Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của chính phủ ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (672.61 KB, 87 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐOÀN TRUNG KIÊN

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
CHÍNH PHỦ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Nhà nước và Pháp Luật
Mã số: 60380101

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN THỊ HỒI

HÀ NỘI - NĂM 2016


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, cho phép tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành và sâu
tới các thầy, cô giáo của trường Đại học Luật Hà Nội, đặc biệt là các thầy cô
trong Tổ bộ môn Lý luận nhà nước và pháp luật đã truyền đạt những kiến
thức quý báu cho tôi trong suốt thời gian học tập và rèn luyện tại trường. Đặc
biệt, tôi xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới PGS.TS Nguyễn Thị Hồi –
người đã tận tình hướng dẫn, động viên tôi trong suốt thời gian hoàn thành
luận văn Thạc sĩ của mình. Tôi xin bày tỏ sự biết ơn chân thành, kính chúc cô
sức khỏe và công tác tốt.
Đồng thời, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè đã luôn ủng


hộ nhiệt thành trong suốt quãng thời gian học tập tại Trường Đại học Luật Hà
Nội, để tôi có thể hoàn thiện luận văn Thạc sĩ của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày … tháng 08 năm 2016
Tác giả Luận văn

Đoàn Trung Kiên


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự
hướng dẫn khoa học của PGS.TS Nguyễn Thị Hồi. Những số liệu trong các
bảng biểu phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá được chính tác giả
thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo.
Ngoài ra, trong Luận văn còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng
như số liệu của các tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn và chú
thích nguồn gốc.
Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm về nội dung Luận văn của mình.
Hà Nội, ngày … tháng 08 năm 2016
Xác nhận của giảng viên hướng dẫn

Tác giả Luận văn

PGS.TS Nguyễn Thị Hồi

Đoàn Trung Kiên


MỤC LỤC

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TỔ
CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH PHỦ VIỆT NAM
1.1.

Khái niệm pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ ….….......4

1.2. Khái niệm và các tiêu chí để hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động
của Chính phủ ……………………………………………………………………... 11
1.2.1. Khái niệm hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ.11
1.2.2. Các tiêu chí hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính
phủ …………………………………………………………...................................12
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt
động của Chính phủ Việt Nam hiện nay ……………………………………......16
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT
ĐỘNG CỦA CHÍNH PHỦ VIỆT NAM
2.1. Ưu điểm của pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ Việt Nam. 26
2.1.1. Pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ phù hợp vơi các quan
điểm, đường lối chiến lược phát triển đất nước trong từng giai đoạn ……... 27
2.1.2. Pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ quy định về nhiệm vụ,
quyền hạn của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, thành viên khác của Chính
phủ theo hướng ngày càng cụ thể, hợp lý, phù hợp hơn với vị trí của Chính
phủ trong tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước ………………….................30
2.1.3. Pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ đã thể hiện sự phân
định rõ ràng hơn nhiệm vụ, quyền hạn giữa Chính phủ với Quốc hội, Ủy ban
thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước ……………….....................................36
2.1.4. Pháp luật về tổ chức và hoạt động Chính phủ hiện hành đã quy định rõ
hơn về cơ cấu, thành phần của Chính phủ, về chế độ làm việc và trách nhiệm
tập thể của Chính phủ, trách nhiệm cá nhân của các thành viên của Chính phủ
theo hướng nâng cao tính dân chủ, pháp quyền và trách nhiệm giải trình...... 38
2.1.5. Pháp luật về tổ chức và hoạt động Chính phủ đã thiết lập cơ chế kiểm

soát quyền lực trong việc thực hiện quyền hành pháp ….............................. 44


2.2. Hạn chế của pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ Việt Nam. 47
2.2.1. Pháp luật về tổ chức và hoạt động Chính phủ hiện tại còn thiếu nhiều
quy định nhằm cụ thể hóa để thực hiện Luật tổ chức Chính phủ mới …… ...47
2.2.2. Pháp luật tổ chức và hoạt động Chính phủ chưa phân định rõ về lĩnh
vực quản lý của các Bộ, ngành …………………………………........................49
2.2.3. Pháp luật về tổ chức và hoạt động Chính phủ chưa làm rõ trách nhiệm,
quyền hạn của tập thể và cá nhân trong hoạt động của Chính phủ theo hướng
đề cao trách nhiệm của người đứng đầu là Bộ trưởng và Trưởng ngành .....51
2.3. Nguyên nhân dẫn tới thực trạng của pháp luật về tổ chức và hoạt động
của Chính phủ Việt Nam ………………………………………………...............54
2.3.1. Hoàn cảnh lịch sử của đất nước, bối cảnh chính trị quốc tế và đường
lối chính sách của Đảng trong từng giai đoạn ………………………………..54
2.3.2. Nhận thức của các nhà lập hiến, lập pháp Việt Nam ……………......57
2.3.3. Mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật ………………………… ..59
2.3.4. Chính phủ nhiệm kỳ mới vừa được thành lập và đang trong giai đoạn
kiện toàn bộ máy nhân sự …………………………………………………….. ....61
2.3.5. Các văn bản pháp lý như Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức Chính phủ
năm 2015, cũng như các văn bản pháp lý khác quy định về tổ chức và hoạt
động của Chính phủ mới có hiệu lực ……………………………......................62
Chương 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ
HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH PHỦ VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. Luật hóa quan điểm chỉ đạo đối với việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật
về tổ chức và hoạt động của Chính phủ …………………………….. ……........66
3.2. Tiếp tục xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật mới có
liên quan tới tổ chức và hoạt động của Chính phủ ……………………….. .....69
3.3. Hoàn thiện các quy định về công khai, minh bạch của các cơ quan tổ chức
trực thuộc Chính phủ (Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ). ......71

3.4. Hoàn thiện các quy định thể hiện tính toàn diện, kế thừa và gắn với tổ
chức thực hiện, đảm bảo pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh ………… ...74


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.
Ở nước ta hiện nay, việc cải cách kinh tế được Đảng và Nhà nước quan
tâm và có định hướng phát triển phù hợp với điều kiện hội nhập kinh tế quốc
tế; công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cũng được
đẩy mạnh và chiến lược cải cách tư pháp xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật được chú trọng. Mục tiêu là tạo được một hệ thống pháp luật đồng
bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh
tế, xã hội của đất nước.
Trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật, pháp luật về tổ chức và
hoạt động của Chính phủ cũng từng bước được hoàn thiện. Sau khi Hiến pháp
năm 2013 được ban hành và triển khai thực hiện trong thực tế, hàng loạt đạo
luật được sửa đổi, bổ sung, thay thế để bảo đảm sự phù hợp với Hiến pháp
mới. Trong xu thế đó, Luật tổ chức Chính phủ năm 2015 đã được ban hành
nhằm tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ nhằm xây dựng
được một Chính phủ hành động, kiến tạo và phát triển. So với các giai đoạn
trước, pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ hiện nay đã hoàn
thiện thêm một bước.
Tuy nhiên, Chính phủ nhiệm kỳ mới vừa được thành lập và đang trong
giai đoạn kiện toàn bộ máy, nhân sự việc xây dựng các văn bản quy phạm
pháp luật nhằm cụ thể hóa và hướng dẫn thi hành Luật tổ chức Chính phủ
năm 2015 còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, mức độ hoàn thiện của pháp
luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ chưa cao, chưa đáp ứng được yêu
cầu của thực tiễn.

Do vậy, hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ
Việt Nam hiện nay nhằm bảo đảm tính đồng bộ, phù hợp, khả thi của nó góp
phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Chính phủ là tất yếu. Với mong muốn
tìm kiếm giải pháp khả thi góp phần hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt
động của Chính phủ, em mạnh dạn chọn đề tài: “Hoàn thiện pháp luật về tổ


2

chức và hoạt động của Chính phủ ở Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu làm
luận văn thạc sĩ của mình.
2. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là cơ sở lý luận của hoàn thiện pháp
luật và thực trạng pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ ở Việt
Nam. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các quy định pháp luật về tổ chức và
hoạt động của Chính phủ trong các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và 1992,
nhưng tập trung nhất, chủ yếu nhất là các quy định pháp luật về tổ chức và
hoạt động của Chính phủ từ năm 1992 đến nay.
3. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn.
Để giải quyết các nhiệm vụ đặt ra, luận văn được thực hiện trên cơ sở
lý luận là chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và
pháp luật, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; về cải các tư pháp;
về xây dựng và hoàn thiện pháp luật xã hội chủ nghĩa…
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp duy vật
biện chứng của triết học Mác – Lênin kết hợp với việc sử dụng các phương
pháp nghiên cứu cụ thể là phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, lịch sử
cụ thể, giải thích pháp luật, … để đáp ứng yêu cầu làm rõ những nội dung
nghiên cứu.
4. Mục đích nghiên cứu luận văn.

Mục đích nghiên cứu của luận văn là thông qua việc xem xét và đánh
giá thực trạng pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ ở nước ta thời
gian qua để tìm ra các giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật về tổ chức và
hoạt động của Chính phủ Việt Nam trong thời gian tới.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm
vụ nghiên cứu sau:


3

- Phân tích làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm của pháp luật về tổ chức và
hoạt động của Chính phủ Việt Nam hiện nay; làm sáng tỏ khái niệm và các
tiêu chí để hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ nước
ta; xác định những yếu tố ảnh hướng đến việc hoàn thiện Hiến pháp, luật về tổ
chức và hoạt động của Chính phủ ở nước ta.
- Đánh giá thực trạng pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ
nước ta thời gian qua, chỉ ra các ưu điểm và hạn chế của pháp luật trong lĩnh
vực này và xác định các nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó.
- Đề xuất các giải pháp có tính khả thi để tiếp tục hoàn thiện pháp luật
về tổ chức và hoạt động của Chính phủ ở nước ta trong thời gian tới.
5. Những điểm mới của giá trị Luận Văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn đưa ra một cái nhìn khái quát, toàn
diện, có hệ thống đối với thực trạng pháp luật về tổ chức và hoạt động của
Chính phủ Việt Nam hiện nay. Luận văn đề xuất được một số giải pháp nhằm
tiếp tục hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ nước ta
trong thời gian tới. Nhờ vậy, Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo để
phục vụ cho việc giảng dạy, nghiên cứu luật học và hoàn thiện pháp luật về tổ
chức, hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ Việt nam
thời gian tới.

6. Bố cục Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận văn được chia làm 03 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt
động của Chính phủ Việt Nam
Chương 2: Thực trạng pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ
Việt Nam
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của
Chính phủ Việt Nam trong thời gian tới


4

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ
HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH PHỦ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ
Pháp luật là một hiện tượng xã hội khá phức tạp do vậy, có thể xem xét
pháp luật ở nhiều phương diện, cấp độ khác nhau.
Theo quan niệm của tôn giáo thì pháp luật là do các lực lượng siêu
nhiên sáng tạo ra, cũng như họ đã sáng tạo ra con người, do vậy, pháp luật là
ý muốn của Thượng đế, là ý của Chúa … Các nhà làm luật, đặc biệt là vua,
chúa chỉ dựa theo ý muốn của các đấng linh thiêng nói trên để viết ra các điều
luật cho mọi người tuân theo.
Quan điểm khác lại cho rằng, pháp luật sinh ra như một lẽ tự nhiên (con
người sống cần phải có những quy tắc, ứng xử, do vậy, pháp luật sinh ra là
quá trình tất yếu, tự nhiên), cũng như sự xuất hiện của con người, loài người
như một quá trình phát triển tất yếu, tự nhiên, từ đó họ cho rằng ở đâu có xã
hội, ở đó có pháp luật.
Một số học giả khác lại cho rằng, pháp luật đồng nghĩa với công lý và

công bằng. Theo họ, pháp luật là công lý, bao gồm những quy định do Nhà
nước ban hành, đại diện cho công bằng xã hội, thể hiện sự đồng thuận của các
thành viên trong xã hội, nhằm thực hiện công lý, bảo vệ lợi ích cho tất cả các
thành viên trong xã hội…
Quan điểm chủ nghĩa Mác – Lê nin cho rằng, pháp luật là hiện tượng
có tính lịch sử, là sản phẩm của sự phát triển xã hội. Pháp luật không phải là ý
chí của thượng đế hay của một lực lượng siêu nhiên nào ngoài trái đất gán
ghép vào xã hội, mà nảy sinh trong đời sống xã hội, là kết quả của sự biến đổi
xã hội từ xã hội mông muội, thấp kém sang xã hội văn minh, phức tạp, từ xã
hội không có giai cấp sang xã hội có giai cấp. Theo quan điểm Mác – Lênin
thì trong xã hội nguyên thủy chưa có pháp luật, việc quản lý, điều chỉnh các


5

quan hệ xã hội khi đó được dựa vào tập quán, đạo đức, tín điều tôn giáo… là
những công cụ điều chỉnh thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích chung của các thành
viên trong xã hội nên được mọi người thừa nhận và tự giác tuân theo.
Cần chú ý là khi nhà nước ra đời thì các hình thức tổ chức của con
người trước đó như thị tộc, bộ lạc … không còn tồn tại, nhưng khi pháp luật
ra đời, các công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội khác như đạo đức, tập quán, tín
điều tôn giáo … vẫn song song cùng tồn tại với nó, các công cụ đó cùng phối
hợp với pháp luật để quản lý, duy trì trật tự xã hội.
Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng pháp luật được hình
thành chủ yếu bằng hai con đường cơ bản sau: thứ nhất, nhà nước tuyên bố
(thừa nhận) một số các quy tắc xử sự đã có sẵn trong xã hội như tập quán, đạo
đức, tín điều tôn giáo… thành pháp luật và dùng quyền lực nhà nước bảo đảm
cho chúng được tôn trọng, được thực hiện. Nhà nước cũng có thể thừa nhận
cho các bản án, quyết định (cách giải quyết) những vụ việc cụ thể của các cơ
quan nhà nước trước đó thành những khuôn mẫu để giải quyết những trường

hợp tương tự; thứ hai, nhà nước đặt ra những quy tắc xử sự mới buộc các tổ
chức và cá nhân phải tuân theo. Những quy tắc này thường do các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền đặt ra thông qua những trình tự, thủ tục, hình thức
nhất định.
Khoa học pháp lý hiện nay thường xem xét pháp luật ở cấp độ sau:
Thứ nhất, theo nghĩa thông thường hay con gọi là theo nghĩa hẹp thì
pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành và bảo
đảm thực hiện, thể hiện ý chí của nhà nước và là công cụ điều chỉnh các quan
hệ xã hội. Định nghĩa này chỉ nói đến bộ phận chủ yếu của pháp luật là các
quy tắc xử sự chung, nhưng không có nghĩa là pháp luật chỉ gồm các quy tắc
xử sự chung.
Thứ hai, tiếp cận từ phương diện pháp luật thực định, họ cho rằng pháp
luật gồm tất cả các quy định pháp luât được thể hiện trong các nguồn pháp
luật của quốc gia (tập quán pháp, tiền lệ pháp, văn bản quy phạm pháp luật,


6

…). Chẳng hạn pháp luật Việt Nam gồm tất cả các quy định pháp luật được
thể hiện chủ yếu trong các văn bản quy phạm pháp luật (Hiến pháp, luật, nghị
định, thông tư…), do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
Thứ ba, tiếp cận pháp luật theo nghĩa rộng, theo họ pháp luật bao gồm
tất cả các quy định pháp luật do nhà nước ban hành, những tư tưởng, quan
điểm, nguyên tắc pháp luật và những vấn đề có liên quan mà chưa phải là
pháp luật thực định nhưng được quốc gia thừa nhận và áp dụng.
Mặc dù có những cách tiếp cận khác nhau khi nói về pháp luật, song tất
cả các quan điểm đều thừa nhận rằng, nói đến pháp luật thì bộ phận cốt lõi và
chủ yếu, không thể thiếu là các quy phạm pháp luật (các quy tắc xử sự
chung), ngoài ra trong pháp luật còn có những bộ phận khác như nguyên tắc
pháp luật, tinh thần pháp luật… không phải là quy phạm pháp luật, song

những bộ phận đó chỉ chiếm số lượng không lớn lắm trong pháp luật.
Trong phạm vi luận văn này có thể hiểu: Pháp luật là hệ thống các quy
định, trong đó phổ biến và chủ yếu là các quy tắc xử sự chung, do nhà nước
ban hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của nhà nước và là công cụ
điều chỉnh các quan hệ xã hội vì lợi ích, mục đích của giai cấp thống trị, vì sự
tồn tại và phát triển của cả xã hội.
Trên cơ sở quan niệm trên về pháp luật, có thể hiểu:
Pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ là hệ thống các quy
tắc xử sự chung có liên quan tới tổ chức và hoạt động của Chính phủ, do Nhà
nước ban hành và bảo đảm thực hiện.
Từ khái niệm trên, có thể thấy, ở nước ta hiện nay, tất cả các văn bản
quy phạm pháp luật quy định về tổ chức và hoạt động của Chính phủ tập hợp
lại thì được gọi chung là pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ;
các văn bản này phải quy định về việc tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của Chính phủ, Thủ tướng, các thành viên của Chính phủ. Tuy nhiên,
khác với pháp luật trong các lĩnh vực khác như kinh tế, hình sự …, pháp luật
về tổ chức và hoạt động của Chính phủ có các đặc điểm sau:


7

- Pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ bao gồm tổng thể
các quy phạm pháp luật quy định về các vấn đề sau:
+ Trình tự thành lập và cơ cấu tổ chức của Chính phủ
Trong pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ nước ta, nội
dung đầu tiên và không thể thiếu là trình tự thành lập Chính phủ. Theo quy
định của pháp luật, Chính phủ là một thiết chế quyền lực do Quốc hội thành
lập thông qua hình thức bầu và phê chuẩn các thành viên của Chính phủ,
nhiệm kỳ của Chính phủ theo nhiệm kỳ của Quốc hội, thành viên của Chính
phủ hoạt động dưới sự giám sát của Quốc hội. Điều này thường được quy

định trong Hiến pháp và Luật tổ chức Chính phủ.
Cơ cấu tổ chức của Chính phủ. Chính phủ nước ta cũng như ở đa số
nước được cấu thành từ những cơ quan nhất định. Theo quy định của pháp
luật, Chính phủ thường có các loại cơ quan như: các Bộ, cơ quan ngang bộ,
cơ quan khác thuộc Chính phủ. Đó là các cơ quan thực hiện chức năng quản
lý nhà nước về một hoặc một số ngành, lĩnh vực và dịch vụ công thuộc ngành,
lĩnh vực trong phạm vi toàn quốc. Có thời kỳ, theo quy định của pháp luật,
trong cơ cấu của Chính phủ còn gồm có cả Chủ tịch nước. Hiện nay, Chính
phủ có 18 Bộ, 4 cơ quan ngang bộ và các cơ quan khác trực truộc Chính phủ
+ Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ, Bộ trưởng và các bộ phận khác hợp thành Chính phủ
Pháp luật nước ta ở bất cứ giai đoạn nào cũng quy định khá cụ thể về
chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ và các thành viên của
Chính phủ như Thủ tưởng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác. Mặc
dù các quy định này có sự thay đổi nhất định qua từng giai đoạn phát triển của
đất nước, song đó luôn là những quy định không thể thiếu trong pháp luật
nước ta.
Bên cạnh đó, pháp luật còn xác định trách nhiệm cho Chính phủ và các
thành viên của Chính phủ, cả trách nhiệm cá nhân của mỗi thành viên lẫn
trách nhiệm liên đới của tập thể Chính phủ.


8

+ Hình thức hoạt động của Chính phủ
Một trong những nội dung của pháp luật về tổ chức và hoạt động của
Chính phủ là những quy định về hình thức hoạt động của Chính phủ. Hình
thức hoạt động của Chính phủ thường được quy định là thông qua các phiên
họp của Chính phủ, thông qua hoạt động của Thủ tướng Chính phủ và thông
qua hoạt động của các thành viên Chính phủ.

Pháp luật quy định về các phiên họp thường kỳ và bất thường của
Chính phủ, về điều kiện tiến hành, thành phần tham dự phiên họp. Ngoài ra
pháp luật còn quy định về các hình thức hoạt động của Thủ tướng, Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, …
+ Về mối quan hệ giữa Chính phủ và các cơ quan nhà nước khác cũng
quan trọng trong nội bộ Chính phủ
Trước hết là quan hệ giữa Chính phủ và Quốc hội, Ủy ban thường vụ
Quốc hội. Pháp luật nước ta luôn quy định Chính phủ là do Quốc hội bầu ra
và có thể bị Quốc hội bãi, miễn, vì vậy Chính phủ luôn phải chịu trách nhiệm
và báo cáo công tác trước Quốc hội, chịu sự giám sát của Quốc hội. Quốc hội
còn giao cho Ủy ban thường vụ Quốc hội phụ trách việc giám sát hoạt động
của Chính phủ. Ủy ban thường vụ Quốc hội có quyền bãi bỏ các văn bản của
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nếu trái với văn bản của Ủy ban thường vụ
Quốc hội, đình chỉ và đề nghị Quốc hội bãi bỏ đối với các văn bản của Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ trái với văn bản của Quốc hội. Chính phủ có quyền
trình dự án luật, pháp lệnh trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Chính phủ tổ chức thực hiện các văn bản của Quốc hội, Ủy ban thường vụ
Quốc hội sau khi các văn bản đó được ban hành và có hiệu lực.
Về mối quan hệ giữa Chính phủ và Chủ tịch nước. Theo quy định của
pháp luật, Chủ tịch nước tham gia vào việc thành lập Chính phủ như đề nghị
Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng Chính phủ; căn cứ nghị
quyết của Quốc hội để ra các quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm,
cách chức, chấp thuận việc từ chức đối với Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các


9

thành viên khác của Chính phủ. Chủ tịch nước tham dự các phiên họp của
Chính phủ khi xét thấy cần thiết, có quyền phát biểu ý kiến nhưng không có
quyền biểu quyết hoặc Chính phủ mời Chủ tịch nước đến tham dự các phiên

họp của Chính phủ và trình Chủ tịch nước quyết định những vấn đề thuộc
thẩm quyền của Chủ tịch nước. Chính phủ có trách nhiệm tổ chức thực hiện
các văn bản quy phạm pháp luật do Chủ tịch nước ban hành và đã có hiệu lực
pháp lý. Hàng quý, sáu tháng, Chính phủ phải gửi báo cáo công tác đến Chủ
tịch nước.
Về mối quan hệ giữa Chính phủ và Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao. Thể hiện ở việc kinh phí hoạt động của Tòa án nhân dân
tối cao và các tòa án nhân dân địa phương, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và
các Viện kiệm sát nhân dân địa phương do Tòa án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao lập dự toán và đề nghị Chính phủ trình Quốc hội
quyết định. Công tác thi hành án, đào tạo, bồi dưỡng, hỗ trợ xét xử của cơ
quan hành pháp có tác động không nhỏ đến hiệu quả hoạt động xét xử của
Tòa án nhân dân. Chính phủ ban hành nhiều nghị đinh, là các văn bản quy
phạm pháp luật quan trọng để làm cơ sở cho Tòa án tiến hành xét xử. Tòa án
nhân dân tối cao và các tòa địa phương, về nguyên tắc có quyền xét xử hành
vi vi phạm của các thành viên Chính phủ. Viện kiểm sát nhân dân chỉ thực
hiện tốt quyền công tố khi có sự hỗ trợ tốt của các cơ quan điều tra thuộc hệ
thống hành pháp. Viện kiểm sát giữ quyền công tố, về nguyên tắc có quyền
truy tố các thành viên của Chính phủ.
Quan hệ trong nội bộ Chính phủ chủ yếu bao gồm quan hệ giữa Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ với các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ,
quan hệ giữa các Bộ trưởng với nhau là mối quan hệ phối hợp hoạt động và
liên đới chịu trách nhiệm. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ báo cáo
công tác trước Chính phủ, Thủ tướng; tham gia giải quyết các công việc
chung của tập thể Chính phủ; cùng tập thể Chính phủ quyết định và liên đới
chịu trách nhiệm về các vấn đề thuộc thẩm quyền của Chính phủ; đề xuất với


10


Chính phủ, Thủ tướng các chủ trương, chính sách, cơ chế, văn bản pháp luật
cần thiết thuộc thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; chủ động
làm việc với Thủ tướng, Phó Thủ tướng về công việc của Chính phủ và công
việc khác liên quan; chịu trách nhiệm toàn bộ nội dung và tiến độ trình các đề
án, dự án, văn bản pháp luật được giao; thực hiện các công việc cụ thể theo
ngành, lĩnh vực được phân công hoặc ủy quyền của Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ. Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc thi hành pháp luật, việc thực
hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình và quyết định của Chính
phủ, Thủ tướng về ngành, lĩnh vực được phân công; thực hiện các nhiệm vụ
khác do Thủ tướng Chính phủ ủy quyền. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ hướng dẫn và kiểm tra, phối hợp, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ thực hiện các nhiệm vụ công tác thuộc ngành, lĩnh vực được phân
công; Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ có quyền kiến nghị với Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ khác đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ
những quy định do các cơ quan đó ban hành trái với Hiến pháp, luật và văn
bản của cơ quan nhà nước cấp trên hoặc của bộ, cơ quan ngang bộ về ngành,
lĩnh vực do bộ, cơ quan ngang bộ chịu trách nhiệm quản lý; nếu kiến nghị
không được chấp thuận thì trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.
- Pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ được thể hiện trong
các văn bản quy phạm pháp luật mà chủ yếu là Hiến pháp, luật và các văn
bản dưới luật
Nếu như hình thức của pháp luật dân sự có thể gồm cả tập quán pháp,
tiền lệ pháp và văn vản quy phạm pháp luật thì pháp luật về tổ chức và hoạt
động của Chính phủ chỉ được thể hiện bằng các văn bản quy phạm pháp luật
mà trước hết là Hiến pháp, sau đó là luật và các văn bản dưới luật.
Trong các Hiến pháp đã có của nước ta, Hiến pháp nào cũng có chương
về Chính phủ, các quy định về tổ chức và hoạt động của Chính phủ chủ yếu
thể hiện trong chương này. Tiếp đó là Luật tổ chức Chính phủ được ban hành
nhằm cụ thể hóa để thực hiện chế định Chính phủ trong Hiến pháp. Ngoài ra,



11

còn có các nghị định về tổ chức và hoạt động của các bộ, cơ quan ngang bộ,
cơ quan thuộc chính phủ.
1.2. Khái niệm và các tiêu chí để hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt
động của Chính phủ
1.2.1. Khái niệm hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của
Chính phủ
Hoàn thiện pháp luật là một đòi hỏi khách quan trong hoạt động của bất
cứ nhà nước nào. Ở nước ta, trong xu thế hội nhập quốc tế và thực hiện chủ
trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tăng cường quản lý
xã hội bằng pháp luật cũng đang đặt ra nhu cầu bức xúc về hoàn thiện pháp
luật nói chung và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ
nói riêng.
Trên thực tế, các quan hệ xã hội luôn luôn vận động, đòi hỏi các quy
phạm pháp luật cũng có sự điều chỉnh để phù hợp với sự vận động của các
quan hệ xã hội, do đó hoàn thiện pháp luật là một trong những công việc
thường xuyên của bất cứ một nhà nước nào. Trong tiếng Việt, hoàn thiện
được hiểu là “tốt, đầy đủ đến mức không thấy cần phải làm gì thêm nữa”1 .
Từ cách giải thích này có thể hiểu nôm na hoàn thiện pháp luật về tổ
chức và hoạt động của Chính phủ là làm cho pháp luật về tổ chức và hoạt
động của Chính phủ tốt hết mức có thể.
Theo các nhà nghiên cứu luật học thì một hệ thống pháp luật hoàn thiện
đòi hỏi phải đảm bảo được những tiêu chuẩn, những yêu cầu nhất định như
tính phù hợp, tính hoàn toàn diện, tính đồng bộ và trình độ kỹ thuật pháp lý
cao, … Vì thế, hoàn thiện pháp luật là một quá trình hoạt động được tiến hành
thường xuyên, liên tục và lâu dài nhằm đáp ứng nhu cầu sôi động, biến đổi
không ngừng của đời sống xã hội, bảo đảm cho công tác quản lý Nhà nước
đạt kết quả cao hơn, thúc đẩy sự phát triển của đất nước.

1

Viện ngôn ngữ học (2002), Từ điển tiếng Việt , Nxb. Đà nẵng , Trung tâm từ điển học, tr 450.


12

Hoàn thiện pháp luật là hoạt động luôn gắn với hoạt động xây dựng
pháp luật. Nếu như xây dựng pháp luật là hoạt động tạo ra các văn bản quy
phạm pháp luật thì hoàn thiện pháp luật là hoạt động sửa đổi, bổ sung, thay
thế các quy phạm pháp luật và văn bản quy phạm pháp luật, làm cho hệ thống
pháp luật ngày càng đáp ứng tốt hơn, ở mức độ cao hơn các tiêu chí đánh giá
mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật. Vì thế, hoạt động hoàn thiện pháp
luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ chỉ do các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền mà chủ yếu là Quốc hội, Chính phủ tiến hành. Quá trình hoàn
thiện pháp luật trong lĩnh vực này phải được tiến hành theo trình tự, thủ tục
do pháp luật quy định. Trình tự, thủ tục đó củ yếu được quy định trong Hiến
pháp, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và các luật về tổ chức bộ
máy nhà nước.
Trên cơ sở phân tích trên, có thể hiểu: Hoàn thiện pháp luật về tổ chức
và hoạt động của Chính phủ là quá trình xây dựng, sửa đổi, bổ sung, thay thế
các quy phạm pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ, do các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật
quy định nhằm làm cho pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ
ngày càng đầy đủ, thống nhất và đồng bộ hơn, phù hợp hơn với thực tế cuộc
sống, minh bạch hơn, thể hiện kỹ thuật xây dựng pháp luật cao và ngày càng
đáp ứng tốt hơn yêu cầu đối với Chính phủ trong nhà nước pháp quyền.
1.2.2. Các tiêu chí hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của
Chính phủ
Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ là một

công việc hết sức khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải trải qua một quá trình lâu
dài và phải dựa trên những tiêu chí nhất định. Các tiêu chí để đánh giá mức độ
hoàn thiện của hệ thống pháp luật cũng chính là các tiêu chí để hoàn thiện
pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ. Đó cơ bản là các tiêu chí
sau:


13

Thứ nhất, pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ phải đảm
bảo tính minh bạch. Theo đó, các quy định của pháp luật phải rõ ràng, cụ thể,
không được mập mờ, khó hiểu dẫn đến sai lệch trong nhận thức và áp dụng
pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ, khi đó sẽ tránh được các
trường hợp chồng chéo quyền và nghĩa vụ, thẩm quyền của Chính phủ với các
cơ quan khác cũng như của các thành viên của Chính phủ với nhau. Mặt khác,
các văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ phải
được công khai, minh bạch, cả trong quá trình xây dựng và sau khi hoàn
thành, theo đó khi soạn thảo phải lấy ý kiến rộng rãi của toàn thể nhân dân
(trừ những nội dung thuộc bảo vệ bí mật nhà nước) để các cơ quan, tổ chức,
cá nhân tham gia góp ý hoàn chỉnh; sau khi ban hành, cơ quan có thẩm quyền
phải tiến hành công bố công khai để các cơ quan, tổ chức, cá nhân hiểu biết
và thực hiện.
Thứ hai, pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ phải đảm
bảo tính toàn diện. Theo đó các quy phạm pháp luật về tổ chức và hoạt động
của Chính phủ phải đảm bảo cả về mặt hình thức và nội dung, điều chỉnh
được các quan hệ pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ, nhất là
việc xác định tổ chức, hoạt động của các cơ quan trực thuộc Chính phủ (Bộ,
cơ quan ngang bộ, tổ chức trực thuộc Chính phủ) đều phải có các quy định
pháp luật để áp dụng và điều chỉnh đến nó. Ngoài việc ban hành Hiến pháp,
Luật tổ chức Chính phủ thì cần có các văn bản pháp lý hướng dẫn quy định cụ

thể hơn để phân định thẩm quyền cũng như cách áp dụng, hiểu đúng được các
quy định của pháp luật và đó sẽ là một trong những tiêu chí quan trọng của
việc hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ. Đối với
việc tổ chức của Chính phủ thì cần có đẩy đủ các quy phạm pháp luật quy
định về trình tự thành lập, cơ cấu tổ chức của Chính phủ, các bộ và các cơ
quan khác thuộc Chính phủ. Đối với hoạt động của Chính phủ thì cần có đủ
các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, phương thức hoạt động của


14

Chính phủ và các bộ phận cấu thành nó nhằm giúp Chính phủ có đủ quyền
năng để thực hiện thẩm quyền của mình.
Thứ ba, pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ phải đảm
bảo tính thống nhất, đồng bộ. Theo đó các văn bản quy phạm pháp luật được
ban hành hay sửa đổi, bổ sung phải đảm bảo được sự thống nhất với các văn
bản khác trong hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về tổ chức và hoạt
động của Chính phủ nói riêng, không còn mâu thuẫn, chồng chéo với các văn
bản pháp luật, nhất là các văn bản đang có hiệu lực pháp luật, đồng thời bảo
đảm được sự thống nhất giữa các quy phạm pháp luật trong cùng một văn bản
pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ.
Phải đảm bảo sự logic giữa các phần, chương, mục, điều, khoản, cách
trình bầy, cách đánh số thứ tự phải đồng bộ, đúng vì vậy cần phải có sự sắp
xếp một cách hợp lý đó là đặc điểm chung của bất kỳ một loại văn bản pháp
luật đều cần phải có. Nếu pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ
thiếu đồng bộ, thống nhất thì sẽ gặp nhiều khó khăn vướng mắc trong công
tác phân định thẩm quyền, quyền hạn về tổ chức và hoạt động của các cơ
quan trực thuộc Chính phủ. Ngoài ra, pháp luật về tổ chức và hoạt động của
Chính phủ còn phải thống nhất và đồng bộ với pháp luật trong các lĩnh vực
khác.

Thứ tư, pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ phải đảm bảo
tính phù hợp với thực tiễn, có tính khả thi và dễ vận dụng. Các quy định pháp
luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ khi xây dựng phải dựa trên cơ sở
thực tiễn, sát với yêu cầu của việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan trực
thuộc Chính phủ, bảo đảm sự phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội của đất nước. Nhất là phải phủ hợp với định hướng của
Đảng và Nhà nước để đáp ứng được các nhu cầu phát triển của đất nước,
tránh trường hợp bị tụt hậu. Thực tiễn phát triển đất nước chính là tiêu chí để
kiểm tra, đánh giá lại pháp luật có phù hợp không, có hiệu lực, hiệu quả


15

không, các quy định về tổ chức và hoạt động của các cơ quan, tổ chức trực
thuộc chính phủ có bảo đảm được tính khả thi hay không.
Pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ phải được xây dựng
và hoàn thiện trên cơ sở của các quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội hiện đang
tồn tại đồng thời các phương pháp, cách thức điều chỉnh của pháp luật về tổ
chức và hoạt động của Chính phủ cũng phải phù hợp với trình độ phát triển
của đất nước.
Thứ năm, pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ hiện nay
cần phải có sự tương thích với các nguyên tắc chung của luật quốc tế, nhất là
các điều khoản bắt buộc trong công ước, điều ước quốc tế và thỏa thuận quốc
tế đã được ký kết, phê chuẩn hoặc tham gia.
Trên thực tế, không chỉ pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính
phủ mà cả hệ thống pháp luật Việt Nam còn có những điểm chưa tương thích
với pháp luật quốc tế vì ít nhiều nó cũng chịu sự ảnh hưởng hoặc phụ thuộc
vào điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, phong tục tập quán, truyền
thống đặc thù của Việt Nam. Tuy nhiên, trong thời đại ngày nay, pháp luật về
tổ chức và hoạt động của Chính phủ Việt Nam cần phải có sự tương thích với

các nguyên tắc chung của pháp luật quốc tế, nhất là các điều khoản bắt buộc
trong công ước, điều ước quốc tế và thỏa thuận quốc tế đã được ký, phê chuẩn
hoặc tham gia.
Thứ sáu, pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ phải được
xây dựng trên cơ sở trình độ kỹ thuật pháp lý cao. Theo đó, hệ thống các quy
phạm pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ phải được cấu trúc
một cách chặt chẽ, logic, khoa học; các khái niệm, định nghĩa, thuật ngữ được
sử dụng phải đảm bảo chuẩn xác, đơn nghĩa, trong sáng về ngôn ngữ, bảo
đảm dễ hiểu và phù hợp với khả năng nhận thức, ý thức pháp luật của xã hội.
Trong từng văn bản quy phạm pháp luật thì các bộ phận và các quy định phải
có cấu trúc thích hợp và giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ thống nhất nội tại
với nhau.


16

Thứ bảy, pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ phải có khả
năng kiểm soát được việc tổ chức và hoạt động của các các Bộ, cơ quan
ngang Bộ, Bộ trưởng, Thứ trưởng, … các tổ chức trực thuộc Chính phủ, ngoài
ra phải dự liệu điều chỉnh được những quan hệ pháp luật về tổ chức và hoạt
động của các cơ quan đó có thể xảy ra, hay nói cách khác, pháp luật phải có
tính tiên phong, phải lường trước được việc tổ chức hoạt động của các cơ
quan trực thuộc Chính phủ có thể xảy ra trên thực tế để chủ động tiến hành
phân định được danh giới quyền hạn tổ chức hoạt động của các cơ quan đó
trên thực tế để chủ động quy định phân định tổ chức và hoạt động của từng cơ
quan trực thuộc liên quan đến tổ chức và hoạt động và có đủ cơ sở pháp lý để
tổ chức và hoạt động trên thực tế.
Thứ tám, pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ phải phù
hợp với các quan điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước. Việc xây dựng hệ
thống các quy định, các văn bản pháp lý như Hiến pháp, Luật tổ chức Chính

phủ, Nghị định hướng dẫn quy định về tổ chức hoạt động của Chính phủ, của
các thành viên của Chính phủ thì đều nhằm tới một mục đích là cụ thể hóa các
quan điểm định hướng phát triển của đất nước qua các thời kỳ khác nhau. Vì
vậy, việc xây dựng hệ thống các văn bản pháp lý đó cũng không được pháp
chệch hướng phát triển mà Đảng và Nhà nước đã đặt ra, cũng như không
được trái với sự phát triển chung của đất nước xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về tổ chức
và hoạt động của Chính phủ Việt Nam hiện nay
Trong thực tế, có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về tổ chức và
hoạt động của Chính phủ nhưng các yếu tố ảnh hưởng lớn nhất và cơ bản nhất
là yêu cầu phát triển bền vững của đất nước, việc tổ chức và thực hiện quyền
lực nhà nước, đường lối, chính sách của Đảng; ý thức pháp luật của các chủ
thể có thẩm quyền xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật về tổ chức và hoạt
động của Chính phủ, yếu tố văn hóa, truyền thống dân tộc và hợp tác quốc tế.


17

*Yêu cầu phát triển bền vững đất nước
Khái niệm “phát triển bền vững” xuất hiện trong phong trào bảo vệ môi
trường từ những năm đầu của thập niên 70 của thế kỷ XX. Năm 1987, trong
báo cáo “Tương lai chung của chúng ta” của Hội đồng Thế giới về Môi
trường và phát triển (WCDE) của Liên hợp quốc, “phát triển bền vững” được
định nghĩa “là sự phát triển đáp ứng được những yêu cầu của hiện tại, nhưng
không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau”.2
Đến ngày 12 tháng 4 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định
số 432/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam
giai đoạn 2011 – 2020 với mục tiêu: “Tăng trưởng bền vững, có hiệu quả, đi
đôi với tiến độ, công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường, giữ vững

ổn định chính trị - xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ quốc gia”. Phát triển bền vững tùy thuộc vào nhiều nhân tố,
song nhân tố cơ bản có ý nghĩa quyết định, chi phối các nhân tố khác, đó là
con người, gắn với chế độ chính trị - xã hội và việc tổ chức, phát huy nhân tố
con người trong sản xuất và trong đời sống xã hội. Vì vậy, trong điều kiện
nước ta hiện nay, để phát triển bền vững phải chăm lo phát huy tối đa nhân tố
con người, lấy con người làm trung tâm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
thiết thực chăm lo lợi ích và bảo đảm đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân,
nhằm tạo ra động lực và sức mạnh tổng hợp. Đây cũng là mục tiêu cao nhất
của sự phát triển bền vững ở nước ta. Yêu cầu phát triển bền vững đòi hỏi
pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ phải được hoàn thiện theo
hướng bảo đảm cho tổ chức và hoạt động của Chính phủ đáp ứng được yêu
cầu quản lý đất nước, bảo đảm cho kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững,
phát triển xã hội và bảo vệ môi trường.
* Yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền

2

Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg ngày 17/8/2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành định hướng
chiến lực phát triển bền vững ở Việt Nam (chương trình nghị sự 21 của Việt Nam).


18

Hiện nay, Việt Nam đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân và đây là mô hình tổ chức quyền lực nhà nước
khá đặc thù so với các nước trên thế giới. Trong đó, quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; tất cả quyền lực tập trung vào
nhân dân. Với việc tổ chức quyền lực này đã tạo ra sự bảo đảm quyền lực nhà

nước được thực hiện một cách dân chủ, tập trung, đồng thời tại nên sức mạnh
tổng hợp và bảo đảm việc thực hiện quyền lực được chính xác, thuận lợi, kể
cả trong đề xuất chính sách và triển khai việc tổ chức và hoạt động của Chính
phủ.
Qua các bản Hiến pháp gắn liền với thời kỳ phát triển của đất nước thì
có thể khẳng định Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của
nước Việt Nam, là cơ quan chấp hành của Quốc Hội. Chính vì vậy, nhiệm vụ
của Chính phủ là sinh ra đã là một cơ quan đặc biệt vì nó thực hiện các quyền
mà Đảng, Nhà nước giao và có nghĩa vụ phải báo cáo việc thực hiện của mình
với toàn thể nhân dân qua các phiên họp của Chính phủ, các kỳ đại hội Đảng.
Những thành viên của Chính phủ chịu trách nhiệm báo cáo về mảng mình
được giao quản lý và chịu trách nhiệm đối với những quyết định mà mình đã
đưa ra để thực hiện quyền hành pháp của mình. Việc phân định phối hợp
quyền lực giữa các thành viên trong Chính phủ cũng như bên ngoài Chính
phủ như Quốc Hội, Tòa án, Viện Kiểm sát cần có sự linh hoạt tránh trường
hợp chồng chéo, hoặc tránh tình trạng đùn đẩy trách nhiệm khi vấn đề khó
xảy ra.
Vì vậy, trong quá trình hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động
của Chính phủ cần phải quan tâm đến việc hoàn thiện về tổ chức quyền lực
nhà nước, trong đó phải xây dựng được các cơ chế kiểm soát quyền lực giữa
các thành viên của Chính phủ: Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ hoặc giữa Chính phủ với các cơ quan khác như với Quốc Hội, Tòa
án, Viện Kiểm soát phải phù hợp.


19

* Đường lối chính sách của Đảng
Ở nước ta hiện nay, Đảng là lực lượng cầm quyền, lực lượng duy nhất
lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Phương thức lãnh đạo cơ bản, chủ yếu và quan

trọng nhất của Đảng là đề ra đường lối, chính sách định hướng cho sự phát
triển của đất nước trong từng giai đoạn. Muốn cho đường lối chính sách đó
trở thành hiện thực trong thực tế thì Nhà nước phải thể chế hóa đường lối,
chính sách đó thành pháp luật và tổ chức thực hiện. Vì thế, hoàn thiện pháp
luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ luôn chịu ảnh hưởng của đường
lối, chính sách của Đảng. Các Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc đều có nội
dung, định hướng cho tổ chức và hoạt động của Chính phủ trong mối giai
đoạn phát triển cụ thể của đất nước. Vì thế, pháp luật về tổ chức và hoạt động
của Chính phủ phải được hoàn thiện theo đúng định hướng đó.
* Ý thức pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền xây dựng và tổ
chức thực hiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ
Ý thức pháp luật là tổng thể những học thuyết, tư tưởng, quan điểm,
quan niệm thịnh hành trong xã hội, thể hiện mối quan hệ của con người đối
với pháp luật hiện hành, pháp luật đã qua và pháp luật cần phải có, thể hiện sự
đánh giá về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi xử sự của con
người, cũng như tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước và các tổ
chức xã hội.
Sự thể hiện tập trung của ý thức pháp luật là hệ tư tưởng pháp luật, có ý
nghĩa là hệ thống các quan điểm pháp luật dựa trên những lập trường khoa
học và xã hội nhất định. Ý thức pháp luật có 3 nội dung là: a) sự hiểu biết về
pháp luật; b) thái độ đối với pháp luật; c) khả năng thực hiện và áp dụng pháp
luật. Thông qua ý thức pháp luật của mình, các chủ thể có thẩm quyền áp đặt
hay tác động đến quá trình hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của
Chính phủ, hay nói cách khác cho ra đời những quy định về tổ chức và hoạt
động của Chính phủ thể hiện những tư tưởng, quan điểm của họ. Nếu các chủ
thể đó đại diện cho giai cấp tiến bộ thì sẽ có những quy định về tổ chức và


20


hoạt động của Chính phủ nhằm đảm bảo lợi ích chung cho toàn thể xã hội, mà
trước hết là lợi ích của nước nhà, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân trong xã hội.
Ở nước ta, ý thức pháp luật thống trị là ý thức pháp luật của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động và tầng lớp trí thức. Cùng với sự phát triển
của xã hội Việt Nam, ý thức pháp luật của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và tầng lớp trí thức trở thành một hệ tư tưởng và quan điểm pháp luật
chung thống nhất của toàn xã hội. Nhờ vậy, các quy định của pháp luật về tổ
chức và hoạt động của Chính phủ hướng đến bảo vệ những lợi ích của nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân có liên quan. Các quy
định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ hướng đến mục
tiêu tích cực là xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi
ích của nhân dân.
Ý thức pháp luật là “điều kiện quan trọng để hình thành, phát triển và
hoàn thiện hệ thống pháp luật”3. Vì vậy, quá trình hoàn thiện pháp luật về tổ
chức và hoạt động của Chính phủ cũng chịu ảnh hưởng rất lớn từ ý thức pháp
luật của các chủ thể có thẩm quyền xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật.
Bởi vì, trên cơ sở ý thức pháp luật của mình, các chủ thể có thẩm quyền xây
dựng pháp luật có thể ban hành ra các quy định phù hợp với thực tiễn cuộc
sống, bảo đảm sự hợp lý trong tổ chức và hiệu quả trong hoạt động của Chính
phủ. Cũng trên cơ sở ý thức pháp luật của mình, các chủ thể có thẩm quyền tổ
chức thực hiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ có thể xác
định được những quy định pháp luật không phù hợp mà đề xuất sửa đổi, bổ
sung, làm cho pháp luật ngày càng hoàn thiện hơn
* Yếu tố văn hóa, truyền thống dân tộc
Văn hóa là sản phẩm tinh hoa của con người, là yếu tố quyết định các
xử sự của con người và gắn bó với con người. Văn hóa có một ảnh hướng
3

Lê Minh Tâm - Nguyễn Minh Đoan (2010), Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật, NXB Công an nhân,

Đại học Luật Hà Nội, tr 427.


×