Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (16.52 MB, 83 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐOÀN THỊ XUÂN SON

BẢO ĐẢM TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG
DÂN SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành

: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự

MÃ SỐ

: 60.38.01.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN CÔNG BÌNH

Hà Nội - 2015


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và
trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.



TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Đoàn Thị Xuân Son


LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình hoàn thành luận văn, em đã nhận được nhiều sự giúp
đỡ từ các thầy giáo, cô giáo và gia đình, bạn bè.
Em xin gửi lời cảm ơn đến TS. Nguyễn Công Bình đang công tác tại
Trường Trung cấp Luật Tây Bắc, người đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành
tốt luận văn này.
Em xin chân thành cảm ơn Khoa Sau đại học, các thầy giáo, cô giáo bộ
môn Luật Tố tụng dân sự cùng toàn thể các thầy giáo, cô giáo Trường Đại học
Luật Hà Nội, đã giành hết tâm huyết truyền đạt kiến thức và tạo điều kiện
thuận lợi trong suốt thời gian em theo học tại Trường.
Cảm ơn những người thân, bạn bè luôn sát cánh cổ vũ, động viên em.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng bằng tất cả nhiệt huyết và năng lực của bản
than, nhưng luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận
được sự góp ý từ quý thầy cô và các bạn.
Cuối cùng em xin kính chúc các thầy giáo, cô giáo, kính chúc gia đình,
bạn bè luôn dồi dào sức khỏe, thành công, hạnh phúc trong cuộc sống.

Hà Nội, tháng 5 năm 2015

Học viên
Đoàn Thị Xuân Son



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLTTDS

: Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011

HĐXX

: Hội đồng xét xử

TAND

: Tòa án nhân dân

TTDS

: Tố tụng dân sự


MỤC LỤC

Lời mở đầu

1

Chương 1: Những vấn đề lý luận về bảo đảm tranh tụng trong tố
tụng dân sự

5


1.1. Khái niệm và ý nghĩa của bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự

5

1.1.1. Khái niệm bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự

5

1.1.2. Ý nghĩa của bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự

7

1.2. Cơ sở quy định bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự

9

1.2.1. Cơ sở lý luận quy định bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự

10

1.2.2. Cơ sở thực tiễn quy định bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự

12

1.3. Các yếu tố quyết định bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự

13

1.3.1. Sự ghi nhận bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự của pháp luật


13

1.3.2. Vai trò của Tòa án khi giải quết vụ án

13

1.3.3. Sự hỗ trợ đương sự tranh tụng của các cá nhân, cơ quan, tổ chức

14

1.3.4. Cơ chế kiểm sát, giám sát hoạt động tranh tụng

15

1.3.5. Điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa pháp luật

15

1.4. Sơ lược các quy định của pháp luật một số nước về bảo đảm tranh
tụng trong tố tụng dân sự

16

1.4.1. Sơ lược các quy định của pháp luật Vương quốc Anh về bảo đảm
tranh tụng trong tố tụng dân sự

16

1.4.2. Sơ lược các quy định của pháp luật Hợp chủng quốc Hoa Kỳ về
bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự


17

1.4.3. Sơ lược các quy định của pháp luật Cộng hòa Pháp về bảo đảm
tranh tụng trong tố tụng dân sự

19

1.4.4. Sơ lược các quy định của pháp luật Liên bang Nga về bảo đảm
tranh tụng trong tố tụng dân sự

20

1.4.5. Sơ lược các quy định của pháp luật Nhật Bản về bảo đảm tranh
tụng trong tố tụng dân sự

22


Chương 2: Nội dung các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành
về bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự

24

2.1. Các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo đảm tranh
tụng tại Tòa án cấp sơ thẩm

24

2.1.1. Bảo đảm quyền đưa ra yêu cầu và biết yêu cầu, chứng cứ của nhau


25

2.1.2. Bảo đảm quyền thu thập, giao nộp, cung cấp tài liệu, chứng cứ
chứng minh để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự

29

2.1.3. Bảo đảm quyền trình bày, tranh luận và phát biểu quan điểm

32

2.1.4. Trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo đảm thực hiện tranh tụng

36

2.2. Các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo đảm tranh
tụng tại Tòa án cấp phúc thẩm

39

2.2.1. Bảo đảm quyền kháng cáo, kháng nghị, quyền thay đổi, bổ sung và
rút kháng cáo, kháng nghị

39

2.2.2. Bảo đảm quyền được Tòa án thông báo hợp lệ các văn bản tố tụng

42


2.2.3. Bảo đảm quyền tham gia phiên tòa phúc thẩm

42

2.2.4. Bảo đảm quyền trình bày, tranh luận và nghị án khách quan

43

Chương 3: Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật Việt Nam
về bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự và kiến nghị

46

3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật Việt Nam về bảo đảm
tranh tụng trong tố tụng dân sự

46

3.1.1. Những kết quả đạt được trong việc thực hiện các quy định của pháp
luật Việt Nam về bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự

46

3.1.2. Những hạn chế, tồn tại trong việc thực hiện các quy định của pháp
luật Việt Nam về bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự

47

3.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại trong việc thực hiện các
quy định của pháp luật Việt Nam về bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân

sự

51

3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả tranh tụng trong tố tụng
dân sự

58

3.2.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tranh tụng trong tố tụng
dân sự

58

3.2.2. Kiến nghị thực hiện pháp luật về bảo đảm tranh tụng trong tố tụng
dân sự

63


Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
Phụ lục

69


1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

Trong xu hướng phát triển và hội nhập, vấn đề an toàn pháp lý, các
nguyên tắc bảo đảm tố tụng và vấn đề thời gian trong tố tụng dân sự (TTDS)
đặt ra với tất cả hệ thống pháp luật các nước. Mỗi quốc gia lựa chọn cho mình
một hướng đi riêng phù hợp với văn hóa đặc thù của dân tộc và những cam
kết quốc tế mà quốc gia đó tham gia. Ngay từ những năm đầu xây dựng hệ
thống pháp luật Nhà nước ta, khi trình Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh
13/SL ngày 24/01/1946, nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Trọng Khánh đã
nhấn mạnh “bản Bộ không quên rằng, người ngoại quốc khi tới một nước
trước khi hoạt động về kinh tế hay làm một việc gì, vẫn tự hỏi luật lệ và Thẩm
phán ở nước ấy có đủ minh bạch và công bằng để đảm bảo cho họ không”
[18,tr.7]. Xã hội càng dân chủ, tiến bộ thì trách nhiệm bảo hộ của Nhà nước
với các quyền và lợi ích của các cá nhân, cơ quan, tổ chức lại càng cao.
Trong một thời gian dài, TTDS nước ta quá nặng về xét hỏi, đề cao vai
trò độc tôn của Thẩm phán dẫn đến sự lệ thuộc của đương sự vào Tòa án.
Trước những ưu điểm không thể phủ nhận của tố tụng tranh tụng, pháp luật
nước ta đang có sự tiếp thu những hạt nhân hợp lý của tố tụng tranh tụng và
tranh tụng trong tố tụng từng bước được bảo đảm thực hiện theo tinh thần cải
cách tư pháp thông qua hoạt động xét xử của Tòa án. Tuy nhiên nội dung này
vẫn còn khá mới trong nhận thức của Tòa án cũng như người dân khi tham
gia tố tụng do đó khi thực hiện còn nhiều hạn chế. Với mong muốn nâng cao
hiệu quả xét xử của Tòa án nhân dân (TAND), bảo đảm tốt nhất quyền tiếp
cận công lý của người dân, việc tiếp tục nghiên cứu “Bảo đảm tranh tụng
trong tố tụng dân sự Việt Nam” một cách toàn diện là cần thiết và yêu cầu
càng trở nên cấp thiết hơn khi có sự ra đời của Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ
chức Tòa án nhân dân năm 2014.


2
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Bảo đảm tranh tụng trong TTDS là vấn đề nóng trên nghị trường cải

cách tư pháp, thu hút sự quan tâm của đông đảo các chuyên gia, các nhà
nghiên cứu pháp luật, với nhiều đề tài, công trình nghiên cứu. Tiêu biểu như
luận văn “Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm dân sự - Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn” năm 2002 của TS Nguyễn Thị Thu Hà, luận án “Bảo đảm quyền
bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam” năm 2006 của TS
Nguyễn Công Bình, luận án “Phiên tòa sơ thẩm dân sự - Những vấn đề lý
luận và thực tiễn” năm 2008 của TS Bùi Thị Huyền.
Bên cạnh đó là các đề tài nghiên cứu khoa học, các kỷ yếu hội thảo,
giáo trình như đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường “Tranh tụng trong tố
tụng dân sự ở Việt Nam trước yêu cầu của cải cách tư pháp” năm 2011 của
Trường Đại học Luật Hà Nội, Kỷ yếu hội thảo “Vấn đề tranh tụng trong tố
tụng dân sự” năm 2004 của Viện khoa học pháp lý - Bộ tư pháp, Kỷ yếu hội
thảo khoa học “Về việc thi hành bộ luật tố tụng dân sự” năm 2005 của
Trường Đại học Luật Hà Nội, Hội thảo khoa học “Thủ tục tố tụng dân sự một
số nước trên thế giới” năm 2013 do Trung tâm luật so sánh - Trường Đại học
Luật Hà Nội tổ chức, “Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam” năm 2005
của Trường Đại học Luật Hà Nội, “Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam”
năm 2007 của Học viện Tư pháp.
Ngoài ra, còn nhiều bài viết của các tác giả khác trên các sách tham
khảo như “Luật tố tụng dân sự Việt Nam” năm 1962 của Nguyễn Huy Đẩu,
“Tổ chức xét xử vụ án dân sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” năm 2010
của TS Lê Thu Hà; các bài viết trên các tạp chí như “Bàn về vấn đề tranh tụng
trong dự thảo Bộ luật tố tụng dân sự” của Đinh Thị Mai Phương đăng trên
Tạp chí dân chủ và pháp luật năm 2004, “Nâng cao chất lượng tranh tụng tại
Tòa án, Giải pháp đột phá để Tòa án nhân dân thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ


3
bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân” của Trương Hòa Bình đăng trên Tạp chí TAND năm 2013…

Nhìn chung, những công trình nghiên cứu nêu trên chủ yếu đề cập đến
những vấn đề lý luận về tranh tụng, nguyên tắc tranh tụng (nội dung, phạm vi,
chủ thể…) mà chưa tiếp cận một cách trực tiếp và toàn diện về bảo đảm tranh
tụng trong TTDS Việt Nam. Trên cơ sở những nguồn tài liệu tham khảo quan
trọng đó, tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ về mặt lý luận và thực tiễn, đưa ra
các giải pháp bảo đảm tranh tụng trong TTDS vẫn là một đòi hỏi khách quan.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý luận về bảo đảm tranh
tụng trong TTDS, các quy định của pháp luật Việt Nam về bảo đảm tranh
tụng trong TTDS và thực tiễn thực hiện chúng tại các Tòa án.
Bảo đảm tranh tụng trong TTDS liên quan đến cả quá trình giải quyết
vụ án dân sự nên đề tài có phạm vi nghiên cứu rộng. Trong khuôn khổ của
luận văn thạc sĩ phạm vi nghiên cứu đề tài chỉ tập trung vào những vấn đề cơ
bản như khái niệm, ý nghĩa, cơ sở và các yếu tố quyết định bảo đảm tranh
tụng trong TTDS, các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành về
bảo đảm tranh tụng trong TTDS tại Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm mà chủ
yếu là các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, sửa đổi, bổ sung
năm 2011 (BLTTDS) và thực tiễn thực hiện tại các Tòa án nước ta những
năm gần đây. Ngoài ra, việc nghiên cứu cũng được tiến hành đối với các quy
định của pháp luật TTDS một số nước để đối chiếu tham khảo.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu đề tài luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác – Lê nin, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta, tư
tưởng Hồ Chí Minh về con người, về Nhà nước và pháp luật. Ngoài ra, việc


4
nghiên cứu luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học
truyền thống như phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê v.v…
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài

Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ những vấn đề lý luận về
bảo đảm tranh tụng trong TTDS, đánh giá đúng thực trạng pháp luật TTDS
Việt Nam về bảo đảm tranh tụng trong TTDS, nhận diện được những bất cập
và tìm ra các giải pháp khắc phục.
Để đạt được mục đích đó, luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu những vấn
đề lý luận về bảo đảm tranh tụng trong TTDS, phân tích và đánh giá được
thực trạng các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam về bảo đảm tranh tụng
trong TTDS và khảo sát thực tiễn thực hiện chúng tại các Tòa án.
6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu đề tài luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm một số
vấn đề về bảo đảm tranh tụng trong TTDS như làm phong phú thêm hệ thống
tri thức khoa học về TTDS, làm rõ nội dung các quy định của pháp luật TTDS
về bảo đảm tranh tụng trong TTDS và đề xuất được các giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả bảo đảm tranh tụng trong TTDS.
Luận văn là một nguồn tài liệu tham khảo có giá trị đối với công tác
đào tạo đại học và sau đại học ngành luật và công tác xét xử giải quyết các vụ
án dân sự của Tòa án các cấp.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự;

Chương 2: Nội dung các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về
bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự;
Chương 3: Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật Việt Nam về
bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự và kiến nghị.


5
Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM TRANH TỤNG

TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA BẢO ĐẢM TRANH TỤNG TRONG
TỐ TỤNG DÂN SỰ

1.1.1. Khái niệm bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự
Tranh tụng trong tố tụng là một khái niệm khá quen thuộc với các nước
theo hệ thống luật án lệ, được biết đến từ thời Hy Lạp cổ đại, sau đó xuất hiện
ở La Mã với tên gọi “thủ tục hỏi đáp liên tục”. Theo thời gian, tranh tụng
không ngừng phát triển và được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới. Đó là
thành tựu của nền khoa học pháp lý và nền văn minh nhân loại.
Với Việt Nam, khái niệm tranh tụng chính thức được ghi nhận từ các
Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, về công tác xây dựng pháp luật và
mới đây nhất là Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm
2014. Theo đó, tranh tụng được hiểu không phải là một mô hình tố tụng mà là
hoạt động tranh tụng của các bên đương sự. Hiểu một cách đơn giản là kiện
tụng [39,tr.1025], một quá trình các bên tranh luận về các yêu cầu, chứng cứ
và chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Theo nghĩa khái quát nhất tranh tụng trong TTDS là việc các bên
đương sự “đưa ra những chứng cứ, cơ sở pháp lý, lý lẽ của mình để đối đáp,
tranh luận với nhau” nhằm chứng minh để bảo vệ quyền lợi của mình trước
Tòa án [40,tr.14]. Đó là quá trình làm rõ sự thật khách quan của vụ án dựa
trên sự trao đổi chứng cứ, căn cứ pháp lý và lập luận của các bên [17,tr.57]
theo những thủ tục do pháp luật TTDS quy định. Tòa án ra phán quyết giải
quyết vụ án căn cứ vào kết quả tranh tụng của các chủ thể tố tụng [17,tr.8].
Quá trình tranh tụng được bắt đầu từ khi khởi kiện và kết thúc khi vụ án được
giải quyết đúng pháp luật bằng bản án, quyết định của Tòa án [3,tr.1].


6
Tranh tụng trong TTDS có những đặc trưng cơ bản bao gồm:

- Đương sự là chủ thể trung tâm của hoạt động tranh tụng;
- Khi tranh tụng, các bên đương sự đưa ra, trao đổi về chứng cứ, lý lẽ,
căn cứ pháp lý, lập luận, chứng minh bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự;
- Tranh tụng được thực hiện từ khi khởi kiện vụ án và kết thúc khi vụ
án được giải quyết đúng pháp luật. Tranh tụng rõ nét nhất tại phiên tòa xét xử
khi các bên dựa trên các tài liệu, chứng cứ và tư duy pháp lý đưa ra các lập
luận bảo vệ quan điểm của mình hoặc phản bác yêu cầu của đối phương;
- Phán quyết giải quyết tranh chấp của Tòa án phải dựa trên kết quả
tranh tụng công khai của các chủ thể tham gia tố tụng.
Như vậy, tranh tụng trong TTDS là việc các bên đương sự đưa ra, trao
đổi về chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý, lập luận đối đáp, tranh luận với nhau
dựa trên những thủ tục do pháp luật quy định nhằm bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của mình trước sự giám sát của Tòa án. Sự tranh tụng chứa đựng trong
chính hành vi khởi kiện. Tuy nhiên không thể đồng nhất tranh tụng và khởi
kiện, bởi như thế sẽ “không thể hiện được bản chất, nội dung của tranh tụng”
[59,tr.1]. Trước yêu cầu hội nhập và cải cách tư pháp tranh tụng cần được
xem xét từ khi có hành vi khởi kiện và kết thúc khi Tòa án ra phán quyết đúng
pháp luật chứ không đơn thuần dừng lại ở phạm vi tranh luận tại phiên tòa.
Tranh tụng là quyền của đương sự trong việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình, tuy nhiên khả năng hưởng quyền ấy chỉ trở thành hiện
thực khi nó được bảo đảm thực hiện. Bảo đảm hiểu một cách thông thường là
“làm cho chắc chắn thực hiện được, giữ gìn được, hoặc có đầy đủ những gì
cần thiết” [39,tr.38], là sự hứa chịu trách nhiệm về điều gì, cam đoan giữ được
trọn vẹn, làm được đầy đủ [29,tr.30]. Bảo đảm bao hàm cả thừa nhận, tôn
trọng, bảo vệ và thực hiện. Trong khoa học pháp lý “bảo đảm là trách nhiệm
của một chủ thể phải làm cho quyền, lợi ích của chủ thể bên kia chắc chắn


7
được thực hiện, được giữ gìn, nếu xảy ra thiệt hại thì phải bồi thường”

[60,tr.27]. “Bảo đảm” cũng được sử dụng như “đảm bảo”[39,tr.282]. Bảo đảm
tranh tụng trong TTDS xuất phát từ trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong việc tôn trọng và bảo đảm thực
hiện các quyền của tụng nhân; đồng thời xuất phát từ chính các bên đương sự
dựa trên những kiến thức pháp lý và khả năng thực tế tham gia tranh tụng.
Mọi sự nỗ lực của các chủ thể tố tụng đều hướng đến tìm ra chân lý, tìm ra sự
thật khách quan của vụ án. Sự thống nhất đó là kết quả đấu tranh giữa nguyên
đơn và bị đơn thông qua hoạt động tranh tụng công khai, dân chủ, thực chất.
Bản chất của bảo đảm tranh tụng trong TTDS là làm cho quá trình đưa
ra, trao đổi chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý trong suốt quá trình tố tụng được
thực hiện có hiệu quả; đương sự có những điều kiện cần thiết chắc chắn thực
hiện được quyền tranh tụng, bảo vệ tốt nhất quyền lợi hợp pháp của mình. Do
đó xây dựng các tiền đề pháp lý, kinh tế, xã hội để các cá nhân, tổ chức thực
hiện được các quyền lợi ích chính đáng đã được pháp luật ghi nhận là rất quan
trọng. Trong đó bảo đảm pháp lý được coi là yếu tố cốt lõi, giữ vai trò tác
động trực tiếp và mang tính quyết định các bảo đảm khác vừa là nền tảng hình
thành vừa tạo môi trường hoàn thiện bảo đảm pháp lý.
Từ những vấn đề phân tích ở trên có thể kết luận: “Bảo đảm tranh tụng
trong TTDS là làm cho các bên đương sự có đầy đủ những điều kiện cần thiết
để chắc chắn thực hiện được quyền tranh tụng của mình trước Tòa án theo
quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ”.
1.1.2. Ý nghĩa của bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự
1.1.2.1. Ý nghĩa chính trị - xã hội
Tranh tụng trong TTDS được đảm bảo, quyền lợi hợp pháp của đương
sự được bảo vệ, qua đó thực hiện được mục tiêu mà Đảng đã đề ra là “Nhà
nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo


8
hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người” [13], không cho phép bất cứ

chủ thể nào xâm phạm bất hợp pháp quyền lợi của người khác. Pháp luật là
chuẩn mực của sự công bằng, là phương tiện thể hiện sự thương thích giữa
pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế. Tranh tụng trong xét xử được bảo
đảm cũng chính là bảo vệ quyền con người, bảo đảm pháp chế quốc gia.
Tranh tụng trong TTDS được bảo đảm sẽ tăng cường tính dân chủ
trong quá trình giải quyết vụ việc của Tòa án. Đương sự được đưa ra, trao đổi,
tranh luận công khai bằng các chứng cứ, lý lẽ, lập luận để chứng minh bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tòa án xác định sự thật khách quan của
vụ án một cách toàn diện để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật.
Bảo đảm tranh tụng tạo môi trường bình đẳng giữa các bên đương sự,
tạo điều kiện cho các bên được tham gia tranh tụng, thực hiện các quyền
TTDS để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Ở đó các đương sự có
quyền ngang nhau trong việc sử dụng các phương tiện mà pháp luật cho phép
khi tranh tụng trước một Toà án công bằng. Bảo đảm cho các cá nhân, cơ
quan, tổ chức tham gia hỗ trợ, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự;
bảo đảm sự giám sát của công luận, hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát.
Bên cạnh đó khi giải quyết tranh chấp, để bảo đảm cho các bên thực
hiện được quyền tranh tụng, Tòa án phải giải thích cho các đương sự biết
quyền và nghĩa vụ của họ; người đại diện của đương sự, Luật sư, Trợ giúp
viên pháp lý hỗ trợ đương sự trong việc tham gia tố tụng bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của mình. Vì vậy các đương sự được giáo dục các kiến thức pháp luật,
củng cố lòng tin vào công lý, vào pháp chế xã hội chủ nghĩa.
1.1.2.2. Ý nghĩa pháp lý
Quy định của pháp luật về tranh tụng trong TTDS là cơ sở đổi mới tư
duy pháp lý theo hướng dân chủ, tiến bộ, ràng buộc trách nhiệm cho các bên
khi thực hiện các quan hệ pháp luật TTDS. Đó là sự thay đổi nhận thức từ


9
người tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm cho các bên đương sự bình đẳng

tranh tụng trước Tòa án, đối với người tham gia tố tụng là thực hiền quyền
tranh tụng một cách thiện chí và có quyền được các chủ thể khác tôn trọng,
bảo đảm thực hiện quyền tranh tụng của mình.
Bảo đảm tranh tụng trong TTDS là phương tiện để Tòa án giải quyết vụ
án một cách khách quan, toàn diện, nhanh chóng, chính xác góp phần xây
dựng nền tư pháp trong sạch. Khi tranh tụng được sống với đúng bản chất của
nó, Tòa án căn cứ vào kết quả tranh tụng ra phán quyết giải quyết tranh chấp
đúng pháp luật. Toà án phải thực sự công tâm, tạo mọi điều kiện mà pháp luật
cho phép để các bên có thể phát huy tối đa sự chủ động và tích cực tham gia
giải quyết vụ án, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Tòa án bằng quyền lực Nhà nước, đấu tranh với các hành vi vi phạm
(buộc chấm dứt hành vi vi phạm, thực hiện nghĩa vụ…) bằng các phán quyết
công minh, nhanh chóng một mặt bảo đảm tốt nhất quyền tiếp cận công lý của
công dân, tránh việc quyền lợi bị tổn thương mặt khác cho thấy tính hiệu quả,
nghiêm minh của pháp luật, khẳng định uy tín của Tòa án trong xã hội.
Bằng những phương thức khác nhau, bảo đảm tranh tụng giúp nguyên
tắc tranh tụng trong TTDS khi chính thức được quy định có thể tồn tại, hoạt
động tranh tụng được hiện thực hóa vì mục tiêu bảo vệ tốt nhất quyền và lợi
ích hợp pháp của tụng nhân, xây dựng một nền tư pháp dân chủ, từng bước
hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc.
1.2. CƠ SỞ QUY ĐỊNH BẢO ĐẢM TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

Cơ sở là “cái làm nền tảng, trong quan hệ với những cái xây dựng trên
đó hoặc dựa trên đó mà tồn tại, phát triển” [39,tr.215]. Cơ sở quy định bảo
đảm tranh tụng trong TTDS xuất phát từ những tiền đề lý luận và thực tiễn
với tinh thần pháp luật – một bộ phận của kiến trúc thượng tầng phải phù hợp
với điều kiện kinh tế - xã hội và hoàn cảnh lịch sử sinh ra nó.


10

1.2.1. Cơ sở lý luận quy định bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự

Xuất phát từ quyền được xét xử bình đẳng, công bằng của con người đã
được khẳng định trong Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế năm 1948, theo đó
“mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách
bình đẳng” (Điều 7), “mọi người đều có quyền được các Toà án quốc gia có
thẩm quyền bảo vệ bằng các biện pháp hữu hiệu để chống lại những hành vi
vi phạm các quyền cơ bản của họ mà đã được hiến pháp hay luật pháp quy
định” (Điều 8). Xác định rõ công bằng, bình đẳng, bảo vệ quyền con người là
hạt nhân của hoạt động xét xử Công ước quốc tế về những quyền dân sự và
chính trị năm 1966 tiếp tục khẳng định “mọi người đều bình đẳng trước Tòa
án, có quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một tòa án độc lập, vô
tư và có thẩm quyền theo luật” (Điều 14). Quyền con người là những giá trị
thiêng liêng mà mọi thành viên trong gia đình nhân loại được hưởng và được
cộng đồng quốc tế bảo vệ. Khi lựa chọn phát triển theo xu hướng tiến bộ, các
quốc gia đều cố gắng phấn đầu vì hạnh phúc của con người do đó yêu cầu bảo
vệ quyền con người như một tất yếu khách quan. Đặc biệt với một Nhà nước
thượng tôn pháp luật một nguyên tắc rất quan trọng khi xây dựng Nhà nước
pháp quyền là “phải bảo đảm sự bảo vệ của pháp luật, mọi công dân phải
được phép yêu cầu thực hiện các quyền của mình tại một Tòa án độc lập” Gerhard Robbers [27,tr.50]. Đây là cơ sở quan trọng quy định bảo đảm tranh
tụng trong TTDS Việt Nam.
Xác định rõ vị trí chiến lược của công cuộc cải cách tư pháp, Nghị
quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng
tâm trong công tác tư pháp chỉ rõ “khi xét xử, Toà án phải bảo đảm cho mọi
công dân đều bình đẳng trước pháp luật… phán quyết của Toà án phải căn cứ
chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn
diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn


11

và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định
đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn quy định”. Nghị quyết
48-NQ/TW ngày 24/05/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 định hướng đến năm
2020 cũng khẳng định “bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét
xử, lấy kết quả tranh tụng tại toà làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản
án”. Không những thế Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính
trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 nhấn mạnh khâu đột phá của
hoạt động tư pháp là “nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét
xử”. Những đường hướng cải cách tư pháp của Đảng là kim chỉ nam, là động
lực thúc đẩy quá trình nghiên cứu về bảo đảm tranh tụng trong tố tụng nói
chung và TTDS nói riêng. Đó là hồn cốt, là cái “thần” cần nắm vững mà ứng
biến cho linh hoạt, mở ra những định hướng trên con đường nghiên cứu để
các quy định về bảo đảm tranh tụng trong TTDS Việt Nam vừa phù hợp chủ
trương, đường lối của Đảng vừa hài hòa lòng dân, hiệu quả trong cuộc sống.
Bên cạnh đó mối quan hệ khăng khít giữa Nhà nước (công nhận các
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân) và công dân (làm tròn nghĩa vụ với
Nhà nước) là không thể phủ nhận. “Con người là tổng hòa những quan hệ xã
hội” [9,tr.11] là chủ thể của mọi quan hệ xã hội, do đó con người và hạnh
phúc của con người luôn phải là trung tâm của sự phát triển xã hội. Việc Nhà
nước thừa nhận các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân thể hiện sự tôn
trọng cần thiết đối với quyền, lợi ích của các chủ thể, góp phần ổn định các
quan hệ xã hội, tạo động lực cho xã hội phát triển. “Làm cho mỗi người quan
tâm tới lợi ích chính đáng của mình, lấy đó làm động lực trực tiếp thúc đẩy
hoạt động của họ sẽ góp phần thúc đẩy mạnh mẽ quá trình xây dựng xã hội
mới” [12,tr.139]. Nhưng nếu Nhà nước mới chỉ công nhận thì chưa đủ, chưa
chắc chắn thực hiện quyền trên thực tế mà đòi hỏi kèm theo đó là sự bảo đảm


12

cho quyền đó được thực thi. Công nhận và bảo đảm thi hành có sự gắn kết
chặt chẽ không thể tách rời, nếu thiếu một trong hai yếu tố thì quy định sẽ bị
giảm ý nghĩa, thậm chí là không còn ý nghĩa [2,tr.41]. Vì vậy quyền tranh
tụng trong TTDS chỉ phát huy giá trị khi được pháp luật quy định và bảo đảm
cho việc thực hiện quyền đó.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn quy định bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự

Trong nền kinh tế thị trường, các giao lưu dân sự phát triển mạnh mẽ,
những tranh chấp dân sự không ngừng gia tăng và phức tạp. Nhiều vụ tranh
chấp, khi được giải quyết tại Tòa án tính dân chủ không được đảm bảo, hoạt
động tranh tụng không có hoặc có nhưng chỉ mang tính hình thức, câu nệ ảnh
hưởng lớn đến chất lượng các phán quyết của Tòa án, không đảm bảo được
quyền lợi của đương sự. Quy định bảo đảm tranh tụng trong TTDS ràng buộc
trách nhiệm với Thẩm phán, Thư ký phiên tòa, Hội thẩm nhân dân… khi xét
xử phải độc lập và tuân theo pháp luật, không xâm phạm quyền của đương sự.
Tuy nhiên khi tham gia tố tụng, không phải đương sự nào cũng có đủ
khả năng và điều kiện để thực hiện tốt nhất các quyền TTDS bảo vệ lợi ích
chính đáng cho bản thân. Đặc biệt với đương sự là người chưa thành niên,
người mất năng lực hành vi dân sự, họ cần có người đại điện tham gia tố tụng
bảo vệ quyền lợi cho họ hoặc với đương sự hiểu biết pháp luật còn hạn chế rất
cần sự hỗ trợ pháp lý từ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình.
Không những thế đương sự còn gặp khó khăn khi thu thập chứng cứ từ người
thứ ba hoặc chứng cứ mà đương sự đối lập sở hữu. Vì vậy mà cần thiết quy
định bảo đảm tranh tụng trong TTDS để ràng buộc trách nhiệm pháp lý với
các chủ thể nói chung phải tạo điều kiện cho đương sự thực hiện quyền tranh
tụng, tạo sự bình đẳng trong tố tụng, bảo vệ tốt nhất quyền lợi của đương sự.
Ngoài ra, về công tác xét xử của Tòa án, Hiến pháp năm 2013 khẳng
định “nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” (khoản 5 Điều 103),



13
Luật tổ chức TAND năm 2014 (có hiệu lực từ ngày 01/6/2015) quy định “Tòa
án có trách nhiệm bảo đảm cho những người tham gia tố tụng thực hiện quyền
tranh tụng trong xét xử” (Điều 13). Như vậy lần đầu tiên trong lịch sử lập
hiến, bảo đảm tranh tụng trong xét xử được ghi nhận thành một nguyên tắc,
đó là một bước tiến lớn mở ra không gian hiến định mới khi xây dựng pháp
luật, là cơ sở pháp lý quy định bảo đảm tranh tụng trong TTDS Việt Nam.
1.3. CÁC YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH BẢO ĐẢM TRANH TỤNG TRONG TỐ
TỤNG DÂN SỰ

1.3.1. Sự ghi nhận bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự của
pháp luật
Pháp luật là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội và bảo đảm cho các
quyền của con người được thực hiện. Nhất quán với nguyên tắc tất cả vì sự tự
do và hạnh phúc của nhân dân, đảm bảo cho người dân có quyền sử dụng
pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, Nhà nước ta không
ngừng hoàn thiện pháp luật, bảo đảm tốt nhất quyền tố tụng của tụng nhân.
Bảo đảm thực hiện quyền tranh tụng của đương sự phải gắn liền với sự
điều chỉnh của pháp luật. Hiệu quả của bảo đảm tranh tụng trong TTDS một
phần được quyết định bởi các quy định về trình tự thủ tục, nội dung, hình thức
và cách thức thực hiện các quyền TTDS của đương sự như quyền cung cấp
chứng cứ, đề nghị Tòa án thu thập chứng cứ, tranh luận tại phiên tòa, quyền
nhờ người khác bảo vệ v.v từ khi khởi kiện vụ án đến chuẩn bị xét xử, xét xử
sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Như vậy quy định của
pháp luật là hành lang pháp lý xác định trách nhiệm của Nhà nước trên các
phương diện tôn trọng, bảo vệ và thực hiện quyền tranh tụng trong TTDS.
1.3.2. Vai trò của Tòa án khi giải quyết vụ án
Để bảo đảm tranh tụng trong TTDS, trách nhiệm trước tiên thuộc về
Tòa án mà đặc biệt là Thẩm phán giải quyết vụ án. Tòa án có trách nhiệm bảo



14
đảm cho các đương sự thực hiện quyền tranh tụng bình đẳng, công khai, đúng
pháp luật. Tòa án bảo đảm cho các đương sự tham gia tranh tụng theo đó mọi
đương sự đều được bảo đảm bình đẳng trong việc đưa ra yêu cầu, bổ sung yêu
cầu, cung cấp chứng cứ, căn cứ pháp lý, lập luận chứng minh, có quyền đề
nghị Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ. Tòa án là cơ quan tư pháp nhân
danh quyền lực Nhà nước, bắt buộc phải tôn trọng và bảo đảm thực thi quyền
của đương sự, không có bất kỳ sự phân biệt, định kiến, coi nhẹ ý kiến, lập
luận, chứng cứ do bất kỳ bên đương sự nào cung cấp [16,tr.31].
Thẩm phán có trách nhiệm kiểm tra, giám sát đương sự thực hiện đúng
nguyên tắc tranh tụng, đôn đốc, giúp đỡ đương sự thực hiện quyền tranh tụng
của mình. Bảo đảm cho đương sự cùng những người tham gia tố tụng khác
nhận thức được quyền và nghĩa vụ của mình, tạo điều kiện cho đương sự có
đủ thời gian để thu thập, tìm hiểu các tình tiết của vụ kiện, các chứng cứ, căn
cứ pháp lý của đối phương để có đủ cơ sở vững trãi khi tham gia tranh tụng.
1.3.3. Sự hỗ trợ đương sự tranh tụng của các cá nhân, cơ quan, tổ chức

Các đương sự có quyền đưa ra các chứng cứ, lập luận, tranh luận… để
bảo vệ quyền lợi của chính mình. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp họ cần có
người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp hỗ trợ khi tranh tụng,
đặc biệt là vai trò của Luật sư trong việc tư vấn, hướng dẫn cho đương sự nên
làm thế nào để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp tốt nhất trước Tòa án. Tại
phiên tòa, bằng sự am hiểu pháp luật với kinh nghiệm tham gia tố tụng và khả
năng hùng biện, những lý lẽ, căn cứ pháp lý, lập luận sắc nét của họ giúp Tòa
án đánh giá toàn diện vụ án. Hiệu quả của hoạt động tranh tụng phụ thuộc chủ
yếu vào hiệu quả tranh tụng của Luật sư tại phiên tòa [17,tr.156].
Người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
tham gia tố tụng với vai trò đặc biệt quan trọng, giúp đương sự khắc phục
những nhận thức không đầy đủ về pháp luật, đem đến sự tự tin, tạo thế cân



15
bằng giữa các bên đồng thời đảm bảo sự chế ước hữu hiệu với Tòa án. Bởi
Luật sư như một “địch thủ trời sinh” với người tiến hành tố tụng [17,tr.151],
họ không có quyền lợi bị ảnh hưởng từ các phán quyết của Toà án nhưng họ
bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người có quyền và lợi ích bị ảnh hưởng bởi
các phán quyết đó. Nếu coi “trật tự pháp luật là vòng tròn thì cả Luật sư,
Kiểm sát viên, Tòa án đều đứng ở trong đó, nhưng Viện kiểm sát và Tòa án
đứng về phía Nhà nước còn Luật sư đứng về phía khách hàng” [49,tr.26].
Ngoài ra, các cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ tài liệu, chứng
cứ hỗ trợ khi đương sự cần thu thập chúng để bảo vệ quyền lợi của mình.
1.3.4. Cơ chế kiểm sát, giám sát hoạt động tranh tụng
Việc giải quyết tranh chấp của Tòa án dễ mắc phải những sai lầm, lạm
quyền, thiếu công bằng, xâm phạm quyền của đương sự. Vì vậy Viện kiểm sát
tham gia phiên tòa trong một số trường hợp nhất định kiểm sát hoạt động tuân
thủ pháp luật trong quá trình giải quyết của Tòa án, phát hiện những hành vi
xâm phạm quyền của đương sự và có những biện pháp ngăn chặn kịp thời tạo
môi trường tố tụng an toàn, bảo đảm quyền tranh tụng của đương sự.
Sự giám sát của công luận (nhân dân, báo chí tham dự phiên tòa) với
các hoạt động TTDS của Tòa án qua đó lên án, ngăn chặn kịp thời những sai
sót, lệch lạc của bất kỳ một chủ thể nào trong các hoạt động tố tụng kể cả từ
phía Luật sư, Trợ giúp viên pháp lý. Cộng thêm sự giám sát của các cơ quan
đại diện nhân dân cùng cấp (Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc) thông qua
việc nghe báo cáo hàng năm của Tòa án các cấp bảo đảm cho các chủ thể tố
tụng đều phải tuân thủ pháp luật, bảo đảm tốt nhất quyền của đương sự.
1.3.5. Điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa pháp luật
Đời sống vật chất có tính quyết định đến việc hiện thực hóa quyền
tranh tụng trong TTDS của đương sự. Tuy vậy không có nghĩa kinh tế chưa
phát triển thì tranh tụng chưa được ghi nhận và đảm bảo vì nâng cao chất



16
lượng tranh tụng là một quá trình bền bỉ lâu dài. Kinh tế - xã hội phát triển
bền vững, pháp luật sẽ được chú trọng hoàn thiện hơn, ý thức pháp luật của
nhân dân được nâng cao, hoạt động trợ giúp pháp lý được đẩy mạnh. Tòa án
được đảm bảo về số và chất lượng cán bộ, công chức, được trang bị phương
tiện âm thanh, hình ảnh hiện đại phục vụ tốt cho hoạt động tranh tụng.
Bên cạnh đó văn hóa pháp luật cũng tác động nhất định đến hiệu quả
tranh tụng của đương sự. Sự kết hợp hài hòa giữa sự kiến thức pháp luật, sự
tôn trọng, lòng tin vào pháp luật cùng các kỹ năng, nghệ thuật sử dụng pháp
luật giúp Thẩm phán, Thư ký tòa án, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên làm
việc tích cực, sáng tạo; đối với đương sự, Luật sư, người đại diện của đương
sự, những người tham gia phiên tòa khác nhận thức rõ vị trí của mình từ đó có
những hành xử có văn hóa. Điều đó trước nhất là tôn trọng, thực hiện quyền
của chính mình và bảo đảm thực hiện quyền của người khác. Khi người dân
làm chủ xã hội, họ có quyền được Nhà nước tôn trọng quyền nhưng phải có
năng lực, văn hóa pháp lý để thực hiện và bảo vệ quyền của mình.
1.4. SƠ LƯỢC CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƯỚC VỀ
BẢO ĐẢM TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

1.4.1. Sơ lược các quy định của pháp luật Vương quốc Anh về bảo
đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự
Theo pháp luật Vương quốc Anh (Anh) khi có yêu cầu Tòa án giải
quyết tranh chấp, nguyên đơn gửi đơn khởi kiện trình bày vắn tắt các tình tiết
cơ bản của vụ kiện kèm theo một bản chi tiết nêu các yêu cầu với Tòa án. Đơn
kiện của nguyên đơn được tống đạt đến bị đơn. Nếu bị đơn không chấp nhận
yêu cầu của nguyên đơn có quyền gửi văn bản biện hộ, hai bên tiếp tục trao
đổi các biên bản bảo vệ. Chứng cứ của vụ việc do Luật sư các bên thu thập
hoặc dưới sự trợ giúp của Tòa án buộc đối phương phải trả lời, tuyên thệ, đối

chất và làm sáng tỏ các nội dung, đưa ra những tài liệu. Mỗi tài liệu các bên


17
nộp cho Tòa án phải cam kết tính xác thực cao của thông tin. Pháp luật cũng
quy định chế tài khi các bên không thực hiện nghĩa vụ cung cấp chứng cứ,
không trả lời yêu cầu của đương sự bên kia, Thẩm phán hoàn toàn giải quyết
vụ việc theo chứng cứ của bên đương sự đã xuất trình trước Tòa án.
Trước phiên tòa, pháp luật Anh quy định thủ tục tiền tố tụng, khuyến
khích các bên thỏa thuận vụ kiện, xác định những vấn đề còn mâu thuẫn,
những chứng cứ không thống nhất, những người cần được triệu tập đến Tòa
án, những vấn đề sẽ tranh tụng tại phiên tòa. Tại phiên tòa, Thẩm phán khai
mạc và giới thiệu tóm tắt nội dung được tranh tụng, Luật sư các bên nêu tuyên
bố và xuất trình chứng cứ, nhân chứng. Các Luật sư có quyền kiểm tra, chất
vấn nhân chứng của nhau [54,tr.478]. Thẩm phán có quyền bác bỏ yêu cầu
hoặc đối thoại trực tiếp với Luật sư các bên nhằm làm rõ một số vấn đề song
không phải thẩm vấn họ, buộc nhân chứng phải trả lời câu hỏi của các bên.
Pháp luật Anh quy định thủ tục tiền tố tụng, nghĩa vụ tiết lộ chứng cứ
đảm bảo quyền được biết yêu cầu, chứng cứ mỗi bên. Tại phiên tòa Thẩm
phán với vai trò trọng tài đảm bảo thực hiện quyền tranh tụng của đương sự,
các bên được chủ động trình bày, tranh luận để bảo vệ quyền lợi ích của mình.
1.4.2. Sơ lược các quy định của pháp luật Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
về bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự
Pháp luật Hoa Kỳ quy định sau khi nộp đơn khởi kiện tại Tòa án (đơn
phải nêu rõ người bị kiện, tình tiết cơ bản của vụ kiện, căn cứ khởi kiện và
các yêu cầu), nguyên đơn tống đạt văn bản khởi kiện cho bị đơn gồm bản sao
đơn khởi kiện, thông báo của Tòa án yêu cầu bị đơn có văn bản trả lời và có
mặt trước Tòa để bảo vệ quyền lợi. Văn bản trả lời của bị đơn có thể chấp
nhận yêu cầu hay bác bỏ các tình tiết không đúng; cần nguyên đơn giải thích
thêm; hoặc đưa ra căn cứ miễn trừ trách nhiệm cho bị đơn. Trong quá trình tố

tụng, các bên được quyền sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện, văn bản trả lời.


18
Các bên đương sự tự thu thập chứng cứ, có quyền tự mình yêu cầu
người đang nắm giữ các tài liệu, chứng cứ cung cấp cho mình, yêu cầu bị đơn
cho xem các tài liệu nếu họ muốn thẩm tra các tài liệu, văn bản (bản vẽ, biểu
đồ, ảnh), lấy lời khai người làm chứng… Nếu bên được yêu cầu không thực
hiện, Thẩm phán ban hành lệnh buộc người từ chối phải cung cấp chứng cứ
và chịu các chế tài; nếu chứng cứ của vụ án chưa đầy đủ, Thẩm phán yêu cầu
đương sự bổ sung hoặc cho các bên đối chất. Tòa án kiểm soát việc thu thập
chứng cứ và hạn chế yêu cầu cung cấp thông tin với những thông tin bí mật
hoặc yêu cầu gây phiền phức, tốn kém quá lớn cho bên được yêu cầu [8].
Ngay khi bắt đầu vụ án, Thẩm phán mở phiên họp với Luật sư các bên,
đưa ra thời hạn bổ sung đơn kiện, gửi bản trả lời, cung cấp chứng cứ. Trước
phiên tòa tranh tụng, các bên phải gặp nhau theo lệnh của Tòa án thống nhất
chứng cứ, những vấn đề không thể tranh cãi, được công khai danh sách các
nhân chứng, tài liệu sẽ xuất trình trước Tòa án, cố gắng giải quyết vụ kiện.
Tại phiên tòa các đương sự có quyền lựa chọn sự tham gia của Bồi
thẩm đoàn. Luật sư các bên tuyên bố xác định tư cách tham gia tố tụng, tóm
tắt nội dung vụ kiện, tóm tắt các yêu cầu, chứng cứ sẽ xuất trình. Người làm
chứng khai báo và các bên xuất trình chứng cứ chứng minh. Luật sư các bên
có quyền đối chất nhân chứng của nhau. Các bên căn cứ vào các sự việc thực
tế có bằng chứng chứng minh, liên tục đưa ra lập luận “bác bỏ và phản bác”
chứng cứ đối phương có thể cho đến khi không còn bằng chứng nào. Kết thúc
tranh luận các bên giải thích vì sao Bồi thẩm đoàn nên chấp nhận yêu cầu của
họ và kết luận của Bồi thẩm đoàn phải dựa trên sự vượt trội, sức thuyết phục
của bằng chứng. Sau phiên tòa, bên đương sự cho rằng phán quyết của Tòa án
là không đúng có thể đệ trình một kiến nghị lên Thẩm phán. Nếu có sai sót
khi áp dụng pháp luật trong tố tụng và Thẩm phán không chấp nhận kiến nghị

sau phiên xử, các bên có quyền kháng án lên một tòa án cấp cao hơn.


×