Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Sở hữu chung của vợ chồng và việc chia tài sản chung của vợ chồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (817.7 KB, 82 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THANH HÀ

SỞ HỮU CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
VÀ VIỆC CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60380103

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. Phạm Văn Tuyết

HÀ NỘI 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi
được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết và khảo sát tình hình
thực tiễn dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS. Phạm Văn Tuyết.
Các thông tin, số liệu, các luận điểm kế thừa được trích dẫn rõ ràng.
Kết quả nghiên cứu của Luận văn là trung thực.

HỌC VIÊN


Nguyễn Thanh Hà
XÁC NHẬN CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Bộ luật dân sự

BLDS

Hôn nhân và gia đình

HN&GĐ

Quyền sử dụng đất

QSDĐ

Thời kỳ hôn nhân

TKHN

Tòa án nhân dân

TAND

Tòa án nhân dân tối cao

TANDTC



1

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................ 2
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
SỞ HỮU CHUNG CỦA VỢ CHỒNG .................................................................. 9
1.1. KHÁI NIỆM, NỘI DUNG VỀ SỞ HỮU CHUNG CỦA VỢ CHỒNG ....................... 9
1.1.1. Khái niệm ................................................................................................................ 9
1.1.2. Nội dung ................................................................................................................ 12
1.2. CĂN CỨ XÁC LẬP ................................................................................................. 15
1.2.1. Thu nhập hợp pháp của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân ...................................... 17
1.2.2. Vợ chồng được tặng cho chung, thừa kế chung ...................................................... 23
1.2.3. Vợ ( chồng) gia nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung của vợ chồng ........................ 25

Chương 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG .................................................... 27
2.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG VỢ, CHỒNG ............... 27
2.1.1. Khái niệm .............................................................................................................. 27
2.1.2. Nguyên nhân ......................................................................................................... 29
2.2. CÁC TRƯỜNG HỢP CHIA TÀI SẢN CHUNG VỢ, CHỒNG ................................ 30
2.2.1. Theo yêu cầu ......................................................................................................... 31
2.2.2. Ly hôn ................................................................................................................... 39
2.2.3. Khi một bên chết (chết thực tế, chết pháp lý) ......................................................... 47
2.2.4. Các trường hợp khác ........................................................................................... 51

Chương 3 THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ XÁC ĐỊNH TÀI SẢN
CHUNG VỢ CHỒNG, CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG VÀ
KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN ............................................................................... 53

3.1. NHẬN XÉT CHUNG ............................................................................................... 53
3.2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ XÁC ĐỊNH
TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG, CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG.... 55
3.3. MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP CỤ THỂ .......................................................................... 60
3.3.1. Trường hợp chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn ................................................... 60
3.3.2. Trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng khi một bên chết trước hoặc bị Toà án
tuyên bố là đã chết ........................................................................................................... 67
3.3.3. Trường hợp chia tài sản chung sau ly hôn .............................................................. 67
3.4. VƯỚNG MẮC VỀ XÁC ĐỊNH TÀI SẢN CHUNG HỢP NHẤT CỦA VỢ CHỒNG70
3.5. MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT VỀ SỞ HỮU CHUNG CỦA VỢ CHỒNG, CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ
CHỒNG .......................................................................................................................... 70
3.5.1. Một số định hướng hoàn thiện quy định của pháp luật về xác định tài sản chung của
vợ chồng, chia tài sản chung của vợ chồng ...................................................................... 70
3.5.2. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật và cơ chế thực thi pháp luật về xác định
tài sản chung của vợ chồng, chia tài sản chung của vợ chồng........................................... 71
3.5.2.1. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy phạm pháp luật ................................. 72
3.5.2.2. Một số kiến nghị hoàn thiện cơ chế thực thi nhằm đưa chế định chia tài sản chung
của vợ chồng vào đời sống xã hội .................................................................................... 73

KẾT LUẬN ............................................................................................................. 76


2

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xã hội loài người đã trải qua nhiều hình thái gia đình khác nhau. Gia đình là
sản phẩm của xã hội, phát sinh và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội. Do
vậy gia đình là hình ảnh thu nhỏ của xã hội, là tế bào của xã hội, sự ổn định và phát

triển lành mạnh của gia đình sẽ góp phần vào sự phát triển chung của toàn xã hội.
Gia đình được xây dựng dựa trên cơ sở sợi dây liên kết của hôn nhân, huyết thống
và nuôi dưỡng. Trong đó quan hệ hôn nhân có thể xem là quan hệ nền tảng của mỗi
gia đình. Nhận định được tầm quan trọng đó, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng
đến việc xây dựng gia đình hòa thuận, hạnh phúc. Được thể hiện ở việc, Nhà nước
ban hành các quy phạm pháp luật, điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình
(HN&GĐ) cho phù hợp với sự phát triển của xã hội.
Trong quan hệ vợ chồng, bên cạnh đời sống tình cảm, tình yêu thương lẫn
nhau không thể không quan tâm tới đời sống vật chất. Quan hệ tài sản giữa vợ
chồng là một vấn đề hết sức quan trọng, nó là một trong những tiền đề giúp cho vợ
chồng xây dựng cuộc sống hạnh phúc, đáp ứng những nhu cầu về vật chất tinh thần
cho vợ chồng và các thành viên trong gia đình. Chính sự ràng buộc này làm nảy
sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa họ với nhau mà chia tài sản chung của vợ
chồng là một vấn đề không thể thiếu trong pháp luật hôn nhân và gia đình. Trong
vấn đề hôn nhân gia đình nói chung và vấn đề tài sản trong gia đình nói riêng,
người Việt thường đề cao lợi ích của gia đình hơn lợi ích của mỗi cá nhân. Tài sản
chung là thứ cần có để tạo điều kiện cho việc nhân danh lợi ích gia đình khi tham
gia vào các giao dịch. Đó cũng là lý do Luật Hôn nhân và Gia đình (HN&GĐ) đã
được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X, kỳ họp thứ 7
thông qua ngày 09/06/2000 quy định rõ ràng về chế độ sở hữu của vợ chồng và việc
chia tài sản chung của vợ chồng. Và đến Luật HN&GĐ hiện hành (năm 2014) vẫn
tiếp tục duy trì và hoàn thiện các quy định này.
Trong thực tiễn xét xử các tranh chấp tài sản khi ly hôn cho thấy vụ việc khá
phức tạp, và chủ yếu phát sinh do cách áp dụng pháp luật để xác định tài sản chung,
tài sản riêng của vợ chồng còn thiếu chính xác. Việc xác định tài sản thuộc sở hữu
chung của vợ chồng là rất quan trọng, đặc biệt là thời điểm hiện nay khi mà xã hội
luôn có sự vận động, phát triển kéo theo các mối quan hệ phức tạp và khó xác định
hơn. Khi việc xác định tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng chính xác sẽ giúp



3

cho việc giải quyết tranh chấp dễ dàng hơn, giúp giảm bớt tranh chấp tài sản phát
sinh liên quan đến HN&GĐ.
Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu và tìm hiểu sâu hơn những quy định của
pháp luật hiện hành về chế độ sở hữu chung và việc chia tài sản chung của vợ
chồng, từ đó đưa ra những quan điểm của bản thân về vấn đề này dựa trên cơ sở
những kiến thức đã được tích lũy trong quá trình học tập và tình hình áp dụng pháp
luật trên thực tiễn là yêu cầu có tính cần thiết. Đây cũng là lý do học viên lựa chọn
đề tài: "Sở hữu chung của vợ chồng và việc chia tài sản chung của vợ chồng"
làm đề tài nghiên cứu cho Luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở Việt Nam, pháp luật về sở hữu chung của vợ chồng và việc chia tài sản
chung của vợ chồng là mảng pháp luật tương đối quen thuộc, từ xưa đến nay chế
định pháp luật liên quan đến tài sản chung của vợ chồng nói chung và chia tài sản
chung của vợ chồng nói riêng luôn là vấn đề dành được nhiều sự quan tâm của xã
hội cũng như giới nghiên cứu. Bởi vậy, trong thời gian qua đã có nhiều công trình
nghiên cứu liên quan đến chế định chia tài sản chung của vợ chồng. Có thể tạm
phân loại các công trình nghiên cứu này thành ba nhóm lớn như sau:
Nhóm các luận văn, luận án, các công trình nghiên cứu tiêu biểu trong nhóm
này có:
(i) Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam,
Nguyễn Văn Cừ, luận án tiến sĩ Luật học, 2005;
(ii) "Xác định chế độ tài sản của vợ chồng - một số vấn đề lý luận và thực
tiễn", Nguyễn Hồng Hải, luận văn thạc sĩ, 2002;
(iii) Một số vấn đề về tài sản vợ chồng trong hoạt động sản xuất kinh doanh,
Trần Đức Hoài, luận văn thạc sĩ, 2006.
(iv) Sở hữu chung của vợ chồng theo quy định của pháp luật hiện hành –
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nguyễn Thùy Linh, Luận văn thạc sĩ, Khoa
luật Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2012;

(v) “Chia tài sản chung của vợ chồng theo luật hôn nhân và gia đình – Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nguyễn Thanh Huyền, Khóa luận tốt nghiệp, Khoa
luật Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2013.
Tuy nhiên, các công trình này hoặc có phạm vi nghiên cứu rộng, đề cập đến
nhiều khía cạnh khác nhau trong vấn đề tài sản vợ chồng, hoặc chỉ giải quyết
một khía cạnh nhỏ trong chế định chia tài sản chung của vợ chồng mà chưa có công


4

trình nào nghiên cứu một cách tổng thể chế định chia tài sản chung của vợ chồng.
Vì vậy, các công trình nói trên chưa có điều kiện phân tích một cách sâu sắc và toàn
diện tất cả các khía cạnh của chế định chia tài sản chung của vợ chồng.
Nhóm sách giáo trình, sách chuyên khảo, trong nhóm này có thể kể
đến một số công trình tiêu biểu như:
(i) Nguyễn Văn Cừ và Ngô Thị Hường, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
(ii) T.s Phùng Trung Tập, Bàn luận về các hình thức sở hữu và sở hữu chung
hợp nhất của vợ chồng, NXB chính trị - hành chính, 2011.
Ngoài ra, còn có các sách giáo trình và sách bình luận Luật Hôn nhân và gia
đình của nhiều tác giả khác. Tuyệt đại đa số các cuốn sách trên đều là những công
trình thiên về việc bình luận, giải thích các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình,
trong bối cảnh đó, chế định chia tài sản chung của vợ chồng thường chỉ được
phân tích một cách chung chung, có tính chất tổng quát, chứ không phân tích
một cách chuyên sâu và cụ thể. Có thể nói, những công trình trên đây chủ yếu đề
cập đến góc độ khái quát, xem xét bao quát chung nhất về sở hữu chung của vợ
chồng mà chưa đi sâu vào tìm hiểu riêng về tài sản chung và việc chia tài sản
chung của vợ chồng.
Nhóm các bài viết trên các báo, tạp chí, chia tài sản chung của vợ
chồng là chủ đề của nhiều bài viết nghiên cứu của nhiều tác giả trên các báo, tạp chí

chuyên ngành luật, có thể kể đến một số bài như:
(i) Bàn thêm về chia tài sản chung của vợ chồng trong TKHN theo pháp luật
hôn nhân gia đình hiện hành, Nguyễn Hồng Hải, 2003, Tạp chí Luật học, số 5;
(ii) “Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong
TKHN”, Nguyễn Phương Lan, Tạp chí Luật học số 6/2002, Tr. 22.
(iii) Về vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng khi phá sản doanh nghiệp tư
nhân, Phạm Văn Thiệu, 2003, Tạp chí Tòa án nhân dân (TAND), số 11, v.v…
Các bài viết này thường phân tích rất sâu một vấn đề trong chế định chia tài
sản chung của vợ chồng, nhưng do tính chất của một bài viết nghiên cứu, các tác giả
chỉ đề cập đến một khía cạnh hoặc một trường hợp cụ thể liên quan đến việc chia tài
sản chung của vợ chồng. Một điểm chung của cả ba nhóm công trình nghiên cứu kể
trên, đó là phần lớn các tác giả thường thiên về việc phân tích, đánh giá thực trạng
pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng mà chưa soi chiếu sự phản ánh của
toàn bộ các quy định pháp luật đó vào thực tiễn cuộc sống. Một số tác giả, trong các


5

công trình nghiên cứu kể trên, cũng đã có dẫn chiếu, liên hệ thực tiễn áp dụng một
số quy định pháp luật, tuy nhiên, sự liên hệ, phân tích đó chỉ có tính chất minh họa
cho một số trường hợp cụ thể mà chưa có sự soi chiếu một cách tổng thể, toàn diện
tất cả các khía cạnh của chế định chia tài sản chung của vợ chồng vào thực
tiễn. Như vậy, mặc dù đã có không ít công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề
chia tài sản chung của vợ chồng nhưng những công trình này chủ yếu nghiên cứu,
phân tích chế độ tài sản của vợ chồng dưới góc độ lý luận mà chưa có công trình
nào nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện về chia tài sản chung của vợ chồng dưới góc
độ thực tiễn áp dụng pháp luật. Do vậy, các công trình nghiên cứu trên so với đề tài
của luận văn này là hoàn toàn không có sự trùng lặp về mặt nội dung.
Nhìn chung, các công trình nêu trên về cơ bản mới chỉ tiếp cận từng mảng
nội dung sở hữu chung của vợ chồng hoặc một khía cạnh nhỏ trong vấn đề chia tài

sản chung của vợ chồng, mà chưa đi vào bao quát gắn việc xác định tài sản chung
của vợ chồng với việc giải quyết về chia tài sản chung của vợ chồng, chưa đi sâu
vào phân tích lý luận, đánh giá thực tế và tìm ra giải pháp hoàn thiện vấn đề này.
Đặc biệt, các tác phẩm trên mới chỉ tập trung vào nghiên cứu các vấn đề lý
luận và thực tiễn trước khi Luật HN&GĐ năm 2014 được ban hành do đó thiếu tính
ứng dụng trong giai đoạn hiện nay. Kể từ khi Luật HN&GĐ 2014 có hiệu lực, với
những kế thừa và phát triển của nó về vấn đề tài sản chung và chia tài sản chung của
vợ chồng, hiện còn thiếu các công trình nghiên cứu có giá trị về vấn đề này. Vậy,
dựa trên cơ sở tình hình nghiên cứu này, Luận văn sẽ kế thừa một số luận điểm
nghiên cứu, phân tích chuyên sâu về chế độ sở hữu chung của vợ chồng và nghiên
cứu cụ thể về việc chia tài sản chung của vợ chồng, trong đó tập trung vào nghiên
cứu hệ thống pháp luật hiện hành để cho thấy những điểm tiến bộ trong các quy
định mới và thực tiễn thi hành ở Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nhằm làm sáng tỏ một cách có hệ
thống về mặt lý luận những nội dung cơ bản của sở hữu chung của vợ chồng và
việc chia tài sản chung của vợ chồng trong quy định pháp luật hiện hành mà chủ
yếu là Luật HN&GĐ năm 2014. Bên cạnh đó là đánh giá thực tiễn áp dụng các quy
định trên, xác định những bất cập trong thực tiễn và đề xuất những giải pháp tiếp
tục hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả việc thực hiện quyền sở hữu
chung và giải quyết tốt các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng ở nước ta
hiện nay.


6

Để đạt được mục đích nghiên cứu ở trên, Luận văn đặt ra các nhiệm vụ
nghiên cứu cụ thể như sau:
- Thực hiện nghiên cứu những vấn đề lý luận của pháp luật về sở hữu chung
của vợ chồng và việc chia tài sản chung của vợ chồng.

- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật và thực thi pháp luật về sở hữu
chung của vợ chồng và chia tài sản chung của vợ chồng ở Việt Nam hiện nay, chỉ ra
những bất cập, tồn tại của hệ thống pháp luật cũng như thực tiễn quá trình áp dụng.
- Đề xuất, kiến nghị giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thực thi pháp luật về sở hữu chung của vợ chồng và chia tài sản chung của vợ
chồng ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định và thực tiễn áp dụng về
sở hữu chung của vợ chồng và việc chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định
của pháp luật Việt Nam. Cụ thể là nghiên cứu các vấn đề: Khái niệm, nội dung sở
hữu chung của vợ chồng; căn cứ xác lập, chấm dứt quyền sở hữu chung của vợ
chồng; Khái niệm, nguyên nhân, các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng và
thực tiễn áp dụng ...
Luận văn nghiên cứu chủ yếu các quy định về tài sản thuộc sở hữu chung
của vợ chồng và việc chia tài sản chung của vợ chồng theo Luật HN&GĐ và các
luật khác liên quan (Luật Dân sự, Luật Đất Đai,...) trong hệ thống pháp luật của Nhà
nước ta. Nghiên cứu vấn đề sở hữu chung của vợ chồng và việc chia tài sản chung
của vợ chồng một cách có hệ thống, làm cơ sở cho việc nâng cao hiệu quả áp dụng
trong thực tiễn.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là lý luận và thực tiễn về sở hữu chung
của vợ chồng và việc chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định của Luật
HN&GĐ và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Luận văn nghiên cứu quy định
pháp luật và việc áp dụng pháp luật từ khi Luật HN&GĐ năm 2014 được ban hành
cho đến nay, những vấn đề liên quan chưa được đề cập trong Luật HN&GĐ năm
2014. Đồng thời, luận văn nêu một số vấn đề trong thực tiễn áp dụng Luật HN&GĐ
năm 2014 về sở hữu chung của vợ chồng và việc chia tài sản chung của vợ chồng.
Bên cạnh đó, luận văn còn có sự phân tích, đối chiếu, so sánh với quy định
về sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng trong pháp luật một số nước khác để tham
khảo trong quá trình nghiên cứu, hoàn thiện các quy định về sở hữu chung hợp nhất
của vợ chồng trong Luật HN&GĐ của nước ta. Mặt khác, luận văn cũng hệ thống



7

sơ lược những quy định về sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng theo pháp luật của
nhà nước ta từ năm 1945 đến khi Luật HN&GĐ năm 2014 được ban hành, đặc biệt
là các quy định trong Luật HN&GĐ năm 2000 để thấy rõ sự tiến bộ và hoàn thiện
trong các quy định của Luật HN&GĐ năm 2014.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra, tác giả nghiên cứu đề
tài dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng một số phương pháp như:
- Phương pháp lịch sử, tìm hiểu chế độ sở hữu chung của vợ chồng và việc
chia tài sản chung của vợ chồng qua các thời kỳ ở Việt Nam;
- Các phương pháp phân tích, tổng hợp nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận cơ bản về sở hữu chung của vợ chồng và việc chia tài sản chung của vợ chồng;
- Phương pháp đánh giá, phương pháp điều tra, khảo sát thực tiễn nhằm nắm
bắt được những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện các quy định về sở
hữu chung của vợ chồng và việc chia tài sản chung của vợ chồng;
- Phương pháp so sánh giữa các quy định của pháp luật về sở hữu chung của
vợ chồng và việc chia tài sản chung của vợ chồng giữa các văn bản pháp luật liên
quan, giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật của các quốc gia khác trên thế giới.
Qua đó, phân tích nét tương đồng và đặc thù của pháp luật Việt Nam quy định về
chế độ tài sản chung của vợ chồng và chia tài sản chung của vợ chồng, phù hợp với
điều kiện về kinh tế, văn hóa, xã hội và tập quán gia đình truyền thống Việt Nam;
- Phương pháp thống kê được thực hiện trong quá trình khảo sát thực tiễn
hoạt động xét xử của ngành Tòa án, với số liệu cụ thể giải quyết các tranh chấp từ
quan hệ HN&GĐ liên quan đến tài sản giữa vợ, chồng. Tìm ra mối liên hệ giữa các
quy định của pháp luật với thực tiễn áp dụng đã phù hợp hay chưa? Từ đó xem xét
nội dung quy định của pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng, với thực tiễn của

đời sống xã hội nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật về vấn đề này.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu một cách tập trung và có hệ thống về pháp
luật và thực tiễn áp dụng về sở hữu chung của vợ chồng và việc chia tài sản chung
của vợ chồng.
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần xây dựng các giải pháp tổng thể
hoàn thiện pháp luật về sở hữu chung của vợ chồng và việc chia tài sản chung của
vợ chồng, xây dựng cơ chế thực thi pháp luật về vấn đề này nhằm tạo điều kiện


8

thuận lợi cho quá trình giải quyết các tranh chấp có liên quan đến tài sản chung của
vợ chồng.
Luận văn có thể là tài liệu tham khảo có giá trị cho nghiên cứu, giảng dạy và
học tập luật học tại các cơ sở đào tạo luật ở nước ta; đặc biệt, đối với chuyên ngành
luật HN&GĐ và pháp luật Dân sự.
Nội dung của luận văn có ý nghĩa thiết thực cho mọi cá nhân, đặc biệt là cho
các cặp vợ chồng tìm hiểu các quy định về chế độ sở hữu chung hợp nhất của vợ
chồng; biết được cơ sở pháp lý tạo lập các loại tài sản chung của vợ, chồng; quyền
và nghĩa vụ cụ thể của vợ, chồng đối với tài sản chung này; các trường hợp và
nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng. Từ đó, góp phần thực hiện pháp luật,
xây dựng gia đình dân chủ, hòa thuận, hạnh phúc, bền vững.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về sở hữu chung
của vợ chồng.
Chương 2: Những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về chia tài sản
chung của vợ chồng.

Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật và xác định tài sản chung của vợ
chồng, chia tài sản chung của vợ chồng và kiến nghị hoàn thiện.


9

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VỀ SỞ HỮU CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
1.1. KHÁI NIỆM, NỘI DUNG VỀ SỞ HỮU CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
1.1.1. Khái niệm
a) Khái niệm tài sản chung của vợ chồng
Tài sản của vợ chồng cũng là một loại tài sản theo pháp luật dân sự, vì vậy,
nghiên cứu vấn đề tài sản của vợ chồng phải đặt trong bối cảnh của chế định tài sản
nói chung. Tài sản là đối tượng của quyền sở hữu, là khách thể của phần lớn
các quan hệ pháp luật dân sự. Tuy nhiên, tài sản là một khái niệm rộng, dưới góc độ
pháp lý, rất khó có thể định nghĩa cụ thể về tài sản. Pháp luật các nước thường
không đưa ra định nghĩa cụ thể về tài sản mà nó thường được hiểu thông qua các
học thuyết pháp lý hoặc hiểu gián tiếp thông qua các quy định khác. Ví dụ, Bộ luật
dân sự (BLDS) Pháp không trực tiếp đưa ra khái niệm tài sản mà chỉ ghi nhận "tài
sản được chia thành động sản và bất động sản" (Điều 156) [24], BLDS Nhật Bản
cũng chỉ nêu ra những vật được coi là động sản, bất động sản, vật chính, vật phụ
(Điều 85 đến Điều 88) [23]… mà không định nghĩa tài sản.
Khác với cách quy định của các bộ luật trên, pháp luật dân sự nước ta chọn
cách định nghĩa tài sản bằng cách liệt kê những đối tượng được coi là tài sản "tài
sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản" (Điều 163) [3]. Theo
cách liệt kê trên, các đối tượng là tài sản được xác định như sau:
- Vật được coi là tài sản phải là một bộ phận của thế giới vật chất và
nằm trong sự kiểm soát của con người. Đồng thời, vật phải mang lại lợi ích cho con
người, tức là phục vụ cho các nhu cầu về sinh hoạt, sản xuất, tiêu dùng… của con

người.
- Tiền là thước đo giá trị của hàng hóa, là phương tiện thanh toán…
Ngoài ra, tiền còn có ý nghĩa về mặt chính trị - xã hội, nó thể hiện chủ quyền của
quốc gia. Vì thế, việc phát hành, đưa tiền vào hay rút tiền khỏi lưu thông đều được
Nhà nước kiểm soát chặt chẽ.
- Giấy tờ có giá là "bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát
hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định,
điều kiện trả lãi và các điều kiện khác" (Điểm 8 Điều 6 BLDS) [3]. Ví dụ như hối
phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, trái phiếu Chính phủ….
- Quyền tài sản theo quy định tại Điều 181 BLDS năm 2005 "là quyền trị giá
được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí
tuệ" [3]. Như vậy, để một quyền được coi là quyền tài sản nó phải đáp ứng được hai


10

yêu cầu cơ bản đó là trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao được trong giao
dịch dân sự. Có thể kể ra các quyền tài sản như quyền nhận lợi tức cổ phiếu, quyền
hưởng nhuận bút của tác giả tác phẩm văn học, nghệ thuật,quyền nhận thù lao của
chủ sở hữu văn bằng sáng chế…
Như vậy, theo quy định của BLDS năm 2005 các đối tượng là tài sản
bao gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
Khái niệm và các quy định về tài sản, quyền sở hữu trong Luật dân sự là khái
niệm gốc, là cơ sở để các luật chuyên ngành xây dựng các khái niệm tài sản cụ thể
theo tính chất riêng của ngành luật mình, ví dụ như khái niệm tài sản góp vốn trong
Luật Doanh nghiệp, tài sản của vợ chồng trong Luật HN&GĐ…
Trong bối cảnh nền kinh tế đất nước đang phát triển sôi động trên tất
cả các ngành, các lĩnh vực như hiện nay, gia đình là chủ thể tham gia vào rất nhiều
các hoạt động kinh tế, xã hội khác nhau. Việc hộ gia đình được BLDS công nhận là
một chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự và Luật Đất đai công nhận hộ là chủ thể

được Nhà nước giao đất, cho thuê đất…đã tạo những tiền đề cơ bản để kinh tế hộ
gia đình nói chung và tài sản của vợ chồng nói riêng phát triển ngày càng nhanh
chóng.
Theo nội hàm của khái niệm tài sản quy định tại Điều 163 BLDS
năm 2005 thì tài sản của vợ chồng bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các
quyền tài sản khác. Như vậy, tài sản của vợ chồng cũng bao gồm vật, tiền,
giấy tờ có giá và các quyền tài sản thuộc sở hữu của vợ chồng. Tài sản của vợ
chồng gồm có tài sản chung của vợ chồng và tài sản riêng của vợ, chồng. Tuy
nhiên, vì phạm vi luận văn chỉ đề cập đến vấn đề tài sản chung của vợ chồng nên
xin phép không phân tích vấn đề tài sản riêng ở đây. Về tài sản chung, Điều 214
BLDS năm 2005 quy định "tài sản thuộc hình thức sở hữu chung là tài sản chung"
[3]. Như vậy, tài sản chung của vợ chồng là tài sản thuộc sở hữu chung của cả vợ
và chồng - vợ, chồng cùng là chủ sở hữu đối với khối tài sản đó. Đặc điểm của tài
sản chung của vợ chồng là tài sản thuộc hình thức sở hữu chung hợp nhất, tức là
"phần quyền của mỗi chủ sở hữu chung không được xác định đối với tài sản chung"
(Khoản 1 Điều 217 BLDS) [3]. Theo đó, khi hôn nhân còn tồn tại, không thể xác
định được phần tài sản cụ thể của vợ, chồng trong khối tài sản chung. Khối tài sản
chung của vợ chồng thường hình thành từ khi hai bên nam nữ bắt đầu bước vào
cuộc sống vợ chồng thông qua sự kiện kết hôn và sẽ liên tục được bổ sung trong
suốt TKHN bằng nhiều nguồn khác nhau.


11

b) Khái niệm sở hữu chung của vợ chồng
Trong lĩnh vực HN&GĐ, ngoài quan hệ nhân thân còn có quan hệ về tài sản.
Trong đó nổi bật nhất là tài sản chung giữa vợ và chồng. Phần tài sản chung này
thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng. Theo đó, vợ chồng có quyền ngang
nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định, đoạt tài sản chung. Khi hôn nhân còn tồn tại,
vợ chồng cùng bàn bạc, thỏa thuận hoặc ủy quyền cho nhau quyền sở hữu tài sản chung

đó. Vậy để hiểu như thế nào về sở hữu chung và sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng?
Trước tiên, theo Điều 214 BLDS năm 2005 quy định:
Sở hữu chung là sở hữu của nhiều chủ thể đối với tài sản.
Sở hữu chung bao gồm sở hữu chung theo phần và sở hữu chung hợp nhất.
Tài sản thuộc sở hữu chung là tài sản chung. [3]
Như vậy, có thể hiểu sở hữu chung là sở hữu của nhiều chủ thể đối với tài
sản hay tập hợp các tài sản mang giá trị kinh tế nhất định.
Sở hữu chung gồm 03 loại:
- Sở hữu chung hợp nhất là sở hữu của nhiều chủ thể, mà trong đó phần
quyền tài sản của mỗi một chủ thể không được xác định trong khối tài sản chung khi sở
hữu chung hợp nhất vẫn còn tồn tại. Tính chất đặc thù của sở hữu chung hợp nhất được
quy định tại khoản 1 Điều 217 BLDS: "Sở hữu chung hợp nhất là sở hữu chung mà trong
đó phần quyển sở hữu của mỗi chủ sở hữu không được xác định đối với tài sản chung"[3].

- Sở hữu chung theo phần: là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu
của mỗi chủ sở hữu được xác định đối với tài sản chung (Điều 216 BLDS).
- Sở hữu chung hỗn hợp: là sở hữu đối với tài sản do các chủ sở hữu thuộc
các thành phần kinh tế khác nhau góp vốn để sản xuất, kinh doanh thu lợi nhuận
(Điều 218 BLDS).
Thông thường quyền sở hữu chung hợp nhất chỉ phát sinh trong quan hệ hôn
nhân và gia đình. Cụ thể, quy định tại Điều 219 BLDS xác định tài sản thuộc sở hữu
chung của vợ chồng là chủ sở hữu chung hợp nhất: “Sở hữu chung của vợ chồng là
sở hữu chung hợp nhất. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung
bằng công sức của mỗi người; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản chung. Vợ chồng cùng nhau bàn bạc, thỏa thuận hoặc ủy quyền
cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Tài sản chung của vợ chồng
có thể chia theo thỏa thuận hoặc theo quyết định của Tòa án”. Đó là khối tài sản do
vợ chồng làm ra trong TKHN bằng công sức của mỗi người hoặc do được tặng cho
chung, thừa kế chung.



12

Hiện nay, đây là cơ sở pháp lý duy nhất đưa ra cách hiểu về sở hữu chung
của vợ chồng, do đó tạo ra quan niệm thống nhất về sở hữu chung của vợ chồng
trong khoa học pháp lý ở Việt Nam.
Tại Điều 172 BLDS năm 2005 có quy định: Sở hữu chung hợp nhất bao gồm sở
hữu chung hợp nhất có thể chia và sở hữu chung hợp nhất không thể chia [3]. Theo đó,
sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất có thể chia.
1.1.2. Nội dung
Vợ và chồng đều có đầy đủ 03 quyền năng đối với tài sản thuộc khối tài sản
chung là: chiếm hữu, sử dụng và định đoạt. Việc thực hiện các quyền năng chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của vợ chồng theo nguyên tắc nhất trí, trừ
trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Vợ chồng có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài
sản chung. Khi hôn nhân còn tồn tại, vợ chồng cùng bàn bạc, thỏa thuận hoặc ủy
quyền cho nhau quyền sở hữu tài sản chung đó.
Tại Đều 219 BLDS năm 2005 và Điều 35 Luật HN&GĐ 2014 quy định rõ:
1. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận.
2. Việc định đoạt tài sản chung phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ
chồng trong những trường hợp sau đây:
a) Bất động sản;
b) Động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu;
c) Tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình. [7]
Theo đó, vợ chồng cùng bàn bạc, thỏa thuận hoặc ủy quyền cho nhau chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau
trong việc thực hiện quyền sở hữu chung hợp nhất. Đối với việc sử dụng tài sản
chung nếu như mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền khai thác công dụng,
hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình,
trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác, thì các chủ sở

hữu chung hợp nhất (vợ chồng) có quyền ngang nhau trong việc khai thác công
dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản chúng, nếu không có thoả thuận khác.
Trong lĩnh vực dân sự, khi sử dụng, khai thác lợi ích vật chất của tài sản
chung, vợ chồng cần thống nhất ý chí. Với tư cách đồng sở hữu chung hợp nhất, vợ
chồng có quyền thỏa thuận dùng tài sản đầu tư vào kinh doanh, mua chứng khoán,
cổ phiếu, tín phiếu,… nhằm thu lại lợi nhuận. Đồng thời vợ chồng có thể thỏa thuận


13

đầu tư mở rộng sản xuất, thu hoa lợi…Bên cạnh quyền thực hiện quyền sở hữu
chung hợp nhất, vợ chồng còn có trách nhiệm đối với người thứ ba liên quan đến tài
sản chung của vợ chồng (bồi thường thiệt hại, trả tiền công cho người lao động làm
công,…). Tài sản chung hợp nhất của vợ chồng có thể được dùng để tham gia giao
dịch dân sự như các giao dịch chuyển giao quyền sử dụng, chuyển giao quyền sở
hữu tài sản hoặc để thực hiện các nghĩa vụ dân sự trong giao dịch dân sự.
Bởi, tài sản chung của vợ chồng là khối tài sản góp phần đảm bảo nhu cầu
sinh hoạt, tiêu dùng hoặc sản xuất kinh doanh của cả gia đình nhằm duy trì cuộc
sống cũng như thỏa mãn các nhu cầu tinh thần, vật chất của vợ chồng, các nghĩa vụ
phát sinh trong quá trình hôn nhân tồn tại. Vợ chồng cùng bàn bạc, thoả thuận hoặc
uỷ quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Khi một trong hai
người thực hiện giao dịch mà tài sản có giá trị lớn phải được sự đồng ý của bên kia.
Ví dụ: Khi bán nhà là tài sản chung hợp nhất của vợ, chồng phải được sự
đồng ý bằng văn bản của người kia. Pháp luật dân sự (kể cả Luật HN&GĐ) quy
định như vậy nhằm bảo đảm cho vợ chồng được bình đẳng trong quan hệ gia đình,
xoá bỏ chế độ gia trưởng trong gia đình. Cùng với việc quy định tài sản chung, Luật
HN&GĐ cũng quy định về tài sản riêng của vợ và chồng. Đó là tài sản có trước thời
kỳ hôn nhân hoặc được tặng cho riêng trong TKHN. Vợ, chồng có thể tự nguyện
nhập khối tài sản riêng của mình vào khối tài sản chung của gia đình.
Như vậy, khi hôn nhân còn tồn tại, không thể xác định được phần tài sản cụ

thể của vợ, chồng trong khối tài sản chung. Họ có quyền và nghĩa vụ ngang nhau
đối với tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất. Ngoài tài sản chung của vợ chồng, nếu
gia đình đã có con trưởng thành, có thu nhập theo nghề nghiệp, được tặng cho hoặc
thừa kế và có đóng góp công sức, tiền vào việc duy trì, phát triển khối tài sản chung
của gia đình, thì họ cũng có quyền sở hữu đối với khối tài sản chung của gia đình.
Phần tài sản cụ thể của mỗi người chỉ được xác định rõ ràng khi có một trong
số họ chết mà những người thừa kế yêu cầu chia tài sản của người chết, nếu tài sản
này thuộc sở hữu chung của bố mẹ và các con; phần cụ thể của mỗi người còn được xác
định nếu có lý do chính đáng và họ thoả thuận chia, hoặc tài sản được chia theo quyết
định của Toà án khi ly hôn. Nếu vợ chồng ly hôn, về nguyên tắc tài sản sẽ được chia đôi,
nhưng có xem xét đến công sức đóng góp vào việc duy trì và phát triển khối tài sản
chung; có ưu tiên cho những người phải nuôi và chăm sóc con còn nhỏ.
Tài sản của vợ chồng là đối tượng của các hợp đồng chuyển giao quyền sử
dụng: Các hợp đồng chuyển giao ở đây có thể là vợ chồng cho người khác sử dụng


14

có thời hạn tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng qua các hợp đồng cho
thuê, cho mượn tài sản. Trong trường hợp tài sản chung hợp nhất của vợ chồng
được cho thuê, về nguyên tắc cần có sự thỏa thuận, đồng ý của cả vợ và chồng,
bằng cách cả hai cùng đứng tên trong hợp đồng cho thuê, cho mượn tài sản hay
hoặc ủy quyền cho nhau giao kết hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng tài sản. Hình
thức ủy quyền phải được lập thành văn bản. Đối với một số tài sản như nhà ở,
quyền sử dụng đất (QSDĐ),…phải có chứng thực của Ủy ban nhân dân hoặc chứng
nhận của công chứng. Khi tài sản chung hợp nhất của vợ chồng được chuyển giao
cho người khác bằng hợp đồng cho thuê, cho mượn thì những lợi ích thu được từ
hợp đồng thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng.
Tuy nhiên không phải bất kỳ hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng tài sản
nào cũng cần phải có sự đồng ý công khai của cả hai bên vợ chồng. Những tài sản là

vật dụng đáp ứng nhu cầu sử dụng hàng ngày, những tài sản có giá trị nhỏ, pháp luật
không yêu cầu phải đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản đó, vợ chồng có thể
chuyển giao quyền sử dụng tài sản đó cho người khác mà không bắt buộc có sự
đồng ý của cả hai vợ chồng.
Tài sản chung của vợ chồng là tài sản đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự:
Trong quan hệ tài sản, vợ chồng với tư cách là đồng sở hữu chung hợp nhất đối với
khối tài sản chung của vợ chồng có được trong TKHN. Khi tham gia giao dịch dân
sự, vợ chồng có thể với tư cách là bên chủ thể có quyền hoặc bên chủ thể phải thực
hiện nghĩa vụ. Trong quan hệ nghĩa vụ, mà vợ chồng là bên có nghĩa vụ dân sự và
nghĩa vụ đó được được đảm bảo thực hiện bằng tài sản chung của vợ chồng như
cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, đặt cọc,…để vay, thuê hay mua bán tài sản, thì khi giao
kết các loại hợp đồng phụ đó phải được sự đồng ý của cả vợ chồng. Vợ chồng phải
cùng kí tên vào văn bản hợp đồng với tư cách là bên thực hiện nghĩa vụ có tài sản
đảm bảo xác định được trong hợp đồng phụ đó.
Theo khoản 2 Điều 223 BLDS năm 2005 và khoản 1 Điều 29 Luật HN&GĐ
2014 quy định: “Vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo
lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; không phân biệt giữa lao động
trong gia đình và lao động có thu nhập” [7]. Vợ chồng định đoạt tài sản chung theo
các hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu như bán, tặng cho, đổi, cho vay tài sản và
để lại thừa kế theo di chúc chung của vợ chồng. Trên thực tế có nhiều tranh chấp
liên quan đến việc định đoạt tài sản chung của vợ chồng khi có mối liên quan đến
quyền và lợi ích của người thứ ba. Phổ biến nhất là trường hợp vợ chồng định đoạt


15

tài sản theo hình thức chuyển giao quyền sở hữu đối với nhà ở, QSDĐ,…nhưng chỉ
có một bên vợ hoặc chồng đứng tên trong hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu, dẫn
đến tranh chấp giữa vợ chồng với nhau và với người thứ ba liên quan. Đây là lỗi của
các bên do không am hiểu luật, như vậy, về nguyên tắc là không có giá trị pháp lý.

Tuy nhiên, trong một số trường hợp, người thứ ba được pháp luật bảo vệ. Theo quy
định tại Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2014:
1. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên thực
hiện quy định tại khoản 1 Điều 30 hoặc giao dịch khác phù hợp với quy định về đại
diện tại các điều 24, 25 và 26 của Luật này.
2. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới về các nghĩa vụ quy định tại Điều 37
của Luật này. [7]
Bởi vậy, nếu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng tài sản chung của vợ
chồng mà không có chữ kí của cả hai bên nhưng bên kí nhằm đáp ứng nhu cầu sinh
hoạt thiết yếu của gia đình, thì khi xảy ra tranh chấp với bên thứ ba liên quan, bên
còn lại của vợ chồng cũng phải chịu trách nhiệm liên đới, nhằm bảo vệ lợi ích của
người thứ ba.
Đối với trường hợp vợ chồng từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản chung: Theo
quy định tại Điều 197 BLDS năm 2005: “chủ sở hữu có quyền bán, trao đổi, tặng
cho, cho vay, để thừa kế, từ bỏ, hoặc thực hiện các hình thức định đoạt khác phù
hợp với quy định của pháp luật đối với tài sản.” [3]
Như vậy, quyền định đoạt của vợ chồng đối với tài sản chung hợp nhất cũng
tuân theo các phương thức định đoạt tài sản của chủ sở hữu đối với tài sản được
chuyển giao mua bán, tặng cho, cho vay, và cùng định đoạt tài sản theo cách từ bỏ
quyền sở hữu đối với tài sản chung của vợ chồng. Hậu quả của trường hợp vợ
chồng từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản của mình cũng tương tự như đối với các
chủ thể khác: “Vật vô chủ là vật mà chủ sở hữu đã từ bỏ quyền sở hữu đối với vật
đó. Người đã phát hiện vật vô chủ là động sản thì có quyền sở hữu tài sản đó theo
quy định của pháp luật; nếu vật được phát hiện là bất động sản thì thuộc Nhà
nước” (Khoản 1 Điều 239 BLDS năm 2005) [3].
1.2. CĂN CỨ XÁC LẬP
Pháp luật của nhiều nước trên thế giới thừa nhận quyền tự do thỏa
thuận của vợ chồng về chế độ tài sản hay còn được gọi là khế ước hôn nhân hoặc
hôn ước. "Hôn ước là chứng thư thể hiện sự thỏa thuận của người kết hôn hay của
vợ chồng về chế độ tài sản của họ trong hôn nhân" [34]. Bởi vậy, thành phần, nguồn



16

gốc của khối tài sản chung của vợ chồng thường phụ thuộc vào sự thỏa thuận của
vợ chồng được thể hiện trong hôn ước. Điển hình cho cách quy định này là BLDS
Pháp, BLDS Nhật Bản…
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, chế độ tài sản của vợ chồng là chế độ
tài sản pháp định. Chế độ tài sản pháp định là chế độ tài sản mà ở đó pháp luật đã
dự liệu từ trước về căn cứ, nguồn gốc, thành phần các loại tài sản chung và tài sản
riêng của vợ, chồng (nếu có); quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với từng loại tài
sản đó; các trường hợp và nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng; phương thức
thanh toán liên quan đến các khoản nợ chung hay nợ riêng của vợ, chồng. Theo chế
độ tài sản này, vợ chồng phải tuân theo quy định pháp luật về các vấn đề liên quan
đến tài sản chung của vợ chồng, tài sản riêng của vợ, chồng như nguồn gốc tài sản,
nguyên tắc sử dụng, định đoạt tài sản… Quan điểm lập pháp này được duy trì và thể
hiện thống nhất trong Luật HN&GĐ của Nhà nước ta qua các thời kỳ.
Luật HN&GĐ năm 1959 là Luật HN&GĐ đầu tiên của nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mặc dù được xây dựng trong hoàn cảnh đất
nước còn chiến tranh, điều kiện kinh tế nhiều khó khăn và chỉ có vẻn vẹn 35 điều
luật nhưng Luật HN&GĐ năm 1959 đã có những quy định đầu tiên về tài sản chung
của vợ chồng "vợ và chồng có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau
đối với tài sản có trước và sau khi cưới" [4]. Với quy định trên, có thể suy luận
mọi tài sản của vợ, chồng đều là tài sản chung của vợ chồng không phân biệt tài
sản do ai tạo ra, có trước hay trong Thời kỳ hôn nhân (TKHN)… Do đó, khái
niệm tài sản riêng của một bên vợ hoặc chồng không tồn tại trong các quy định
của Luật HN&GĐ năm 1959.
Đến Luật HN&GĐ năm 1986 và Luật HN&GĐ năm 2000, các vấn đề liên
quan đến tài sản chung của vợ chồng trong đó có nguồn gốc tài sản chung đã được
luật quy định cụ thể hơn.

Và đặc biệt đến Luật HN&GĐ năm 2014 chế độ tài sản chung của vợ chồng
lại được kế thừa và hoàn thiện hơn nữa. Theo đó, tài sản chung của vợ chồng là toàn
bộ những quy định của pháp luật về việc hình thành khối tài sản chung của vợ
chồng và quyền nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản ấy. Trong chế độ xã hội chủ
nghĩa nam nữ kết hôn với nhau trên cơ sở tình yêu chân chính, bình đẳng và tự
nguyện. Khi trở thành vợ chồng tính chất cộng đồng tài sản giữa họ được xác lập.
So với Luật HN&GĐ 2000 thì Luật HN&GĐ 2014 có những quy định rõ ràng, cụ
thể hơn về chế độ tài sản chung của vợ chồng.


17

Khoản 1 Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định về tài sản chung của vợ
chồng như sau: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu
nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài
sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong TKHN, trừ trường hợp được quy định
tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc
được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
QSDĐ mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ
trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được
thông qua giao dịch bằng tài sản riêng”. [7]
Từ quy định nói trên có thể thấy việc hình thành tài sản chung rất sinh động,
đa dạng, nhưng tựu chung có thể từ các nguồn sau:
1.2.1. Thu nhập hợp pháp của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
Theo từ điển tiếng Việt thì “thu nhập” được hiểu là “nhận được tiền bạc, của
cải vật chất từ một hoạt động nào đó” [42]. Thu nhập hợp pháp được hiểu là thu
nhập được tạo ra từ những hoạt động hợp pháp của vợ, chồng và được Nhà nước
kiểm soát, bảo vệ. Đối với những thu nhập không chứng minh được là bất hợp pháp
thì cũng được coi là thu nhập hợp pháp.
Căn cứ xác định TKHN là sự kiện pháp lý kết hôn. Kết hôn là một hiện

tượng xã hội được hình thành do có sự liên kết giữa nam và nữ trên cơ sở tự
nguyện, bình đẳng tuân thủ các điều kiện kết hôn do luật định.
Hôn nhân là căn cứ cơ bản xác định quyền sở hữu chung hợp nhất của vợ
chồng đối với tài sản chung. Hôn nhân làm phát sinh quan hệ nhân thân giữa vợ và
chồng, từ đó là tiền đề của quan hệ tài sản chung của vợ chồng, thể hiện rõ nhất
quyền hạn, nghĩa vụ và bổn phận của vợ chồng trong gia đình.
Quan hệ hôn nhân dưới chế độ xã hội chủ nghĩa không phải là một hợp đồng
mà được xác lập dựa trên cơ sở tình cảm yêu thương gắn bó chung sống với nhau
giữa vợ chồng. Thời kì hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại của quan hệ vợ chồng
theo pháp luật. Cuộc sống chung giữa vợ và chồng khi quan hệ hôn nhân được xác
lập đòi hỏi phải có một khối tài sản nhằm đảm bảo đời sống của gia đình, thỏa mãn
nhu cầu về tinh thần, vật chất của vợ chồng, nghĩa vụ chăm sóc lẫn nhau giữa vợ
chồng và nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dạy con cái…. Những tài sản do vợ hoặc chồng
tạo ra trong thời kì hôn nhân (trừ tài sản riêng của vợ chồng) đều thuộc khối tài sản
chung của vợ chồng.


18

Theo khoản 13 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 TKHN được
hiểu là:“TKHN là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, được tính từ ngày
đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân” [7]. Đây là căn cứ quan trọng và đầu
tiên để xác định tài sản chung của vợ chồng.
Như vậy, “TKHN” được tính từ khi hai bên nam nữ kết hôn, tức thời điểm
phát sinh quan hệ vợ chồng trước pháp luật - tức là ngày cơ quan đăng ký kết hôn
(uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của một trong hai bên kết hôn) ghi
vào sổ kết hôn và trao giấy chứng nhận kết hôn thì giữa họ mới phát sinh quan hệ
vợ chồng, cho tới thời điểm chấm dứt hôn nhân. Sự kiện chấm dứt hôn nhân có thể
là do một trong hai bên vợ hoặc chồng chết hoặc có quyết định của Toà án tuyên bố
vợ, chồng bị chết khi quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật, hoặc vợ chồng

còn sống nhưng hôn nhân chấm dứt bằng ly hôn (khoản 14 Điều 3 Luật HN&GĐ
năm 2014) [7] tính từ thời điểm phán quyết của Toà án có hiệu lực pháp luật.
Việc xác định thời điểm phát sinh quan hệ hôn nhân, theo nguyên tắc chung
phải dựa trên cơ sở giá trị pháp lý của Giấy chứng nhận kết hôn. Vì sau khi kết hôn,
vợ chồng cùng chung sống với nhau, cùng tạo dựng tài sản nhằm đảm bảo cuộc
sống gia đình, vì lợi ích gia đình. Quan hệ hôn nhân dưới chế độ xã hội chủ nghĩa
được xác lập dựa trên cơ sở tình cảm yêu thương, gắn bó chung sống với nhau suốt
đời giữa vợ và chồng. TKHN là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng trước
pháp luật. Những tài sản (bao gồm cả động sản và bất động sản) do vợ, chồng tạo ra
trong TKHN (trừ tài sản riêng của vợ, chồng) đều thuộc khối tài sản chung của vợ
chồng.
Như vậy, những tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra trong TKHN thuộc khối tài
sản chung của vợ chồng.
Thứ nhất, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những
thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong TKHN.
Thu nhập của vợ chồng thuộc khối tài sản chung là những lợi ích vật chất mà
vợ, chồng có được do tham gia lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh. Thông
thường tài sản do vợ, chồng tạo ra trong TKHN đều được xác định là tài sản chung
của vợ chồng. Những tài sản đó có thể là do vợ và chồng cùng trực tiếp lao động,
hoặc do một trong hai bên trực tiếp lao động để làm ra sản phẩm, sản phẩm đó để
dùng trong gia đình, còn dư ra, đem bán để có sự tích lũy, cũng có thể toàn bộ sản
phẩm do vợ chồng làm ra đều đem bán, tạo ra thu nhập cho gia đình; tài sản chung
cũng có thể hình thành qua việc được trả công lao động, thuê người khác làm, do tổ
chức sản xuất, kinh doanh mà có v.v…


19

Có thể thấy rằng thông qua sức lao động của vợ, chồng được thể hiện dưới
các hình thức khác nhau để tạo nguồn thu nhập, tạo ra tài sản trong gia đình, dù các

tài sản đó được hình thành dưới bất kỳ hình thức nào, nhưng nếu đó là kết quả của
lao động chân chính, đều được công nhận là tài sản chung của vợ chồng.
Kế thừa và phát triển luật HN&GĐ năm 2000, luật HN&GĐ năm 2014 đã
quy định tương đối cụ thể về tài sản chung của vợ chồng:
Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định về tài sản chung của vợ chồng:
“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập
do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản
riêng và thu nhập hợp pháp khác trong TKHN, trừ trường hợp được quy định tại
khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được
tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
QSDĐ mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng,
trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có
được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để
bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.” [7]
Điều 34 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định về việc đăng ký quyền sở hữu,
quyền sử dụng đối với tài sản chung:
“1. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật
quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì giấy chứng nhận quyền sở
hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng, trừ trường hợp
vợ chồng có thỏa thuận khác.” [7]
Tài sản do vợ chồng tạo ra được hiểu là vợ chồng dựa theo công việc, chuyên
môn của mình đã trực tiếp tạo ra tài sản đó bằng chính sức lao động của mình như
xây dựng nhà ở, mua sắm đồ nội thất trong gia đình…hay thuê người khác tạo ra
những tài sản đó thông qua các hợp đồng cụ thể. Vợ hoặc chồng cũng có thể tạo ra
tài sản bằng cách sử dụng tiền bạc thông qua các hợp đồng để mua sắm tài sản như
ti vi, tủ lạnh, xe máy, xe ô tô…hay chuyển quyền sở hữu tài sản từ người khác sang
quyền sở hữu của mình hoặc để đầu tư kinh doanh thu lợi nhuận. Như vậy những tài
sản tạo ra trong TKHN thuộc khối tài sản chung của vợ chồng.
Thu nhập hợp pháp của vợ chồng do lao động, hoạt động sản xuất kinh

doanh được coi là loại tài sản chủ yếu thuộc tài sản chung của vợ chồng. Thu nhập
của vợ chồng thuộc khối tài sản chung của vợ chồng là những giá trị vật chất mà vợ,
chồng có được do tham gia lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh. Cụ thể theo
tính chất nghề nghiệp, chuyên môn, công việc mà vợ chồng thực hiện, vợ chồng


20

được hưởng thành quả lao động hoặc các lợi nhuận do kinh doanh mang lại, hoa lợi,
lợi tức thu được từ các loại tài sản của vợ chồng do kinh doanh mang lại. Thu nhập
của vợ chồng gồm nhiều loại nhưng thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh
doanh là loại thu nhập ổn định, cơ bản nhất. Theo điểm b khoản 2 Điều 59 Luật
HN&GĐ năm 2014 “lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như là lao
động có thu nhập” [7], vì thế trong cuộc sống gia đình vì sức khoẻ, hoặc vì hoàn
cảnh và khả năng lao động mà tài sản chỉ do một người tạo ra thì vẫn coi như vợ,
chồng cùng đóng góp công sức vào việc tạo lập khối tài sản chung. Dù vợ, chồng
làm việc ở những ngành, nghề khác nhau với mức thu nhập khác nhau song mọi thu
nhập từ lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh của vợ chồng đều là tài sản chung
của vợ chồng. Điều này phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay và cũng hoàn toàn phù hợp với quy định về quyền
nhân thân của vợ chồng là tự do lựa chọn việc làm. Chính công việc cũng như công
sức lao động của mỗi người đều góp phần vào khối tài sản chung của gia đình.
Theo tính chất nghề nghiệp chuyên môn, công việc mà vợ chồng thực hiện,
được hưởng thành quả lao động hoặc các lợi nhuận do kinh doanh mang lại, cũng
như các hoa lợi, lợi tức thu được từ các loại tài sản của vợ chồng trong quá trình lao
động sản xuất, kinh doanh. Trong đời sống xã hội hiện nay, thu nhập chủ yếu của
các cặp vợ chồng là tiền lương, tiền công lao động, làm kinh tế gia đình (trồng trọt,
chăn nuôi, tiểu thủ công nghiệp…) hoặc lợi nhuận thông qua kinh doanh, sản xuất.
Ngoài ra, khoản 1 Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2014 còn quy định tài sản
chung của vợ chồng cũng bao gồm các thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong

thời kì hôn nhân [7]. Cụ thể hóa quy định này, tại Điều 9 Nghị định 126/2014/NĐCP ngày 31/12/2014 của Chính phủ Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi
hành Luật Hôn nhân và gia đình (Nghị định 126/2014/NĐ-CP) xác định rõ: Thu
nhập hợp pháp khác của vợ, chồng trong TKHN gồm: “1. Khoản tiền thưởng, tiền
trúng thưởng xổ số, tiền trợ cấp, trừ trường hợp quy định tại Khoản 3 Điều 11 của
Nghị định này; 2. Tài sản mà vợ, chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định
của Bộ luật Dân sự đối với vật vô chủ, vật bị chôn giấu, bị chìm đắm, vật bị đánh
rơi, bị bỏ quên, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước; 3. Thu nhập hợp
pháp khác theo quy định của pháp luật” [12]. Ngoài ra, tại mục 3 điểm a Nghị
quyết số 02/2000/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao đã hướng dẫn:
“Những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kì hôn nhân có thể là tiền
thưởng, tiền trợ cấp, tiền trúng sổ số mà vợ, chồng có được hoặc những tài sản mà
vợ chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật Dân sự đối với vật
vô chủ, vật không xác định được ai là chủ sở hữu (Điều 239); đối với vật bị chôn


21

giấu, chìm đắm được tìm thấy (Điều 20); đối với vật do người khác đánh rơi, bị bỏ
quên (Điều 241); đối với gia súc, gia cầm bị thất lạc (Điều 242, 243) đối với vật
nuôi dưới nước (Điều 244)…trong thời kì hôn nhân.” [16]
Ta có thể thấy, tài sản chung của vợ chồng được tạo dựng không phụ thuộc
công đóng góp ít hay nhiều khác nhau của vợ và chồng. Trong thực tế, do điều kiên
sức khỏe, nghề nhiệp…đã dẫn tới thu nhập của mỗi người cao thấp khác nhau,
nhưng không vì thế mà quyền và nghĩa vụ của họ đối với khối tài sản chung khác
nhau. Tại Điều 219 BLDS năm 2005 đã dự liệu: “Sở hữu chung của vợ chồng là sở
hữu chung hợp nhất. vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung
bằng công sức của mỗi người; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản chung. Vợ chồng cùng bàn bạc, thỏa thuận hoặc ủy quyền cho
nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Tài sản chung vủa vợ chồng có
thể chia theo thỏa thuận hoặc theo quyết định của Toà án.” [4]

Thứ hai, tài sản chung của vợ chồng còn bao gồm QSDĐ mà vợ chồng có
được sau khi kết hôn (khoản 1 Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2014).
Theo Điều 53 hiến pháp năm 2013 và quy định trong BLDS năm 2005 về
hình thức sở hữu thì đất đai thuộc sở hữu toàn dân [1, 4]. Nhà nước thống nhất và
quản lý đất đai theo quy hoạch và pháp luật bảo đảm đúng mục đích và có hiệu quả.
BLDS và pháp luật đất đai có quy định QSDĐ là một loại tài sản có tính chất đặc
thù. Nhà nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng lâu dài (Điều 53, 54
Hiến pháp năm 2013) [1]. Cá nhân có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê,
thế chấp, để lại QSDĐ. QSDĐ mà vợ chồng có được sau khi kết hôn thuộc khối tài
sản chung của vợ chồng. Trong thực tế khi xảy ra vấn đề chia tài sản là QSDĐ khi
ly hôn thì luật phải dự liệu để xác định rõ tài sản chung của vợ chồng là QSDĐ có
thuộc khối tài sản chung của vợ chồng hay không hay thuộc tài sản riêng để căn cứ
vào đó mà Toà án có thể giải quyết các tranh chấp theo quy định pháp luật. Theo
quy định tại Luật HN&GĐ năm 2014:
+ QSDĐ mà cả vợ chồng hoặc mỗi bên vợ, chồng được Nhà nước giao, kể cả
giao khoán là tài sản chung của vợ chồng (các QSDĐ đối với đất nông nghiệp trồng
cây hàng năm, đất nuôi trồng thuỷ sản, đất làm muối, đất lâm nghiệp trồng
rừng….).
+ Sau khi kết hôn, QSDĐ mà cả vợ và chồng hay chỉ mỗi bên vợ hoặc chồng
được Nhà nước cho thuê là tài sản chung của vợ chồng, cũng là tài sản chung của
vợ chồng đối với đất mà vợ chồng nhận thế chấp QSDĐ của người khác.
+ QSDĐ mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng
chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận.


22

Tóm lại, kể từ thời điểm kết hôn và trong suốt TKHN hợp pháp của vợ
chồng, thì mọi thu nhập của cả hai vợ chồng hoặc thu nhập của vợ hoặc của chồng
có được đều là tài sản chung của vợ chồng, không có sự phân biệt tài sản nào do vợ

hay chồng tạo ra, nhiều hay ít. Đây là một đặc điểm rất đặc biệt trong căn cứ xác lập
quyền sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng khác biệt so với sở hữu chung theo
phần là phần quyền của mỗi một chủ thể đều được xác định trong khối tài sản chung
của nhiều chủ thể. Đây là loại tài sản phổ biến trong khối tài sản chung của vợ
chồng. Sau khi kết hôn, quan hệ vợ chồng được thiết lập, vợ chồng cùng chung sức
đồng lòng trong việc tạo dựng tài sản bảo đảm các nhu cầu của đời sống chung…
Đối với trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không
đăng ký kết hôn. Hiện nay tính đến thời điểm này theo các văn bản được ban hành
của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền “quan hệ hôn nhân thực tế” (có giá trị pháp lý
như hôn nhân hợp pháp) chỉ được công nhận đối với trường hợp nam nữ chung
sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn từ trước ngày 3/1/1987
(ngày Luật HN&GĐ năm 1986 có hiệu lực pháp luật).
Theo khoản 1 Điều 11 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định trong trường hợp
nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không
được pháp luật công nhận là vợ chồng [6]. Tuy nhiên trong thực tế vẫn còn tồn tại
tình trạng “hôn nhân thực tế” và để giải quyết tình trạng đó thì pháp luật đã dự liệu
và Nhà nước đã ban hành một số văn bản pháp luật nhằm giải quyết hậu quả pháp lý
của hôn nhân thực tế khi giải quyết các tranh chấp về nhân thân và tài sản giữa vợ
chồng. Pháp luật chỉ công nhận những trường hợp nam nữ sống chung với nhau như
vợ chồng trước ngày 3/1/1987 (đây là trường hợp hôn nhân thực tế). Sau thời điểm
này, việc chung sống với nhau, kể cả có tổ chức đám cưới theo các nghi lễ truyền
thống, mà không đăng ký kết hôn thì không được pháp luật chấp nhận là vợ chồng.
Khi Luật HN&GĐ năm 2000 có hiệu lực nhưng đối với những trường hợp mà quan
hệ vợ chồng được xác lập trước thời điểm đó thì dù có đăng ký kết hôn hay không
“TKHN” của họ vẫn được tính từ ngày họ chung sống với nhau như vợ chồng. Và
tài sản chung của họ cũng được xác lập từ thời điểm sống chung như vợ chồng chứ
không phải từ thời điểm từ ngày kết hôn. Đối với trường hợp nam, nữ chung sống
với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 trở đi đến trước ngày 01/01/2001 (ngày
Luật HN&GĐ năm 2000 có hiệu lực) mà có đủ điều kiện kết hôn nhưng chưa đăng
ký kết hôn và đang chung sống như vợ chồng thì theo quy định tại điểm b khoản 3

Nghị quyết 35/2000/QH10 của Quốc hội, họ có nghĩa vụ phải đăng ký kết hôn trong
thời hạn 2 năm kể từ ngày 01/01/2001 cho đến ngày 010/2/2003 [2].


×