Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Công tác quản lý hộ tịch, thực tiễn tại huyện sóc sơn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (752.31 KB, 87 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ KIM NGÂN

TÊN ĐỀ TÀI LUẬN VĂN
CÔNG TÁC QUẢN LÝ HỘ TỊCH, THỰC TIỄN TẠI HUYỆN SÓC SƠNTHÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật hành chính hiến pháp
Mã số: 60380102
Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Thị Hiền

HÀ NỘI - NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các kết quả
nghiên cứu nêu ra trong luận văn là trung thực, những kết luận khoa học của luận
văn chưa từng được công bố tại bất kỳ công trình khoa học nào.
Hà Nội, ngày 05 tháng 8 năm 2016
Xác nhận của Giảng viên hướng dẫn

Học viên thực hiện

TS. Trần Thị Hiền

Nguyễn Thị Kim Ngân




Mục Lục
1.

Tính cấp thiết của đề tài. ....................................................................................................................... 1

2.

Tình hình nghiên cứu của đề tài. ........................................................................................................... 2

3.

Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn..................................................................... 4

4.

Mục tiêu nghiên cứu của luận văn ........................................................................................................ 4

5.

Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn .................................................................................................... 5

6.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu............................................................................................ 5

7.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn ......................................................................................... 6


9.

Bố cục của luận văn .............................................................................................................................. 6

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUẢN LÝ HỘ TỊCH ................................................ 7
1.1.

Khái quát về hộ tịch và quản lý hộ tịch......................................................................................... 7

1.1.1.

Khái niệm và đặc điểm của hộ tịch ....................................................................................... 7

1.1.2.

Khái niệm quản lý hộ tịch. .................................................................................................. 14

1.1.3.

Đặc điểm của quản lý hộ tịch.............................................................................................. 20

1.2.

Vai trò của quản lý hộ tịch. ......................................................................................................... 22

1.3.

Nguyên tắc quản lý hộ tịch.......................................................................................................... 26


1.4. Mục tiêu, yêu cầu của quản lý hộ tịch………………………………………………………………..………28
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT QUẢN LÝ HỘ TỊCH VÀ THỰC TIỄN QUẢN LÝ HỘ
TỊCH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN SÓC SƠN.............................................................................................. 32
2.1.

Thực trạng pháp luật quản lý hộ tịch ............................................................................................. 32

2.2.

Thực tiễn thực hiện quản lý hộ tịch trên địa bàn huyện Sóc Sơn – Thành phố Hà Nội .............. 47

CHƯƠNG 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ HỘ TỊCH. .............. 63
3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật hộ tịch và nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý hộ tịch trên địa
bàn huyện Sóc Sơn – Hà Nội. ................................................................................................................. 63
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Hộ tịch ...................................................................... 68
3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả quản lý hộ tịch tại huyện Sóc Sơn – Hà Nội. ............... 72
KẾT LUẬN................................................................................................................................................. 80


MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài.

Quản lý hộ tịch là nhiệm vụ quan trọng luôn được các quốc gia quan tâm thực
hiện. Hoạt động này là cơ sở để Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền con người,
quyền, nghĩa vụ công dân, đồng thời có biện pháp quản lý dân cư một cách khoa
học, phục vụ thiết thực cho việc xây dựng, hoạch định chính sách phát triển kinh
tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của đất nước. Tại hầu hết các nước, các sự kiện
hộ tịch của con người từ khi sinh ra đến khi chết như khai sinh, kết hôn, ly hôn,

nuôi con nuôi, giám hộ, thay đổi, cải chính hộ tịch, khai tử… đều được quản lý
chặt chẽ.
Tại Việt Nam hiện nay, quản lý hộ tịch được thực hiện theo Luật hộ tịch 2014.
Trước khi luật mới có hiệu lực, các vấn đề về hộ tịch được điều chỉnh bằng nghị
định 158/2005/NĐ-CP của chính phủ về hộ tịch. So với nghị định 158/2005/NĐCP thì luật mới ra đời đã có những quy định tiến bộ hơn, hỗ trợ người dân nhiều
hơn trong công tác đăng ký hộ tịch, giúp việc quản lý hộ tịch của các cơ quan chức
năng được dễ dàng và thuận tiện hơn. Tuy nhiên, sau 06 tháng luật có hiệu lực trên
thực tế, đã nảy sinh ra những khó khăn, như : những quy định của Luật đòi hỏi khá
cao mà thực tế hiện hành chưa đáp ứng được kịp thời, luật mới thi hành nên còn
nhiều quy định còn gây vướng mắc chưa có văn bản giải thích, cơ sở vật chất,
nguồn nhân lực chưa được chuẩn bị sẵn sằng để tiếp cận với những thay đổi….
Những khó khăn thực tiễn như vậy, dẫn đền việc thực hiện đăng ký và quản lý hộ
tịch theo Luật hộ tịch chưa thực sự đạt hiệu quả như mong muốn.
Là một huyện của thành phố Hà Nội, một trong bốn thành phố được thí điểm thực
hiện cấp số định danh cá nhân theo luật Hộ tịch, khi triển khai thi hành Luật, huyện
Sóc Sơn cũng đã có nhiều cố gắng, nỗ lực để thực hiện tốt công tác quản lý hộ tịch
1


trên địa bàn. Với sự quan tâm, chỉ đạo của các cấp ủy, cấp chính quyền nên quản lý
về hộ tịch ở Sóc Sơn cũng dần dần được chính xác, đầy đủ. Song cũng như nhiều
địa phương khác trên cả nước, công tác quản lý hộ tịch ở Sóc Sơn cũng gặp nhiều
khó khăn, hạn chế.
Nghiên cứu về quản lý hộ tịch nói chung và đánh giá thực tế thực hiện hoạt động
quản lý hộ tịch tại huyện Sóc Sơn nói riêng nhằm làm rõ hơn nữa cơ sở lý luận,
thực tiễn của quản lý hộ tịch, chỉ ra những nguyên nhân của các hạn chế, trên cơ sở
đó, đưa ra những kiến nghị góp phần nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả quản lý
nhà nước trên địa bàn huyện Sóc Sơn. Đây chính là lý do để đề tài “công tác quản
lý hộ tịch, thực tiễn tại huyện Sóc Sơn – thành phố Hà Nội” được lựa chọn để
nghiên cứu.

2.

Tình hình nghiên cứu của đề tài.

Đã có nhiều công trình nghiên cứu, các luận án, luận văn, bài báo tạp chí đề cập
đến vấn đề hộ tịch và các chính sách thực hiện công tác hộ tịch. Trước khi luật Hộ
tịch 2014 ra đời, các công trình nói về vấn đề hộ tịch như:
- Luận văn “ Thực hiện pháp luật về hộ tịch trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
hiện nay”; luận văn thạc sỹ luật học, Lê Thị Minh Hiếu; PGS.TS Nguyễn
Thị Hồi hướng dẫn
- Bài viết “Sự cần thiết ban hành Luật Hộ tịch”, tác giả Phạm Trọng Cường,
tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 11/2005.
- Bài viết “Một số vướng mắc về đăng ký và quản lý hộ tịch”, tác giả Phạm
Văn Chung, tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 01/2010.
- Bài viết “Một vài suy nghĩ về hộ tịch và pháp luật hộ tịch”, tác giả Trần Duy
Rô Nin, tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 11/2008.
- Bài viết “Quản lý nhà nước về hộ tịch ở nước ta hiện nay”, tác giả Đinh
Ngọc Giang, tạp chí Quản lý nhà nước, số 01/2015.

2


Đến khi Luật hộ tịch 2014 được ban hành và có hiệu lực từ ngày 01/01/2016 đến
nay, thì số lượng các công trình nghiên cứu về hộ tịch chưa nhiều. Có thể kể đến
một số công trình nghiên cứu về vấn đề này như:
-

Bài “ Đào tạo, bồi dưỡng công chức tư pháp – hộ tịch đáp ứng yêu cầu triển

khai Luật hộ tịch” tác giả Trần Thu Hường, báo Dân chủ và pháp luật số chuyên đề

4/2015.
-

Bài “Quản lý nhà nước về hộ tịch ở nước ta hiện nay”, tác giả Đinh Ngọc

Giang, báo Quản lý nhà nước, số 01/2015.
-

Bài viết “Một số vấn đề về triển khai luật hộ tịch”, tác giả Uyên Nhi, Báo

Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề 4/2015.
Các công trình nghiên cứu trên đây nhìn chung đã cung cấp một khối lượng kiến
thức phong phú về những vấn đề lý luận về hộ tịch, quản lý hộ tịch, những vấn đề
bất cập khi thực hiện công tác quản lý hộ tịch theo nghị định 158/NĐ-CP 2005 của
Chính phủ, định hướng về việc xây dựng văn bản luật hộ tịch thay thế Nghị định
158/NĐ-CP về hộ tịch cũng như bình luận về những nội dung cơ bản của Luật Hộ
tịch 2014, về công tác chuẩn bị để thi hành Luật hộ tịch và những bất cập nảy sinh
khi triển khai thi hành Luật trên thực tế.
Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu chuyên sâu,
riêng biệt về quản lý hộ tịch trên địa bàn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội. Nên
đây cũng là lý do để đài tài này được lựa chọn nghiên cứu. Luận văn sẽ kế thừa các
kết quả nghiên cứu của các công trình nghiên cứu trên đây như một thành tựu của
nghiên cứu khoa học và sử dụng để giải quyết các vấn đề trong luận văn. Vấn đề
nghiên cứu mà luận văn hướng tới là vấn đề mới, cần thiết, không trùng lặp với các
công trình khoa học đã được công bố.

3


3.


Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là cơ sở lý luận về quản lý hộ tịch như khái
niệm, đặc điểm và vai trò của quản lý hộ tịch; thực tiễn pháp luật về công tác quản
lý hộ tịch tại cấp xã và huyện; thực tiễn công tác quản lý hộ tịch tại các xã trên địa
bàn huyện Sóc Sơn và tại UBND huyện Sóc Sơn thành phố Hà Nội.
Với chuyên ngành luật hành chính, phạm vi nghiên cứu của luận văn là các quy
định của pháp luật về hoạt động quản lý hộ tịch (bao gồm hoạt động đăng ký và
quản lý hộ tịch) tại cấp Xã và Huyện, và thực tế thi hành tại Huyện Sóc Sơn, Hà
Nội.
Về nội dung, luận văn tìm hiểu các quy định về công tác quản lý hộ tịch tại cấp
huyện và xã theo Luật Hộ tịch 2014, trong công tác quản lý hộ tịch, luận văn tập
trung nghiên cứu pháp luật về 2 vấn đề cụ thể là trách nhiệm của cấp xã và cấp
huyện trong quản lý hộ tịch và công tác đăng ký hộ tịch tại UBND cấp Xã và
UBND cấp Huyện. Bên cạnh đó, luận văn đưa ra thực tế thực hiện công tác quản lý
hộ tịch tại Huyện Sóc Sơn, Hà Nội; các kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn các quy
định về quản lý hộ tịch và để công tác quản lý hộ tịch trên địa bàn Huyện Sóc Sơn
thực hiện có hiệu quả.
Về không gian, luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu việc thực hiện công tác
quản lý hộ tịch trên địa bàn Huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội và giới hạn trong
phạm vi thời gian là các văn bản pháp luật quy định về quản lý hộ tịch trước khi
Luật hộ tịch 2014 ra đời, và quản lý hộ tịch trong Luật Hộ tịch 2014.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là làm rõ hơn cơ sở lý luận, thực tiễn của quản
lý hộ tịch ở cấp xã, và cấp huyện . Đánh giá thực trạng quản lý về hộ tịch ở cấp xã,
cấp huyện ở Sóc Sơn thời gian qua, nêu được những kết quả đạt được, hạn chế và
những nguyên nhân của chúng. Trên cơ sở đó đưa ra những đề xuất góp phần nâng
cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý hộ tịch trên địa bàn Huyện Sóc Sơn.
4



5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, luận văn sẽ tìm hiểu các nội dung liên quan
thông qua trả lời các câu hỏi sau:
-

Khái niệm quản lý hộ tịch, vị trí vai trò và đặc điểm của quản lý hộ tịch là gì?

-

Quản lý hộ tịch tại cấp huyện, xã được quy định trong pháp luật hiện hành như
thế nào?

-

Thực tế thi hành quy định pháp luật hộ tịch tại Huyện Sóc Sơn, Hà Nội ra sao?

-

Quan điểm và kiến nghị để thực hiện tốt hơn công tác quản lý hộ tịch như thế
nào?

6.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu đề tài là những luận điểm trong học thuyết Mác
– Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về quản lý hành chính nhà nước, các quan điểm
của Đảng cộng sản Việt Nam về quản lý hộ tịch.

Đồng thời, tác giả còn tham khảo và kế thừa có chọn lọc một số công trình nghiên
cứu khoa học.
Các phương pháp tác giả sử dụng trong luận văn gồm: phương pháp phân tích,
tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, phương pháp lịch sử, phương pháp hệ thống, phương
pháp so sánh…
Trong chương 1, để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về quản lý hộ tịch, luận văn
sử dụng phương pháp hệ thống, so sánh, phân tích nhằm làm rõ thêm quan niệm,
nội dung của công tác quản lý hộ tịch. Bằng việc sử dụng phương pháp thống kê,
so sánh, phân tích…, chương 2 của luận văn đã chỉ ra được thực trạng công tác
quản lý hộ tịch trên địa bàn huyện Sóc Sơn trong những năm trước khi có Luật hộ
tịch và sau khi Luật hộ tịch đi vào cuộc sống, phân tích thực trạng các quy định
pháp luật hiện hành. Ở chương 3, phương pháp phân tích tổng hợp được sử dụng
để đưa ra giải pháp tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý hộ
tịch trên địa bàn huyện Sóc Sơn hiện nay.
5


7.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn

Là luận văn nghiên cứu về việc quản lý hộ tịch tại cấp xã và cấp huyện theo Luật
hộ tịch 2014, tác giả mong muốn có thể đóng góp một số vấn đề khoa học và thực
tiễn về quản lý hộ tịch cụ thể như sau:
Thứ nhất, luận văn đưa ra những quan niệm, đặc điểm của hộ tịch và quản lý hộ
tịch, phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về hộ tịch.
Thứ hai, luận văn đưa ra những số liệu, thống kê thực tế về việc thi hành luật và
công tác đăng ký quản lý hộ tịch trên địa bàn huyện. Từ đó rút ra những nhận xét
đánh giá về mức độ cũng như hiệu quả thi hành Luật Hộ tịch
Thứ ba, dựa vào những thực tế của công tác hộ tịch, luận văn đã đúc kết những

nguyên nhân và tìm ra những đề xuất đề hoàn thiện hơn pháp luật về hộ tịch và
những kiến nghị để việc thi hành luật đạt được hiệu quả cao hơn
9. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được cấu trúc làm ba chương gồm:
Chương 1. Cơ sở lý luận và pháp lý về quản lý hộ tịch.
Chương 2: Thực trạng pháp luật quản lý hộ tịch và thực tiễn quản lý hộ tịch trên
địa bàn Huyện Sóc Sơn – Hà Nội
Chương 3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả quản lý hộ tịch.

6


CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUẢN LÝ HỘ TỊCH
1.1.

Khái quát về hộ tịch và quản lý hộ tịch

1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của hộ tịch
“Hộ tịch” là một từ ngoại lai được du nhập vào ngôn ngữ tiếng Việt nhưng rất khó
xác định thời điểm xuất hiện. Với bản chất là một từ Hán chính phụ, được ghép bởi
hai thành tố có nghĩa độc lập, trong đó “ tịch” là thành tố chính, việc tổ hợp hai từ
đơn “ hộ” và “tịch” là một trường hợp đặc biệt về mặt ngữ nghĩa. Theo đó, từ “hộ”
- khi sử dụng là danh từ có nhiều nghĩa khác nhau, nhưng trong đó có một nghĩa
trực tiếp là “dân sự” hoặc “nhà ở”, hiểu rộng ra là “đơn vị để quản lý dân số, gồm
những người cùng ăn ở với nhau”. Tương tự, từ “tịch” có nghĩa là “sổ sách” hoặc
là “sổ sách đăng ký quan hệ lệ thuộc”. Tuy nhiên, việc tổ hợp hai từ đơn này thành
danh từ “hộ tịch” lại là một trường hợp rất đặc biệt về mặt ngôn ngữ, và được sử
dụng với thuộc tính kết hợp hạn chế (hạn chế về việc sử dụng và khả năng tổ hợp
của từ ngữ)1. Chính do tính chất đặc biệt ấy nên khảo cứu qua các từ điển tiếng

Việt thì thấy có nhiều cách giải nghĩa từ “hộ tịch” rất khác nhau.
Các Từ điển Hán - Việt của nhiều tác giả khác nhau (Đào Duy Anh, Nguyễn Văn
Khôn, Hoàng Thúc Trâm, Nguyễn Lân, Bửu Kế) đều có sự tương đồng và những
khía cạnh khác biệt trong cách giải nghĩa từ “hộ tịch”. Dưới đây là một số cách giải
nghĩa:
“Hộ tịch: Quyển sổ của Chính phủ biên chép số người, chức nghiệp và tịch quán
của từng người”2;
“Hộ tịch: Sổ biên dân số có ghi rõ tên họ, quê quán và chức nghiệp của từng

1
2

Viện Ngôn ngữ học (Hoàng Phê chủ biên): Từ điển tiếng Việt, in lần thứ năm, Nxb. Đà Nẵng, 1998, tr. 9.
Đào Duy Anh: Giản yếu Hán - Việt từ điển, quyển thượng, Nxb, Khoa học xã hội, 1992, tr. 384.

7


người”3;
“Hộ tịch: Sổ biên nhận số một địa phương hoặc cả toàn quốc, trong có ghi rõ tên
họ, quê quán và chức nghiệp của từng người”4;
“Hộ tịch: Sổ sách ghi chép tên, họ, nghề nghiệp dân cư ngụ trong xã phường”5;
"Hộ tịch: Quyển sổ ghi chép tên tuổi, quê quán, nghề nghiệp của mọi người trong
một địa phương"6;
Bên cạnh những cách giải nghĩa của các từ điển Hán - Việt nói trên, một số từ điển
lại giải nghĩa từ “hộ tịch” ở những khía cạnh khác hẳn. Dưới đây là một số ví dụ:
"Hộ tịch: sổ của cơ quan dân chính đăng ký cư dân trong địa phương mình theo
từng hộ"7 ;
"Hộ tịch: Các sự kiện trong đời sống của một người thuộc sự quản lý của pháp
luật"8.

"Hộ tịch: quyền cư trú, được chính quyền công nhận của một người tại nơi mình ở
thường xuyên, của những người thường trú thuộc cùng một hộ, do chính quyền cấp
cho từng hộ để xuất trình khi cần"9;
Như vậy, nghĩa của từ "hộ tịch" xét về góc độ ngôn ngữ còn tồn tại nhiều cách hiểu
khác nhau, thậm chí, có cuốn từ điển giải nghĩa còn thể hiện sự nhầm lẫn cơ bản
giữa hai khái niệm hộ tịch và hộ khẩu. Điều này phản ánh một thực tế là sự nhầm
lẫn giữa hai khái niệm “hộ tịch” và “hộ khẩu” trong nhận thức xã hội là khá phổ
biến.

3

Nguyễn Văn Khôn: Hán - Việt từ điển, Nhà sách Khai trí, Sài Gòn, 1960, tr. 404.
Hoàng Thúc Trâm: Hán - Việt tân từ điển, Tân Sanh ấn quán, Sài Gòn, 1974, tr. 296.
5
Bửu Kế: Từ điển Hán - Việt từ nguyên, Nxb. Thuận Hoá, Thành phố Hồ Chí Minh, 1999, tr. 814.
6
Nguyễn Lân (chủ biên): Từ điển từ và ngữ Hán Việt, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1989, tr. 321.
7
Viện Ngôn ngữ học (Hoàng Phê chủ biên): Từ điển tiếng Việt, in lần thứ năm, Nxb. Đà Nẵng, 1998, tr. 442.
8
Nguyễn Như Ý (chủ biên): Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb. Văn hoá - Thông tin, 1998, tr. 835.
9
Nguyễn Văn Đạm: Từ điển tường giải và liên tưởng tiếng Việt, Nxb.Văn hoá TT, Hà Nội,1999, tr. 385.
4

8


Về khía cạnh pháp lý
Ở nước ta , khái niệm “hộ tịch” lần đầu tiên được định nghĩa trong các giáo trình

giảng dạy của Đại học Luật khoa Sài Gòn dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa : Tác
giả Phan Văn Thiết có thể được coi là người đầu tiên trình bày quan niệm “hộ tịch”
trong cuốn tài liệu chuyên khảo xuất bản năm 1958 như sau : “Hộ tịch – còn gọi là
nhân thể bộ - là cách sinh hợp pháp của một công dân trong gia đình và trong xã
hội . Hộ tịch căn cứ vào ba hiện tượng quan trọng nhất của con người: sinh, giá thú
và tử”. Các tác giả Vũ Văn Mẫu – Lê Đình Chân lại trình bày một định nghĩa khác
về khái niệm “hộ tịch”: “Hộ tịch là sổ biên chép các việc liên hệ đến các người
trong nhà. Hộ tịch gồm ba sổ để ghi chép các sự kiện giá thú, khai sinh và khai tử.
Tác giả Trần Thúc Linh, người đã dày công biên soạn cuốn Danh từ pháp luật lược
giải vốn được đánh giá là một trong những từ điển chuyên ngành pháp lý đầu tiên
được biên soạn một cách khá kỹ lưỡng, toàn diện không đưa ra khái niệm về “hộ
tịch” mà chỉ đưa ra khái niệm về “chứng thư hộ tịch”. Tuy nhiên khái niệm về
“chứng thư hộ tịch” của Trần Thúc Linh đã hàm chứa khái niệm về “hộ tịch”:
Chứng thư hộ tịch là những giấy tờ công chứng dùng để chứng minh một cách
chính xác thân trạng của một người như ngày tháng sinh, tử, giá thú, họ tên, con
trai, con gái, tư cách vợ chồng …tóm lại tình trạng xã hội của con người từ lúc sinh
ra đến khi chết. Nhìn một cách tổng quát, có thể thấy các học giả miền Nam thời
kỳ trước năm 1975 tuy đưa ra những cách định nghĩa khác nhau về khái niệm hộ
tịch nhưng trong những cách định nghĩa này đều chỉ ra những dấu hiệu đặc trưng
của hộ tịch : - Hộ tịch là việc ghi chép các quan hệ gia đình của một người; - Các
quan hệ gia đình thuộc phạm vi quan tâm của hộ tịch phải là những quan hệ phát
sinh trên cơ sở ba sự kiện quan trọng trong cuộc đời của mỗi con người, đó là: sự
kiện sinh , hôn nhân và tử ; - Chứng thư hộ tịch là loại giấy tờ pháp lý có giá trị
chứng minh chính xác các đặc điểm nhân thân cơ bản của một cá nhân.
9


Quan niệm của khoa học pháp lý nước ngoài xem xét từ khía cạnh pháp lý, khái
niệm hộ tịch với tính cách là một thuật ngữ pháp lý được định nghĩa trong một số
tài liệu nước ngoài như sau: Trong tiếng Anh, khái niệm “Civil Registration” được

hiểu là “việc đăng ký đúng hạn các sự kiện sinh, tử, kết hôn với chính quyền trong
thời hạn quy định10”.Trong tiếng Đức, khái niệm “Das Personenstandsregister”
được hiểu là “việc đăng ký công về tình trạng dân sự của mỗi cá nhân được thực
hiện bởi các cơ quan hộ tịch11”. Trong Bộ luật dân sự của Cộng hòa Pháp, chế định
hộ tịch là một trong những chế định hết sức quan trọng. Tuy nhiên luật dân sự
Pháp không đưa ra khái niệm về hộ tịch mà chỉ đưa ra khái niệm về chứng thư hộ
tịch. Khái niệm “Civil Registration” được Liên hợp quốc định nghĩa trong tài liệu
“Principles and recommendation for a Vital Statistics System” xuất bản năm 2002
như sau: “đăng ký hộ tịch là việc ghi nhớ liên tục đặc điểm về sự tồn tại và tính
dân sự của mỗi cá nhân liên quan đến dân số được quy định bởi sắc lệnh , luật
hoặc điều lệ phù hợp với yêu cầu của pháp luật mỗi quốc gia”12,13
Khái niệm “hộ tịch” cũng là một trường hợp đặc biệt trong hệ thống khái niệm
pháp lý tiếng Việt. Bản thân khái niệm này hoàn toàn không dễ định nghĩa một
cách minh bạch, điều đó cũng có nghĩa là việc sử dụng nó không thuận tiện theo
nguyên tắc sử dụng ngôn ngữ khi xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Đã có rất
nhiều cuộc thảo luận xoay quanh vấn đề tìm ra một khái niệm khác thay thế khái
niệm “ hộ tịch” nhưng do khái niệm này đã được sử dụng lâu dài, thông dụng, ăn
sâu vào tiềm thức người dân cho nên giải pháp đi tìm khái niệm Việt hoá thay thế
không được lựa chọn, thay vào đó, các nhà xây dựng pháp luật đã dung hoà bằng

10
11

Ruth Kelly: Civil Registration: Vital Change, The Copyright Unit, St Clement House, London, 2002, page 59.
Horst Tinch: Từ điển thuật ngữ pháp lý Đức, xuất bản lần thứ hai, Nxb. C.H. BECK, 1992, t.2 (tiếng Đức), tr. 1340

12

Oey-Gardiner, Mayling and Gardiner Peter: Reform of citizens administration in Indonesia: result of the national
conference on improving public services in citizens administration, Jakarta, 2002, page.52.

13
Trung tâm thông tin khoa học (2013), Một số vấn đề lý luận và so sánh pháp luật về hộ tịch, Thông tin chuyên đề,
Viện nghiên cứu lập pháp, Ủy ban thường vụ quốc hội, tr 7.

10


giải pháp mà Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật cho phép, đó là sử dụng
khái niệm này với tư cách là một thuật ngữ chuyên môn và định nghĩa trong văn
bản.
Theo đó, định nghĩa về “hộ tịch” được duy trì từ Nghị định số 83/1998/NĐ-CP của
Chính phủ ngày 10-10-1998 về đăng ký hộ tịch cho đến Nghị định 158/2005/NĐCP ngày 27/12/2005 về đăng ký và quản lý hộ tịch như sau: “Hộ tịch là những sự
kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi
chết”. Cách định nghĩa này, thực chất chỉ là một sự ước định. Về giá trị biểu đạt,
với cách định nghĩa như vậy, sẽ chính xác hơn nếu coi đây là định nghĩa cho thuật
ngữ “sự kiện hộ tịch” chứ không phải thuật ngữ “hộ tịch”. Bên cạnh đó, bản thân
cách định nghĩa này cũng chưa xác định được rõ ràng nội hàm của khái niệm “hộ
tịch”, Nghị định 158/2005/NĐ-CP còn nêu thêm khái niệm “đăng ký hộ tịch” bằng
phương pháp mô tả như sau:
“Đăng ký hộ tịch theo quy định của Nghị định này là việc cơ quan nhà nước có
thẩm quyền:
- Xác nhận các sự kiện: sinh; kết hôn; tử; nuôi con nuôi; giám hộ; nhận cha, mẹ,
con; thay đổi, cải chính, bổ sung, điều chỉnh hộ tịch; xác định lại giới tính; xác
định lại dân tộc;
- Căn cứ vào quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, ghi vào sổ hộ tịch
các việc: xác định cha, mẹ, con; thay đổi quốc tịch; ly hôn; hủy việc kết hôn trái
pháp luật; chấm dứt nuôi con nuôi.”
Tới Luật hộ tịch 2014 thì khái niệm hộ tịch cũng tương tự như các văn bản trước,
đó là “các sự kiện xác định tình trạng nhân thân của cá nhân từ khi sinh ra tới khi


11


chết đi”14. Khái niệm đăng ký hộ tịch là “việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác
nhận hoặc ghi vào sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch của cá nhân...”15
Sổ hộ tịch ở đây là “sổ giấy được lập và lưu giữ tại cơ quan đăng ký hộ tịch để xác
nhận hoặc ghi các sự kiện hộ tịch”16. Sổ hộ tịch được coi là sổ gốc lưu trữ các sự
kiện hộ tịch của cá nhân, khi cá nhân tới đăng ký hộ tịch tại các cơ quan đăng ký
hộ tịch, bên cạnh việc cấp cho cá nhân các giấy tờ hộ tịch để chứng minh sự kiện
hộ tịch thì các cơ quan đăng ký hộ tịch phải ghi lại các thông tin hộ tịch chính xác
vào sổ hộ tịch. Sổ hộ tịch vừa giúp lưu trữ các sự kiện hộ tịch của công dân, vừa
giúp cho công tác quản lý và theo dõi hộ tịch được thuận lợi và chính xác hơn. Bên
cạnh đó, sổ hộ tịch còn giúp cho công dân trong việc xin bảo sao các giấy tờ hộ
tịch. Về giá trị pháp lý, “Sổ hộ tịch là tài sản quốc gia, được lưu trữ vĩnh viễn theo
quy định của pháp luật về lưu trữ, Cơ quan lưu giữ Sổ hộ tịch có trách nhiệm bảo
quản, khai thác, sử dụng Sổ hộ tịch theo đúng quy định của pháp luật; thực hiện
các biện pháp an toàn, chống cháy nổ, bão lụt, ẩm ướt, mối mọt.”17
Nội dung của hoạt động đăng ký hộ tịch trong Luật Hộ tịch 2014 bao gồm:
-

Xác nhận vào sổ hộ tịch các sự kiện như khai sinh, kết hôn, giám hộ, nhận

cha, mẹ, con; thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, bổ sung thông tin hộ
tịch, khai tử.
-

Ghi vào sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch của cá nhân theo bản án, quyết định

của cơ quan nhà nước có thẩm quyền bao gồm: Thay đổi quốc tịch; xác định cha,
mẹ,con; xác định lại giới tính; nuôi con nuôi; chấm dứt việc nuôi con nuôi; ly hôn,

hủy việc kết hôn trái pháp luật, công nhận việc kết hôn; công nhận giám hộ; tuyên

14 15

, Khoản 1 điều 2 Luật Hộ tịch 2014

16
17

Khoản 3 điều 4 Luật Hộ tịch 2014.
Khoản 3,4 điều 12 Nghị định 123/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và hướng dẫn thi hành Luật Hộ tịch

12


bố hoặc hủy tuyên bố một người mất tích, đã chết, bị mất hoặc hạn chế năng lực
hành vi dân sự.
-

Ghi vào sổ hộ tịch sự kiện khai sinh; kết hôn; ly hôn; hủy việc kết hôn; giám

hộ; nhận cha, mẹ, con; nuôi con nuôi;thay đổi hộ tịch; khai tử của công dân Việt
Nam đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền nước ngoài.
-

Xác nhận hoặc ghi vào sổ hộ tịch các việc hộ tịch khác theo quy định pháp

luật.
Như vậy, trải qua các văn bản pháp luật về Hộ tịch, thì khái niệm hộ tịch và đăng
ký hộ tịch dường như không có nhiều sự thay đổi. Chỉ có sự điều chỉnh trong

việc phân định rõ ràng về các trường hợp xác nhận vào Sổ hộ tịch và trường hợp
ghi vào Sổ hộ tịch. Khái niệm “hộ tịch” vẫn luôn có một sự ổn định, tạo thành một
khái niệm pháp lý quen thuộc cho mỗi người dân, để mọi người nhận thức và ghi
nhớ những việc hộ tịch mình cần phải làm hay đăng ký với cơ quan quản lý hộ
tịch.
Hộ tịch có những đặc điểm riêng biệt nhằm phân biệt với các khái niệm như hộ
khẩu, hộ chiếu…. Với đặc thù là khái niệm gắn với cá nhân của mỗi con người, do
vậy nó mang đặc điểm gắn với những giá trị nhân thân của người đó. Cụ thể:
-

Thứ nhất, là quyền nhân thân, gắn chặt với cá nhân con người. Điều 24 Bộ

luật dân sự 2005 quy định: “Quyền nhân thân được quy định trong Bộ luật này là
quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác”. Như vậy, quyền nhân thân ở đây là những
giá trị gắn liền với mỗi cá nhân, giúp phân biệt cá nhân này với cá nhân khác,
không thể có điểm chung về nhân thân của người này với người khác. Mỗi người
chỉ có một thời điểm sinh, một thời điểm chết, các dấu hiệu về cha đẻ, mẹ đẻ, dân
tộc, giới tính là những dấu hiệu giúp người ta phân biệt từng cá nhân con người.
13


Do đó, đây là các giá trị nhân thân gắn với một con người từ khi sinh ra đến khi
chết.
-

Thứ hai, là những giá trị về nguyên tắc không chuyển đổi cho người khác.

Đặc điểm này là hệ quả của đặc điểm thứ nhất vì hộ tịch là quyền nhân thân của
mỗi cá nhân con người. Dựa vào căn cứ phát sinh mà các quyền nhân thân có thể

phân thành nhóm các quyền nhân thân không gắn với tài sản và nhóm các quyền
nhân thân gắn với tài sản. Các quyền nhân thân không gắn với tài sản được công
nhận đối với mọi cá nhân một cách bình đẳng và suốt đời, không phụ thuộc vào bất
cứ hoàn cảnh kinh tế, địa vị hay mức độ tài sản của người đó. Các quyền nhân thân
này thể hiện giá trị tinh thần của chủ thể đối với chính bản thân mình, luôn gắn với
chính bản thân người đó và không dịch chuyển được sang chủ thể khác. Hộ tịch là
một giá trị nhân thân không gắn với tài sản, vậy nên nó không thể bị chuyển dịch
cho người khác. Điều này dẫn đến, việc thực hiện các sự kiện hộ tịch phải do trực
tiếp cá nhân người đó thực hiện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác ( như:
khai sinh có thể do bố, mẹ đi đăng kí khai sinh, khai tử do người thân cả người chết
đi đăng kí khai tử).
-

Thứ ba, là những sự kiện nhân thân không lượng hoá được thành tiền. Đây

là đặc điểm của quyền nhân thân không gắn với tài sản.Với bản chất của hộ tịch là
việc ghi lại những sự kiện gắn với nhân thân của con người như sự kiện sinh, tử,
kết hôn,…. do vậy nó có tính chất phi vật chất, không thể cân đo đong đếm được.
Chính vì vậy hộ tịch không phải là một loại hàng hóa có thể trao đổi trên thị
trường.
1.1.2. Khái niệm quản lý hộ tịch.
Ở nước ta, vấn đề quản lý hộ tịch được thực hiện từ rất sớm (thời nhà Trần). Trải qua
các thời kỳ phong kiến, thực dân, hộ tịch luôn gắn với vấn đề quản lý con người
(“đinh”) bên cạnh vấn đề quản lý đất đai (“điền”) - là hai vấn đề đã từng được thực
14


hiện một cách bài bản, có hệ thống. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, công tác
quản lý hộ tịch được Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp tục duy trì và phát
triển. Theo tinh thần Sắc lệnh số 47/SL ngày 10/10/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh,

các thể lệ đăng ký hộ tịch đã được quy định trong Bộ Dân luật giản yếu được áp dụng
ở Nam kỳ, Hoàng Việt hộ luật được áp dụng ở Trung kỳ và Dân luật Bắc kỳ tiếp tục
được áp dụng ở Việt Nam. Điều đó cho thấy công tác hộ tịch đóng vai trò quan trọng
và luôn được duy trì trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Ngày 08/5/1956, Chính phủ ban hành Nghị định số 764/TTg kèm theo Bản Điều lệ
hộ tịch. Ngày 16/01/1961, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 04/CP kèm
theo Bản Điều lệ đăng ký hộ tịch mới thay thế Nghị định số 764/TTg. Bước vào
thời kỳ đổi mới, căn cứ vào quy định của Bộ luật dân sự, Luật hôn nhân và gia
đình và các luật liên quan khác, Chính phủ đã ban hành 8 Nghị định điều chỉnh
lĩnh vực hộ tịch18 (cả hộ tịch trong nước và hộ tịch có yếu tố nước ngoài)19. Tới
lúc này, khi các nghị định điều chỉnh về lĩnh vực hộ tịch được ra đời thì khái niệm
quản lý hộ tịch mới được định nghĩa một cách cụ thể nhất.
Khái niệm quản lý hộ tịch được đề cập đến lần đầu tiên đó là trong Nghị định số
83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 về đăng ký hộ tịch. Quản lý hộ tịch được xem là
“công việc thường xuyên của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện để
theo dõi thực trạng và sự biến động về hộ tịch nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp

18

Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 về đăng ký hộ tịch; Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 quy định chi
tiết về đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 của Quốc hội về việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình; Nghị định số
32/2002/NĐ-CP ngày 27/3/2002 quy định việc áp dụng Luật hôn nhân và gia đình đối với các dân tộc thiểu số; Nghị định số
68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia
đình có yếu tố nước ngoài; Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21/7/2006 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
68/2002/NĐ-CP; Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 về đăng ký và quản lý hộ tịch; Nghị định số 06/2012/NĐ-CP ngày
02/02/2012 sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về hộ tịch, hôn nhân gia đình và chứng thực; Nghị định số 24/2013/NĐCP ngày 28/3/2013 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố
nước ngoài.
19

Cục hộ tịch, quốc tịch, chứng thực (2015), Đề cương giới thiệu luật hộ tịch,tr 2.


15


pháp của cá nhân, tổ chức, tạo cơ sở xây dựng, phát triển kinh tế, xã hội, an ninh
quốc phòng và chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình”20
Kế thừa nghị định 83/1998/NĐ-CP, nghị định số 158/2005/NĐ-CP tiếp cận khái
niệm quản lý hộ tịch cũng từ góc độ xác định mục đích; theo đó quản lý hộ tịch
là:“ nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của chính quyền các cấp, nhằm theo dõi
thực trạng và sự biến động về hộ tịch, trên cơ sở đó bảo hộ các quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân và gia định, đồng thời góp phần xây dựng các chính sách về
kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và dân số, kế hoạch hóa gia đình”21
Như vậy hướng tiếp cận về quản lý hộ tịch thông qua mục đích của việc quản lý hộ
tịch đó là: sự tác động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền tới các sự kiện nhân
thân của cá nhân nhằm thực hiện chức năng kiểm soát dân cư và phục vụ cho các
hoạt động quản lý trong các lĩnh vực khác như an ninh, quốc phòng, dân số, kế
hoạch hóa gia đình..... Hoạt động quản lý hộ tịch hướng đến đối tượng là các sự
kiện xác định tình trạng nhân thân của con người từ khi sinh ra cho đến khi chết.
Những sự kiện này mang đặc điểm là có tính ổn định cao. Nếu có thay đổi thì sự
thay đổi đó phải được sự xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và phải
được tiến hành theo một trình tự thủ tục rất chặt chẽ22.
Rất khó để có thể tách rời hai khái niệm: “đăng ký hộ tịch” và “quản lý hộ tịch”.
Bởi lẽ đăng ký hộ tịch cũng là một yếu tố, một “động tác” cơ bản của hoạt động
quản lý hộ tịch. Khi xem xét khái niệm đăng ký hộ tịch và các hoạt động đăng ký
hộ tịch, ta sẽ nhận thấy rõ được điều này.
Đăng ký hộ tịch chính là việc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận, hoặc
ghi vào sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch của cá nhân:

20


Điều 2 Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 về đăng ký hộ tịch
Điều 2 Nghị định 158/2005/NĐ-CP về đăng ký và quản lý hộ tịch
22
Lê Thị Minh Hiếu (2013), Thực tiễn pháp luật về Hộ tịch trên địa bàn Tỉnh Thái Nguyên, Luận văn Thạc sĩ luật
học, Hà Nội 2013,tr 11
21

16


Một là, xác nhận vào sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch: khai sinh; kết hôn; khai tử;
giám hộ; nhận cha, mẹ, con; thay đổi, cải chính hộ tịch; xác định lại dân tộc; bổ
sung thông tin hộ tịch.
Trong đó, thay đổi hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký thay
đổi những thông tin hộ tịch của cá nhân khi có lý do chính đáng theo quy định của
pháp luật dân sự hoặc thay đổi thông tin về cha, mẹ trong nội dung khai sinh đã
đăng ký theo quy định của pháp luật
Xác định lại dân tộc là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký xác định lại
dân tộc của cá nhân theo quy định của Bộ luật dân sự.
Cải chính hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi những thông tin
hộ tịch của cá nhân trong trường hợp có sai sót khi đăng ký hộ tịch.
Bổ sung hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền cập nhật thông tin hộ tịch
còn thiếu cho cá nhân đã được đăng ký.
Hai là, ghi vào Sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch của cá nhân theo bản án, quyết định
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền:
Thay đổi quốc tịch; Xác định cha, mẹ, con; Xác định lại giới tính; Nuôi con nuôi,
chấm dứt việc nuôi con nuôi; Ly hôn, hủy việc kết hôn trái pháp luật, công nhận
việc kết hôn; Công nhận giám hộ; Tuyên bố hoặc huỷ tuyên bố một người mất tích,
đã chết, bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự. Ghi vào Sổ hộ tịch sự kiện
khai sinh; kết hôn; ly hôn; hủy việc kết hôn; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; xác định

cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; thay đổi hộ tịch, khai tử của công dân Việt Nam đã
được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền nước ngoài.
Như vậy, đăng ký hộ tịch bao gồm hai nhóm hành vi: nhóm hành vi xác nhận các
sự kiện hộ tịch và nhóm hành vi căn cứ vào quyết định của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền để ghi vào sổ hộ tịch những thay đổi về hộ tịch.

17


Đăng ký hộ tịch là hoạt động nằm trong hoạt động quản lý hộ tịch của cơ quan
hành chính nhà nước.
Tuy nhiên bên cạnh việc đăng ký hộ tịch, nội dung của hoạt động quản lý hộ tịch
còn thực hiện rất nhiều hoạt động khác như: xây dựng pháp luật về hộ tịch; hướng
dẫn chỉ đạo nghiệp vụ chuyên môn về hộ tịch, ban hành và quản lý các loại sổ
sách, biểu mẫu hộ tịch; thống kê hộ tịch; thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại tố
cáo về hộ tịch...
Tóm lại, quản lý hộ tịch là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền vừa
thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước về hộ tịch vừa thực hiện chức
năng đăng ký hộ tịch để làm cơ sở cho việc bảo đảm trên thực tế giá trị pháp lý của
việc hộ tịch đã được đăng ký theo quy định của pháp luật và xây dựng các chính
sách kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng phù hợp với thực tế từng địa phương và
trong phạm vi cả nước.
Công tác quản lý hộ tịch do đó sẽ bao gồm các nội dung:
- Thứ nhất, ban hành, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp
luật về hộ tịch. Để có cơ sở pháp lý cho việc quản lý hộ tịch đòi hỏi phải có các
quy phạm pháp luật hộ tịch. Vì vậy việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật
về hộ tịch là nội dung hàng đầu trong các nội dung quản lý hộ tịch. Trên cơ sở văn
bản quy phạm pháp luật về hộ tịch đã được ban hành, công việc tiếp theo là hướng
dẫn và tổ chức thực hiện văn bản đó.
- Thứ hai, hướng dẫn chỉ đạo, tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ, chuyên môn hộ tịch.

Khi đã có một hệ thống văn bản hộ tịch hoàn chỉnh, việc tiếp theo đó là phải tiến
hàn bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho các công chức trực tiếp thực hiện công
tác thi hành pháp luật, có những hưỡng dẫn chỉ đạo cần thiết để làm rõ các quy
định của pháp luật và kịp thời giải quyết những tính huống phát sinh.
- Thứ ba, ban hành, quản lý hướng dẫn việc sử dụng thống nhất các loại sổ sách,
biểu mẫu hộ tịch. Các loại sổ sách hay biểu mẫu chính là công cụ cần thiết để công
18


tác đăng ký và quản lý hộ tịch được thuận lợi và chính xác nhất, đảm bảo tính
thống nhất và đồng bộ trên phạm vi cả nước, công tác lưu trữ cũng dễ dàng hơn.
- Thứ tư, tổ chức tuyên truyền, phổ biến, vận động nhân dân chấp hành các quy
định pháp luật về hộ tịch. Việc thực hiện thành công Luật hộ tịch hay không chủ
yếu dựa vào sự tự giác chấp hành của người dân và sự hiểu biết pháp luật của họ về
các giấy tờ hộ tịch. Bởi lẽ đặc thù của Luật hộ tịch không giống như các luật khác,
Luật Hộ tịch không có phần quy định về chế tài. Hơn nữa mục đích sâu xa trong
đăng ký hộ tịch đó là: giúp nhà nước nắm bắt tình hình dân cư và giúp cho công tác
quản lý dân cư của nhà nước, do vậy nhà nước phải tìm mọi biện pháp và cách
thức để có thể nắm được các vấn đề hộ tịch của nhân dân trên cả nước. Chính vì
vậy, việc tuyên truyền phổ biến để nhân dân có ý thức tự giác đăng ký hộ tịch là
yếu tố quyết đinh sự thành công của Luật Hộ tịch.
- Thứ năm, đăng ký hộ tịch, đây là việc làm quan trọng nhất để có thể quản lý hộ
tịch được tốt, bởi chỉ thông qua việc đăng ký hộ tịch, các cơ quan nhà nước mới có
thể nắm bắt được tình trạng hộ tịch trên địa phương mình từ đó đưa ra những thống
kê theo dõi, và ban hành các văn bản phù hợp để có thể điều chỉnh.
- Thứ sáu, cấp bản sao giấy tờ hộ tịch gốc: bản sao giấy tờ hộ tịch là công cụ giúp
người dân trong việc sử dụng giấy tờ hộ tịch được thuận lợi hơn, bởi lẽ khi thực
hiện các thủ tục hành chính liên quan đến cá nhân, rất nhiều hồ sơ yêu cầu nộp các
bản sao giấy tờ hộ tịch của cá nhân, lúc này người dân phải nhờ đến các cơ quan
đăng ký hộ tịch mà cá nhân đã đăng ký trước đó vì mỗi cá nhân chỉ được cấp duy

nhất 01 bản chính giấy tờ hộ tịch.
- Thứ bảy, lưu trữ sổ sách, hồ sơ hộ tịch: hồ sơ sổ sách hộ tịch là những thứ rất cần
thiết trong quản lý hộ tịch, bởi lẽ tình trạng nhân thân của mỗi người chỉ có duy
nhất 01 lần trong đời, nếu qua đi rồi sẽ không có lại, vì vậy đăng ký hộ tịch giống
như một cuốn sổ ghi dấu lại những mốc trọng đại đó, việc lưu trữ hồ sơ tốt vừa
giúp quản lý hộ tịch tốt vừa giúp ích cho người dân phải mất công sức đăng ký lại.
19


1.1.3. Đặc điểm của quản lý hộ tịch
Quản lý hộ tịch có những đặc điểm nhận dạng nhất định, đó là:
- Là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước trong quản lý
hộ tịch thể hiện ở việc chủ thể có thẩm quyền thể hiện ý chí nhà nước thông qua
phương tiện nhất định, trong đó phương tiện cơ bản và đặc biệt quan trọng được sử
dụng là văn bản quy phạm pháp luật chứa đựng nội dung quản lý hộ tịch. Bởi lẽ,
chỉ có văn bản quy phạm pháp luật mới mang tính bắt buộc chung, được nhà nước
đảm bảo thực hiện, mọi người dân phải chấp hành nghiêm chỉnh và đều bình đẳng
trước pháp luật.
Bằng việc ban hành văn bản văn bản quy phạm pháp luật, chủ thể quản lý hộ tịch
thể hiện ý chí của mình dưới dạng các hoạt động áp dụng pháp luật; dưới dạng các
mệnh lệnh cá biệt nhằm áp dụng pháp luật vào thực tiễn, trực tiếp thực hiện quyền
và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ quản lý, dưới dạng mệnh lệnh chỉ đạo
trong hoạt động, nhằm tổ chức thực hiện pháp luật trong thực tiễn; dưới dạng
những thông tin hướng dẫn người dân để thực hiện việc đăng ký hộ tịch thông qua
hệ thống của bộ máy quản lý hộ tịch của nhà nước.
Bên cạnh đó, quyền lực nhà nước còn thể hiện trong việc các chủ thể có thẩm
quyền tiến hành những hoạt động cần thiết để bảo đảm thực hiện ý chí nhà nước,
như các biện pháp về tổ chức, tuyên truyền giáo dục, thuyết phục, hòa giải... chính
những biện pháp này là sự thể hiện tập trung và rõ nét của sức mạnh nhà nước, một
bộ phận tạo nên quyền lực nhà nước, nhờ đó ý chí của chủ thể quản lý hộ tịch được

bảo đảm thực hiện.
- Quản lý hộ tịch là hoạt động được tiến hành bởi những chủ thể có quyền lực nhà
nước trong lĩnh vực hành pháp. Chủ thể chủ yếu thực hiện quản lý nhà nước về hộ
20


tịch là các cơ quan quản lý hành chính nhà nước (Ủy ban nhân dân, cơ quan
chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân, đội ngũ công chức làm công tác tư pháp – hộ
tịch). Những chủ thể này được nhà nước trao quyền đặc biệt, và việc trao quyền
được quy định cụ thể trong luật, để giới hạn những việc được làm, những việc
không được làm, quyền hạn và nghĩa vụ.
- Quản lý hộ tịch là hoạt động có tính thống nhất được tổ chức chặt chẽ. Để bảo
đảm tính pháp chế trong hoạt động quản lý hộ tịch, bộ máy các cơ quan hộ tịch
được tổ chức thành một khối thống nhất từ Trung ương đến địa phương, nhờ đó
các hoạt động của bộ máy được chỉ đạo, điều hành thống nhất, bảo đảm lợi ích
chung của cả nước, bảo đảm sự liên kết, phối hợp nhịp nhàng giữa các địa phương
tạo ra sức mạnh tổng hợp của cả nước, tránh được sự cục bộ phân hóa giữa các địa
phương hay vùng miền khác nhau trong việc quản lý hộ tịch.
Sự di cư trong dân số là không thể tránh khỏi của mỗi quốc gia nên nhà nước
không thể ép buộc mỗi cá nhân phải đăng ký hộ tịch tại một địa phương nhất định.
Nhà nước, để có thể quản lý tốt dân số của mình, phải linh hoạt và phối kết hợp
giữa các địa phương với nhau để trao đổi thông tin về biến động dân cư, nắm bắt
tình hình dân số để có những chính sách phù hợp trong quản lý hộ tịch. Đây chính
là lý do đòi hỏi quản lý hộ tịch phải có tính thống nhất, từ trung ương tới địa
phương, từ địa phương này sang địa phương khác.
- Hoạt động quản lý hộ tịch có tính chấp hành điều hành. Tính chấp hành và điều
hành của hoạt động quản lý hộ tịch thể hiện trong việc những hoạt động này đươc
tiến hành trên cơ sở pháp luật và nhằm mục đích thực hiện pháp luật. Cho dù quản
lý hộ tịch là hoạt động chủ động sáng tạo của chủ thể quản lý thì cũng không được
vượt quá khuôn khổ pháp luật. Chủ thể quản lý hộ tịch muốn điều hành cấp dưới,


21


trực tiếp áp dụng pháp luật hoặc tổ chức thực hiện pháp luật …đều phải dựa trên
cơ sở pháp luật nhằm hiện thực hóa pháp luật.
Tính điều hành của hoạt động quản lý hộ tịch còn được thể hiện trong việc chủ thể
có thẩm quyền tổ chức thực hiện pháp luật trong đời sống xã hội. Trong quá trình
này, các chủ thể không chỉ tự mình thực hiện pháp luật mà còn đảm nhận chức
năng chỉ đạo nhằm vận hành hoạt động của các cơ quan, đơn vị trực thuộc theo
một quy trình thống nhất, tổ chức để mọi đối tượng có liên quan thực hiện pháp
luật nhằm hiện thực hóa các quyền và nghĩa vụ các bên trong quan hệ pháp lý.
- Quản lý hộ tịch là hoạt động mang tính liên tục và tương đối ổn định trong tổ
chức và hoạt động. Quản lý hộ tịch vừa là hoạt động phục vụ lợi ích nhân dân vừa
phục vụ lợi ích nhà nước, do vậy nó phải đảm bảo tính liên tục để thỏa mãn nhu
cầu hàng ngày của nhân dân, đáp ứng sự vận động không ngừng của xã hội, và hơn
nữa phải có tính ổn định cao để đảm bảo hoạt động không bị gián đoạn trong bất
kỳ tình huống chính trị - xã hội nào.
1.2.

Vai trò của quản lý hộ tịch.

Công tác Quản lý hộ tịch là nhiệm vụ quan trong, thường xuyên của chính quyền
các cấp, nhằm theo dõi thực trạng và sự biến động về những sự kiện cá nhân của
công dân, trên cơ sở đó bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân và gia đình
khi tham gia vào các quan hệ xã hội như quyền được kết hôn khi công dân đủ tuổi
theo quy định, quyền được giám hộ, quyền được thừa kế,.... đồng thời góp phần
xây dựng các chính sách về kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và dân số kế hoạch
hóa gia đình.
Cũng trên cơ sở theo dõi biến động về hộ tịch mà các cơ quan quản lý nhà nước

xây dựng chính sách phù hợp dựa trên dân số theo độ tuổi, giới tính, nguồn nhân
22


×