BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
LƯỜNG ÁNH NHÀN
BẢO VỆ QUYỀN CỦA PHỤ NỮ TRONG
QUAN HỆ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng Dân sự
Mã số:60380103
Người hướng dẫn khoa học: TS. Ngô Thị Hường
Hà Nội – Năm 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hỗ trợ của
giáo viên hướng dẫn. Các kết quả, số liệu, ví dụ nêu trong Luận văn này là trung thực và
chưa được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác. Tôi xin hoàn toàn chịu
trách nhiệm về luận văn này nếu có sự tranh chấp.
NGƯỜI HƯỚNG DẪN
NGƯỜI CAM ĐOAN
TS.Ngô Thị Hường
Lường Ánh Nhàn
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................ 1
1.
Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1
2.
Tình hình nghiên cứu đề tài .......................................................................... 2
3.
Phạm vi nghiên cứu ...................................................................................... 3
4.
Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................... 3
5.
Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 3
6.
Điểm mới của luận văn ................................................................................. 4
7.
Kết cấu của luận văn..................................................................................... 4
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN CỦA PHỤ NỮ ..... 5
TRONG QUAN HỆ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH .......................................................... 5
1.1.
Quyền của phụ nữ và bảo vệ quyền của phụ nữ trong quan hệ hôn nhân và
gia đình .................................................................................................................. 5
1.1.1. Khái niệm quyền của phụ nữ .................................................................. 5
1.1.2. Bảo vệ quyền của phụ nữ trong quan hệ hôn nhân và gia đình .................. 6
1.2. Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền của phụ nữ trong quan hệ hôn nhân và gia đình. 8
1.3. Sự phát triển pháp luật về quyền của phụ nữ và bảo vệ quyền của phụ nữ
trong quan hệ hôn nhân và gia đình ở Việt Nam ..................................................... 9
1.3.1. Pháp luật Việt Nam trước cách mạng Tháng Tám năm 1945..................... 9
1.3.2. Quyền phụ nữ trong pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam từ Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay ................................................................ 12
1.4. Pháp luật quốc tế với vấn đề bảo vệ quyền của phụ nữ trong quan hệ hôn nhân
và gia đình ........................................................................................................... 15
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ................................................................................................... 19
Chương 2: BẢO VỆ QUYỀN PHỤ NỮ TRONG PHÁP LUẬT HÔN NHÂN VÀ
GIA ĐÌNH ............................................................................................................................ 20
2.1. Bảo vệ quyền của phụ nữ trong chế định kết hôn........................................... 20
2.1.1. Về tuổi kết hôn ....................................................................................... 20
2.1.2. Về sự tự nguyện khi kết hôn ................................................................... 21
2.1.3. Về đảm bảo nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng .............................. 22
2.2. Bảo vệ quyền của phụ nữ trong chế định quyền và nghĩa vụ của vợ chồng .... 25
2.2.1. Trong quan hệ nhân thân của vợ chồng ..................................................... 25
2.2.2. Trong quan hệ tài sản của vợ chồng .......................................................... 27
2.3. Bảo vệ quyền của người phụ nữ trong chế định quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và
con ....................................................................................................................... 29
2.3.1. Trong việc xác định cha, mẹ, con ............................................................... 29
2.3.2. Trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con................... 31
2.4. Bảo vệ quyền của người phụ nữ trong chế định ly hôn ....................................... 33
2.4.1. Trong quy định về quyền yêu cầu ly hôn .................................................. 33
2.4.2. Trong quy định về căn cứ ly hôn...............................................................34
2.4.3. Trong quy định về chia tài sản khi ly hôn ................................................. 34
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ................................................................................................... 37
Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ
VIỆC BẢO VỆ QUYỀN CỦA PHỤ NỮ TRONG QUAN HỆ HÔN NHÂN VÀ GIA
ĐÌNH ..................................................................................................................................... 38
3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo vệ quyền của phụ nữ trong quan hệ hôn
nhân và gia đình ................................................................................................... 38
3.1.1. Những thành tựu ..................................................................................... 38
3.1.2 Những tồn tại trong việc bảo vệ quyền của phụ nữ trong quan hệ hôn nhân
và gia đình ........................................................................................................ 41
3.2. Một số kiến nghị nhằm bảo vệ quyền của phụ nữ trong quan hệ hôn nhân và
gia đình ................................................................................................................ 49
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật hôn nhân và gia đình.............................................. 49
3.2.2. Hoàn thiện Luật phòng chống bạo lực gia đình ...................................... 52
3.2.3. Giải pháp nhằm nâng cao kiến thức pháp luật cho người phụ nữ ............ 57
3.2.4. Nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp để bảo
vệ tốt hơn quyền của người phụ nữ ................................................................... 58
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ................................................................................................... 59
KẾT LUẬN .......................................................................................................................... 60
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS
Bộ luật dấn sự
BLTTDS
Bộ luật tố tụng dân sự
CEDAW
Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử
với phụ nữ
BLHS
Bộ luật Hình sự
BLHĐ
Bộ luật Hồng Đức
BLGL
Bộ luật Gia Long
DLBK
Dân Luật Bắc kỳ
DLTK
Dân Luật Trung kỳ
DLGY
Dân Luật Giản yếu
HN&GĐ
Hôn nhân và gia đình
HLHPN
Hội liên hiệp Phụ nữ
UBND
Ủy ban nhân dân
Nghị định số 110/2013/NĐ- Nghị định 110/2013/NĐ-CP của Chính phủ
CP
ngày 24 tháng 9 năm 2013 Quy định về xử
phạt hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp,
hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi
hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp
tác xã.
Nghị định số 67/2015/NĐ- Nghị định 67/2015/NĐ-CP của Chính phủ sửa
CP
đổi, bổ sung một số điều Nghị định
110/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24
tháng 9 năm 2013 Quy định về xử phạt hành
chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành
chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành
án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kế thừa và phát huy những giá trị mang tính nhân văn về việc bảo vệ
quyền lợi của phụ nữ trong thực tiễn hoạt động lập pháp của Nhà nước ta, phát
huy những nét đẹp truyển thống của người Việt Nam trong việc đề cao vai trò
của phụ nữ trong đời sống xã hội, Đảng và Nhà nước ta luôn dành cho phụ nữ
sự quan tâm đặc biệt. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng ta chỉ rõ “giải
phóng phụ nữ là mục tiêu và nội dung quan trọng”. Vì vậy, bảo vệ quyền của
phụ nữ, giải phóng phụ nữ khỏi những ràng buộc phong kiến, tạo điều kiện, cơ
hội cho phụ nữ bình đẳng, tiến bộ và phát triển là một trong những nhiệm vụ
quan trọng trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Bình đẳng, chống phân biệt đối
xử với phụ nữ là cái gốc, là cơ sở để người phụ nữ tiến bộ. Pháp luật bảo vệ
quyền phụ nữ không ngừng được phát triển và hoàn thiện, chiếm một vị trí
quan trọng trong hoạt động lập pháp của Nhà nước1. Quyền hôn nhân và gia
đình là một trong những quyền con người quan trọng. Bảo vệ quyền lợi của phụ
nữ trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) là một nội dung quan trọng
trong bảo vệ quyền của phụ nữ. Vì vậy, Nhà nước ta đã ban hành hệ thống pháp
luật quy định quyền HN&GĐ cho cá nhân, trong đó đặc biệt quan tâm đến bảo
vệ quyền của phụ nữ. Hiến pháp, Bộ luật dân sự, Luật HN&GĐ, Luật Phòng,
chống bạo lực gia đình, Luật Bình đẳng giới… đều khẳng định nguyên tắc bảo
vệ phụ nữ. Hệ thống pháp luật hiện hành đã tác động tích cực đến quyền của
phụ nữ trong quan hệ HN&GĐ. Cụ thể, trong quan hệ hôn nhân, phụ nữ đã
được thể hiện quyền của mình khi kết hôn, đã được bình đẳng trong quan hệ vợ
chồng. Trong quan hệ gia đình, với tư cách là con gái, cháu gái, phụ nữ được
bình đẳng với các anh em trai của họ. Có thể nhận thấy, bảo vệ phụ nữ trong
các quan hệ gia đình đã đạt được những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, bên
cạnh những thành tựu đã đạt được thì vẫn còn những tồn tại trong việc bảo vệ
quyền của phụ nữ trong quan hệ hôn nhân và gia đình. Nhiều phụ nữ là nạn
1 Pháp luật về sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam, NXB chính trị quốc gia, 1996).
2
nhân của bạo lực gia đình do chồng họ gây ra; nhiều phụ nữ bị cản trở thực
hiện quyền của người mẹ với những đứa con do chính họ sinh ra; nhiều phụ nữ
không thể tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực của mình… Thực tế cho thấy
muốn bảo vệ phụ nữ thì trước tiên phải bảo vệ các quyền hôn nhân và gia đình
của họ và phải bảo vệ họ ngay trong chính gia đình của họ. Vì vậy, nghiên cứu
“Bảo vệ quyền của phụ nữ trong quan hệ hôn nhân và gia đình” là một đề tài
có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề bảo vệ quyền của phụ nữ luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt và đã
thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu.
- ThS Nguyễn Thanh Tâm (2004), Một số nét khái quát về quyền bình
đẳng của phụ nữ trong pháp luật Việt Nam, Tạp chí luật học, Đặc san phụ nữ,
3/2004.
- Bùi Thị Mừng (2015), Chế định kết hôn trong Luật HN&GĐ - Vấn đề lý
luận và thực tiễn, Luận án tiến sĩ Luật học, Hà nội năm 2015.
- Lê Mai Anh (2004), Thực hiện tốt các quyền bình đẳng cơ bản theo
CEDAW tại Việt Nam hiện nay, Tạp chí Luật học số đặc san phụ nữ (3/2004).
- ThS. Nguyễn Phương Lan (2004) , CEDAW và vấn đề quyền bình đẳng
giới trong pháp luật HN&GĐ Việt Nam”, Tạp chí Luật học số đặc san phụ nữ
(3/2004).
- Bùi Thị Mừng (2004), Một số vấn đề về việc bảo vệ quyền làm mẹ của
phụ nữ đơn thân trong Luật HN&GĐ Việt Nam, Tạp chí Luật học số đặc san
phụ nữ (3/2004).
- Bùi Thị Mừng (2004), Bảo vệ quyền của phụ nữ đối với tài sản thuộc sở
hữu chung hợp nhất của vợ chồng theo Luật HN&GĐ năm 2000, Tạp chí Luật
học số đặc san phụ nữ (3/2004).
- ThS. Ngô Thị Hường (2006), Bạo lực gia đình – một hình thức thể hiện
sự bất bình đẳng nam nữ, Tạp chí Luật học số (3/2006).
3
- ThS. Trần Thị Huệ (2004), Luật HN&GĐ năm 2000 với việc bảo vệ
quyền lợi của người phụ nữ,Tạp chí Luật học số đặc san phụ nữ (3/2004).
- TS. Nguyễn Hồng Bắc (2004), Bảo vệ quyền phụ nữ và trẻ em trong
pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, Tạp chí Luật học số đặc san phụ nữ
(3/2004)
- ThS. Nguyễn Phương Lan (2004), Quyền làm mẹ của người phụ nữ theo
quy định của pháp luật Việt Nam, Tạp chí Luật học số đặc san phụ nữ (3/2004).
-ThS. Nguyễn Thị Lan (2004), Quyền của phụ nữ theo Luật HN&GĐ năm
2000, Tạp chí Luật học số đặc san phụ nữ (3/2004).
Các công trình nghiên cứu trên mới chỉ dừng lại ở một số quyền của phụ
nữ. Có thể nói chưa có công trình nghiên cứu nào chuyên sâu về bảo vệ quyền
của phụ nữ trong quan hệ hôn nhân và gia đình.
3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn đi sâu nghiên cứu các quy định của Luật HN&GĐ năm 2014
những văn bản pháp luật HN&GĐ về việc bảo vệ quyền của phụ nữ trong quan
hệ hôn nhân và gia đình.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là:
- Tìm hiểu, phân tích các quy định của Luật HN&GĐ năm 2014 về việc
bảo vệ quyền của phụ nữ;
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định của Luật HN&GĐ năm 2014
trong việc bảo vệ quyền phụ nữ.
- Đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng
cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật, góp phần bảo đảm sự công bằng, bình
đẳng và bảo vệ quyền lợi của phụ nữ trong quan hệ HN&GĐ và các quan hệ xã
hội khác.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận là phép duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin và các quan điểm
của Đảng và Nhà nước ta. Các phương pháp nghiên cứu bao gồm: Phương
4
pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp lịch sử; phương pháp so sánh; phương
pháp thống kê...
6. Điểm mới của luận văn
- Luận văn phân tích những quy định của Luật HN&GĐ năm 2014 về
bảo vệ quyền của phụ nữ.
- Đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của Luật HN&GĐ về vấn đề
bảo vệ quyền của phụ nữ.
- Nêu ra những ưu điểm và hạn chế của việc bảo vệ quyền của phụ nữ
- Đề xuất những giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả quy định của pháp
luật về bảo vệ quyền của phụ nữ.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu và kết luận, Luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo vệ quyền của phụ nữ trong quan
hệ hôn nhân và gia đình
Chương 2: Bảo vệ quyền của phụ nữ theo Luật hôn nhân và gia đình năm
2014
Chương 3: Thực tiễn bảo vệ quyền của phụ nữ trong quan hệ hôn nhân và
gia đình và một số kiến nghị
5
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN CỦA PHỤ NỮ
TRONG QUAN HỆ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
1.1. Quyền của phụ nữ và bảo vệ quyền của phụ nữ trong quan hệ
hôn nhân và gia đình
1.1.1. Khái niệm quyền của phụ nữ
Quyền của phụ nữ không thể tách khỏi quyền con người. Quyền phụ nữ
trước hết phải được hiểu trên cơ sở quyền con người. Khái niệm quyền phụ nữ
phải được nghiên cứu trong mối quan hệ khăng khít với quyền con người, phụ nữ
cũng như nam giới họ phải được hưởng tất cả các quyền con người mà pháp luật
ghi nhận và bảo vệ.
Điểm bắt đầu của khái niệm quyền con người là khái niệm về phẩm giá
vốn có của tất cả các thành viên trong gia đình nhân loại như được ghi nhận
trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người. Quyền con người mang tính
phổ quát và không thể chuyển nhượng, có nghĩa là chúng được áp dụng ở khắp
nơi và không thế lấy đi. Như Tổng thư ký Liên hiệp quốc Boutros-Ghali đã nói
trong Hội nghị Thế giới Vienna về quyền con người vào năm 1993: “Quyền
con người là các quyền bẩm sinh”. Do vậy, khi các quyền con người không
được đảm bảo thì chúng ta sẽ không thể sống như con người. Ở Việt Nam, một
số định nghĩa về quyền con người do một số chuyên gia, cơ quan nghiên cứu
từng nêu ra cũng không hoàn toàn giống nhau, nhưng xét cho cùng quyền con
người thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách
quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các
thỏa thuận pháp lý quốc tế. Hiếp pháp năm 2013 đã tách quyền con người và
quyền công dân, điều này cho thấy chúng ta đã nâng cao nhận thức về tầm quan
trọng và vị trí của con người. Khoản 1 Điều 14 quy định: “Ở nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân
6
sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến
pháp và pháp luật”2.
Quyền phụ nữ là một khái niệm dùng để chỉ các quyền con người của phụ
nữ. Phụ nữ là một nhóm xã hội đặc biệt, dễ bị tổn thương. Do đó, việc xác định,
ghi nhận các quyền con người cho họ phải trên cơ sở tiêu chí bình đẳng là cần
thiết. Đó cũng chính là cơ sở để bảo vệ quyền con người của phụ nữ. Bảo vệ
con người bằng công cụ pháp luật cũng là một trong những phương thức rất
quan trọng nhằm đảm bảo tối ưu quyền của người phụ nữ.
1.1.2. Bảo vệ quyền của phụ nữ trong quan hệ hôn nhân và gia đình
Lịch sử xã hội loài người đã trải qua giai đoạn mà địa vị của người phụ nữ
được tôn vinh. Người phụ nữ có nhiều quyền và có địa vị “vinh dự” hơn người
đàn ông. Đó là thời kỳ tồn tại chế độ mẫu quyền. Nhưng rồi chế độ mẫu quyền
bị thay thế bởi chế độ phụ quyền. Ph Ăng ghen cho rằng: “ Chế độ mẫu quyền bị
lật đổ là sự thất bại lịch sử lớn nhất của giới phụ nữ”.
Quyền con người, quyền phụ nữ không phải là một khái niệm trừu tượng,
cũng không chỉ là quyền cá nhân con người mang tính tự nhiên bẩm sinh mà
luôn gắn liền với cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột, chống bất công trong xã
hội, gắn liền với từng trình độ phát triển và tiến bộ xã hội, chịu sự hạn định của
chế độ kinh tế, đặc biệt của chế độ chính trị - Nhà nước.
Tiếp cận vấn đề quyền con người cần phải xuất phát từ mối quan hệ giữa
cá nhân với Nhà nước. “Quyền con người không phải là một nhân tố đầu tiên
có trước Nhà nước mà phải bằng pháp luật Nhà nước ghi nhận và thiết định
trở thành hiện thực”3 Chính vì lẽ đó, quyền con người, một mặt tính chất tự
nhiên “quyền con người vốn có, không phải ai ban tặng cho họ” nhưng mặt
khác các quyền tự nhiên đó phải được pháp luật ghi nhận và bảo vệ thì mới trở
thành quyền về thực chất.
2 Hiến pháp năm 2013.
3 Viện thông tin khoa học và xã hội. Trung tâm nghiên cứu về quyền con người (1995) “Quyền con người
trong thế giới hiện đại”, nhà in viện thông tin khoa học và xã hội, trang 81.
7
Có nhiều phương thức để bảo vệ quyền của phụ nữ, song phương thức
quan trọng và không thể thiếu chính là bảo vệ bằng pháp luật. Théo đó, bảo vệ
quyền con người nói chung, bảo vệ quyền phụ nữ bằng pháp luật nói riêng
trước hết phải được hiểu là sự ghi nhận các quyền con người bằng pháp luật và
phải bảo đảm cho quyền đó được thực hiện. Mặc khác, do phụ nữ là một nhóm
xã hội đặc biệt, bởi vậy quyền phụ nữ phải được xem xét và ghi nhận dựa trên
cơ sở của những yếu tố đặc thù về giới, nghĩa là pháp luật phải ghi nhận quyền
phụ nữ dựa trên cơ sở của vấn đề bình đẳng giới. Chính vì vậy, bảo vệ quyền
phụ nữ nói riêng, bảo vệ quyền con người nói chung phải kể đến vai trò vô
cùng quan trọng của Nhà nước. Nhà nước ghi nhận các quyền con người, quyền
phụ nữ và đảm bảo cho những quyền này được thực hiện. Đó chính là một nội
dung của việc bảo vệ quyền phụ nữ bằng pháp luật.
Bảo vệ quyền của phụ nữ trong quan hệ hôn nhân và gia đình là bảo vệ
quyền kết hôn, quyền bình đẳng vợ chồng về nhân thân và tài sản, quyền đối
với con và với các thành viên gia đình, quyền ly hôn… Bảo vệ quyền của phụ
nữ trong quan hệ hôn nhân và gia đình được ghi nhận trong Hiến pháp, Bộ luật
dân sự, Luật HN&GĐ và nhiều Luật khác, nhưng chủ yếu là được ghi nhận
trong Luật HN&GĐ. Đặc biệt, phụ nữ khi thực hiện chức năng làm mẹ được
Nhà nước, xã hội và gia đình giúp đỡ để họ có thể thực hiện tốt chức năng cao
quý của người mẹ. Do vậy, bảo vệ quyền hôn nhân và gia đình của phụ nữ khi
làm mẹ không chỉ thể hiện trong Luật HN&GĐ mà còn được thể hiện trong Bộ
luật Lao động. Luật HN&GĐ quy định khi phụ nữ đang có thai, sinh con hoặc
nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì người chồng không có quyền yêu cầu ly hôn
(Khoản 3 Điều 51 Luật HN&GĐ năm 2014). Bộ luật Lao động quy định:
Người sử dụng lao động không được sử dụng lao động nữ làm việc ban đêm,
làm thêm giờ và đi công tác xa trong các trường hợp đang nuôi con dưới 12
tháng tuổi hoặc mang thai từ tháng thứ 07 hoặc từ tháng thứ 06 nếu làm việc ở
vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Lao động nữ làm công việc
nặng nhọc khi mang thai từ tháng thứ 07, được chuyển làm công việc nhẹ hơn
8
hoặc được giảm bớt 01 giờ làm việc hằng ngày mà vẫn hưởng đủ lương. Người
sử dụng lao động không được sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động đối với lao động nữ vì lý do kết hôn, mang thai, nghỉ thai sản, nuôi con
dưới 12 tháng tuổi, trừ trường hợp người sử dụng lao động là cá nhân chết, bị
Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết hoặc
người sử dụng lao động không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động (Điều 155
Bộ luật Lao động năm 2012). Lao động nữ được nghỉ trước và sau khi sinh con
là 06 tháng (Điều 157 Bộ luật lao động năm 2012).
1.2. Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền của phụ nữ trong quan hệ hôn nhân
và gia đình.
Ghi nhận việc bảo vệ quyền phụ nữ bằng pháp luật không chỉ là việc ghi
nhận các quyền con người của phụ nữ mà còn bảo đảm cho các quyền đó được
thực hiện. Điều này càng có ý nghĩa sâu sắc khi quyền của phụ nữ thường hay
bị xâm phạm, đặc biệt là các quyền HN&GĐ. Phụ nữ bị đối xử không công
bằng trong quan hệ gia đình là tình trạng khá phổ biến ở khắp mọi nơi trên thế
giới, trong đó có Việt Nam. Sự bất bình đẳng này xuất phát từ vấn đề về quyền
và những đặc quyền không tương xứng giữa vợ và chồng. Sự không tương
xứng đó chủ yếu do tác động của luật tục, của tập quán và những quan niệm sai
lệnh của cộng đồng và gia đình. Do vậy, trong các quan hệ hôn nhân và gia
đình, khi quyền của phụ nữ pháp luật ghi nhận và bảo vệ thì phụ nữ có quyền tự
chủ và quyền kiểm soát trong các vấn đề gia đình, bao gồm vấn đề kết hôn, ly
hôn, quyết định sinh con và số con, chăm sóc con cái, quản lý tài sản và thừa
kế. Khi người vợ có vai trò và vị thế trong gia đình ngang bằng người chồng thì
họ có cơ hội học tập nâng cao nhận thức và tiếp cận thông tin, giải phóng phụ
nữ khỏi lao động việc nhà, đưa họ vào thị trường lao động với vai trò là người
trực tiếp sản xuất tạo ra sản phẩm, là người quản lý… Điều này đảm bảo lợi ích
gia đình được hài hòa, tránh những mâu thuẫn, xung đột trong quan hệ vợ
chồng. Đây là vấn đề cốt lõi để hạn chế ly hôn và ly thân, góp phần xây dựng
thể chế gia đình bền vững và cũng tác động tốt đến việc nuôi dạy con.
9
Vì lẽ đó, việc ghi nhận các quyền con người của phụ nữ bằng pháp luật là
hết sức cần thiết.Tuy nhiên, vấn đề quan trọng là việc bảo đảm các quyền đó
được thực hiện, vấn đề này, pháp luật lại giữ vai trò quyết định bởi sức mạnh
cưỡng chế của nó. Với ý nghĩa đó, các quyền phụ nữ được thể chế hóa thành
pháp luật phải được tuyên truyền phổ biến sâu rộng cho chính các chủ thể này
để họ nhận thức được và trên cơ sở đó họ họ sẽ có đủ hiểu biết giác ngộ về các
quyền của mình và nâng cao ý thức tự bảo vệ các quyền mà pháp luật ghi nhận
cho họ.
1.3. Sự phát triển pháp luật về quyền của phụ nữ và bảo vệ quyền
của phụ nữ trong quan hệ hôn nhân và gia đình ở Việt Nam
1.3.1. Pháp luật Việt Nam trước cách mạng Tháng Tám năm 1945
- Pháp luật thời kỳ phong kiến: Quyền của người phụ nữ trong các quan
hệ HN&GĐ đã được ghi nhận trong hai bộ luật tiêu biểu là Bộ Luật Hồng
Đức và Bộ Luật Gia Long, nhưng do ảnh hưởng nặng nề bởi các tư tưởng Nho
giáo nên địa vị của người phụ nữ bị phụ thuộc vào nam giới. Sự bất bình đẳng
giữa nam và nữ chính là khởi nguồn cho sự bất công mà phụ nữ ở thời kỳ
phong kiến phải gánh chịu. Do đó, phụ nữ thời kỳ này bị hạn chế trong việc
sở hữu tài sản, trong giáo dục, ít có tiếng nói trong gia đình, phải mang nhiều
gánh nặng xã hội với vai trò kép.
Bộ luật Hồng Đức được ban hành dưới nhà Lê – thế kỷ XV. Đây có thể
coi là thời kỳ hưng thịnh nhất của chế độ phong kiến Việt Nam. Bộ luật Hồng
Đức cũng thể hiện nhiều quan điểm khá tiến bộ trong việc bảo vệ quyền của
người phụ nữ. Trong việc kết hôn, Điều 322 ghi “Con gái lấy chồng chưa
cưới mà có ác tật có thể kêu quan mà trả lại đồ sính lễ”, cưỡng ép phụ nữ kết
hôn là có tội (Điều 320). Trong việc ly hôn, Điều 308 và Điều 333 quy định:
“Chồng xa cách vợ không lui tới suốt 5 tháng thì vợ được phép trình quan sở
tại, quan sở tại làm chứng thì người chồng đó mất vợ” hoặc “nếu con rể mắng
nhiếc cha mẹ vợ bởi chuyện phi lý thưa lên quan, quan sẽ cho ly dị”. Vấn đề
ly hôn sẽ không đặt ra nếu như khi phạm vào nghĩa tuyệt (thất xuất) người vợ
10
đang ở trong ba trường hợp (tam bất khứ): “đã để để tang chồng ba năm; khi
lấy nhau nghèo mà sau giàu có; khi lấy nhau có bà con mà khi bỏ lại không có
bà con để trở về”. Đặc biệt, bộ luật quy định hình phạt nặng đối với các tội
xâm phạm thân thể, tiết hạnh của người phụ nữ như “kẻ nào hiếp dâm” thì xử
lưu hay chết phải nộp tiền tạ tội hơn một bậc đối với tiền tạ tội gian dâm
thường, nếu gây thương tích cho đàn bà thì xử nặng hơn một bậc đánh người
bị thương, nếu làm chết người đàn bà thì điền sản kẻ phạm tội phải giao cho
nhà người bị chết (Điều 403); “gian dâm với con gái nhỏ 12 tuổi trở xuống, dù
thuận tình vẫn xử như tội hiếp dâm” (Điều 404). Phụ nữ đang mang thai mà
phạm tội thì cũng được giảm nhẹ hơn so với nam giới. Về tài sản, Bộ luật
Hồng Đức quy định tài sản do hai vợ chồng tạo dựng trong quá trình chung
sống là tài sản chung. Đây được coi là bươc đột phá táo bạo khi xây dựng bộ
luật này khi cho người vợ hưởng quyền tài sản ngang hàng với người chồng.
Khi gia đình tồn tại, tất cả tài sản được coi là của chung. Khi ly hôn, tài sản
của ai, người đó được nhận riêng và chia đôi tài sản chung của hai người. Còn
khi chồng chết trước (hay vợ chết trước) tài sản có do cha mẹ dành cho được
chia làm hai phần bằng nhau, một phần dành cho gia đình bên chồng/vợ để lo
việc tế lễ. Một phần dành cho vợ/chồng để phụng dưỡng một đời. Việc
chuyển nhượng tài sản của người vợ cho gia đình cha mẹ đẻ chứng tỏ người
vợ không hoàn toàn bị phụ thuộc vào quyền lực của người chồng. Đặc biệt,
trong quyền thừa kế tài sản của cha mẹ để lại, pháp luật nhà Lê không phân
biệt con trai - con gái. Nếu cha mẹ mất cả thì lấy 1/20 số ruộng đất làm phần
hương hỏa, giao cho người con trưởng giữ, còn lại chia đều cho các con (Điều
388); "người giữ hương hỏa có con trai trưởng thì dùng con trai trưởng, không
có con trai trưởng thì dùng con gái trưởng" (Điều 391).
Bộ Luật Gia Long được ban hành dưới triều Nguyễn. Bộ luật này ảnh
hưởng của Bộ luật Hồng Đức thời nhà Lê về các quy định về quyền của phụ
nữ trong gia đình. Ngoài ra, Bộ luật Gia Long còn quy định về việc trừng trị
tội quấy rối tình dục đối với phụ nữ: “người nào dùng lời thô tục dâm đáng
làm cho người đàn bà xấu hổ mà tự tử thì phải xử đến hình giảo giam hậu”.
11
Bộ luật nghiêm cấm và có hình phạt đối với các hành vi lừa gạt kết hôn,
nhưng hình phạt đối với nhà trai nặng hơn nhà gái. Lý giải vì nếu bị lừa gạt
nhà trai vẫn có thể lấy vợ, còn nhà gái bị phinh gạt vì đãn thắt thân (mất đời
con gái). Bộ HVLL xử rất nặng tội gian dâm, đặc biệt là tội cưỡng dâm với trẻ
em gái (Điều 404 và Điều 1 quyền 18). Việc nghiêm cấm và trừng phạt đối
với các tội thông dâm, cưỡng dâm là một hình thức bảo vệ quyền nhân thân
của người phụ nữ trong Bộ luật Gia Long.
Có thể nói Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long đã có những quy định
tiến bộ trong việc đảm bảo quyền của người phụ nữ trong quan hệ HN&GĐ.
Nó chứng tỏ nét tiến bộ trong tư tường của nhà nước Việt Nam thế kỷ XV và
cũng được nhiều nhà sử gia, nhiều nhà nghiên cứu luật pháp trong nước đánh
giá cao. Bên cạnh những điểm tiến bộ pháp luật thời kỳ phong kiến còn quy
định lạc hậu như: Nghĩa vụ tòng phu và nghĩa vụ chung thủy của người vợ;
thừa nhận chế độ đa thê…
- Thời kỳ Pháp thuộc, thực hiện chính sách chia để trị, thực dân Pháp
chia nước ta thành ba miền: Bắc, Trung, Nam. Vì vậy thời kỳ này có ba bộ
Dân luật được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ HN&GĐ. Ở Bắc kỳ, áp
dụng các quy định trong Bộ Dân luật Bắc kỳ năm 1931. Ở Trung kỳ, áp dụng
Bộ Dân luật Trung kỳ năm 1936 và ở Nam kỳ áp dụng Bộ Dân luật Giản yếu
năm 1883. Về nội dung, xét một các tổng quát, Bộ Dân luật Bắc kỳ và Bộ Dân
luật Trung kỳ phản ánh nhiều nét phong tục, tập quán truyền thống của Việt
Nam về HN&GĐ. Bộ DLGY chịu ảnh hưởng của Bộ dân luật Pháp 1804 cho
nên có nhiều cách tân theo quan điểm nhà làm luật phương Tây4. Trong các
quy định điều chỉnh quan hệ hôn nhân, ba bộ luật trên đã quy định bảo vệ
quyền của phụ nữ trong việc kết hôn là được thể hiện sự ưng thuận hoặc quy
định “biết vợ có thai mà người chồng bỏ nhà đi trên hai tháng không có lý do
hệ trọng là phạm tội”.
4 Bùi Thị Mừng, “Chế định kết hôn trong Luật Hôn nhân và gia đình - vấn đề lý luận và thực tiễn” Luận án tiến
sĩ luật học, Hà nội năm 2015.
12
1.3.2. Quyền phụ nữ trong pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam từ
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay
- Quyền phụ nữ trong pháp luật hôn nhân và gia đình giai đoạn từ 1945
đến 1954.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa ra đời. Tuy nhiên, trong bối cảnh Nhà nước non trẻ phải đối mặt
với nhiều khó khăn để bảo vệ nền độc lập, nên chưa thể ban hành một hệ thống
pháp luật hoàn chỉnh. Vì vậy, ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký
ban hành Sắc lệnh số 90/SL cho phép áp dụng một cách chọn lọc quy lệ và chế
định trong các Bộ Dân luật cũ. Tiếp đến ngày 22/5/1950, Sắc lệnh số 97/SL về
sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật được ban hành. Sắc lệnh đã
quy định người kết hôn được tự nguyện quyết định việc kết hôn không cần sự
bằng lòng của cha mẹ (Điều 2, Điều 3). Với quy định này đã xóa bỏ “hôn nhân
sắp đặt” , “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” của phụ nữ trong thời kỳ phong kiến. Sắc
lệnh số 159 quy định về ly hôn được ban hành ngày 17/11/1950 với các nội dung
thể hiện việc bảo vệ quyền của phụ nữ trong gia đình như: Xóa bỏ quyền gia
trưởng của người đàn ông trong gia đình; Bảo vệ phụ nữ và thai nhi trong việc ly
hôn… Những quy định này của hai sắc lệnh đã góp phần bảo vệ quyền lợi của
người phụ nữ trong quan hệ HN&GĐ. Tuy nhiên, còn một số hạn chế của pháp
luật HN&GĐ ở thời kỳ trước mà đến nay vễ chưa được xóa bỏ: Chưa xóa bỏ được
chế độ đa thê; việc giải quyết ly hôn vẫn dựa trên lỗi của vợ chồng…
- Quyền phụ nữ trong pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam giai đoạn
từ 1954 đến 1975
Đây là giai đoạn khá đặc thù, do hoàn cảnh lịch sử, đất nước bị chia cắt thành
hai miền nên cũng có hai hệ thống pháp luật song song tồn tại. Pháp luật ở miền
Bắc của Nhà nước Việt Nam và pháp luật ở miền Nam của chế độ Ngụy quyền
Sài gòn.
13
Ở miền Bắc, Luật HN&GĐ năm 1959 được Quốc hội khóa I kỳ họp thứ
11 thông qua vào ngày 29/12/1959. Đây là đạo luật đầu tiên của Nhà nước ta
về HN&GĐ. Ngay tại Điều 1 đã khẳng định: “Nhà nước bảo đảm việc thực
hiện đầy đủ chế độ hôn nhân tự do và tiến bộ, một vợ một chồng, nam nữ bình
đẳng, bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và con cái”. Trên quan điểm đó, chế độ đa
thê chính thức bị xóa bỏ. Đây là quy định quan trọng hướng tới bảo vệ quyền
của phụ nữ trong quan hệ hôn nhân và gia đình. Đồng thời, Luật HN&GĐ
năm 1959 đã quy định xóa bỏ tư tưởng trọng nam khinh nữ (Điều 2). Cấm tảo
hôn, cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự do, yêu sách của cải trong việc
cưới hỏi, đánh đập hoặc ngược đãi vợ, cấm lấy vợ lẽ (Điều 3). Luật HN&GĐ
năm 1959 ghi nhận sự tự nguyện kết hôn cho hai bên nam nữ (Điều 4). Hành
vi cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự do đều bị cấm. Luật HN&GĐ 1959
còn quy định cho phép người đàn bà góa có quyền tái giá (Điều 8), vợ chồng
bình đẳng về mọi mặt trong gia đình (Điều 12) và “Vợ và chồng đều có quyền
sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi
cưới” (Điều 15). Khi ly hôn, nguyên tắc bảo vệ phụ nữ được ghi nhận. “Trong
trường hợp người vợ có thai, chồng chỉ có thể xin ly hôn sau khi vợ đã sinh đẻ
được một năm. Điều hạn chế này không áp dụng đối với việc xin ly hôn của
người vợ” (Điều 27). Khi chia tài sản chung của vợ chồng phải bảo vệ quyền
lợi của người vợ, của con cái (Điều 29). Các quy định này thực sự là một sự
“cởi trói” cho người phụ nữ, giúp họ vượt qua những lễ giáo phong kiến hà
khắc để thực hiện quyền tự do kết hôn, quyền đối với tài sản trong hôn nhân
và các quyền khác trong gia đình.
Ở miền Nam, từ năm 1954 đến năm 1975, chính quyền Sài Gòn ban hành
một hệ thống pháp luật riêng. Pháp luật điều chỉnh các quan hệ HN&GĐ tập trung
trong ba văn bản pháp luật là: Luật Gia đình năm 1959, Sắc luật số 15/64 và Bộ
dân luật năm 1972. Các văn bản pháp luật này đã thể hiện phần nào việc bảo vệ
quyền của phụ nữ. Chẳng hạn quy định cấm ly hôn trong Luật Gia đình năm 1959,
chế định ly thân, nghĩa vụ đồng cư của vợ chồng… đều thể hiện bảo vệ phụ nữ.
14
- Quyền phụ nữ trong pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam giai đoạn
từ 1975 đến nay
* Quyền phụ nữ trong Luật HN&GĐ năm 1986
Sau ngày 30/4/1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống
nhất. Theo Nghị quyết số 76/CP ngày 25/3/1977 của Hội đồng Chính Phủ, các
quy định về kết hôn trong Luật HN&GĐ năm 1959 và các văn bản hướng dẫn
thi hành được áp dụng thống nhất trên cả nước. Năm 1980, Hiến pháp mới
được ban hành. Tình hình kinh tế xã hội cũng đã có những thay đổi, Luật
HN&GĐ năm 1959 thể hiện những bất cập cần phải được bổ sung để đáp ứng
việc điều chỉnh các quan hệ HN&GĐ trong tình hình mới. Vì vậy, Luật
HN&GĐ năm 1986 được ban hành thay thế Luật HN&GĐ năm 1959. Các quy
định về quyền phụ nữ vẫn được ghi nhận trong các chế định: Kết hôn, ly hôn,
tài sản của vợ chồng... Về cơ bản, các quy định thể hiện nguyên tắc bảo vệ phụ
nữ giống như Luật HN&GĐ năm 1959.
* Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
Hiến pháp năm 1992 được ban hành đã ghi nhận quyền phụ nữ. Luật
HN&GĐ năm 2000 đã được Quốc hội khóa X kỳ họp thứ 7 thông qua vào ngày
9/6/2000, có hiệu lực từ ngày 1/1/2001. Có thể nói, chế định kết hôn trong Luật
HN&GĐ năm 2000 đã có một bước phát triển vượt bậc so với Luật HN&GĐ
năm 19865.
Luật HN&GĐ năm 2000 đã quy định quyền của phụ nữ trên cơ sở quyền
công dân theo Hiến pháp năm 1992: “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp
luật”. Bên cạnh đó, BLDS năm 1995 quy định rõ nguyên tắc bình đẳng trong
quan hệ dân sự (Điều 8), bình đẳng về quyền nhân thân, quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu tài sản hợp pháp của cá nhân, quyền bình đẳng của vợ chồng
trong việc đứng tên trên các giấy tờ đăng ký quyền sở hữu tài sản, quyền thừa
kế và để lại thừa kế, quyền tự do sáng tạo.
5 Đinh Trung Tụng (2001), “Khái quát một số điểm mới của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000”, Tạp chí
dân chủ và pháp luật (Số chuyên đề về Luật HN & GĐ năm 2000, tr.76-85., tr. 81
15
Không chỉ đưa ra những quy định chung áp dụng cho cả nam và nữ, pháp
luật nước ta thời kỳ đó còn quy định nhiều khoản trực tiếp bảo vệ quyền lợi của
phụ nữ. Nhà nước bảo hộ HN&GĐ theo nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến
bộ, một vợ, một chồng và vợ chồng bình đẳng (Hiến pháp, BLDS, Luật
HN&GĐ). Luật HN&GĐ năm 2000 quy định trong các nguyên tắc cơ bản của
chế độ HN&GĐ Việt Nam: “Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo
vệ phụ nữ, trẻ em, giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của
người mẹ” (Điều 2 Luật HN&GĐ năm 2000). Nhà nước ta đặc biệt tôn trọng
và bảo vệ quyền được làm mẹ của người phụ nữ đơn thân. Quyền lợi của trẻ em
được sinh ra trên cơ sở hôn nhân hoặc không có hôn nhân. Pháp luật bảo vệ
quyền làm mẹ của phụ nữ, quyền được hưởng các quyền lợi như người như phụ
nữ có chồng mà sinh con. Quy định này góp phần bảo vệ quyền làm mẹ của
phụ nữ đơn thân và quyền lợi của trẻ em không sinh ra trên cơ sở hôn nhân của
cha mẹ. Vợ chồng có quyền lựa chọn nơi cư trú một cách bình đẳng (Điều 20)
và người chồng không có quyền yêu cầu xin ly hôn khi người vợ đang có thai
hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi (Điều 85). Khi ly hôn, tài sản chung của
vợ chồng được phân chia theo nguyên tắc bình đẳng (Điều 95). Ngoài ra, vợ
chồng bình đẳng về quyền và trách nhiệm đối với con cái (Điều 34). Trong
trường hợp ly hôn, vợ chồng vẫn có trách nhiệm như nhau đối với con chung,
không phụ thuộc vào đứa con đó sống chung với ai (Điều 92, Điều 94). Với các
quy định trên của Luật HN&GĐ năm 2000, quyền của phụ nữ đã được đảm bảo
bằng việc quy định sự bình đẳng giữa vợ và chồng trong các quan hệ HN&GĐ,
không có sự phân biệt đối xử nào hoặc phủ nhận các quyền của phụ nữ.
1.4. Pháp luật quốc tế với vấn đề bảo vệ quyền của phụ nữ trong quan
hệ hôn nhân và gia đình
Bảo vệ quyền phụ nữ, không phải là vấn đề riêng của mỗi một quốc gia
mà đó là vấn đề chung của toàn thế giới. Xuất phát từ thực tế, quyền phụ nữ bị
vi phạm do sự phân biệt đối xử với phụ nữ diễn ra ở khắp nơi trên thế giới cho
nên vấn đề cốt lõi trong việc bảo đảm quyền các quyền con người cho phụ nữ
chính là bảo đảm các quyền bình đẳng giữa nam và nữ. Về điểm này, pháp luạt
16
quốc tế đã sớm cụ thể hóa và ghi nhận bằng các quy phạm luật trong các Văn
kiện quốc tế về quyền con người. Ngay từ khi mới thành lập, Liên hiệp quốc đã
xác định rõ mục tiêu hành động của họ là phấn đấu thực hiện việc bảo đảm
quyền bình đẳng giữa nam và nữ. Điều này thể hiện rõ trong Điều 1 Hiến
Chương Liên hiệp quốc: “…Khuyến khích phát triển sự tôn trọng các quyền
con người và các quyền tự do cơ bản cho tất cả mọi người, không phân biệt
chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo”. Quyền bình đẳng này tiếp tục
được phát triển và khẳng định trong Điều 2 “Tuyên ngôn thế giới về nhân
quyền” (1948): “ Mọi người được hưởng các quyền tự do cơ bản nêu trong bản
Tuyên ngôn này, không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, mầu da,
giới tính, tôn giáo, chính kiến hay quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hay xã
hội, giống nòi hay các tình trạng khác”. Tiếp đó, các Văn kiện quốc tế về
quyền con người khác, trong những chừng mực nhất định đều đề cập đến vấn
đề quyền con người của phụ nữ: Công ước quốc tế về các quyền kinh tế - xã
hội – văn hóa và Công ước quốc tế về các quyền dân sự - chính trị đều chỉ rõ:
Các quốc gia thành viên cam kết đảm bảo quyền bình đẳng giữa nam và nữ trên
cả hai lĩnh vực dân sự cũng như chính trị và kinh tế - xã hội - văn hóa. Bên
cạnh đó, quyền phụ nữ còn được đề cập đến trong rất nhiều các Văn kiện khác
của Liên hiệp quốc và các tổ chức liên Chính phủ như: Công ước Giơ – ne –
vơ 1949 về việc bảo vệ thường dân trong chiến tranh; Tuyên ngôn Viên và
chương trình hành động 1993. Đặc biệt, một số Văn kiện quốc tế còn đề cập
đến quyền con người của người phụ nữ: Công ước về các quyền chính trị của
người phụ nữ (1952); Công ước về quốc tịch của phụ nữ khi kết hôn (1957);
Tuyên ngôn về loại bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (1967). Mặc
dù vậy, Tuyên bố Teheran (Tuyên bố của hội nghị nhân quyền thế giới năm
1968) vẫn chỉ rõ: “Sự phân biệt đối xử và do đó phụ nữ đang là nạn nhân tại
nhiều vùng khác nhau trên thế giới phải được xóa bỏ. Tình trạnh thấp kém hơn
của phụ nữ là đi ngược với Hiến chương Liên hợp quốc cũng như các quy định
của tuyên ngôn về loại trừ sự phân biệt đối xử với phụ nữ là cần thiết vì sự tiến
bộ của nhân loại”
17
Mặc dù, vấn đề quyền của phụ nữ được đề cập khá sớm trong các văn
bản pháp luật quốc tế và luôn luôn chiếm được sự quan tâm trong lĩnh vực lập
pháp, song các văn kiện này vẫn chưa đủ sức để bảo vệ các quyền con người
của phụ nữ. Thực tế này càng đòi hỏi phụ nữ cần phải có một sự bảo vệ đặc
biệt bằng pháp luật. Cần phải có một văn bản pháp luật đề cập đến quyền con
người của phụ nữ một cách toàn diện và đề ra các biện pháp cụ thể nhằm khắc
phục những cản trở trong việc thực hiện các quyền con người của phụ nữ.
Chính vì vây, Công ước về việc xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử
(CEDAW) của Hội đồng Liên hiệp quốc đã được thông qua ngày 10/12/1979.
Đây là một văn bản pháp lý quốc tế quan trọng, đáp ứng được những yêu cầu
khách quan trong việc bảo vệ các quyền con người của phụ nữ. Công ước đề
cập một cách khá toàn diện các điều kiện đảm bảo thực hiện nam nữ bình đẳng
và chỉ ra rằng sự “phân biệt đối xử” chính là nguyên nhân dẫn đến các quyền
con người của phụ nữ không được đảm bảo. Vì lẽ đó, việc quan trọng của mỗi
quốc gia thành viên cần phải thực hiện là phải loại bỏ sự phân biệt đối xử với
phụ nữ.
Thuật ngữ “ phân biệt đối xử” theo tinh thần của CEDAW được hiểu là:
“…bất kỳ sự phân biệt, loại trừ hay hạn chế nào dựa trên cơ sở giới tính có
tác dụng hoặc nhằm mục đích làm tổn hại hoặc vô hiệu hóa việc phụ nữ được
công nhận, hưởng thụ hay thực hiện các quyền con người và những quyền tự
do cơ bản trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, dân sự và các
lĩnh vực khác, bất kể tình trạng hôn nhân của họ như thế nào vè trên cơ sở bình
đẳng giữa nam và nữ” (CEDAW).
Với tinh thần đó, Công ước này đã có một hướng tiếp cận hoàn toàn mới.
CEDAW đảm bảo sự bình đẳng cho người phụ nữ bằng cách chỉ ra những lĩnh
vực cụ thể có sự phân biệt đối xử với phụ nữ như lĩnh vực HN&GĐ, dân sự…
Đặc biệt, trong lĩnh vực HN&GĐ, do tác động của tôn giáo, phong tục tập quán
sự phân phân biệt đối xử đối với người phụ nữ diễn ra khá đậm nét. CEDAW
có những quy phạm riêng áp dụng cho phụ nữ nhằm đạt được mục tiêu bình
đẳng về quyền và cơ hội giữa nam và nữ: “ Các nước tham gia Công ước phải
18
áp dụng mọi biện pháp thích hợp để xóa bỏ sự phân biệt đối với người phụ nữ
trong tất cả các vấn đề liên quan đến hôn nhân và quan hệ gia đình và đặc biệt,
phải đảm bảo trên cơ sở bình đẳng nam nữ”6.
Trên cơ sở này, CEDAW xác định những biện pháp phù hợp nhằm xóa bỏ
triệt để sự bất bình đẳng với người phụ nữ mà nội dung là: Phải cụ thể hóa bằng
pháp luật quyền bình đẳng giữa nam và nữ bảo đảm thực hiện bằng pháp luật
trên thưc tế. Thông qua pháp luật và các hình thức khác trừng phạt nhằm ngăn
cấm mọi sự phân biệt đối xử đối với người phụ nữ.CEDAW cũng đặt ra yêu cầu
đối với các quốc gia thành viên phải nhận thức đúng sự đóng góp của phu nữ
trên tất cả các lĩnh vực đồng thời xác đỉnhõ mục tiêu hành động nhằm thực hiện
công bằng xã hội, đảm bảo quyền lợi cho phụ nữ. Điều đó cũng có nghĩa, các
quốc gia thành viên Công ước phải thực hiện tốt việc “nội luật hóa” để đảm bảo
sự bình đẳng giữa nam và nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Như vậy, xét về bản chất, CEDAW được ban hành nhằm mục đich trao
cho phụ nữ những quyền con người mà pháp luật quốc tế đã thừa nhận nhưng
phụ nữ chưa được hưởng trên thực tế bởi họ phải chịu sự phân biệt đối xử.
Chính vì vậy, nội dung quan trọng đầu tiên về quyền con người của phụ nữ mà
CEDAW ghi nhân và bảo vệ là quyền không bị phân biệt đối xử. Theo đó các
quốc gia thành viên phải áp dụng các biện pháp thích hợp và không chậm chễ,
để xóa bỏ mọi sự phân biệt đối xử với phụ nữ.
Tuy nhiên, cần phải nói thêm rằng pháp luật quốc tế về vấn đề quyền phụ
nữ vẫn luôn đặt trong sự phát triển và hoàn thiện bởi vì cuộc đấu tranh giải
phóng phụ nữ là một cuốc đấu tranh lâu dài đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn
khám phá và sáng tạo. Hơn thế nữa, mặc dù các quốc gia trên thế giới đều hết
sức phấn đấu cho việc bảo vệ các quyền con người của phụ nữ, song trên thực
tế quyền phụ nữ vẫn chưa thực sự được đảm bảo. Chính vì vậy, pháp luật quốc
tế về quyền phụ nữ không ngừng được hoàn thiện với mong muốn bảo vệ tốt
hơn các quyền con người của người phụ nữ. Các văn kiện quốc tê về quyền con
người của phụ nữ tiếp tục được hoàn thiện trong sự phát triển của xã hội:
6 Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh “Các văn kiện quốc tế về quyền con người” . Hà Nội năm 1998.
19
Tuyên ngôn Viên và chương trình hành động (1993); Tuyên ngôn về loại bỏ
các hình thức bạo lực chống phụ nữ (1994); Tuyên ngôn Bắc Kinh và Cương
lĩnh hành động (1995)… Đây là những cơ sở pháp lý vững chắc để chúng ta
bảo vệ các quyền phụ nữ trong ngôi nhà chung của thế giới. Tin tưởng rằng,
với sự đóng góp to lớn cho xã hội loài người và vị trí quan trọng của mình
trong xã hội, phụ nữ xứng đáng và nhất định sẽ được hưởng đầy đủ các quyền
con người mà pháp luật quốc tế ghi nhận và bảo vệ.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong những năm qua, đặc biệt là trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21, thế
giới đã đạt được những tiến bộ đáng kể về bình đẳng giới, dần dần xóa bỏ
khoảng cách về phân biệt đối xử về bình đẳng giới, đó chính là khẳng định,
nâng cao vai trò, vị trí của người phụ nữa trong xã hội. Cụ thể, trong lĩnh vực
HN&GĐ, phụ nữ có vai trò rất quan trọng, luôn kề vai sát cánh thực hiện
những chức năng xã hội: Chức năng sinh đẻ, chức năng giáo dục và chức năng
kinh tế. Hiện nay, dưới sự ảnh hưởng của pháp luật quốc tế, các công ước mà
Việt Nam tham gia về quyền con người, công ước CEDAW… pháp luật Việt
Nam cũng đã có những quy định góp phần làm căn cứ pháp lý để bảo vệ quyền
lợi của người phụ nữ nói chung và trong lĩnh vực HN&GĐ nói riêng. Tuy
nhiên, để những quy định này của pháp luật có tính thực thi trên thực tế và đạt
được mục đích thì cần quan tâm đến công tác thực hiện pháp luật, có thực hiện
tốt các quy định này mới đảm bảo được việc đưa pháp luật đến với đời sống,
tạo cơ hội, tiền đề cho sự phát triển của phụ nữ, góp phần xây dựng đất nước
giàu mạnh, bình đẳng, dân chủ và văn minh.
20
Chương 2
BẢO VỆ QUYỀN PHỤ NỮ
TRONG PHÁP LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
2.1. Bảo vệ quyền của phụ nữ trong chế định kết hôn
2.1.1. Về tuổi kết hôn
Bảo vệ quyền của phụ nữ trong quan hệ HN&GĐ đã được thể hiện trong
nhiều chế định của Luật HN&GĐ năm 2014. Trong chế định kết hôn, bảo vệ
quyền của phụ nữ trong quan hệ HN&GĐ trước hết thể hiện trong quy định về
tuổi kết hôn. Luật HN&GĐ năm 2014 quy định tuổi kết hôn tối thiểu đối với nữ
là đủ 18 tuổi (trước đây là từ 18 tuổi) và đối với nam là đủ 20 tuổi (trước đây là
từ 20 tuổi) là nhằm bảo vệ sức khỏe cho nam nữ, đặc biệt là cho phụ nữ khi làm
mẹ. Nếu tuổi kết hôn quá sớm thì đối với nữ, cơ thể chưa phát triển hoàn thiện,
khi mang thai, sinh con thì ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của cả mẹ và con.
Theo Luật HN&GĐ năm 2000 và các văn bản hướng dẫn thi hành thì chỉ cần
nữ bước sang tuổi 18 là kết hôn được. Quy định này đã hạn chế phụ nữ khi đã
kết hôn mà chưa đủ 18 tuổi thì không được tham gia các giao dịch, trong khi
theo pháp luật hiện hành, nhiều giao dịch (về bất động sản, tín dụng…) đòi hỏi
chủ thể của giao dịch phải là người từ đủ 18 tuổi trở lên. Bên cạnh đó, Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2004 quy định đương sự là người từ đủ 18 tuổi trở lên mới
có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự. Như vậy, nếu theo Luật HN&GĐ
năm 2000, nữ bước sang tuổi 18 mà kết hôn, nếu sau khi kết hôn và đến thời
điểm có yêu cầu ly hôn họ chưa đủ 18 tuổi thì họ không thể yêu cầu ly hôn
được. Do vậy, Luật HN&GĐ năm 2014 quy định nữ đủ 18 tuổi trở lên được kết
hôn để phù hợp với Bộ luật dân sự và Bộ luật Tố tụng dân sự. Đồng thời, người
chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên, khi xác lập, thực hiện giao dịch dân
sự phải có người đại diện, trong khi đó thì về mặt lý luận không thể đại diện
trong việc kết hôn. Như vậy, quy định tuổi kết hôn tối thiểu đối với nữ là đủ 18
tuổi nhằm bảo vệ sức khỏe cho phụ nữ, đảm bảo phụ nữ có thể tự mình thực
hiện được các quyền khi xác lập quan hệ hôn nhân, đảm bảo nữ được thể hiện