Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.42 MB, 71 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LƯU THỊ MINH NGUYỆT

THỦ TỤC RÚT GỌN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60 38 01 03

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Triều Dương

Tháng 5 - 2015


LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng cảm ơn tới các thầy giáo, cô giáo cùng với gia
đình, bạn bè đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong quá trình học tập, nghiên
cứu để có được kết quả ngày hôm nay.
Đặc biệt em xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới thầy giáo – TS.
Nguyễn Triều Dương đã tận tâm hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn
thành Luận văn này.

Hà Nội, ngày 20 tháng 05 năm 2015


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong Luận văn là trung thực và
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Những kiến
nghị, đề xuất trong Luận văn không sao chép của bất kỳ tác giả nào.
Tác giả Luận văn


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Bộ luật Tố tụng dân sự

BLTTDS

Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa

CHXHCN

Luật Tổ chức Tòa án nhân dân

LTCTAND

Pháp luật Tố tụng giải quyết
các vụ án dân sự
Tòa án nhân dân

PL TTGQCVADS

Tố tụng dân sự

TTDS


TAND


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1

1. Tính cấp thiết của đề tài

1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

4

3. Đối tượng, mục đích, phạm vi nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài

6

5. Cơ cấu của luận văn

8

8

NỘI DUNG

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thủ tục rút gọn trong Tố

tụng dân sự.
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của thủ tục rút gọn
1.1.1. Khái niệm

9
9
9

1.1.2. Đặc điểm

12

1.1.3. Ý nghĩa của thủ tục rút gọn trong Tố tụng dân sự

13

1.2. Điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn

14

1.3. Thủ tục TTDS rút gọn trong pháp luật một số nước trên thế giới

15

1.3.1. Về thủ tục rút gọn trong pháp luật Tố tụng dân sự của Cộng hoà Pháp

16

1.3.2. Về thủ tục TTDS rút gọn trong pháp luật Tố tụng dân sự của Liên Bang
Nga


17

1.3.3. Quy định về thủ rút gọn trong pháp luật Tố tụng dân sự của một số
nước trên thế giới

19

KẾT LUẬN CHƯƠNG I

26

Chương 2: Cơ sở của việc xây dựng các quy định về thủ tục Tố
tụng dân sự rút gọn
2.1. Cơ sở lý luận của việc xây dựng các quy định về thủ tục rút gọn
trong Tố tụng dân sự ở Việt Nam
2.1.1. Đường lối, chính sách của Đảng về cải cách tư pháp - xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
2.1.2. Xây dụng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn xuất phát từ sự
phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự

27

2.2. Cơ sở thực tiễn của việc xây dựng các quy định về thủ tục rút
gọn trong tố tụng dân sự

30

2.2.1. Xây dựng các quy định về thủ tục rút gọn được xác định


30

27
27
29


xuất phát từ quá trình hình thành và phát triển các quy
định liên quan đến thủ tục rút gọn trong pháp luật tố tụng
dân sự Việt Nam qua các giai đoạn.
2.2.2. Xây dựng các quy định về thủ tục tố tụng rút gọn xuất
phát từ thực trạng giải quyết các vụ án dân sự tại Tòa án
nhân dân hiện nay

36

KẾT LUẬN CHƯƠNG II

43

Chương 3: Xây dựng các quy định về thủ tục rút gọn trong pháp
luật Tố tụng dân sự Việt Nam
3.1. Một số yêu cầu trong việc xây dựng thủ tục rút gọn
3.2. Nội dung của việc xây dựng các quy định về thủ tục rút gọn
trong Tố tụng dân sự ở Việt Nam
3.2.1. Về nguyên tắc chung của luật TTDS trong thủ tục rút gọn
3.3.2. Về phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn
3.3.3. Các quy định về thủ tục

44


KẾT LUẬN CHƯƠNG III

62

KẾT LUẬN CHUNG

63

44
49
49
51
54


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp luật tố tụng dân sự (TTDS) của nhiều nước trên thế giới đều
thiết lập bên cạnh thủ tục tố tụng thông thường là các thủ tục TTDS đặc
biệt, trong đó có thủ tục rút gọn. Đây là thủ tục tố tụng được áp dụng để
giải quyết các loại vụ việc đáp ứng những điều kiện nhất định với một
trình tự đơn giản, ngắn gọn. Thủ tục này là một trong những công cụ hữu
hiệu của người dân cũng như Tòa án trong việc thực hiện, bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức một cách nhanh
chóng, linh hoạt và hiệu quả. Trong khi đó pháp luật tố tụng dân sự
(TTDS) Việt Nam hiện hành chỉ quy định về thủ tục giải quyết vụ án dân
sự và thủ tục giải quyết việc dân sự mà không quy định về thủ tục rút

gọn để giải quyết các tranh chấp đơn giản, chứng cứ rõ ràng, các đương
sự thừa nhận nghĩa vụ hoặc những tranh chấp có giá trị tài sản tranh chấp
thấp...
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế hiện nay, nền
kinh tế của Việt Nam đã và đang mở cửa, thoát khỏi nền kinh tế trì trệ tự
cung tự cấp trong một thời gian dài trước đây, đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân ngày một được nâng cao và cải thiện hơn. Các lĩnh
vực được phát triển theo hướng đa dạng hóa và hiện đại hóa, việc giao
lưu kinh tế, dân sự, thương mại và lao động phát triển mạnh mẽ. Tuy
nhiên sự phát triển gia tăng giữa các quan hệ cả trong và ngoài nước
cũng dẫn đến hê lụy tất nhiên là tranh chấp xảy ra ngày càng nhiều. Vì
thế sự tồn tại của hệ thống tư pháp nói chung và các hình thức tố tụng
nói riêng dựa trên cơ sở các nhu cầu của quan hệ xã hội, đòi hỏi Việt
Nam phải xây dựng hệ thống pháp luật quốc gia tương thích với pháp
luật của cộng đồng quốc tế, đặc biệt là các nước mà Việt Nam có ký kết


2

Hiệp định tương trợ tư pháp hoặc tham gia Điều ước quốc tế, trong đó có
quy định thủ tục tố tụng rút gọn. Do vậy, để tạo môi trường pháp lý lành
mạnh là điều kiện khuyến khích, thu hút đầu tư nước ngoài thì việc
nghiên cứu xây dựng thủ tục TTDS rút gọn là cần thiết nhằm đáp ứng
yêu cầu về tính nhanh chóng, đơn giản và hiệu quả của việc giải quyết
tranh chấp.
Bên cạnh đó qua thực tế xét xử có không ít những vụ án dân sự
cần giải quyết mà xét về tính chất là những vụ án có nội dung đơn giản,
chứng cứ đều rõ ràng, sự thật của vụ án dễ dàng được nhân biết hoặc chỉ
sau một số hoạt động xác minh đơn giản, bị đơn không phản đối yêu cầu
của nguyên đơn hoặc các tranh chấp về tài sản có giá trị tài sản tranh

chấp thấp thì vấn đề duy nhất đặt ra là có sự phán xét của nhà nước
nhằm xác định quyền và nghĩa vụ của các bên mà thôi. Tuy nhiên, pháp
luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành không có quy định về thủ tục rút
gọn nên những vụ việc này vẫn phải giải quyết theo đúng trình tự thủ tục
tố tụng thông thường, hậu quả là thời gian giải quyết các vụ án này sẽ bị
kéo dài hoặc phải trải qua nhiều cấp xét xử, nhiều trình tự thủ tục không
cần thiết gây mất thời gian, phí tổn cho Tòa án và các đương sự. Nhiều
vụ việc tuy đơn giản nhưng người có nghĩa vụ vẫn lạm dụng quyền
kháng cáo nhằm trì hoãn việc thi hành nghĩa vụ của mình và trong nhiều
trường hợp chi phí cho hoạt động tố tụng còn lớn hơn nhiều so với lợi
ích cần được bảo vệ.
Nhận thức được những hữu ích của thủ tục rút gọn cũng như tổng
kết thực tiễn của hoạt động tố tụng tư pháp tại Tòa án, Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư
pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ quan điểm về việc xây dựng thủ tục rút
gọn. Theo đó, cần phải “… Xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn
đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định” [32] . Để cụ thể


3

hóa chủ trương về việc xây dựng thủ tục rút gọn của Bộ Chính trị như
nêu trên, Nghị quyết số 428/NQ-UBTVQH13 ngày 29/12/2011 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội về triển khai thực hiện Nghị quyết của Quốc
hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ
khóa XIII đã đưa Pháp lệnh Thủ tục rút gọn trong TTDS vào chương
trình xây dựng Pháp lệnh và giao cho Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan
trình dự thảo. Đây là căn cứ pháp lý chính xác nhất cho việc xây dựng
một mô hình tố tụng rút gọn trong TTDS ở Việt Nam.
Hơn nữa năm 2013, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã thông
qua và ban hành Hiến pháp năm 2013 trong đó có những sửa đổi, bổ

sung về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án trong tố tụng cho
phù hợp với thủ tục tố tụng rút gọn. Theo đó, “Việc xét xử sơ thẩm của
Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ
tục rút gọn… Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số,
trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn (Điều 103). Bộ luật Tố tụng
Dân sự (BLTTDS) và các văn bản hướng dẫn với tư cách là công cụ hữu
hiệu bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức
cần có những sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với các nguyên tắc trong
Hiến pháp năm 2013 nhằm làm cơ sở quy định về thủ tục rút gọn trong
TTDS. Hiện nay, việc xây dựng thủ tục rút gọn đã được đề cập đến trong
dự thảo BLTTDS sửa đổi, bổ sung.
Với những lý do trên, việc nghiên cứu đề tài “Thủ tục rút gọn
trong Tố tụng Dân sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam”
nhằm làm rõ yêu cầu của việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn, cơ sở
khoa học của việc xây dựng và đề xuất các giải pháp xây dựng mô hình
thủ tục này ở Việt Nam là cấp thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.


4

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thủ tục TTDS rút gọn mới chỉ bước đầu được đề cập tại một vài
công trình nghiên cứu về TTDS. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu
này đi sâu nghiên cứu về thủ tục TTDS rút gọn ở mức độ hạn chế khác
nhau và đã luận giải toàn diện và sâu sắc về vấn đề nghiên cứu. Cụ thể:
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Một số vấn đề về cơ sở lý
luận và thực tiễn của việc xây dựng BLTTDS ” do Toà án nhân dân tối
cao thực hiện năm 1996 đã có những nghiên cứu bước đầu về thủ tục
TTDS rút gọn như các loại việc phát sinh từ thực tiễn có thể giải quyết
theo thủ tục TTDS rút gọn, nêu một số ý kiến khác nhau khi xây dựng

thủ tục này ở Việt Nam. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về thủ tục tố tụng
rút gọn trong công trình này mới dừng lại ở mức độ khái quát, gợi mở
vấn đề chứ chưa phân tích được cơ sở khoa học của việc xây dựng thủ
tục này, toàn bộ kết quả nghiên cứu chỉ được thể hiện trong giới hạn 6
trang (từ trang 70 đến 74 và từ trang 302 - 303).
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở “Hoàn thiện pháp luật Việt
Nam về thủ tục giải quyết vụ việc dân sự theo định hướng cải cách tư
pháp”, Mã số: LH - 09 - 04/ĐHL - HN của Trường Đại học Luật Hà Nội
thực hiện năm 2010 cũng có đề cập đến thực trạng pháp luật TTDS Việt
nam chưa đáp ứng được yêu cầu về tính linh hoạt, mềm dẻo và có hiệu
quả trong việc bảo vệ quyền lợi của đương sự cũng như việc đa dạng hoá
các loại hình thủ tục tố tụng cho phù hợp với tính chất của từng loại
tranh chấp đồng thời đưa ra yêu cầu cần thiết phải xây dựng thủ tục rút
gọn. Tuy nhiên, đề tài chưa nêu ra được cụ thể phạm vi các loại việc áp
dụng thủ tục TTDS rút gọn cũng như trình thủ, thủ tục rút gọn được thực
hiện như thế nào.


5

- Đề tài khoa học nghiên cứu cấp bộ “ Vấn đề xây dựng thủ tục tố
tụng dân sự rút gọn theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế
quốc tế hiện nay - thực trạng và giải pháp” của Tiến sĩ Trần Anh Tuấn
chủ nhiệm đề tài cũng nêu được khái quát, toàn diện nội dung của thủ
tục rút gọn, những trình tự thủ tục rút gọn khi giải quyết một vụ án dân
sự, tuy nhiên trình tự thủ tục giải quyết vụ việc theo thủ tục rút gọn được
đưa ra với nhiều quan điểm khác nhau.
- Luận văn thạc sỹ Luật học về “Những vấn đề lý luận và thực tiễn
của việc xây dựng thủ tục rút gọn trong TTDS Việt Nam” của tác giả
Trần Anh Tuấn năm 2000 đã chỉ ra được mối liên hệ giữa các nguyên tắc

của luật dân sự với việc xây dựng thủ tục rút gọn, nhu cầu của việc xây
dựng thủ tục TTDS rút gọn nhưng trong luận văn chưa nghiên cứu
chuyên sâu về yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập đối với việc xây
dựng thủ tục này ở Việt Nam. Vấn đề phân hoá loại việc có thể giải
quyết theo thủ tục rút gọn và cơ chế tương ứng về thủ tục cũng mới chỉ
dừng lại ở mức độ khái quát chung, chưa có sự luận giải hợp lý về mối
liên hệ giữa tính chất của loại việc và thủ tục tố tụng cần phải xây dựng,
chưa làm rõ được tính hiệu quả của thủ tục tố tụng dưới góc độ kinh tế
học. Ngoài ra, một số loại việc được tác giả đề xuất trong Luận văn này
từ năm 2000, nay đã được đưa vào thủ tục giải quyết việc dân sự trong
BLTTDS năm 2004. Thực tiễn lập pháp này cũng đặt ra một vấn đề cần
phải giải quyết về lý luận là thủ tục giải quyết việc dân sự có phải là thủ
tục rút gọn hay không, cần phải tiếp tục nghiên cứu làm rõ bản chất, đặc
điểm của thủ tục TTDS rút gọn.
- Các bài viết của các tác giả đăng trên các tạp chí có nghiên cứu
về những vấn đề riêng lẻ của thủ tục TTDS rút gọn như “Vấn đề thủ tục
rút gọn trong TTDS ở nước ta” của tác giả Trần Đức Mai đăng trên Tạp


6

chí Tòa án nhân dân số5/1998; “Bàn về thủ tục rút gọn trong hoạt động
tố tụng của các cơ quan tư pháp nhằm góp phần sửa đổi, bổ sung Hiến
pháp năm 1992” của tác giả Trần Huy Liệu đăng trên Tạp chí Luật học
số 5/2001; “Về việc xác định phạm vi những vụ kiện được giải quyết theo
thủ tục TTDS rút gọn” của tác giả Trần Anh Tuấn đăng trên Tạp chí Luật
học số 2/2002; “Thủ tục xét xử nhanh trong BLTTDS Pháp và yêu cầu
xây dựng thủ tục rút gọn trong BLTTDS Việt Nam” của tác giả Trần Anh
Tuấn đăng trên Tạp chí Dân chủ pháp luật số 2/2004; “Luật so sánh và
thực tiễn xây dựng BLTTDS Việt Nam” của tác giả Trần Anh Tuấn đăng

trên Tạp chí Luật học số 4/2007; “Hoàn thiện thủ tục rút gọn đáp ứng
yêu cầu cải cách tư pháp” của tác giả Nguyễn Đức Mai đăng trên tạp chí
Tòa án nhân dân số 15/2008. Các bài viết này đề cập đến các vấn đề
khác nhau của thủ tục TTDS rút gọn như yêu cầu của việc xây dựng thủ
tục rút gọn, phạm vi loại việc được áp dụng thủ tục TTDS rút gọn, mối
liên hệ của việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn với một số nguyên tắc
cơ bản của luật TTDS; hội đồng xét xử rút gọn... Tuy nhiên, một số vấn
đề có tính lí luận về thủ tục TTDS rút gọn chưa được đề cập đến, một số
vấn đề có ý nghĩa về lí luận và thực tiễn chưa được nghiên cứu hoặc có
đề cập đến nhưng chưa được lý giải một cách thỏa đáng và cần phải tiếp
tục nghiên cứu sâu sắc và toàn diện hơn. Đặc biệt khi chúng ta đang tiến
hành hoàn thiện dự thảo BLTTDS sửa đổi, bổ sung trong đó có quy định
về thủ tục TTDS rút gọn.
3. Đối tượng, mục đích, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
+ Một số vấn đề lý luận về thủ tục tố tụng rút gọn như: khái niệm,
đặc điểm, ý nghĩa, điều kiện, nguyên tắc…


7

+ Các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam trong đó bao gồm
các quy định hiện hành về thủ tục tố tụng thông thường và các quy định
liên quan đến thủ tục rút gọn đã từng tồn tại trong các văn bản pháp luật
từ trước tới nay.
+ Các quy định của pháp luật TTDS một số nước trên thế giới để
tham khảo trong quá trình xây dựng thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam.
+ Thực tiễn các hoạt động TTDS của Toà án nhằm làm rõ khả
năng xây dựng thủ tục rút gọn trong TTDS ở Việt Nam.
- Mục đích nghiên cứu của đề tài:

+ Làm rõ bản chất của thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự và sự
cần thiết của thủ tục rút gọn đối với hệ thống Tòa án nói chung và hệ
thống pháp luật Việt nam nói riêng.
+ Hiện thực hóa đường lối cải cách tư pháp của Đảng được nêu
trong Nghị quyết 48 và 49 -NQ/TW 2005 của Bộ Chính trị về “Xây dựng
cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều
kiện nhất định”.
+ Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng thủ tục rút
gọn, đồng thời đưa ra những yêu cầu và đề xuất đóng góp cho việc xây
dựng thủ tục này được hoàn thiện hơn.
+ Đề xuất nội dung về xác định phạm vi loại việc và mô hình thủ
tục TTDS rút gọn tại Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
+ Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định có liên quan đến thủ
tục rút gọn trong các văn bản pháp luật từ trước đến nay và các quy định
của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành liên quan đến thủ tục
rút gọn.


8

+ Luận văn cũng nghiên cứu vấn đề về thủ tục rút gọn dân sự
trong hệ thống pháp luật của một số nước trên thế giới, để từ đó có thể
tham khảo cho việc xây dựng các quy định thủ tục này trong hệ thống tố
tụng dân sự của Việt Nam.
+ Luận văn còn đi sâu nghiên cứu thực tiễn tố tụng của ngành Tòa
án, từ đó có thể đóng góp ý kiến cho việc yêu cầu xây dựng quy định thủ
tục rút gọn trong tố tụng dân sự được hoàn thiện hơn.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
- Phương pháp luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp

luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; đường lối, chủ
trương chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về hoạt động tư pháp.
- Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng để thực hiện
đề tài là phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, lịch sử, tư
duy logic, khảo sát thực tế, điều tra xã hội học, phỏng vấn chuyên sâu,
khảo sát.v.v...
5. Cơ cấu của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo; luận văn
được kết cấu thành 3 chương sau đây:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thủ tục rút gọn trong Tố tụng
dân sự.
Chương 2: Cơ sở của việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn ở Việt
Nam.
Chương 3: Xây dựng các quy định về thủ tục rút gọn trong pháp
luật TTDS Việt Nam.


9

NỘI DUNG
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thủ tục rút gọn trong Tố
tụng dân sự.
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của thủ tục rút gọn
1.1.1. Khái niệm
Việc xây dựng thủ tục rút gọn trong TTDS ở Việt Nam đang là
một vấn đề thời sự cấp bách để phục vụ cho việc cải cách tư pháp của
Đảng và Nhà nước, đồng thời tạo thuận lợi cho việc tiếp cận pháp luật
của người dân được dễ dàng hơn, Tuy nhiên, việc xây dựng thủ tục này
như thế nào, cần những yêu cầu gì thì lại là vấn đề cần phải nghiên cứu
để nhận diện, làm sáng tỏ bản chất của thủ tục rút gọn và ý nghĩa của nó.

Thủ tục rút gọn là cụm từ ghép của hai từ “thủ tục” và “rút gọn”.
Trong từ điển tiếng Việt, từ “thủ tục” được định nghĩa là “những việc cụ
thể phải làm theo một trật tự quy định, để tiến hành một công việc có
tính chất chính thức”[15,tr. 960]. Như vậy, thủ tục theo định nghĩa này
là thể thức trong thực hiện các loại việc mà bản chất của nó là việc tiến
hành những công việc theo một trình tự nhất định do pháp luật quy định.
Việc tiến hành giải quyết vụ việc theo một trình tự thủ tục để giúp cho
việc thực hiện pháp luật mang tính thống nhất, tránh sự lạm quyền và
tiêu cực trong hoạt động của công chức Nhà nước khi thực thi công vụ.
Vì thế pháp luật Việt Nam đã quy định nhiều thủ tục khác nhau để cơ
quan Nhà nước giải quyết các loại như: thủ tục hành chính, thủ tục tố
tụng, thủ tục hải quan… Trong đó mỗi thủ tục lại yêu cầu về chủ thể, về
thời gian, về trình tự, đặc điểm công việc để tiến hành khác nhau. Thủ
tục tố tụng là thủ tục được pháp luật quy định chặt chẽ nhất, bởi việc áp
dụng có liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến nhiều loại chủ thể khác
nhau trong xã hội. Thủ tục TTDS là một loại của thủ tục tố tụng mà việc


10

áp dụng nhằm đảm bảo việc giải quyết phải nhanh chóng và đúng đắn vụ
án dân sự. Vì vậy, thủ tục rút gọn hay thủ tục thông thường cũng phải
dược pháp luật quy định chặt chẽ để phục vụ cho việc giải quyết vụ kiện
được công khai và minh bạch. Từ “rút gọn” trong tiếng Việt được định
nghĩa “làm cho có hình thức ngắn gọn, đơn giản hơn” [15, tr.960], các
thủ tục trong hoạt động của cơ quan nhà nước cần được giải quyết nhanh
chóng và hiệu quả hơn, việc rút gọn hay đơn giản hoá các thủ tục là cần
thiết, đặc biệt Việt Nam đang đứng trước yêu cầu của công cuộc cải cách
hành chính, cải cách tư pháp thì đây là việc làm rất cần thiết. Theo đó,
thủ tục rút gọn có thể được hiểu chung nhất là những công việc rõ ràng

để giải quyết theo một trình tự, thủ tục ngắn gọn và đơn giản.
Hiện nay, trong hệ thống pháp luật của một số nước trên thế giới
đều quy định về thủ tục tố tụng dân sự rút gọn để giải quyết một số vụ
việc nhất định trong khi thủ tục TTDS rút gọn ở Việt Nam là vấn đề còn
đang trong quá trình dự thảo và xây dựng. Bộ luật TTDS của Việt Nam
hiện hành không có quy định thủ tục rút gọn mà chỉ có quy định giải
quyết các vụ việc dân sự, không có tranh chấp, nội dung chỉ là yêu cầu
công nhận các quyền về dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động và kinh
doanh thương mại hoặc các yêu cầu công nhận, hoặc không công nhận
một sự kiện pháp lý nào đó làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ
giữa các đương sự. Các công việc giải quyết các việc dân sự thông
thường vẫn được tiến hành theo trình tự giải quyết gần giống với thủ tục
tố tụng thông thường.
Khi giải quyết các vụ kiện dân sự có nội dung đơn giản, có giá trị
tài sản tranh chấp thấp, chứng cứ rõ ràng thì việc xác minh và thu thập
chứng cứ không đòi hỏi phải mất nhiều thời gian cho nên đối với những
loại việc này Toà án có thể bỏ qua các bước không cần thiết mà vẫn đảm
bảo việc giải quyết vụ kiện công bằng và minh bạch. Xét về bản chất thì


11

thủ tục rút gọn là một dạng của thủ tục đặc biệt. Đó là sự giản lược, đơn
giản hoá một số khâu trung gian không cần thiết trong quá trình giải
quyết vụ án nhằm xử lí nhanh chóng, kịp thời vụ án những vẫn đảm bảo
được tính chính xác. Nếu như giải quyết các vụ kiện đơn giản mà vẫn
phải tuân theo các thủ tục trình tự thông thường bao gồm: khái niệm,
trình tự, các bước xét xử, hoà giải, xét xử sơ thẩm, kháng cáo, kháng
nghị, xét xử phúc thẩm như các vụ án thông thường khiến kéo dài thời
gian giải quyết vụ kiện, hiệu quả đem lại không được cao vì gây phí tổn

cho Nhà nước và đương sự, hoặc ngược lại đương sự cũng có thể lợi
dụng quyền kháng cáo của mình mà trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ. Vì
vậy, để xoá bỏ cách giải quyết theo trình tự thủ tục mang tính hình thức
và câu nệ về thủ tục khi giải quyết các vụ kiện đã được xác định rất rõ
ràng, việc xây dựng thủ tục rút gọn trong TTDS để áp dụng giải quyết
các vụ kiện có nội dung đơn giản, chứng cứ rõ ràng, các đương sự đều
có địa chỉ nơi cư trú, trụ sở rõ ràng là rất cần thiết.
Thủ tục rút gọn trong TTDS là thủ tục được hình thành trên cơ sở
sự đơn giản hoá thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự thông thường.
Trong mối quan hệ xét xử thì thủ tục TTDS thông thường là cơ sở cho
việc áp dụng giải quyết vụ án theo thủ tục TTDS rút gọn và bản chất của
thủ tục TTDS rút gọn lại là sự giản lược một số bước của thủ tục TTDS
thông thường. Tuy nhiên, thủ tục TTDS rút gọn không phụ thuộc vào thủ
tục TTDS thông thường, mà nó độc lập bởi nó là là một quy trình tố tụng
riêng biệt được Toà án áp dụng để giải quyết các vụ án tranh chấp dân
sự, hôn nhân và gia đình, thương mại, lao động có nội dung đơn giản, rõ
ràng, các đương sự đều có địa chỉ nơi cư trú, trụ sở rõ ràng hoặc các bên
đương sự thoả thuận lựa chọn thủ tục này.
Từ những vấn đề nêu trên, chúng ta có thể kết luận: “Thủ tục
TTDS rút gọn là một trong các thủ tục đặc biệt được pháp luật TTDS


12

quy định để áp dụng giải quyết các vụ việc dân sự có nội dung đơn giản,
chứng cứ rõ ràng, các đương sự đều có địa chỉ nơi cư trú, trụ sở rõ ràng
hoặc các bên đương sự thỏa thuận lựa chọn thủ tục này bằng thủ tục với
thành phần tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng được giản lược và thời
hạn giải quyết ngắn”
1.1.2. Đặc điểm

Ngoài những đặc điểm của thủ tục tố tụng thông thường, thủ tục
TTDS rút gọn cũng có những đặc điểm riêng, cụ thể như sau:
- Thủ tục rút gọn trong TTDS có các bước tiến hành, thành phần
tiến hành và tham gia tố tụng đều được pháp luật quy định giản lược và
thời gian giải quyết cũng được rút ngắn và thủ tục này chỉ áp dụng cho
một số vụ án dân sự có nội dung đơn giản, rõ ràng và có giá trị tài sản
tranh chấp thấp. Cho nên thủ tục rút gọn được coi là một trong những
thủ tục đặc biệt của TTDS.
- Thành phần giải quyết vụ án dân sự và tham gia tố tụng trong
việc giải quyết có thể được pháp luật quy định do một Thẩm phán tiến
hành, khi giải quyết vụ việc dân sự Toà án chỉ triệu tập đương sự đến
tham gia tố tụng mà không phải triệu tập những người tham gia tố tụng
khác đến tham gia tố tụng, trừ trường hợp việc tham gia tố tụng của họ
cần thiết cho việc giải quyết nhanh chóng và đúng đắn vụ việc dân sự.
Mặt khác, một số bước của quá trình giải quyết vụ án dân sự được pháp
luật lược bỏ như: Toà án không cần thu thập chứng cứ, không cần thủ
tục hoà giải, không phúc thẩm nên đương sự không có quyền kháng
cáo… Do đó, thủ tục rút gọn trong TTDS là thủ tục tố tụng đơn giản.
Thời gian giải quyết vụ án có thể được pháp luật quy định rút ngắn thay
vì thời gian chuẩn bị xét xử 4 tháng hay 6 tháng như quy định của pháp
luật hiện hành đối với thủ tục TTDS thông thường. Do đó, có thể thấy
thủ tục TTDS rút gọn là thủ tục tố tụng đơn giản.


13

- Đối với các vụ việc phức tạp, không rõ ràng thì các quá trình giải
quyết đòi hỏi phải mất nhiều thời gian, đòi hỏi Toà án phải tiến hành
nhiều công việc mới có thể xác minh làm rõ vụ việc, giải thích cho
đương sự rõ quyền và nghĩa vụ của họ thì mới giải quyết chấm dứt được

vụ việc. Ngược lại, đối với những vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng thì
Toà án không cần thiết phải tiến hành các hoạt động thu thập chứng cứ
mà vẫn có đủ chứng cứ rõ ràng, vẫn nhận thức rõ ràng các tình tiết để
giải quyết đúng vụ việc. Vì vậy pháp luật các nước cũng đều quy định
thủ tục TTDS rút gọn là thủ tục TTDS được áp dụng để giải quyết các vụ
việc dân sự đơn giản, rõ ràng.
1.1.3. Ý nghĩa của thủ tục rút gọn trong Tố tụng dân sự
- Đối với Toà án: Thứ nhất, thủ tục TTDS rút gọn với trình tự đơn
giản, thời gian rút ngắn sẽ nâng cao hiệu quả trong công tác xét xử, giảm
tải áp lực công việc cho cán bộ ngành Toà án vì số lượng vụ án dân sự
ngày càng gia tăng, số lượng thẩm phán chưa đáp đứng được sự gia tăng
của số lượng công việc. Thứ hai, việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn sẽ
giảm được chi phí của Toà án trong quá trình giải quyết vụ án vì Toà án
khi xét xử không phải tiến hành tất cả các trình tự, thủ tục không cần
thiết; các chi phí về thẩm định giá, thu thập tài liệu, chứng cứ không bị
phát sinh mà vẫn đưa vụ án ra xét xử bằng tài liệu do các bên đương sự
cung cấp. Thứ ba, Toà án sẽ giản lược được một số việc không cần thiết
như triệu tập đương sự cũng không nhiều, người làm chứng hay thu thập
chứng cứ cũng theo đó mà giảm đáng kể, thời hạn giải quyết vụ án sẽ
không bị kéo dài.
- Đối với đương sự: Khi vụ án có nội dung đơn giản, chứng cứ rõ
ràng, bị đơn không phản đối yêu cầu của nguyên đơn, các đương sự đều
có địa chỉ nơi cư trú, trụ sở rõ ràng hoặc các bên đương sự thỏa thuận lựa
chọn thủ tục này… thì cả nguyên đơn và bị đơn chỉ cần tiến hành một số


14

thủ tục nhất định cần thiết cho vụ án mà Toà án yêu cầu. Mặt khác, thủ
tục TTDS rút gọn tạo điều kiện thuận lợi để đương sự khởi kiện và tham

gia tố tụng tại Toà án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, ví dụ
như bản án sẽ có hiệu lực pháp luật ngay, không bị kháng cáo, kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm; bị đơn không thể lợi dụng quyền kháng cáo
để kéo dài thời gian, trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ dân sự của mình;
chi phí đi lại, thuê luật sư của đương sự không bị phát sinh.
- Đối với việc cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước: Nghị
quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2015 của Bộ Chính trị về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020 theo đó chỉ rõ cần phải: “… Xây dựng cơ
chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều
kiện nhất định”. Việc xây dựng thủ tục TTDS rút gọn trong hệ thống tư
pháp Việt Nam vừa đáp ứng được xu thế hội nhập nền kinh tế hiện nay,
vừa linh hoạt, nhanh chóng để giải quyết các tranh chấp, góp phần giao
lưu kinh tế - thương mại – dân sự phát triển mạnh mẽ. Mặt khác các vụ
án dân sự được giải quyết theo thủ tục TTDS rút gọn trở nên nhanh
chóng, thời gian giải quyết ngắn, các bản án có giá trị thi hành ngay phù
hợp với sự phát triển của xã hội trong thời kì đất nước hội nhâp kinh tế và
chiến lược cải cách tư pháp đến 2020 mà Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra.
1.2. Điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn
- Vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng, đương sự
đã thừa nhận nghĩa vụ; tài liệu, chứng cứ đầy đủ, rõ ràng, đủ cơ sở giải
quyết Tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ;
- Các đương sự đều có địa chỉ nơi cư trú, trụ sở rõ ràng;
- Không có đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở nước
ngoài, trừ trường hợp đương sự ở nước ngoài có thỏa thuận với đương sự ở
Việt Nam đề nghị Tòa án giải quyết theo thủ tục rút gọn hoặc các đương sự


15

đã xuất trình được chứng cứ về sở hữu hợp pháp tài sản và có thỏa thuận

thống nhất về việc xử lý tài sản.
- Đối với vụ án lao động được thụ lý, giải quyết theo thủ tục rút gọn
mà người sử dụng lao động có quốc tịch nước ngoài đã rời khỏi địa chỉ nơi
cư trú, nơi có trụ sở mà không thông báo cho đương sự khác, Tòa án biết
thì được coi là trường hợp cố tình giấu địa chỉ. Tòa án vẫn giải quyết theo
thủ tục rút gọn quy định tại Phần này.
Trong quá trình giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn, nếu xuất
hiện tình tiết mới sau đây làm cho vụ án không còn đủ điều kiện để áp
dụng theo thủ tục rút gọn thì Tòa án ra quyết định chuyển vụ án sang
giải quyết theo thủ tục thông thường:
- Phát sinh các tình tiết mới dẫn đến cần phải xác minh, thu thập
thêm tài liệu, chứng cứ hoặc cần phải tiến hành giám định;
- Cần phải định giá, thẩm định giá tài sản tranh chấp mà các đương
sự không thống nhất về giá hoặc chưa tự tiến hành định giá, thẩm giá tài
sản;
- Cần phải thực hiện Ủy thác tư pháp;
- Cần phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
- Phát sinh người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
- Phát sinh yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập;
- Phát sinh đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở nước
ngoài, trừ trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều này.
1.3. Thủ tục TTDS rút gọn trong pháp luật một số nước trên
thế giới
Ở Việt Nam chưa có nhiều công trình nghiên cứu sâu về vấn đề
Thủ tục rút gọn trong TTDS, nên nó vẫn là một vấn đề khá mới, việc đối


16

chiếu so sánh, học hỏi và tham khảo những thủ tục tố tụng dân sự của

các nước khác sẽ giúp cho luận văn có nhiều lý luận vững chắc hơn khi
đề xuất xây dựng thủ tục này. Hơn nữa trong giai đoạn nhà nước ta đang
đẩy mạnh công tác cải cách tư pháp nói chung và cải cách bộ luật TTDS
nói riêng thì việc tham khảo và học tập những thủ tục TTDS trên thế
giới, đặc biệt là những nước có nền lập pháp phát triển hoặc các nước có
hoàn cảnh xã hội gần giống với Việt Nam là điều hoàn toàn cần thiết.
1.3.1. Về thủ tục rút gọn trong pháp luật Tố tụng dân sự của
Cộng hoà Pháp
Trong BLTTDS của nước Pháp cho thấy những tranh chấp có giá
trị nhỏ sẽ được giải quyết theo trình tự đơn giản. Đây là điểm không thay
đổi của BLTTDS nước Pháp được ban hành từ năm 1806 đến nay mặc
dù BLTTDS này đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần. Các phán quyết của
Toà án sẽ có hiệu lực ngay mà không bị kháng cáo theo trình tự phúc
thẩm, các vụ tranh chấp về tài sản có giá trị dưới 13.000 francs trước
Toà án thương mại và Toà án sơ thẩm thẩm quyền hẹo sẽ không bị
kháng cáo lên Toà phúc thẩm. Nghị định ngày 28/12/1998 sửa đổi theo
hướng Toà án sơ thẩm thẩm quyền hẹp xét xử sơ thẩm đồng thời chung
thẩm những việc tranh chấp tài sản có giá trị dưới 25.000 francs. Sắc
lệnh ngày 28/12/2005 quy định đối với những vụ kiện có giá trị dưới
4000 euros không bị kháng cáo phúc thẩm.
Ngoài ra BLTTDS Pháp còn quy định thủ tục xét xử cấp thẩm. Tại
khoản 2 điều 809 BLTTDS Pháp quy định trong trường hợp trái vụ là rõ
ràng không còn tranh cãi, Chánh án có thể quyết định ngay cho chủ nợ
được tạm ứng trước hoặc ra lệnh thi hành nghĩa vụ, ngay cả khi đó là
nghĩa vụ phải làm một công việc gì đó, như vậy Thẩm phán đã ra quyết
định để giải quyết tranh chấp mà không cần phải mở phiên toà xét xử
nữa. Trong trường hợp này thủ tục xét xử cấp thẩm được coi là một thủ


17


tục giản đơn, vì nguyên đơn chỉ có nghĩa vụ cung cấp cho Tòa án biết
những yêu cầu của mình ghi trong giấy tống đạt gọi bị đơn ra toà, các
bên không bắt buộc phải có luật sư đại diện. Thẩm phán giải quyết vụ
việc trong một thời hạn rất ngắn (trung bình là một tháng) sau khi gửi
giấy tống đạt gọi bị đơn ra toà. Điều 514 BLTTDS Pháp quy định: Quyết
định của Thẩm phán thụ lý hồ sơ cho phép thanh toán nợ là quyết định
đương nhiên có hiệu lực thi hành tạm thời. Trên thực tế rất ít khi quyết
định xử cấp thẩm bị kháng cáo lên Toà phúc thẩm và số quyết định của
Thẩm phán xử cấp thẩm có hiệu lực pháp lý là không nhỏ. Theo thống
kê năm 1998 trong số 242.153 quyết định xử cấp thẩm chỉ có 6,2% quyết
định bị kháng cáo lên Toà phúc thẩm [25,tr.41].
1.3.2. Về thủ tục TTDS rút gọn trong pháp luật Tố tụng dân sự
của Liên Bang Nga
Pháp luật TTDS Liên bang Nga, không có sự phân chia rõ rệt hai
loại hình thủ tục tố tụng ra lệnh là thủ tục ra lệnh thanh toán nợ và thủ
tục ra lệnh buộc thực hiện một công việc như trong TTDS Pháp mà chỉ
quy định một thủ tục chung là thủ tục ra lệnh. Các nguyên tắc trong
BLTTDS Liên bang Nga được sửa đổi năm 2003 rất đơn giản, không có
nguyên tắc về sự tham gia của Hội thẩm nhân dân. Ngoài ra, nguyên tắc
Tòa án xét xử tập thể hay một Thẩm phán được quy định một cách khá
linh hoạt. Theo Điều 7 và Điều 14 BLTTDS Liên bang Nga về thành
phần xét xử thì “Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án dân sự theo chế độ
một Thẩm phán hoặc theo chế độ xét xử tập thể trong trường hợp Luật
Liên Bang quy định” và “Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án dân sự
theo chế độ một Thẩm phán. Trong trường hợp Luật Liên Bang quy
định, Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án dân sự với thành phần xét xử
gồm 3 Thẩm phán chuyên nghiệp”. Điều 23 BLTTDS Liên Bang Nga



18

quy định vụ việc về ban hành lệnh của Tòa án thuộc thẩm quyền của
Thẩm phán hòa giải xét xử ở cấp sơ thẩm.
Thủ tục ra lệnh cũng được áp dụng đối những vụ kiện đơn giản, có
chứng cứ rõ ràng. Theo Điều 121 BLTTDS liên bang Nga thì lệnh của
Tòa án - quyết định của Tòa án do một Thẩm phán ban hành dựa trên
yêu cầu đòi nợ hoặc đòi lại tài sản khi có những căn cứ luật định. Theo
đó, Tòa án ra lệnh đối với những trường hợp sau đây:
- Yêu cầu căn cứ vào giao dịch đã được công chứng;
- Yêu cầu căn cứ vào giao dịch được thực hiện dưới hình thức văn
bản viết không cần công chứng, chứng thực;
- Yêu cầu căn cứ vào đơn bác lại kỳ phiếu về việc không trả tiền,
không chấp nhận và chấp nhận không định ngày tháng;
- Yêu cầu đòi tiền cấp dưỡng cho trẻ chưa thành niên không liên quan
đến việc xác định cha, mẹ hoặc không liên quan đến việc phải triệu tập thêm
người khác;
- Yêu cầu công dân nộp khoản thuế bị thất thu hoặc nộp những
khoản tiền bắt buộc khác;
- Yêu cầu đòi khoản tiền lương đã được chấm công nhưng chưa
được trả cho người lao động;
- Yêu cầu của các cơ quan công an, cơ quan thuế vụ, cơ quan thừa
phát lại đòi hoàn trả chi phí cho việc tìm kiếm bị đơn, người có nghĩa vụ
và tài sản của người đó, hoặc chi phí cho việc tìm kiếm trẻ em bị người có
nghĩa vụ đem đi mất, hoặc chi phí liên quan đến việc bảo quản tài sản của
người có nghĩa vụ bị thu giữ và bảo quản tài sản của người có nghĩa vụ khi
bị buộc chuyển đi nơi ở khác.
Về thủ tục thì lệnh của Tòa án được ban hành trong thời hạn 5
ngày kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu mà không cần phải mở phiên toà xét
xử và không phải triệu tập các bên để nghe lời giải thích của họ (Điều



19

126). Sau khi ra lệnh, Thẩm phán gửi bản sao lệnh của Tòa án cho người
có nghĩa vụ. Người có nghĩa vụ có quyền phản đối trong thời hạn mười
ngày kể từ ngày nhận bản sao. Nếu người có nghĩa vụ phản đối trong
thời hạn luật định, Thẩm phán huỷ bỏ lệnh của Tòa án. Trong trường
hợp hết thời hạn luật định mà không có phản đối, Tòa án chuyển cho
người yêu cầu bản thứ hai lệnh của Tòa án để đưa ra thi hành. Lệnh này
được xác nhận bằng dấu quốc huy của Tòa án. Theo đề nghị của người
có yêu cầu, Tòa án có thể gửi lệnh đó cho Thừa phát lại để đưa ra thi
hành (Các Điều từ 128 đến Điều 130 BLTTDS Liên bang Nga).
1.3.3. Quy định về thủ tục rút gọn trong pháp luật Tố tụng dân
sự của một số nước trên thế giới
- Australia:
Tòa án cấp thấp nhất trong hệ thống tổ chức Tòa án ở Australia là
Tòa án địa phận được thành lập trên một hoặc một vài khu phố. Thẩm
quyền của Tòa án này là xét xử những vụ án hình sự, những vụ kiện dân
sự có giá trị tài sản tranh chấp thấp. Việc xét xử chỉ do một Thẩm phán
tiến hành không có Bồi thẩm đoàn tham gia. Tòa án địa phận gồm có hai
bộ phận là Toà chung và Toà đòi món nợ nhỏ. Những vụ án thuộc thẩm
quyền xét xử của Toà chung thì do một Thẩm phán xét xử. Những vụ án
thuộc thẩm quyền của Toà đòi món nợ nhỏ thì có thể do một Thẩm phán
hoặc có thể do một chuyên gia xét xử [16,tr.98].
- Nhật Bản:
Ở Nhật Bản, BLTTDS đầu tiên ra đời vào năm 1890 và được sửa
đổi năm 1926. Cho đến nay, Bộ luật này đã có nhiều sự thay đổi theo
chiều hướng bảo đảm việc xét xử một cách nhanh chóng các tranh chấp
dân sự. Theo tác giả Ngô Cường thì Tòa án đơn giản ở Nhật Bản được

thành lập dưới sự ảnh hưởng của Hoa Kỳ với mục đích xét xử đơn giản
và mất ít thời gian đối với các vụ kiện nhỏ. Lúc đầu có khoảng 557 Tòa


×