn liền với nhân thân của mỗi cá nhân,
không thể chuyển giao cũng như ủy quyền cho người khác thực hiện.
Tuy nhiên, xuất phát từ thực trạng đời sống vợ chồng và nhằm bảo vệ
tốt hơn quyền lợi của bên vợ hoặc chồng không thể nhận thức, điều khiển
hành vi, Luật HN&GĐ năm 2014 đã bổ sung thêm người có quyền yêu cầu ly
hôn. Theo đó, tại Khoản 2 Điều 51 quy định: " Cha, mẹ, người thân thích
khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị
bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được
hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ
của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh
thần của họ".
Mặc dù quyền yêu cầu ly hôn là quyền gắn với nhân thân của vợ, chồng
không thể chuyển giao cho người khác được nhưng trong trường hợp vợ,
chồng không thể nhận thức, làm chủ hành vi đồng thời lại là nạn nhân của bạo
lực gia đình do chồng hoặc vợ họ gây ra thì việc có cơ chế bảo vệ họ là cần
thiết. Do đó pháp luật quy định cho cha, mẹ, người thân thích khác có quyền
yêu cầu ly hôn.
Quyền yêu cầu ly hôn của vợ chồng là bình đẳng. Tuy nhiên, người
chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp "vợ đang có thai, sinh
con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi" (Khoản 3 Điều 51 Luật HN&GĐ
năm 2014). Quy định này xuất phát từ nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em.
Đây là một trong những qui định thể hiện tính nhân đạo sâu sắc của pháp luật
HN&GĐ. Quyền lợi của trẻ em và phụ nữ có thai được pháp luật tôn trọng và

bảo vệ. Qui định hạn chế quyền yêu cầu ly hôn này chỉ đặt ra đối với người
chồng mà không áp dụng đối với người vợ cho nên người vợ vẫn có quyền
yêu cầu ly hôn khi đang mang thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12


13

tháng tuổi. Do vậy, khi người vợ yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lí giải quyết vụ
kiện theo thủ tục chung.
Ngoài ra, quyền yêu cầu ly hôn còn bị hạn chế trong một thời gian nhất
định khi bị Tòa án bác đơn xin ly hôn. Đây là hướng dẫn trong Nghị quyết số
02/2000/NQ - HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao về việc hướng dẫn một số điều trong Luật HN&GĐ năm 2000
(sau đây viết tắt là Nghị quyết số 02/2000/NQ - HĐTP). Tại Điểm c Mục 10
của Nghị quyết 02/2000/NQ - HĐTP có hướng dẫn "Tuy pháp luật tố tụng
chưa quy định, nhưng đối với người có đơn yêu cầu xin ly hôn mà bị Tòa án
bác đơn xin ly hôn thì sau một năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án
bác đơn xin ly hôn có hiệu lực pháp luật, người đó mới lại được yêu cầu Tòa
án giải quyết việc xin ly hôn". Mặc dù Luật HN&GĐ năm 2014 đã thay thế
Luật HN&GĐ năm 2000 nhưng đến nay văn bản này vẫn được áp dụng.
Trong đó trường hợp Tòa án bác đơn xin ly hôn chứng tỏ tình trạng hôn nhân
chưa đến mức trầm trọng cho nên cần phải hạn chế một thời gian yêu cầu ly
hôn để vợ, chồng có thời gian suy nghĩ và cải thiện tình trạng hôn nhân của
mình. Sau một năm kể từ ngày bản án có hiệu lực nếu các bên vẫn không thể
chung sống được với nhau mà một bên hoặc cả hai vợ, chồng làm đơn xin ly
hôn thì Tòa án thụ lý giải quyết.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu quyền yêu cầu ly hôn là một trong
những quyền nhân thân cơ bản của cá nhân được pháp luật quy định và được
đảm bảo thực hiện khi quan hệ hôn nhân không thể tiếp tục được nữa trên cơ
sở yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn của một bên vợ, chồng hoặc cả hai vợ,

chồng hoặc bố, mẹ và những người thân thích khác của vợ, chồng bị mất khả
năng nhận thức, điều khiển hành vi đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình
do chồng, vợ của họ gây ra yêu cầu.


14

1.2. Căn cứ ly hôn
1.2.1. Định nghĩa.
Trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử, ở mỗi chế độ xã hội khác
nhau, giai cấp thống trị đều thông qua Nhà nước, bằng pháp luật quy định chế
độ hôn nhân phù hợp với ý chí của Nhà nước. Tức là Nhà nước bằng pháp luật
quy định những điều kiện xác lập quan hệ hôn nhân, đồng thời quy định những
điều kiện, căn cứ chấm dứt quan hệ hôn nhân. Do đó "Căn cứ ly hôn là những
tình tiết hoặc điều kiện được quy định trong pháp luật và chỉ khi có những
tình tiết điều kiện đó, Tòa án mới được xử cho ly hôn"9.
Mỗi quốc gia có quan điểm về vấn đề ly hôn khác nhau, do vậy cũng
có những quy định khác nhau về căn cứ ly hôn. Pháp luật của nhiều nước quy
định giải quyết ly hôn dựa vào yếu tố lỗi của vợ, chồng. Nhà nước tư sản coi
hôn nhân như hợp đồng dân sự nên việc chấm dứt hôn nhân cũng như chấm dứt
hợp đồng và dựa vào lỗi của các bên. Ví dụ, theo quy định trong BLDS Pháp,
BLDS Nhật Bản, BLDS và Thương mại Thái Lan… thường quy định giải
quyết ly hôn do một bên vợ hoặc chồng ngoại tình, phải thi hành án phạt tù
hoặc có những hành vi đối xử với nhau đến mức không thể chung sống được.
Hệ thống pháp luật ở nước ta trước Cách mạng Tháng Tám (năm
1945) và ở Miền Nam nước ta trước ngày thống nhất đất nước cũng quy định
giải quyết ly hôn dựa vào lỗi của vợ, chồng khi một bên vợ hoặc chồng ngoại
tình, một bên bị can án phạt giam…
Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Văn bản pháp luật đầu tiên của Nhà nước ta về

ly hôn là Sắc lệnh số 159/SL ngày 17/11/1950 ( Sắc lệnh 159/SL). Sắc lệnh
159/SL quy định 05 duyên cớ ly hôn chung cho cả vợ và chồng là: Một bên

9

ThS. Nguyễn Văn Cừ, ThS. Ngô Thị Hường (2002), Một số vấn đề về lí luận và thực tiễn về Luật
Hôn nhân và Gia đình năm 2000, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tr 153.


15

ngoại tình; một bên can án phạt giam; một bên bỏ nhà đi quá 2 năm không có
duyên cớ chính đáng; một bên mắc bệnh điện hoặc một bệnh khó chữa khỏi;
vợ chồng tính tình không hợp hoặc đối xử với nhau đến nỗi không thể sống
chung được (Điều 2). Thời kỳ này các quy định đặt ra đều xuất phát trên cơ sở
thể chế dân chủ nhân dân, chế độ HN&GĐ cũng được quan tâm với yêu cầu
cấp thiết là xóa bỏ chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến cổ hủ và lạc hậu
để xây dựng một chế độ hôn nhân văn minh và tiến bộ, trong đó vợ chồng
bình đẳng với nhau trong gia đình.
Năm 1959, Luật HN&GĐ được Quốc hội Khóa I thông qua ngày
29/12/1959 và có hiệu lực thi hành ngày 13/01/1960. Đây là đạo luật đầu tiên
điều chỉnh các quan hệ HN&GĐ trong đó có vấn đề ly hôn. Việc giải quyết ly
hôn không dựa trên yếu tố lỗi của các bên như trước đây mà trên cơ sở thực
trạng của quan hệ hôn nhân đó là: "Khi một bên vợ hoặc chồng xin ly hôn, cơ
quan có thẩm quyền sẽ điều tra và hòa giải, hòa giải không được, Tòa án
nhân dân sẽ xét xử. Nếu tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo
dài, mục đích hôn nhân không đạt được, thì Tòa án nhân dân sẽ cho ly hôn"
(Điều 26).
Kế thừa và phát triển Luật HN&GĐ năm 1959, tại kỳ họp thứ 12
Quốc hội Khóa VII ngày 29 tháng 12 năm 1986 đã thông qua Luật HN&GĐ

năm 1986 gồm 10 chương, 57 điều. Trong Luật HN&GĐ năm 1986, căn cứ ly
hôn được quy định tại Điều 40 như sau: "Khi vợ hoặc chồng, hoặc cả hai vợ
chồng có đơn xin ly hôn thì Tòa án nhân dân tiến hành điều tra và hòa giải.
Trong trường hợp cả hai bên vợ hoặc chồng xin ly hôn, nếu hòa giải không
thành và xét đúng là hai bên thực sự tự nguyện ly hôn, thì Tòa án nhân dân
công nhận cho thuận tình ly hôn. Trong trường hợp một bên vợ hoặc chồng
xin ly hôn, nếu hòa giải không thành thì Tòa án nhân dân xét xử. Nếu xét thấy


16

tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân
không đạt được thì Tòa án nhân dân cho ly hôn.
Kế thừa và phát triển các quy định về căn cứ ly hôn của Luật HN&GÐ
năm 1959 và Luật HN&GÐ năm 1986, tại Điều 89 Luật HN&GĐ năm 2000
đã quy định căn cứ ly hôn như sau: 1. Tòa án xem xét yêu cầu ly hôn, nhưng
xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích
hôn nhân không đạt được thì Tòa án quyết định cho ly hôn. 2. Trong trường
hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Tòa
án giải quyết cho ly hôn.
Tiếp tục kế thừa và phát triển căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ năm
2000, Luật HN&GĐ năm 2014 quy định cụ thể về những hành vi dẫn đến hôn
nhân tan vỡ. Căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ hiện hành phản ánh thực chất
mối quan hệ vợ chồng đã bị phá vỡ không thể tồn tại được nữa. Việc Tòa án
giải quyết cho ly hôn chính là công nhận một thực tế trong mối quan hệ vợ
chồng là không thể cải thiện được. Do đó, căn cứ ly hôn là tổng hợp những
tình tiết hoặc điều kiện phản ánh bản chất quan hệ vợ chồng thực sự tan vỡ,
làm căn cứ để Tòa án áp dụng cho ly hôn.
1.2.2. Căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014
Luật HN&GĐ năm 2014 quy định hai trường hợp ly hôn: Thuận tình

ly hôn và ly hôn do một bên yêu cầu. Với mỗi trường hợp ly hôn có căn cứ áp
dụng là khác nhau.
1.2.2.1 Căn cứ ly hôn áp dụng cho trường hợp thuận tình ly hôn
Đây là trường hợp hai vợ chồng cùng yêu cầu chấm dứt hôn nhân
được thể hiện bằng đơn thuận tình ly hôn của vợ chồng.
Theo Điều 55 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: “Trong trường hợp
vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn
và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc,


17

giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa
án công nhận thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận được hoặc có thỏa
thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án
giải quyết việc ly hôn”.
Theo đó Tòa án công nhận thuận tình ly hôn khi thỏa mãn hai điều
kiện sau:
Điều kiện thứ nhất: Vợ, chồng cùng thể hiện ý chí thực sự tự nguyện ly
hôn. Ý chí thể hiện thực sự tự nguyện ly hôn được hiểu là cả hai vợ chồng
cùng bày tỏ ý chí của mình mong muốn được chấm dứt quan hệ vợ chồng,
không bên nào bị cưỡng ép hoặc bị lừa dối. Mong muốn chấm dứt quan hệ
hôn nhân phải là ý chí thật sự của cả hai bên vợ chồng chứ không phải là vợ
chồng ly hôn giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ tài sản, vi phạm chính sách,
pháp luật về dân số hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục
đích chấm dứt hôn nhân.
Sự tự nguyện ly hôn là điều kiện cần thiết để Tòa án công nhận thuận
tình ly hôn. Vợ chồng thuận tình ly hôn vì cùng nhận thấy giữa vợ và chồng
đã không còn tình cảm yêu thương, không muốn tiếp tục chung sống, chăm
lo, vun đắp cho đời sống chung. Khi cả hai bên vợ chồng đã cùng chung ý chí

muốn chấm dứt quan hệ vợ chồng thì Tòa án không thể cưỡng ép vợ chồng
duy trì quan hệ hôn nhân. Việc không giải quyết ly hôn trong trường hợp này
chỉ có thể ép buộc hôn nhân tồn tại về mặt hình thức mà không thể thay đổi sự
thật khách quan là quan hệ vợ chồng đã tan vỡ trên thực tế.
Điều kiện thứ hai: Vợ chồng đã thoả thuận về việc chia tài sản, việc
trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở đảm bảo quyền lợi
chính đáng của vợ và con.
Ly hôn dẫn đến hậu quả là làm chấm dứt chế độ tài sản của vợ chồng,
làm thay đổi cách thức thực hiện quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với con


18

chung. Do đó, khi vợ chồng thuận tình ly hôn mà họ tự thỏa thuận với nhau
về chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ
sở đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án mới công nhận
thuận tình ly hôn cho họ. Trong trường hợp vợ chồng thuận tình ly hôn nhưng
không thỏa thuận được với nhau về chia tài sản hoặc việc nuôi dưỡng, chăm
sóc con hoặc có thỏa thuận nhưng không đảm bảo quyền lợi chính đáng của
vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn.
Như vậy, với các căn cứ công nhận thuận tình ly hôn theo Luật
HN&GĐ năm 2014 có thể nhận thấy căn cứ công nhận thuận tình ly hôn theo
Luật HN&GĐ năm 2014 có điểm khác so với Luật HN&GĐ năm 2000. Theo
đó khi xem xét cho thuận tình ly hôn Tòa án không phải xem xét đến dấu hiệu
thực trạng cuộc hôn nhân đó đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung
không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được mà chỉ xem xét
đến yếu tố "tự nguyện" và "sự thỏa thuận về tài sản, con cái". Đều này giúp
vợ chồng giữ được sự riêng tư của cuộc sống hôn nhân, đồng thời giữ hòa khí
cho vợ chồng sau khi ly hôn. Nhưng mặt khác cũng dễ bị vợ, chồng cùng lợi
dụng chấm dứt quan hệ hôn nhân nhằm mục đích khác bởi căn cứ chấp nhận

thuận tình ly hôn dễ dàng hơn. Tuy nhiên bản chất của việc quy định thuận
tình ly hôn là nhằm tôn trọng ý chí tự định đoạt của vợ chồng trong việc chấm
dứt quan hệ hôn nhân. Khi mà vợ chồng đã cùng nhau thống nhất ý chí mong
muốn chấm dứt quan hệ hôn nhân thì việc Tòa án ghi nhận sự kiện này mà
không cần đi sâu đánh giá tình trạng thực tế của hôn nhân là phù hợp với bản
chất của sự thuận tình.
Hơn nữa, yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn là một loại việc dân sự
được quy định tại Khoản 2 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự ( BLTTDS) năm
2004 và được kế thừa, quy định rõ ràng hơn tại Khoản 2 Điều 29 và Chương
XXVIII của BLTTDS năm 2015 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm


19

2016). Theo đó trình tự, thủ tục giải quyết thuận tình ly hôn được tiến hành
theo trình tự thủ tục giải quyết việc dân sự. Mà khi nói đến việc dân sự thì bản
chất của việc dân sự không có tranh chấp chỉ là việc yêu cầu Tòa án công
nhận một sự kiện pháp lý hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý cho nên
sau khi nhận đơn, cùng các tài liệu chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của
mình Tòa án sẽ mở phiên họp xem xét quyết định mà không tiến hành hòa
giải. Do vậy, Luật HN&GĐ năm 2014 không quy định hòa giải khi giải quyết
thuận tình ly hôn là phù hợp với lý luận về giải quyết việc dân sự. Nhưng
BLTTDS năm 2015 quy định rất rõ khi giải quyết công nhận thuận tình ly
hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn thì hòa giải là một thủ tục bắt
buộc (Khoản 2 Điều 397). Quy định này phù hợp bản chất của loại việc hôn
nhân và gia đình, trong đó có giải quyết ly hôn là nhằm để các bên đương sự
nhìn nhận lại mâu thuẫn, có cách tháo gỡ để quay trở về xây dựng gia đình
hạnh phúc chứ không phải là giải quyết đúng, sai, thiệt, hơn.
1.2.2.2. Căn cứ ly hôn áp dụng cho trường hợp ly hôn do một bên yêu cầu
Theo quy định tại Điều 56 Luật HN&GĐ năm 2014, có ba căn cứ ly

hôn áp dụng cho trường hợp ly hôn theo yêu cầu của một bên. Tùy thuộc vào
người yêu cầu, nội dung yêu cầu để Tòa án xem xét giải quyết.
* Căn cứ thứ nhất: Hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống
chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được
Khoản 1 Điều 56 Luật HN&GĐ năm 2014 qui định: "Khi vợ hoặc
chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải
quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình
hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân
lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích
của hôn nhân không đạt được".


×